Trang 2 trong 2 Đầu tiênĐầu tiên 12
kết quả từ 21 tới 30 trên 30

Ðề tài: "ĐIỆN BIÊN PHỦ" trên không - Kỷ niệm 40 năm: 12/1972 - 12/2012

  1. #21

    Mặc định

    Điểm mặt các ‘Át chủ bài’ của Không quân Nhân dân Việt Nam (kỳ 2)

    Cập nhật lúc 54 AM, 18/12/2012

    Chiến tranh Việt Nam ghi nhận những chiến công đặc biệt của các phi công, có đến 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu Át (Aces).



    Dưới đây là thông tin 8 phi công còn lại trong 16 phi công được xếp hạng "át":



    Phi công Nguyễn Nhật Chiêu.
    Phi công Nguyễn Nhật Chiêu

    Anh hùng phi công Đại tá Nguyễn Nhật Chiêu sinh năm 1934 tại xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, Hải Dương. Năm 1956 ông được cử đi học lái máy bay chiến đấu tại Trung Quốc.

    Về nước tháng 8/1964, ông tham gia chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 921 Sao Đỏ.

    Trong suốt những năm tháng chiến đấu, phi công Nguyễn Nhật Chiêu đã lập công bắn hạ 6 máy bay Mỹ.

    Đặc biệt, ông là phi công lái MiG-17 đầu tiên của Việt Nam giành chiến thắng trước F-4 vào ngày 20/9/1965.

    Ngoài ra, ông còn đánh một trận xuất sắc khác vào ngày 23/8/1967, chiếc MiG-21 ông điều khiển đã bắn hạ liền 2 chiếc F-4.

    Phi công Vũ Ngọc Đỉnh

    Phi công Vũ Ngọc Đỉnh với 6 lần bắn hạ máy bay Mỹ trong đó có 5 lần được phía Mỹ công nhận, ông là phi công lái MiG-21 thuộc đoàn Sao Đỏ.

    Tổng cộng ông bắn hạ 3 chiếc F-105D, một chiếc F-4D và một chiếc trực thăng MH-53, một chiếc tác chiến điện tử EB-66.


    Phi công Lê Thanh Đạo.

    Phi công Lê Thanh Đạo

    Anh hùng phi công Lê Thanh Đạo sinh năm 1944 tại xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Năm 1965, ông được cử đi học lái máy bay chiến đấu tại Liên Xô. Năm 1968, ông hoàn thành nhiệm vụ học tập trở về nước tham gia chiến đấu trong Trung đoàn Không quân 921.

    Ông lập chiến công đầu ngày 18/12/1971 bắn hạ một chiếc F-4 bay vào trinh sát miền Bắc chuẩn bị cho một cuộc đánh phá. Trong suốt năm 1972, ông lập công bắn hạ thêm 5 máy bay khác của quân địch.

    Dù vậy, trong các trận đánh trên không, anh hùng phi công Lê Thanh Đạo cũng bị bắn rơi một lần vào ngày 15/10/1972. Ông bị thương buộc phải điều trị gần 1 năm, sau khi lành vết thương ông tiếp tục “tung cánh trở lại” trên MiG-21 thêm 5-6 năm nữa.

    Với những chiến công xuất sắc, ngày 11/1/1973, ông được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.


    Phi công Nguyễn Đăng Kính.
    Phi công Nguyễn Đăng Kính

    Anh hùng phi công Thiếu tướng Nguyễn Đăng Kính sinh năm 1941 tại xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông nhập ngũ ngày 23/3/1959 và được kết nạp vào Đảng tháng 3/1966.

    Tháng 10/1961, ông được chọn đi học lái máy bay tiêm kích tại Liên Xô. Tháng 10/1965, ông về nước và được biên chế vào Trung đoàn không quân 921.

    Trong 2 năm chiến đấu (1967-1968), ông đã 6 lần bắn rơi máy bay Mỹ và 4 lần bị bắn rơi. Một trong những chiến công đáng nhớ của ông là bắn rơi một máy bay gây nhiễu điện tử EB-66 tại Lang Chánh (Thanh Hóa) tháng 11/1967.

    Chiếc EB-66E này được coi là có giá trị tầm cỡ máy bay ném bom chiến lược B-52.

    Phi công Lê Hải

    Anh hùng Phi công Lê Hải với 6 lần bắn hạ máy bay Mỹ, ông là phi công lái MiG-17 thứ 2 của Không quân Nhân dân Việt Nam được công nhận danh hiệu Át.

    Ông lái MiG-17F thuộc đoàn bay Yên Thế, phía Mỹ công nhận ông dành 2 chiến thắng trước F-4C và F-4B.

    Phi công Nguyễn Văn Nghĩa - "Mở màn" cho không quân trong 12 ngày đêm

    Anh hùng phi công Nguyễn Văn Nghĩa sinh năm 1946. Trong cuộc chiến chống chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam bằng không quân của Mỹ, ông đã cất cánh 100 lần trong đó xuất kích trực tiếp chiến đấu 68 lần, 9 lần gặp địch, 8 lần nổ súng, phóng 8 quả đạn tên lửa, bắn rơi 6 máy bay Mỹ (trong đó có 5 chiếc rơi tại chỗ).

    Trong chiến dịch 12 ngày đêm bảo vệ bầu trời Hà Nội, phi công Nguyễn Văn Nghĩa là người "mở màn" cho Không quân Nhân dân Việt Nam khi bắn hạ một chiếc F-4 đêm 23/12/1972.


    Phi công Nguyễn Tiến Sâm.
    Phi công Nguyễn Tiến Sâm - Sống sót sau khi lao vào điểm nổ

    Anh hùng phi công Đại tá Nguyễn Tiến Sâm sinh năm 1946.

    Năm 1965, khi đang là sinh viên Bách Khoa ông tình nguyện ngũ và được chọn sang Liên Xô học lái máy bay chiến đấu. Năm 1968, ông tốt nghiệp về nhận nhiệm vụ tại Trung đoàn không quân 921.

    Trong suốt các năm chiến đấu, ông lập công bắn rơi 5 máy bay F-4 của Mỹ. Trong đó có một chiến công cực kỳ đặc biệt vào ngày 5/2/1972 khi ông lái chiếc MiG chui vào vùng nổ mà vẫn an toàn.

    Ngày 5/2/1972, biên đội MiG-21 của ông cất cánh từ Nội Bài đánh chặn một tốp F-4 của địch. Mới bay qua Gia Lâm, số 2 Hà Vĩnh Thành đã phát hiện ra địch và vào công kích bắn hạ một F-4.

    Sau đó, ông mới nhìn thấy rõ một tốp 2 F-4 và lập tức ấn nút phóng tên lửa nhưng máy bay địch đã cơ động tránh được. Ông quyết tâm bằng mọi giá phải diệt được máy bay địch nên tiếp tục áp sát và phóng nốt quả tên lửa còn lại.

    Chiếc F-4 trúng đạn nổ tung nhưng do khoảng cách quá gần nên chiếc máy bay ông lái cũng lao vào vùng nổ.

    Sau khi ra khỏi vùng nổ, động cơ máy bay bị tắt do thiếu oxy, ông bình tĩnh thao tác mở máy và trên không về sân bay.

    Lúc đó phía mặt đất hỏi ngược lên: “Anh là ai?, Anh từ đâu đến, Anh số hiệu bao nhiêu”. Ông chỉ trả lời: “Cứ cho tôi hạ cánh!”.

    Khi đã hạ cánh an toàn, cán bộ mặt đất của ta vẫn chưa biết được đây là máy bay của ai. Phải đến khi ông mở cửa bước ra thì mọi người “bò lăn ra cười”. Do chui qua vùng nổ nên chiếc “én bạc” đã biến thành “quạ đen” vì khói và thuốc súng.


    Phi công Lưu Huy Chao.
    Phi công Lưu Huy Chao - Xuất kích nhiều nhất quân chủng

    Anh hùng phi công Đại tá Lưu Huy Chao sinh năm 1933 tại xã Đông Anh, Đông Sơn, Thanh Hóa.

    Trong 4 năm từ 1968-1968, ông đã lái chiếc tiêm kích MiG-17 xuất kích 105 lần, gặp địch 32 lần, đánh 19 trận, 6 lần bắn rơi máy bay Mỹ. Ông là phi công có số lần xuất kích chiến đấu nhiều nhất Quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam.

    Khi được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, ông đang mang quân hàm Thượng úy, Trung đoàn Không quân 923 Yên Thế.

    Phía Mỹ luôn tìm cách để phủ nhận các tổn thất của các máy bay trong không chiến với các máy bay Việt Nam. Họ luôn tìm cách để xác nhận máy bay của mình bị tổn thất bởi hỏa lực phòng không hơn là bị máy bay Việt Nam bắn hạ. Đó có thể coi là vấn đề thuộc về “sỉ diện” của lực lượng không quân hùng mạnh nhất thế giới.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #22

    Mặc định

    Nhật ký một phi công: Đêm B-52 gầm rú bay về Hà Nội


    Với mục đích ép Hà Nội chấp nhận ký Hiệp định Paris theo các điều kiện của Mỹ, cách đây đúng 40 năm, vào đêm 18-12-1972, tổng thống Nixon ra lệnh mở màn chiến dịch Linebacker II với thời hạn ba ngày, nhằm vào các mục tiêu quanh Hà Nội và Hải Phòng. Nhưng trên thực tế chiến dịch kéo dài đến 12 ngày đêm.




    Bà Trần Thị Mai, 83 tuổi, ở phố Khâm Thiên, Hà Nội vẫn không thể quên những ngày tháng 12-1972. Ảnh nhỏ: một góc phố Khâm Thiên sau trận bom B-52 của Mỹ

    Đây gần như là một cuộc biểu dương lực lượng vũ khí hiện đại nhất, được mang ra đối phó với một nước VN còn chưa phát triển.

    Vì vậy mà Nixon ung dung đi nghỉ Giáng sinh và chờ tin chiến thắng. Nhưng họ chẳng bao giờ hiểu được Hà Nội đã chuẩn bị cho những ngày khốc liệt nhất của chiến tranh như thế nào.


    “Cuộc đón tiếp lịch sự” bắt đầu!

    Năm 1972, chàng phi công Nguyễn Đức Soát - người sau này là anh hùng lực lượng vũ trang tư lệnh Quân chủng phòng không - không quân, mới 26 tuổi. 26 tuổi nhưng anh đã kịp bắn rơi sáu máy bay Mỹ.

    Trong đó có năm chiếc chỉ trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10-1972, và là đại đội trưởng đại đội chiến đấu chủ lực của đoàn không quân Yên Thế, một đơn vị mà chỉ nhắc đến tên, những người bay, đã sống dậy cả một niềm tự hào của bầu trời.

    Người Mỹ đã sử dụng pháo đài bay khổng lồ B-52 để trút mưa bom xuống Hà Nội

    Nguyễn Đức Soát ghi nhật ký từ năm 1964, và cuốn nhật ký thời chiến của ông dừng lại đúng ngày cuối cùng của năm 1972. Hầu như không ngày nào ông quên ghi nhật ký.

    Cuốn nhật ký được nhét gọn trong túi áo bay, theo ông khắp các sân bay dã chiến miền Bắc: Đa Phúc, Kép, Gia Lâm, Thọ Xuân, Vinh, Hòa Lạc...


    Nhật ký một phi công

    “Đêm 18-12-1972

    Hồi kẻng báo động sơ tán đầu tiên lúc 7 giờ đã làm hơi men cuối cùng của buổi liên hoan với C9 trong mình bị bay ra hết.

    Có cảm giác đêm nay sẽ ác liệt. Ban chiều trong hội nghị các đại đội trưởng và chính trị viên toàn trung đoàn, đồng chí phó chính ủy đã thông báo về cuộc đàm phán ở Paris bị bế tắc. Bọn Mỹ không chịu ký kết, vẫn âm mưu đình chiến trên thế mạnh.

    Thế nào chúng cũng “gây sức ép tối đa” với ta. Con chủ bài cuối cùng của bọn Mỹ là B-52 đã liều lĩnh bay ra ném bom Hà Nội. Bây giờ đã hơn 12g đêm mà cả hầm mình không đứa nào ngủ được.

    Từng vầng lửa bừng lên ở phía Hà Nội. Sau khoảng nửa phút là từng tràng bom nổ rung chuyển cả hầm. Tiếng bom B-52 nghe rền rền như nghe từng hồi trống để sát tai mà gõ.


    Đợt đầu tiên, bọn Mỹ dùng A6, A7, F.111 đánh hết các sân bay của mình. Yên Bái, Hòa Lạc, Kép, Gia Lâm, Vĩnh Phú, Miếu Môn rồi Kiến An nữa. Sân bay mình bị ba dải B-52.

    Bọn bạn bay đêm ở trung đoàn 921 cất cánh. Nhiễu lần mờ hết rađa. Bọn F4 bắn tên lửa tới tấp vào chúng. Trong tiếng bom, tiếng súng loạn xạ sáng trời, ông Cung bay từ Hòa Lạc về đây hạ cánh sau khi đánh không được.

    Bom đầy sân mà ông hạ được. Phục nhất là thằng Tuân hạ cánh. Hệ thống đèn hiệu ở sân bay hỏng hết. Mây thấp. Dầu hết. Đang không tìm thấy sân bay thì một chiếc B-52 bị tên lửa bắn cháy lao xuống, soi sáng cả một khoảng lớn.


    Thế là nó lao xuống hạ. Chạm đất, máy bay bị rơi vào mấy hố bom, cứ nhảy lên, nhảy xuống. Cuối cùng máy bay lật ngửa, lăn kềnh trên cỏ. Nó đu chân đạp vỡ nắp buồng lái chui ra.

    Chỉ riêng hành động ấy cũng đáng được tặng thưởng huân chương rồi. Ban nãy lúc 9g, chúng mình đùa nó như thế!

    Đêm nay, bao nhiêu đồng bào mình bị hi sinh vì bom đạn giặc Mỹ. Nằm đây mà lòng nôn nao, bứt rứt...”.

    Tướng Soát nhỏ nhẹ nói: “Tôi vẫn giữ cuốn nhật ký thời chiến của mình. Không có gì đặc biệt đâu, chỉ là những ghi chép hằng ngày của một phi công trẻ. Trong 12 ngày đêm đối mặt với B-52, tôi chỉ có một ngày không ghi chép: đêm Noel, Mỹ không đánh Hà Nội, và chúng tôi chuyển quân”.

    Máy bay B-52 bị bắn cháy trên bầu trời Hà Nội

    Hà Nội không bất ngờ

    ...Từ năm 1962, khi quyết định thành lập lực lượng phòng không và bổ nhiệm tướng Phùng Thế Tài làm tư lệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với vị tư lệnh mới: “Các chú giờ chỉ có pháo cao xạ, chưa làm gì được B-52 đâu.

    Ngay từ bây giờ các chú phải tìm hiểu, nắm vững, tìm cách đánh B-52 vì sớm hay muộn, Mỹ cũng sẽ đưa nó vào chiến trường VN”. Lời tiên tri báo trước 10 năm và bộ đội VN có 10 năm để chuẩn bị chiến đấu trên bầu trời Hà Nội.


    ... Tháng 8-1965, Mỹ bắt đầu đưa máy bay vào yểm trợ các cuộc hành quân của quân đội Mỹ và Sài Gòn trên chiến trường miền Nam. Cũng năm 1965, VN có trung đoàn tên lửa SAM2 đầu tiên.

    Năm 1966, Mỹ đưa B-52 ném bom rải thảm khu vực Vĩnh Linh, Quảng Bình. Ngay năm đó, Quân chủng phòng không - không quân đã đưa nhiều đơn vị: tham mưu, rađa, tên lửa, không quân vào chiến trường Vĩnh Linh - Quảng Bình tìm cách phát hiện và đánh B-52.

    Trong năm 1972, Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam đã chỉ thị cho sư đoàn phòng không 361 lần lượt đưa 1-2 trung đoàn tên lửa vào đường Trường Sơn để tiếp cận, nghiên cứu mức độ gây nhiễu điện tử của B-52. Các đơn vị tên lửa sau khi vào Trường Sơn và Bắc Quảng Trị đã tổng hợp các ghi nhận về chiến thuật chống B-52 của tên lửa phòng không SAM-2.

    Các ghi nhận này đã được đúc kết thành cuốn “cẩm nang bìa đỏ” rất nổi tiếng sau này của Quân chủng phòng không - không quân. Vào tháng 10 năm 1972, cuốn cẩm nang này được phát cho tất cả các tiểu đoàn tên lửa để nghiên cứu luyện tập phương án đánh B-52.

    Hà Nội không bất ngờ và không hề run sợ.

    “Cuộc đón tiếp lịch sự của Mỹ”

    Ông Lưu Văn Lợi, thư ký của cố vấn Lê Đức Thọ, kể lại: “Kissingger rời Paris ngày 13-12-1972 thì ngày 14 phái đoàn ông Lê Đức Thọ cũng rời Paris. Trên đường từ Paris về Hà Nội, chúng tôi còn phải qua Matxcơva (ngày 15) và Bắc Kinh (ngày 17) để tiếp dầu.

    Bay ngang bầu trời Bắc Kinh, chúng tôi nhận được thông tin: “Có hoạt động của B-52 ở Utapao - Thái Lan và Guam - ngoài khơi Thái Bình Dương”. Máy bay xuống sân bay Gia Lâm khoảng hơn 6g chiều. Ông Lê Đức Thọ yêu cầu chúng tôi đừng về thăm nhà vội, mà cắm trại tại số 6 Nguyễn Cảnh Chân (nhà riêng ông Thọ, lúc này con cháu cũng đi sơ tán hết, chỉ còn bà ở nhà đợi ông về).

    Khoảng hơn 1 giờ sau thì B-52 đánh. Trời đất sáng rực vì tên lửa và cao xạ bắn lên, đất rung ầm ầm, mảnh đạn rơi vào sân nhà, vào vườn rào rào. Chúng tôi không xuống hầm dù mỗi người đều có hầm cá nhân ở trong vườn. Hết đợt bom lại lên”.

    Ông Lưu Văn Lợi nhớ lại: khi quay lại bàn đàm phán ở Paris, ông Lê Đức Thọ đã rất nhẹ nhàng và mỉa mai khi nói chuyện với Kissinger và giới ngoại giao ở Paris: “Mỹ đã đón tiếp khi tôi trở về Hà Nội “hết sức lịch sự”...

    “Cuộc đón tiếp lịch sự” đó bắt đầu vào lúc 16g30 ngày 18-12-1972, khi Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam thông báo: máy bay B-52 đang trên đường bay từ đảo Guam đến Việt Nam.

    17g toàn Quân chủng phòng không - không quân đã hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu.

    18g30 trạm rađa 12 trung đoàn 290 ở Quảng Bình và trạm rađa 16 trung đoàn 291 ở Nghệ An phát hiện có nhiều máy bay ném bom B-52. Tiếp đó, trạm rađa 45 trung đoàn 291 ở Nghệ An khẳng định: “B-52 đang bay tới hướng Hà Nội”.

    19g15, lệnh báo động Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh trên miền Bắc.

    Trận “Điện Biên Phủ trên không” bắt đầu.

    Theo Tuổi tr
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #23

    Mặc định

    21h30 ngày 23/12: Phim truyện: "Hà Nội 12 ngày đêm" phát sóng trên VTV1

    Mời các bạn xem bộ phim Hà Nội 12 ngày đêm vào 21h30 ngày 23/12/2012 được phát sóng trên kênh VTV1.

    Bộ phim Hà Nội 12 ngày đêm được thể hiện rất công phu với mục đích tái hiện một phần trận Điện Biên Phủ trên không mùa Đông 1972. Đây là cuộc chiến đấu ác liệt của nhân dân Hà Nội chống lại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ, buộc Chính phủ Hoa Kỳ phải ký Hiệp định Paris.

    Bộ phim sẽ thể hiện rất nhiều những chi tiết mà huynh Bin571 đã cố gắng sưu tầm và giới thiệu trong loạt bài Điện Biên Phủ Trên Không 1972 vừa qua.

    Hà Nội 12 ngày đêm có nhiều trường đoạn, mỗi trường đoạn đều có sắc thái riêng. Đặc biệt trong phim có một đêm “hoà bình” giữa cuộc chiến ác liệt. Đó là đêm Noel, tháng 12/1972, một đêm Noel đầy ý nghĩa. Tại Nhà thờ Lớn Hà Nội, mọi người để tang cho những người đã mất. Không khí buồn thương, chỉ có tiếng nhạc và những gương mặt đẫm nước mắt… Và đêm Giáng sinh không bom đạn đó, với tình yêu mãnh liệt, cô giáo Hiền đã đi tìm chồng là tiểu đoàn trưởng tên lửa Đặng Nhân bằng một chiếc xe đạp. Họ đã có một kỉ niệm đẹp với nhau...đứa con chính là niềm an ủi cho Hiền sau này. Giữa một cuộc chiến huỷ diệt như vậy - lại có những giây phút hoà bình thì quý giá với con người, với người lính trẻ và người vợ hiền của mình.

    Mọi người cũng có thể xem trên Youtube:

    www.youtube.com/watch?v=qlo1WKXiRYo

    www.youtube.com/watch?v=vvQ6gMWrwp4

  4. #24

    Mặc định

    Phi công Mỹ và nỗi khiếp đảm 'Đại tá Toon'

    Cập nhật lúc 47 AM, 19/12/2012

    Nỗi ám ảnh các phi công xuất sắc của Không quân Việt Nam khiến phi công Mỹ đồn tai nhau về một phi công "Át" có tên là Đại tá Toon, thực tế, Đại tá Toon chỉ là một nhân vật tưởng tượng.



    (ĐVO)
    Trong chiến tranh Việt Nam, lực lượng không quân hùng mạnh nhất thế giới của Mỹ với hàng ngàn máy bay và hàng trăm phi công dày dạn kinh nghiệm trận mạc đã phải chịu những tốt thất nặng nề chưa từng có kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2.

    Nếu so sánh tương quan lực lượng giữa Không quân Nhân dân Việt Nam và Không quân Mỹ là quá khập khiễng cả về trang bị, số lượng, kinh nghiệm trận mạc. Tuy nhiên, điều đáng nói là lực lượng không quân non trẻ với những phi công chỉ có vài trăm giờ bay ít ỏi lại giành được những chiến công hiển hách trước Không quân Mỹ.

    Có đến 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu Át (các phi công có số lần bắn rơi máy bay đối phương từ con số 5 trở lên), trong đó có 13 phi công lái MiG-21 và 3 phi công lái MiG-17. Trái lại, lượng phi công Mỹ đạt danh hiệu Át chỉ có 5 người. Vậy đâu là nguyên nhân?

    Dưới đây là những câu trả lời, do chính người Mỹ rút ra bài học từ cuộc đối đầu với Không quân Việt Nam:



    Sai lầm trong thiết kế máy bay


    Từ khi Mỹ bắt đầu chương trình phát triển tên lửa không đối không tầm trung AIM-7 Sparrow và tên lửa không đối không tầm ngắn đầu tự dẫn hồng ngoại AIM-9 Sidewinder vào đầu những năm 1960, các nhà thiết kế Mỹ đã vội vàng cho rằng, các cuộc không chiến tầm gần (dogfight) sẽ lùi vào dĩ vãng.

    Ở đó, tên lửa tầm xa chính là vũ khí sẽ kết liễu đối phương mà không cần đến các cuộc không chiến ở cự ly gần. Các máy bay chiến đấu được thiết kế giai đoạn đầu những năm 1960 như F-4 Phantom, F-105 Thunderchief không hề được trang bị pháo.

    Tuy nhiên, đây chính là sai lầm chết người mà Mỹ phải trả giá đắt tại chiến trường Việt Nam. Những chiếc máy bay cường kích F-105, dù có tốc độ siêu âm nhưng vẫn trở thành miếng mồi ngon cho các tiêm kích nhanh nhẹn của Không quân Việt Nam như MiG-17 và MiG-21.



    Việc không trang bị pháo cho các tiêm kích F-4 đời đầu khiến Mỹ phải trả giá đắt.

    Bên cạnh đó, các tên lửa lại cho thấy kết quả không như mong muốn và tưởng tượng của các nhà thiết kế. Những chiếc F-4 Phantom không được được trang bị pháo tỏ ra thất thế trước cuộc chạm trán với MiG-17 và MiG-21 trong phạm vi hẹp.

    Sự xuất hiện của tên lửa không thể hoàn toàn thay thế vai trò của pháo trong các cuộc không chiến cự ly gần. Trong các chiến dịch leo thang đánh phá miền Bắc Việt Nam từ năm 1965-1969, Không quân Mỹ phải chịu những tổn thất nặng nề. Có đến 11 phi công Việt Nam đạt danh hiệu Át trong giai đoạn này.

    Sau thất bại này Mỹ buộc phải thiết kế lại các tiêm kích và trang bị pháo trở lại cho các máy bay. Từ đó cho đến nay, dù đã có loại tên lửa đối không ngoài tầm nhìn, bất kỳ loại tiêm kích nào của Mỹ kể cả tiêm kích tàng hình thế hệ 5 vẫn phải trang bị pháo.



    Sai lầm trong huấn luyện

    Sự ra đời của tên lửa cùng các phương tiện hỗ trợ chiến tranh khác như, gây nhiễu điện tử, radar và các thiết bị truyền thông khác khiến Không quân Mỹ đề cao quá mức vai trò của máy móc mà coi nhẹ yếu tố con người.

    Người Mỹ đã quên mất một điều rằng, sự khéo léo của phi công trong buồng lái quan trọng không kém những vũ khí mà anh ta sử dụng.

    Trong khi đó, từ học thuyết quân sự tới thực tế chiến đấu, Quân đội Nhân dân Việt Nam nói chung và lực lượng không quân nói riêng lúc nào cũng đề cao vai trò của người lính. Việt Nam tập trung rất cao vào công tác huấn luyện những phi công của mình với khả năng xoay xở và xử lý tình huống linh hoạt trong các cuộc không chiến.


    Từ trái qua phải, Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Văn Cốc và Nguyễn Đức Soát 3 phi công xuất sắc của Không quân Nhân dân Việt Nam.


    Đây chính là một trong những nguyên nhân chính khiến phi công Việt Nam đạt được nhiều danh hiệu Át hơn Không quân Mỹ.

    Khả năng không chiến của các phi công Mỹ tại chiến trường Việt Nam chỉ được cải thiện sau năm 1972 khi họ thực hiện chương trình huấn luyện chiến đấu khác biệt Top Gun.



    Chiến thắng về chiến thuật

    Sở dĩ các phi công Việt Nam đạt được nhiều danh hiệu Át hơn phi công Mỹ là vì Không quân Việt Nam đã sử dụng một chiến thuật hợp lý.

    Các tiêm kích đánh chặn MiG-17, MiG-21 được bố trí tại các sân bay dã chiến và cất cánh đánh chặn các tiêm kích F-4, cường kích F-105 một cách bất ngờ từ phía sau.

    Với sự nhanh nhẹn của mình các máy bay Mig-21, Mig-17 nhanh chóng tiến hành đột kích, làm phá vỡ đội hình, buộc các máy bay này phải thả bom trước khi vào vị trí mục tiêu.

    Sau khi tấn công tiêu diệt một vài chiếc trong đội hình bay của Không quân Mỹ, các máy bay MiG-17, MiG-21 nhanh chóng rút lui. Chiến thuật “bắn-chuồn” theo kiểu chiến tranh du kích của Không quân Việt Nam phát huy tác dụng rất cao.


    Những chiếc Mig-21 đã được sử dụng với một chiến thuật rất hợp lý điều này đã góp phần tạo nên chiến thắng vẻ vang của Không quân Nhân dân Việt Nam.





    Ngoài ra, sự thành công của chiến thuật phục kích của Không quân Việt Nam có được là nhờ khai thác tối đa điểm yếu của đối phương.

    Trong những năm 1966-1967, phi đội F-105 cất cánh làm nhiệm vụ đánh phá Hà Nội, Hải Phòng luôn bay theo một đường bay cố định, vào một giờ cố định và sử dụng một mật mã gọi nhau trên radio cố định.

    Chỉ trong tháng 12/1966 các tiêm kích MiG-21 của Trung đoàn 921, đoàn bay Sao Đỏ đã bắn hạ 14 chiếc F-105 mà không chịu bất kỳ tổn thất nào.

    Ngoài ra, Không quân Mỹ đã không thành công trong việc tiêu diệt các đài radar cảnh giới và chỉ huy mặt đất của Việt Nam.

    Trong khi các tiêm kích Việt Nam hoạt động dưới sự hỗ trợ đắc lực từ đài chỉ huy mặt đất, các phi công Việt Nam biết rõ thời điểm, địa điểm để tập kích các máy bay của Mỹ trong khi phía Mỹ không có được điều tương tự.

    Sự khác biệt về số lượng

    Điều này thoạt nghe có vẻ vô lý, nhưng chính sự khác biệt về số lượng đã tạo nhiều cơ hội cho các phi công Việt Nam trong việc tiêu diệt các máy bay Mỹ.

    Trong năm 1965, Không quân Việt Nam chỉ có 36 MiG-17 và số lượng tương ứng phi công có thể hoạt động chiến đấu.

    Đến năm 1968 số lượng máy bay MiG trong biên chế Không quân Việt Nam khoảng 180 chiếc và có khoảng 72 phi công giỏi. Như vậy, 72 phi công Việt Nam phải đối chọi với khoảng 200 chiếc F-4 của phi đội tiêm kích TFW-8, TFW-35 và TFW-366, cùng với khoảng 140 chiếc F-105 của phi đội TFW-355 và TFW-388.Ngoài ra, còn khoảng hơn 100 máy bay của Hải quân Mỹ như F-8, A-4, F-4, EB-66 thay phiên nhau hoạt động từ các tàu sân bay Mỹ trên vịnh Bắc Bộ.

    Như vậy, các phi công Việt Nam sẽ phải hoạt động nhiều hơn so với đối thủ và kinh nghiệm trong các cuộc chạm trán với các máy bay Mỹ cũng vì thế mà trở nên phong phú hơn.

    Mỗi lần xuất kích các phi công Việt Nam có quá nhiều mục tiêu để lựa chọn, trong khi đó đối với các phi công Mỹ, mục tiêu máy bay Việt Nam đối với họ là quá nghèo nàn. Phi công Mỹ gặp khó khăn trong việc tìm kiếm mục tiêu của mình, các máy bay MiG-17, MiG-21 thì luôn bất ngờ xuất hiện và cũng bất ngờ biến mất.

    Bên cạnh đó, các phi công Mỹ còn phải lo đối phó với hỏa lực phòng không mắt đất nên không dễ dàng và rảnh tay để truy tìm đối thủ.



    Yếu tố tinh thần chiến đấu

    Rõ ràng, các phi công Việt Nam cất cánh, chiến đấu với một tinh thần và lòng dũng cảm khác thường so với phi công Mỹ.

    Các phi công Việt Nam chiến đấu ngay trên bầu trời quê hương mình. Họ chiến đấu để bảo vệ sự bình yên cho bầu trời Tổ quốc trước các cuộc leo thang đánh phá của Không quân Mỹ.

    Họ sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bầu trời, cất cánh, chiến đấu đến cùng. Tinh thần này cao đến mức, các phi công sẵn sàng trở thành quả đạn thứ ba, lao thẳng máy bay vào kẻ thù để tiêu diệt chúng. (Tinh thần này đã được lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Quân chủng Phòng không Không quân ghi nhận. Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Việt Nam, tính mạng mỗi con người nói chung và mỗi phi công nói riêng là phải hết sức giữ gìn. Do đó, đã có lệnh của lãnh đạo không cho phép phi công Việt Nam thực hiện lối đánh cảm tử - LTS).

    Trong khi đó, phần lớn các phi công Mỹ đến Việt Nam hoạt động bay chiến đấu theo nghĩa vụ. Họ phải hoàn thành cột mốc 100 giờ bay trước khi được thay thế bằng một phi công khác. Rất ít người trong số họ quay lại chiến trường Việt Nam trong nhiệm vụ thứ 2.

    Nỗi ám ảnh các phi công xuất sắc của Không quân Việt Nam khiến các phi công Mỹ đồn tai nhau về một phi công Át có tên là Đại tá Toon, thực ra thì Đại tá Toon chỉ là một nhân vật tưởng tượng của các phi công Mỹ là sự tổng hợp cho các phi công xuất sắc của Việt Nam. (*)

    Những lý do trên đây lý giải cho việc tại sao một lực lượng không quân non trẻ, thiếu kinh nghiệm trận mạc như Không quân Việt Nam lại có thể dành được chiến thắng vẻ vang trước lực lượng không quân hùng mạnh nhất thế giới.


    (*) Trong thời gian diễn ra những cuộc đối đầu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam và các phi công của Hải quân Hoa Kỳ, các phi công Mỹ thường xuyên ghi nhận hình ảnh chiếc máy bay MiG-17 mang số hiệu 3020, cũng như chiếc MiG-21 mang số hiệu 4326, với ký hiệu 13 ngôi sao đỏ trên mũi, biểu hiện cho việc đã bắn hạ 13 máy bay của đối phương.

    Các phi công Mỹ cho rằng những chiếc máy bay đó do một phi công của Không quân Nhân dân Việt Nam điều khiển. Trong những lần bắt được tín hiệu liên lạc trao đổi giữa mặt đất hoặc giữa các phi công với nhau, họ thường xuyên nghe thấy từ "Toon" hoặc "Tomb" thường xuyên được lặp đi lặp lại. Họ cho rằng đấy là tên của người phi công huyền thoại. Từ đó huyền thoại về người phi công siêu cấp có biệt danh là "Toon" ra đời.

    Sự ám ảnh của các phi công Mỹ đối với "Toon" suốt từ năm 1967 đến 1972. Trong những cuộc trao đổi với nhau, họ liên tục thêm thắt vào cái tên huyền thoại này. "Toon" được "phong" cấp bậc "đại tá", thậm chí gán cho cái họ "Nguyen" rất đặc thù Việt Nam. Một số tài liệu còn ghi rõ tên Việt của ông là "Nguyễn Tuân". Những lời đồn đại này đã ảnh hưởng không ít đến tâm lý của các phi công Mỹ, dẫn đến việc vội vã ném bom khi chưa đến mục tiêu, hoặc lảng tránh không chiến khi thấy MiG xuất hiện.

    Trên thực tế, phía Việt Nam không đưa các phi công có cấp bậc Thiếu tá trở lên để tham gia không chiến. Một số người cho rằng đây là phi công Đinh Tôn hoặc Phạm Tuân, là những phi công có tên gọi gần âm với "Toon". Tuy nhiên, đây lại là những phi công được huấn luyện chuyên cho tập kích B-52 chứ không thiên về không chiến, do đó số máy bay bắn hạ được của họ cũng chưa đủ để xếp vào nhóm "Át".

    Theo một số nhà nghiên cứu, cái tên "Toon" hoặc "Tomb" không hẳn là một cái tên Việt Nam. Họ cho rằng đấy có thể chỉ là một tín hiệu nhiễu vô tuyến thường xuyên xuất hiện, do được lặp đi lặp lại nhiều lần nên các phi công Mỹ bị nhầm lẫn đấy là tên của người phi công. Trên thực tế, trong trao đổi liên lạc giữa mặt đất và các phi công Việt Nam không bao giờ sử dụng tên thật mà chỉ sử dụng các bí danh để chỉ phi đội hoặc các vị trí máy bay.

    Sau khi Việt Nam mở cửa, một số cựu phi công Mỹ sang thăm Việt Nam để tìm hiểu và đã xác nhận Đại tá Toon chỉ là một nhân vật tưởng tượng của các phi công Mỹ và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là một thiện ý của các phi công Mỹ, Đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những "nghệ sỹ sôlô" ném bom đơn độc ban đêm trong Thế chiến thứ hai được gọi là "máy giặt Charlie" vậy.

    Theo Wikipedia
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #25

    Mặc định

    “Đại bàng trắng” và cú hạ gục B52

    Thứ hai 10/12/2012 07:00

    ANTĐ - Đúng dịp kỉ niệm 40 năm Điện Biên Phủ trên không, tôi cùng Đại tá Quách Hải Lượng đến thăm gia đình Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Vũ Xuân Thiều, người phi công đã bắn rơi chiếc “pháo đài bay” B52 trong những ngày đêm khói lửa cuối năm 1972. Đại tá Lượng từng là Đội trưởng phiên dịch tiếng Nga, rồi sĩ quan điều khiển của bộ đội tên lửa, nguyên trưởng phòng tác chiến Quân chủng Phòng không không quân. Bởi vậy, trong ông là một “kho” kỉ niệm …










    Anh hùng, liệt sĩ Vũ Xuân Thiều

    Đam mê chinh phục bầu trời

    Trong căn phòng khách ấm cúng của gia đình họ Vũ trên phố Đặng Dung (Hà Nội), có đặt bàn thờ gia tiên; ở một góc là bức ảnh người thanh niên có nụ cười tươi tắn trong bộ quân phục bám đầy tuyết trắng giữa mùa đông của xứ sở Bạch Dương. Đó chính là Thượng uý phi công, Anh hùng Vũ Xuân Thiều. Trên chiếc tủ nhỏ đặt kế bên có bức tượng đồng bán thân của người anh hùng đã hi sinh giữa tuổi thanh xuân. “Bức tượng này do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tặng gia đình” - ông Vũ Xuân Thăng, người anh ruột của phi công Vũ Xuân Thiều cho biết. Bên cạnh bức tượng là chiếc tủ kính nhỏ có đặt bức tượng đá trắng tạc con đại bàng trong tư thế dũng mãnh, một số kỷ vật và mảnh xác chiếc B52 đã bị Vũ Xuân Thiều bắn rơi…

    Nhắc đến người em, ông Thăng luôn luôn nói “Chú Thiều nhà tôi”. Bùi ngùi theo dòng kí ức, ông Thăng kể: “Chú Thiều nhà tôi nếu còn sống thì năm nay 67 tuổi, chú ấy sinh năm 1945” - ông nói rồi cho chúng tôi xem bản gốc Giấy khai sinh (bằng tiếng Pháp) của Vũ Xuân Thiều, vẫn được gia đình lưu giữ cẩn thận. Ít người biết rằng, tuy là phi công chiến đấu xuất sắc, thuộc tổ bay đêm, nhưng lúc còn bé Vũ Xuân Thiều từng bị ngã gãy xương quai xanh. Ông Thăng nhớ lại: “Năm ấy gia đình tôi tản cư ở Phú Thọ, làng Yên Luật, xã Tân Phong, huyện Hạ Hoà. Một hôm tôi trèo lên cây hồng trong xóm tìm được quả chín, bèn hái rồi gọi, ném xuống cho Thiều; chú ấy chạy lại đón thì bị ngã, gãy xương quai xanh. Ở đó làm gì có bệnh viện, may nhờ ông lang tên là Bủ Mạc dùng một loại lá rừng giã nát rồi đắp vào, một thời gian sau thì lành hẳn”.

    Gia đình Vũ Xuân Thiều có 10 anh em, Thiều là thứ bảy. Ngay từ thuở nhỏ, Thiều đã bộc lộ sự say mê mãnh liệt với… máy bay và bầu trời. Hầu như quyển vở nào của cậu bé Vũ Xuân Thiều cũng có những phác hoạ về máy bay. Đang học năm thứ 3, khoa Vô tuyến điện, Đại học Bách khoa Hà Nội, Vũ Xuân Thiều giấu gia đình đi khám tuyển phi công. Lần đầu, các bác sĩ không phát hiện chiếc xương quai xanh từng bị gãy, nhưng đến phần quay tròn, thì Thiều bị loại. Về nhà, Thiều quyết tâm tập luyện để thi lại. Hàng ngày, Thiều dành thời gian tập thể dục, nhất là môn “quay tròn” nhằm rèn luyện khả năng chịu đựng của một phi công tương lai. Lần khám thứ hai, Thiều vượt qua được các bài tập kiểm tra. Về nhà, Thiều khoe với Bình, cô em gái gần gũi nhất: “Thực ra anh cố chịu đựng, chứ lúc ra khỏi phòng kiểm tra, phải chạy một mạch vào chỗ khuất, nôn thốc nôn tháo. May mà các bác sĩ không phát hiện”.

    Vũ Xuân Thiều được Đại học Bách khoa Hà Nội xét đặc cách tốt nghiệp và anh lên đường sang Liên Xô học lái máy bay. Với niềm đam mê học tập và khát vọng mãnh liệt sớm trở về bảo vệ bầu trời Tổ quốc, Thiều đã nhanh chóng nắm vững chiến thuật, kỹ thuật chiến đấu; sử dụng tốt máy bay Mig 21 (loại hiện đại có trang bị đánh ban đêm)… Sau này, một người bạn cùng kíp bay tập với Thiều, là phi công Nhuận đã kể lại với ông Thăng: “Thường ngày thì Thiều hiền như con gái nhưng khi vào tập luyện thì khác hẳn, rất mạnh mẽ. Trong những lần tập bài bay bám đuổi tiêu diệt đối phương, em bay trước, Thiều bám theo sau. Thiều bay quá sát, như liên tục đè ngay trên đầu em, rất dũng cảm và quyết liệt. Lúc cả hai đã hạ cánh xuống sân bay, em bảo Thiều: “Sao mày “gấu” thế? Vào chiến đấu thật, thằng nào bị mày bám thì chỉ có chết!”.






    Ông Vũ Xuân Thăng (bên trái) và đại tá Quách Hải Lượng
    xem lại những kỷ vật của phi công Vũ Xuân Thiều

    Trận đánh cảm tử

    Trong một buổi sáng khá ấm áp của mùa đông Hà Nội, câu chuyện về người phi công anh hùng càng trở nên sâu lắng, xúc động. Năm 1968, Vũ Xuân Thiều hoàn thành xuất sắc khoá đào tạo phi công chiến đấu, trở về nước và được phiên chế vào đội bay chiến đấu ban đêm. Ông Thăng cho chúng tôi xem bức thư của Vũ Xuân Thiều gửi bố mẹ, viết ngày 22-5-1972 tại một sân bay bí mật. Thư có đoạn: “Khi cuộc chiến tranh đến giai đoạn tàn khốc nhất, Mỹ huỷ diệt các thành phố, những chiếc máy bay B52 sẽ được dùng vào đêm nhiều hơn và đó sẽ là thời cơ của chúng con… Cấp trên bảo với chúng con rằng: đừng nghĩ đến những chiếc F4 mà hãy nghĩ đến những chiếc B52”.

    Lần lượt giới thiệu với chúng tôi một số kỷ vật của người em, ông Thăng bùi ngùi: “Chú Thiều nhà tôi lúc hi sinh mới 27 tuổi đầu, chưa kịp lập gia đình. Nhưng chú ấy đã có bạn gái”… Người bạn gái của Vũ Xuân Thiều là một thiếu nữ Hà thành tài sắc. Mối tình trong sáng của họ bắt nguồn từ một chuyến tham quan. Hôm ấy, Thiều được đơn vị cho đi thăm Tam Đảo và anh đã ngẫu nhiên gặp cô gái xinh đẹp tên là Hoa. Hai người cảm mến nhau từ cái nhìn đầu tiên. Giữa khung cảnh lãng mạn của Tam Đảo, lúc thân mật rồi hỏi chuyện, mới biết nhà Hoa cũng ở ngay phố Đặng Dung. Hoa cũng là bạn học với Bình, cô em gái của Thiều; khi Thiều sang Liên Xô học tập thì Hoa vẫn còn là một cô bé. Tình yêu giữa họ nảy nở và ngày càng nồng thắm… Một thời gian sau, Hoa sang Liên Xô học tập và họ không bao giờ còn được gặp lại nhau.

    Ông Thăng kể tiếp: “Thiều rất lãng mạn. Chú ấy viết thư cho Hoa, chỉ dùng loại giấy pơ-luya màu xanh đẹp nhất mua được hồi ấy… Thiều còn ép khô những lá thông hái ở căn cứ đóng tại Sóc Sơn (Hà Nội), gửi sang Liên Xô tặng Hoa. Từ đất nước vĩ đại ấy, Hoa tìm mua được một bức tượng con đại bàng trắng tạc bằng loại đá đặc biệt, có thể phát sáng ban đêm, gửi về tặng Thiều. Bức tượng ấy có ý nghĩa như một lời chúc Thiều và chiếc Mig 21 sẽ như một con đại bàng dũng mãnh hạ gục những “Thần sấm”, “Con ma” và cả B52 của Mỹ.

    Cuối tháng 12-1972, Hà Nội hào hùng trong những ngày khói lửa “đất rung, ngói tan, gạch nát”. Lúc 21h41 ngày 28-12-1972, Vũ Xuân Thiều cất cánh từ sân bay Cẩm Thuỷ (Thanh Hoá). Thiều được Sở chỉ huy đóng ở Thọ Xuân dẫn đường vòng ra phía sau đội hình một tốp B52 có rất nhiều máy bay tiêm kích bảo vệ. Đến vùng trời Sơn La, Thiều mưu trí vượt qua hàng rào máy bay tiêm kích và tiếp cận được B52…

    Để có thể hình dung việc Mig 21 của ta phải cực kì khó khăn, nguy hiểm như thế nào mới tiếp cận được B52, xin được nói thêm, B52 là loại vũ khí chiến lược của quân đội Mỹ (cùng với tên lửa hạt nhân và tàu ngầm nguyên tử). Vài ngày trước khi B52 cất cánh, các loại máy bay tiêm kích, cường kích được huy động đánh phá ác liệt các sân bay, trận địa tên lửa, cao xạ của đối phương để “dọn đường”. Khi B52 cất cánh, thường có 3 chiếc mỗi tốp (có thể xuất kích cùng lúc nhiều tốp B52) và bao quanh mỗi tốp là rất nhiều các máy bay tiêm kích, cường kích, máy bay gây nhiễu điện tử… để bảo vệ “pháo đài bay B52”. Do vậy, đến gần được B52 phải cực kì mưu trí, dũng cảm. Và Vũ Xuân Thiều đã xuất sắc làm được điều đó.

    Trở lại trận đánh đêm 28-12, Sở chỉ huy theo dõi, chỉ đạo sát sao đã đưa Thiều đến vị trí nhìn được B52 bằng mắt thường. Thiều quyết tâm vượt qua các máy bay tiêm kích và đã ở rất gần chiếc pháo đài bay nặng nề. Nhận lệnh từ Sở chỉ huy, Thiều phóng liên tiếp 2 quả tên lửa. Do đã ở cự li quá gần, chiếc Mig 21 không thể thoát khỏi quả cầu lửa khổng lồ bùng lên từ chiếc B52 trúng đạn... Tại Sở chỉ huy thời khắc ấy, những người có mặt đều lặng đi khi dấu mục tiêu (chiếc B52) và chiếc Mig 21 của Vũ Xuân Thiều cùng lúc biến mất trên màn hình rađa.

    Sáng hôm sau, đồng chí Phạm Ngọc Lan (người chỉ huy trực tiếp của Vũ Xuân Thiều) và một số đồng đội đi trực thăng lên xã Tạ Khoa (huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La) và tận tay sờ vào xác chiếc B52 Mỹ đã trở thành một đống sắt vụn ven rừng. Chiếc Mig 21 đầy thương tích nằm cách xác chiếc B52 không xa. Những người đồng đội đã bật khóc khi tìm được thi thể Vũ Xuân Thiều, anh bị một vết thương sâu ở sau gáy nhưng nét mặt đầy sự bình thản…

    Hai mươi hai năm sau ngày hi sinh, Vũ Xuân Thiều được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Hiện anh đang an nghỉ tại khu mộ của gia đình ở nghĩa trang Văn Điển (Hà Nội). Tên anh đã được đặt cho một đường phố và một trường phổ thông cơ sở của Thủ đô.


    Mỗi chiếc B52 có tới 8 động cơ, nên cũng rất khó bị rơi nếu một động cơ bị hỏng. Ngày 20-11-1971, phi công Vũ Đình Rạng cũng tiếp cận và phóng 1 đạn ở khoảng cách 2 km. Quả tên lửa tầm nhiệt đã phá huỷ một trong 8 động cơ nhưng chiếc B52 này vẫn lết về hạ cánh tại căn cứ quân sự của Mỹ ở Thái Lan… Trong lần rút kinh nghiệm trận đánh này, sở chỉ huy nhận thức rõ để đảm bảo an toàn cho phi công ta thì cự ly hiệu quả nhất để tiêu diệt B52 là 2 km, vì nếu gần hơn thì máy bay ta sẽ không kịp thoát khỏi vùng nổ của chiếc B52 chứa đầy xăng và vũ khí. Đến lượt mình, Vũ Xuân Thiều đã hạ quyết tâm tiếp cận ở cự li gần hơn và sẽ phóng 2 quả tên lửa để bảo đảm chiếc B52 phải rơi tại chỗ. Điều này đồng nghĩa, Thiều khó thoát khỏi vùng nổ và có thể hy sinh!



    Duy Anh - Đình Khang
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  6. #26

    Mặc định

    Người Hà Nội đối đầu với "pháo đài bay" B52

    Thứ sáu 07/12/2012 15:04

    ANTĐ -Từ ngày 18 đến 29-12-1972, B52 đã thực hiện 729 phi vụ, ném 20.000 tấn bom xuống Hải Phòng, Hà Nội và các mục tiêu khác. Với tinh thần chiến đấu ngoan cường Việt Nam đã hạ gục 34 “pháo đài bay” - B52 trên bầu trời Hà Nội.







    Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng lãnh đạo Quân chủng phòng không không quân chuẩn bị phương án đánh B52 năm 1972.




    Trong những năm tháng chiến tranh, một trong những loại bom gây sát thương cao quân đội Mỹ hay sử dụng là bom bi. Mũ được bện chặt bằng rơm khô nên những mảnh bom bi không thể xuyên qua được. Hình ảnh học sinh miền Bắc đội mũ rơm đi học - hình ảnh rất quen thuộc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.






    13 tiểu đoàn tên lửa được trang bị SAM2 - tên lửa đất đối của Liên Xô bảo vệ Hà Nội. 16 trung đoàn pháo cao xạ có nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng và một số khu vực phía bắc Thủ đô. 4 trung đoàn không quân tiêm kích Mig-21 và Mig-17 tham chiến.




    Đảng bộ thành phố Hà Nội cho biết trong năm 1972 có 15.000 thanh niên Thủ đô nhập ngũ.




    Năm 1972, mỗi người sở hữu ít nhất ba hầm trú ẩn ở trong nhà, cơ quan và trên đường phố.




    Cầu phao luôn đảm bảo thông tuyến giao thông dưới mưa bom bão đạn của không quân Mỹ






    Xác một chiếc máy bay bị quân đội ta hạ gục





    Trong năm 1972, bệnh viện Bạch Mai đã từng hứng bốn đợt ném bom của không quân Mỹ vào các ngày 16-4, 18-8, 20-12 và 22-12.






    Phái đoàn Chính phủ Cộng hòa Pháp bị trúng bom B52 lúc 11h30, khu nhà ở bị phá hủy.



    Sửa đường tàu bị bom Mỹ phá hỏng tại huyện Thanh Trì.



    Cầu Long Biên tuyến đường huyết mạch nối Hà Nội với bờ Bắc sông Hồng bị bom Mỹ
    phá hủy nhiều đoạn.





    KTX Đại học Y Hà Nội bị trúng bom






    Ngay sau những trận bom B52 đầu tiên cuối tháng 12-1972, Hà Nội đã huy động mọi phương tiện sơ tán hơn 50 vạn dân nội thành.







    Tết năm 1972 tại Hà Nội. Ảnh do ông Jean Marc Gravier, nhân viên mật mã Phái đoàn của chính phủ Cộng hòa Pháp.



    Từ ngày 18 đến 29-12-1972, B52 đã thực hiện 729 phi vụ, ném 20.000 tấn bom xuống Hải Phòng và Hà Nội và các mục tiêu khác.


    “Pháo đài bay chiến lược” - B52 xuất hiện lần đầu trong không quân Hoa Kỳ vào tháng 6-1955. Trong vòng hơn 40 năm, B52 là chủ bài của sức mạnh ném bom chiến lược Hoa Kỳ. Cánh của B52 có hình mũi tên 350,sải dài 56,39m (bằng chiều rộng của một sân bóng). Khi không tải, chiếc máy bay này nặng 73 tấn và có thể mang 32 tấn bom. Trong chiến tranh Việt Nam, B52 đã hoạt động từ năm 1962 đến năm 1975, nhưng phải đến chiến dịch Linebacker II nó mới đóng vai trò chính yếu. Từ ngày 18 đến 29-12-1972, B52 đã thực hiện 729 phi vụ, ném 20.000 tấn bom xuống Hải Phòng và Hà Nội và các mục tiêu khác.


    Theo Dantri
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  7. #27

    Mặc định

    Nỗi kinh hoàng của phi công Mỹ

    Thứ tư 05/12/2012 06:12

    ANTĐ - Sau trận thắng đầu tiên của Bộ đội tên lửa Việt Nam, yếu tố bí mật của vũ khí không còn nữa. Tuy nhiên, với chiến thuật linh hoạt di chuyển trận địa, đồng thời lập nhiều trận địa giả, tổ chức đón lõng, phục kích bất ngờ; các trung đoàn tên lửa đã tránh được những trận tập kích trả thù và tiếp tục bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Phi công Mỹ khi bay vào vùng trời miền Bắc Việt Nam đều ám ảnh bởi lưới lửa phòng không dày đặc của các đơn vị tên lửa, cao xạ… Đến mức, nhiều phi công cho rằng, trở thành khách bất đắc dĩ trong “khách sạn Hilton” (trại giam giặc lái Mỹ ở Hà Nội - PV) được coi là may mắn, thay vì phải tan xác trên bầu trời.









    Chuyên gia Liên Xô và bộ đội Việt Nam bên xác một chiếc máy bay Mỹ bị bắn hạ


    Cuộc trả đũa đắt giá

    Việc ra quân đánh thắng trận đầu của Bộ đội tên lửa đã làm nức lòng quân dân cả nước ta, đồng thời khiến Lầu Năm Góc choáng váng. Nhằm gây bất ngờ để tiêu diệt và kéo địch ra xa Hà Nội, Tiểu đoàn 61 (Trung đoàn tên lửa 236) cơ động phục kích máy bay địch tại khu vực Xích Thổ (nay thuộc huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình). Khu vực này nhanh chóng trở thành một trận địa bí mật, ngoài Tiểu đoàn tên lửa 61, còn có 23 đại đội pháo phòng không.

    Theo hồi ức của Đại tá Nguyễn Xuân Đài (nguyên sỹ quan điều khiển Tiểu đoàn tên lửa 61), ngày 11-8-1965, lúc 20h08, kíp chiến đấu của Tiểu đoàn 61 phát hiện một tốp 3 máy bay địch. Đến cự li thích hợp, tiểu đoàn đã phóng 3 quả tên lửa trúng mục tiêu, một chiếc máy bay bốc cháy dữ dội và rơi tại chỗ; những chiếc còn lại bị thương nặng hốt hoảng bay ra biển thì một chiếc nữa bị rơi. Chiếc máy bay còn lại cố hạ cánh xuống tàu sân bay Midway. Theo tin tình báo của ta nắm được sau đó, chiếc máy bay bị thương này là loại A4-E số hiệu 114 do Thiếu tá Robert Geor phải hai lần hạ cánh mới được. Ngay khi chiếc máy bay đáp được xuống đường băng, các nhân viên kĩ thuật đã xúm lại và xác định trên thân máy bay có tới 50 lỗ thủng do mảnh tên lửa của ta phá huỷ. Thân máy bay bị móp méo khiến phi công Robert Geor chỉ thoát ra khỏi máy bay sau khi được các nhân viên kĩ thuật dùng cưa, kích hỗ trợ phá cửa. Tin về 2 chiếc máy bay bị rơi, một chiếc bị thương nặng khiến các phi công trên tàu sân bay Midway xôn xao. Thiếu tá Robert George bị cấp trên cấm tiếp xúc với phóng viên thường trú trên tàu sân bay.




    Bức phù điêu bên hồ Trúc Bạch, ghi lại sự kiện bắn cháy máy bay của John McCain

    Ngay sau trận thắng giòn giã, Tiểu đoàn 61 được lệnh di chuyển cấp tốc, đồng thời một hệ thống khí tài tên lửa giả (làm bằng tre, cót ép) được triển khai để nhử địch. Đúng như dự đoán, ngày 13-8-1965, xuất hiện nhiều tốp máy bay địch bổ nhào xuống đánh phá trận địa giả và bị 23 đại đội pháo phòng không cùng lực lượng bộ đội địa phương Ninh Bình phục sẵn. Lực lượng hỗn hợp của ta đã đánh trả quyết liệt các trận oanh tạc trả thù và bắn rơi tại chỗ 6 máy bay Mỹ. Ngay hôm sau, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ thừa nhận: “Đây là một ngày thiệt hại nặng nề nhất của không lực hạm đội”. Đồng thời Tham mưu trưởng Không quân Mỹ phải ra lệnh đình chỉ ngay tức khắc việc “đánh trả đũa quá đắt đỏ” này.

    Ngoài những trận đánh nổi tiếng trên, Tiểu đoàn 61 cũng giành nhiều thành tích đặc biệt khác, như ngày 7-3-1966 bắn cháy 2 máy bay Mỹ bằng 1 tên lửa. Đó là chiếc thứ 900 và 901 của không quân Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc. Sau đó chưa đầy hai tuần (ngày 18-3-1966, tại huyện Đô Lương, Nghệ An), cũng bằng 1 quả tên lửa trong tình huống tương tự, Tiểu đoàn 61 đã bắn rơi tại chỗ 2 máy bay loại F3D2, diệt 3 giặc lái… Sau những chiến công nổi bật, đơn vị được Bác Hồ đến thăm động viên và khen thưởng. Đến ngày 1-1-1967, Tiểu đoàn 61 vinh dự được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.




    Đại tá Nguyễn Thanh Tân, người tham gia kíp chiến đấu bắn hạ máy bay của John McCain

    Vị thượng nghị sỹ tương lai và cú nhảy xuống hồ Trúc Bạch

    Đại tá Nguyễn Thanh Tân (nguyên Trưởng phòng Quân huấn, Quân chủng PKKQ, khi đó là trắc thủ góc tà thuộc Tiểu đoàn tên lửa 61) cũng là người tham gia trận đánh bắn cháy chiếc máy bay A4-E do Thiếu tá John McCain điều khiển trong khi bổ nhào xuống đánh phá Nhà máy điện Yên Phụ Hà Nội cuối tháng 10-1967. Thời điểm đó, Tiểu đoàn 61 bí mật triển khai tại trận địa Dương Tế (xã Yên Sở, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Sáng 26-10-1967, Hà Nội vào thu rất đẹp, nắng vàng và nền trời rất trong xanh; đây cũng là điều kiện thời tiết lý tưởng mà máy bay Mỹ lợi dụng đánh phá. Sau những trận đánh ác liệt, hôm đó Tiểu đoàn 61 chỉ còn 5 quả đạn tên lửa. Từ chỉ huy đến cán bộ, chiến sĩ đều băn khoăn nếu địch mở nhiều đợt tập kích thì rất khó được cấp đạn kịp thời. Toàn đơn vị đặt quyết tâm mỗi quả đạn diệt một máy bay địch; ngay quả đạn đầu tiên chính xác có thể làm rối loạn đội hình tấn công của chúng đồng thời bảo vệ an toàn mục tiêu bảo vệ…




    Phi công John McCain hiện là thượng nghị sĩ Hoa Kỳ

    Đúng như dự đoán, hôm đó không quân Mỹ ồ ạt đánh phá Hà Nội trong “Chiến dịch Sấm Rền 57”. Lúc 11h30, bầu trời Hà Nội xuất hiện hàng chục chiếc máy bay A4, F8, F4 điên cuồng lao vào đánh phá khu vực Nội Bài, Nhà máy điện Yên Phụ, Tổng kho Văn Điển… Nhiều chiếc máy bay đã bị đền tội bởi những loạt đạn tên lửa chính xác của các đơn vị. Với Tiểu đoàn 61, bảo vệ Nhà máy điện Yên Phụ nhưng cũng phải đảm bảo sự an toàn của khu vực Ba Đình, do đây là nơi có những cơ quan đầu não của đất nước, nên có những quy định về “góc cấm” không được phóng tên lửa, đề phòng trường hợp tên lửa mất điều khiển rơi xuống… Khi mục tiêu xuất hiện, trong khoảng thời gian 20 giây, với sự mưu trí sáng tạo và tinh thần dám chịu trách nhiệm, kíp chiến đấu đã chọn đúng thời cơ nhấn nút phóng tên lửa ngay trước khi chiếc máy bay của John McCain bổ xuống cắt bom, vừa bắn cháy máy bay, vừa đảm bảo an toàn Nhà máy điện Yên Phụ…

    Chiếc A4-E bốc cháy ngùn ngụt và từ quầng lửa đó bắn ra một chiếc dù. Viên phi công đã rơi xuống giữa hồ Trúc Bạch và được vớt lên, chữa trị các vết thương rồi trở thành vị khách của “Hilton Hà Nội” cho đến khi được trao trả về Mỹ năm 1973. Sau này, John McCain trở thành một chính khách nổi tiếng của Mỹ, năm 2008 là ứng cử viên Tổng thống Mỹ của đảng Cộng hoà nhưng thất cử trước ông Obama. Hiện John McCain là thượng nghị sĩ Mỹ; ông đã nhiều lần trở lại Việt Nam và tất nhiên không thể không đến thăm hồ Trúc Bạch.

    (Còn nữa)


    Duy Anh - Đình Khang
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  8. #28

    Mặc định

    John McCain và chiếc mũ mang thông điệp hoà bình

    Thứ ba 11/12/2012 07:00

    ANTĐ - Tròn 45 năm trước, vào buổi trưa ngày 26-10-1967, trong trận chiến đấu bảo vệ Nhà máy điện Yên Phụ (Hà Nội), tiểu đoàn tên lửa 61 (trung đoàn 236) đã bắn cháy một chiếc máy bay A-4E. Viên phi công bị trọng thương đã nhảy dù và rơi xuống hồ Trúc Bạch, đó là thiếu tá John McCain… Sau này, khi đã trở thành Thượng nghị sĩ Mỹ, John McCain nhiều lần sang Việt Nam, ngoài việc vun đắp mối bang giao hai nước, điều ông luôn đau đáu là tìm lại những kỷ vật của mình hồi còn ở “Khách sạn Hilton - Hà Nội”.










    Xem các bức ảnh chụp lúc bị bắn rơi và trong trại giam,
    ông John McCain hóm hỉnh: Tôi hồi ấy cũng đẹp trai đấy chứ!

    Tù binh danh giá

    John McCain sinh năm 1936 tại Căn cứ Không quân Coco Solo trong Vùng Kênh đào Panama do Mỹ kiểm soát. Cha và ông nội của McCain đều là đô đốc của Hải quân Hoa Kỳ và họ là cặp cha con đầu tiên của nước Mỹ cùng đạt đến cấp bậc đô đốc bốn sao.

    Tuổi ấu thơ của John McCain gắn với những lần di chuyển của cha từ căn cứ quân sự này tới căn cứ quân sự khác. Được hưởng một nền giáo dục toàn diện và chịu ảnh hưởng sâu sắc của một gia đình có truyền thống binh nghiệp, đã hình thành nên một John McCain đầy cá tính, ưa mạo hiểm. Năm 1958, ông tốt nghiệp Học viện Hải quân Hoa Kỳ và sau đó 2 năm tốt nghiệp khoá đào tạo phi công, trở thành một phi công hải quân lái máy bay cường kích, chính thức phục vụ trên Hàng không mẫu hạm Forrestal. Khi bắt đầu chiến dịch Rolling Thunder (Sấm rền, năm 1967), John McCain đã nhiều lần lái máy bay đánh phá các mục tiêu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; tính đến giữa tháng 10-1967, ông ta đã thực hiện 22 phi vụ và trở về an toàn.

    Nhưng tài năng và sự may mắn của Jonh McCain không kéo dài lâu, bởi lưới lửa phòng không dày đặc và hiệu quả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 26-10-1967, John McCain điều khiển chiếc A-E Skyhawk (một “con cưng” của Hải quân Mỹ, chỉ đứng sau pháo đài bay B52) từ một hàng không mẫu hạm đậu trên Thái Bình Dương, bay vào vùng trời Hà Nội nhắm tới các mục tiêu trọng yếu như cầu Long Biên, Nhà máy điện Yên Phụ.

    Hôm đó Hà Nội đang thu, trời rất trong xanh. 11h30, từ trong máy bay, John McCain nhìn rất rõ Nhà máy điện Yên Phụ nằm cách bờ sông Hồng không xa. Từ độ cao hơn 8.000m, ông ta cho máy bay bổ nhào để cắt bom thì đúng lúc ấy, một quả tên lửa bất thần lao tới khiến chiếc A-4E cắm đầu xuống bãi xỉ than của nhà máy. John McCain bị nhiều mảnh kim loại do vụ nổ gây ra găm vào người nhưng ông ta vẫn kịp bung dù và rơi xuống giữa hồ Trúc Bạch. Trên mình đầy thương tích, John McCain đang hoảng loạn trong cơn tuyệt vọng thì một số người dân, trong đó có ông Mai Văn Ôn đã bất chấp nguy hiểm lao ra khỏi hầm trú ẩn nhảy xuống hồ bơi về phía viên phi công đang chìm dần. Khi được đưa lên bờ, John McCain lại đối mặt với nguy cơ bị những người dân đang bừng bừng căm hờn trút giận lên kẻ đã mang bom đạn dội xuống đầu họ. Rất may, ông Mai Văn Ôn đã kịp khuyên nhủ, ngăn cản cơn thịnh nộ của đám đông trước khi lực lượng bộ đội, công an có mặt và đưa John McCain vào trại giam… Hai tháng sau khi Hiệp định Paris được kí kết, ngày 14-3-1973, cùng với nhiều người bạn tại “Khách sạn Hilton Hà Nội”, John McCain bước chân lên chiếc máy bay quân sự C130 đỗ tại Sân bay Gia Lâm trở về Mỹ.





    Đại tá Phạm Đức Đại (bên phải) trao cho Thượng nghị sĩ John Kerry chiếc mũ của phi công John McCain

    Bản danh sách đặc biệt

    Từ Việt Nam trở về, John McCain tích cực tham gia chính trường, liên tiếp đắc cử Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ và là chính khách nổi tiếng đã 2 lần ra tranh cử Tổng thống Mỹ. Nếu như trong cuộc chiến tranh Việt Nam, John McCain thuộc phái “diều hâu” thì sau này, ông trở thành một trong những người ủng hộ quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Cùng với Thượng nghị sĩ John Kerry, người từng phản đối cuộc chiến tranh Việt Nam trong những thập niên 60-70 của thế kỉ trước, John McCain đã tác động, thúc đẩy chính quyền của Tổng thống Clinton dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận năm 1994 và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995. Cả hai vị thượng nghị sĩ này đã nhiều lần sang Việt Nam để giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam (POW/MIA). Ông John Kerry từng là Chủ tịch Ủy ban tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam của Thượng viện Hoa Kỳ.

    Trong khi lấy tư liệu viết bài kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, tình cờ chúng tôi được gặp Đại tá Phạm Đức Đại, nguyên Giám đốc Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam). Có thể nói, với gần 50 năm quân ngũ, nhiều năm làm Giám đốc Bảo tàng Quân đội, ông Đại là một “kho tư liệu” về lịch sử Quân đội ta. Nhân đọc loạt bài “40 năm nhìn lại Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” đăng trên Báo ANTĐ, ông đã kể lại cho chúng tôi những lần gặp gỡ, làm việc với Thượng nghị sĩ John McCain và John Kerry.

    Đầu năm 1992, Đại tá Phạm Đức Đại được lãnh đạo Tổng cục Chính trị giao nhiệm vụ tiếp, làm việc với hai Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain và John Kerry về vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Sau màn chào hỏi xã giao, ông John Kerry đưa ra một bản danh sách dài những thông tin cá nhân về hơn 1.000 trong tổng số 2.265 quân nhân Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Đại đọc lướt qua, rồi chân thành nói với ông Kerry: Đây là việc làm vượt quá khả năng của tôi. Ông có thể rút ngắn lại danh sách này? Ông Kerry đã rút ngắn lần 1, rồi tiếp đến lần 2 và những lần sau nữa theo thứ tự ưu tiên; để rồi chỉ còn 24 trường hợp cần làm rõ càng sớm càng tốt. Đây là những trường hợp mất tích có rất nhiều uẩn khúc, thậm chí một bộ phận chính giới Mỹ còn cho rằng những người này vẫn đang bị bí mật giam giữ ở Việt Nam hoặc Việt Nam đã bàn giao họ cho Liên Xô để khai thác bí mật quân sự?

    Nhận bản danh sách đặc biệt này, ông Đại đã chỉ đạo các cán bộ thuộc cấp tìm kiếm trong kho tư liệu, hiện vật lưu trữ. Tuy nhiên, không một thông tin nào liên quan đến 24 người này được phát hiện. Không nản lòng, họ sang Thông tấn xã Việt Nam phối hợp kiểm tra lại toàn bộ ảnh chụp binh lính, phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh và đã thu được thông tin quý giá: Bức ảnh xác chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Quảng Bình, có số hiệu máy bay và ảnh xác viên phi công Morison (rõ cả mặt và bảng tên cùng số hiệu quân nhân trên bộ quần áo bay). Phi công Morison là người có tên trong bản danh sách 24 trường hợp đặc biệt mà Thượng nghị sĩ John Kerry trao cho Đại tá Phạm Đức Đại. Trong lần sau trở lại Việt Nam, khi xem các bức ảnh này, cả hai ông John McCain và John Kerry đều kinh ngạc và xúc động nói: “Từ lúc này, chúng tôi hoàn toàn không tin vào việc người Việt Nam còn giam giữ các quân nhân Mỹ. Chúng tôi đã hiểu sự chân thành của các bạn Việt Nam”.





    Ông John McCain được những người dân Việt Nam cứu sống sau khi rơi xuống hồ Trúc Bạch

    Chiếc mũ lưu lạc 1/4 thế kỷ

    Người Mỹ dường như rất coi trọng những kỷ vật cá nhân, dù nó gắn với một quá khứ đau buồn của họ. John McCain đã nhiều lần trở lại Việt Nam và luôn mong muốn gặp lại những người đã bắn hạ máy bay, cũng như những người đã cứu ông khỏi chết đuối tại hồ Trúc Bạch năm nào. Với thiện chí của phía Việt Nam, mong muốn này của vị Thượng nghị sỹ - cựu phi công đã được toại nguyện. Tuy nhiên, một nguyện vọng lớn của John McCain là tìm lại chiếc mũ phi công mà ông sử dụng khi bị bắn rơi, thì rất khó đáp ứng bởi việc tìm kiếm chẳng khác nào “mò kim đáy bể”… Nhưng ông cũng được an ủi phần nào khi được vị Giám đốc bảo tàng Quân đội trao tặng những bức ảnh quý báu: ảnh McCain lóp ngóp dưới hồ Trúc Bạch và được người dân cứu vớt; ảnh trong bệnh viện và trong “Hilton - Hà Nội”. Khi xem lại hình ảnh độc đáo của mình gần 30 năm trước, John McCain hóm hỉnh: “Tôi hồi đó cũng đẹp trai lắm đấy chứ!”. Và vị Thượng nghị sĩ Mỹ tha thiết đề nghị ông Đại: “Nếu có thể, mong ngài tìm lại giúp chiếc mũ phi công của tôi?”.

    Được sự đồng ý của cấp trên, ông Đại đã chỉ đạo một số cán bộ của mình nỗ lực tìm kiếm qua hàng trăm trang hồ sơ, báo cáo và nhiều nhân chứng; cuối cùng xác định được chiếc mũ của John McCain nằm trong kho của Huyện đội Từ Liêm (Hà Nội). Sau khi kiểm tra những thông tin về chiếc mũ phi công chiến đấu đặc biệt này và xác định nó đúng là của ông John McCain, tháng 11-1992, phía Mỹ đã sang Hà Nội và tổ chức một buổi lễ tiếp nhận. Vì lí do đột xuất, Thượng nghị sĩ John McCain không có mặt và đã ủy nhiệm cho Thượng nghị sĩ John Kerry nhận lại kỷ vật đã lưu lạc một phần tư thế kỷ của mình. Giới truyền thông Mỹ đã lập cầu truyền hình tường thuật trực tiếp sự kiện này tới công chúng Mỹ. Nhận chiếc mũ của phi công John McCain từ đại tá Phạm Đức Đại, Thượng nghị sĩ John Kerry đã xúc động đỡ lấy và nói những lời chân thành: “Tôi tin rằng, với thiện chí của phía Việt Nam, quan hệ hai nước sẽ sớm được bình thường hoá và phát triển không ngừng”.


    Duy Anh - Đình Khang
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  9. #29

    Mặc định

    Hồi ức từ “Khu phố hủy diệt”

    Thứ hai 17/12/2012 06:17

    ANTĐ - “B52 à? Cái ký ức về đêm mùa đông năm 1972 ở trên con phố này ám ảnh tôi tròn 40 năm nay. Nhiều đêm tôi vẫn mơ thấy đồng đội tôi - những chiến sĩ công an của Đồn số 42, những gương mặt hiền lành của bà con hàng phố, những âm thanh của bom nổ, tiếng người lạc giọng gọi tìm nhau... Thế hệ của chúng tôi, có lẽ sẽ chẳng bao giờ quên quá khứ bi thương đó” - ông Vũ Xuân Trường - người cảnh sát khu vực phụ trách khu phố 47 nói trong nước mắt khi câu hỏi của tôi chạm vào một phần ký ức đau buồn của ông. Khu phố ông phụ trách cùng với khu phố 45 và 46 sau đêm 26-12 được mệnh danh là “Khu phố huỷ diệt”.











    Phố Khâm Thiên đổ nát sau đêm 26-12-1972

    1. Đồn Công an số 42 ngày đó (nay là Công an Phường Khâm Thiên) có 23 đồng chí, 3 chỉ huy, 15 cảnh sát khu vực và 5 đồng chí phụ trách trật tự. CBCS hầu hết còn trẻ, tuổi đời chỉ ngoài 20, chưa lập gia đình. Xưa nay, cái nghiệp công an vốn không dễ dàng và nhàn hạ, công an thời chiến lại càng khó khăn, thiếu thốn gấp bội.

    Ngày đó, mỗi đồng chí công an đều được phát một chiếc “xắc cốt” (sacoche) đeo ngang hông, bên trong có một cái bút, một cuốn sổ, cùng chiếc đèn pin. Tuy nhiên, “xắc cốt” của CSKV Đồn 42 còn để đựng rất nhiều chìa khóa. Số là, dân đi sơ tán, tin tưởng và cậy nhờ, gửi CSKV giữ hộ chìa, khi nào về thì đến lấy, rồi đêm 30, sáng mồng 1 Tết lại nhờ CSKV mở cửa vào nhà thắp hộ nén nhang lên bàn thờ tổ tiên, để năm mới các cụ có về sẽ đỡ cô quạnh, hương lạnh khói tàn. Bắt đầu từ năm 1972, có lệnh sơ tán. CSKV lúc đó là lực lượng nòng cốt tập trung vận động nhân dân đi sơ tán, bảo vệ tài sản của dân khi họ vắng nhà. 21h hàng ngày, số liệu chính xác những di biến động về nhân khẩu phải được báo về các cấp chỉ huy. Khi có lệnh báo động, CSKV cũng là người khẩn trương vận động nhân dân xuống hầm trú ẩn. Khi nào tính mạng, tài sản của dân được đảm bảo, khi đó, công an mới nghĩ đến sự an toàn của bản thân.

    2. 22h30 đêm 26-12, B52 Mỹ ào ạt trút bom xuống Khâm Thiên, vệt bom kéo dài hơn 1.000m, rộng 50 đến 60m. Nhà cửa, trường học, trạm y tế, nhà máy xí nghiệp, kho gạo... bị thổi bay, thay vào đó là những hố bom khổng lồ ngoác miệng. Xí nghiệp giầy trên phố Khâm Thiên dính bom bùng cháy cộng với những những đám cháy rải rác trong nội thành Hà Nội khiến bầu trời đêm đó nhuốm một màu vàng ệch. Không đợi còi báo yên, ngay khi tiếng bom vừa dứt, tất cả CBCS Đồn số 42 đều lao đến từng khu vực mình được phân công phụ trách để khắc phục hậu quả, cứu người còn kẹt dưới những đống đổ nát.

    Ông Vũ Xuân Trường kể, lúc ông và những đồng đội của mình lao lên khỏi hầm, ông vẫn còn nghe thấy tiếng đồng chí Quảng đồn trưởng gọi với theo dặn dò “Các đồng chí chú ý đề phòng bom nổ chậm”.

    Sau cơn tàn sát đẫm máu của Không lực Hoa Kỳ, khu phố lao động nghèo Khâm Thiên hoàn toàn biến dạng, tất cả chỉ còn là đống đổ nát. Anh cảnh sát trẻ Vũ Xuân Trường chạy vòng từ Cống Trắng, sang ngõ Khâm Đức thì gặp ông Trương Văn Vị (người dân hàng phố quen gọi là ông Tư) run rẩy chỉ vào chiếc hầm cá nhân bị bom “bóp” méo, vợ ông - bà Thuận đang ngất dưới đó trong tư thế ngồi, máu trên đầu tuôn xối xả. Cho đến bây giờ, ông Trường vẫn không thể lý giải nổi, động lực nào đã khiến một thanh niên trẻ, cân nặng chưa đầy 50kg kéo được người phụ nữ nặng ngoài 60kg từ dưới hầm lên rồi cứ thế cõng trên lưng mà chạy. Từ địa điểm cứu người bị thương chạy ra đến trục đường chính chỉ có 30m, nhưng bom khoét, nhà cửa đổ nát lấp đường, thế là phải đi vòng, ông Tư cầm đèn pin chạy phía sau soi đường, CSKV Trường cõng người bị thương chạy phía trước, chạy hết Khâm Đức, quay về Cống Trắng thì mới tìm được lối ra đường chính. Thời điểm này ngoài trục đường chính vắng lặng. Vừa kịp lúc, một chiếc xe “xít đờ ca” chạy qua. Ông Trường nhao ra chặn đường, yêu cầu xe dừng lại đưa người bị thương đi cấp cứu. Tình cờ, chiếc xe mà anh CSKV Đồn số 42 Vũ Xuân Trường chặn lại hôm đó chính là xe của Phó Giám đốc Sở Công an, Đại tá Cáp Xuân Diệm, đang trên đường đi thị sát tình hình. Thấy tình cảnh đó, Phó Giám đốc Sở Công an vội vàng xuống xe, đỡ người bị thương và bảo: “Đồng chí cứ để người bị thương ở đây, việc này đã có tôi lo, mau trở vào cứu dân đi, lực lượng cứu viện sẽ tới trong dăm ba phút nữa”... Câu nói của vị chỉ huy khiến anh cảnh sát trẻ như được tiếp thêm sinh khí. Một mình quay lại Cống Trắng tiếp tục lục tìm trong đống đổ nát…





    Ông Vũ Xuân Trường - nguyên cánh sát khu vự khu phố 47, Đồn Công an 42-Khâm Thiên

    3. Đêm đó, bà Thuận đã được đưa đi cấp cứu kịp thời tại bệnh viện Xanh Pôn. Bà bị ngất do sức ép của bom và do vết thương ở đầu gây mất máu. Khi tôi tìm đến nhà ông bà ở số 45 ngõ Khâm Đức- Khâm Thiên thì chỉ gặp ông Tư ở nhà. Ông bảo, bà Thuận mới mất năm ngoái, thọ 88 tuổi. Ông Tư năm nay đã ở tuổi 89 nhưng rất minh mẫn. Kể lại câu chuyện về đêm mùa đông của 40 năm trước, nước mắt ông lại tuôn trào.

    Đêm ấy bom nổ giữa nhà ông. Trong chớp mắt, toàn bộ nhà cửa tài sản chỉ còn là cái hố sâu hun hút, nhưng điều khiến những con người ở đây vẫn lạc quan, vượt qua khó khăn và cái chết cận kề, đó chính là tình người và đặc biệt là sự gắn bó với nhân dân, vì dân quên mình của những CBCS công an Đồn số 42 ngày ấy. Là những người tiếp cận, cứu dân đầu tiên, trước khi lực lượng công binh, cứu hộ có mặt, không có bất kỳ một công cụ nào hỗ trợ việc đào bới, chỉ với hai bàn tay, cứ tay không mà cào đất, những cửa hầm bị đất đá vùi lấp, bị sức ép của bom bóp cho méo mó đã được khai thông. Chỉ với hai bàn tay, CBCS công an Đồn số 42 ngày ấy đã cứu được tính mạng của biết bao nhiêu người dân Khâm Thiên trong cái đêm kinh hoàng đó. Tôi hỏi ông Trường, ngày đó có phút giây nào ông thấy sợ không? Ông lấy khăn chấm nước mắt rồi chậm rãi trả lời: “Tôi thấy chiến tranh thực sự khủng khiếp, nhưng tôi không sợ. Ngày ấy, tôi chỉ nóng lòng muốn cứu người, không còn thời gian mà tính toán so đo điều hơn lẽ thiệt”.

    4. Trong đêm 26-12, sau khi cứu được bà Thuận, ông Trường vòng trở lại Cống Trắng, tại đây ông tiếp tục cứu được cụ Chu Văn Du - bố đội phó đội dân phòng Chu Trọng Thành. Và phải đến 10 ngày sau, dưới sự giúp đỡ của lực lượng dân phố, dân phòng, công binh… ông Trường mới tìm thấy thi thể anh Thành bị vùi trong hầm cá nhân. Gia đình anh Thành có 4 người. Mẹ Thành thì đi sơ tán, em trai chiến đấu ngoài mặt trận, bố thì bị thương sau vụ sập hầm. Người đưa Thành về nơi an nghỉ cuối cùng tại Nghĩa trang Văn Điển cũng chỉ có một mình ông Trường. Không chỉ có Khâm Thiên, toàn bộ ga Giáp Bát cũng là một trong những điểm nóng Không lực Hoa Kỳ tập trung trút mưa bom. Đường sá bị phá tanh bành, phải đi đường vòng từ Khâm Thiên xuống Kim Giang rồi qua Cầu Bươu mới đến được Văn Điển. Tiễn Thành xong, xe quay về, 5 giờ chiều mùa đông, không hiểu sao trời vàng như đổ nghệ. Màu vàng đó, sau rồi cứ ám ảnh ông… Cái đêm Mỹ thảm sát Khâm Thiên, có 287 người chết. Riêng Đồn số 42 có 4 đồng chí anh dũng hy sinh là Tô Đình Tường- Phó trưởng Đồn, Phan Sĩ Hợp, Nguyễn Đình Mừng - cán bộ Đội QLHC Công an quận Đống Đa được tăng cường xuống đồn và cuối cùng là Nguyễn Văn Liên - cán bộ tập sự mới về đồn chưa đầy hai tháng. Với những đóng góp trong việc sơ tán, cứu sập, cứu người tốt, đảm bảo an toàn về tài sản cho người dân… Đồn Công an số 42 đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công năm 1973. Thực hiện việc đền ơn đáp nghĩa, mới đây, Đảng ủy, Ban chỉ huy Công an quận Đống Đa đã phát động phong trào mỗi CBCS đóng góp một ngày lương, xây dựng nhà tình nghĩa. Ngôi nhà vừa được hoàn thành và bàn giao cho gia đình Liệt sĩ Phan Sĩ Hợp - nguyên CBCS Đồn số 42.


    LTS: Đã 40 năm trôi qua kể từ chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không 1972”, nhưng ký ức về 12 ngày đêm khói lửa hào hùng đầy bi tráng vẫn chưa bao giờ phai nhạt trong tâm trí người dân Thủ đô cũng như cả nước. Đó là chiến công của một thế hệ anh hùng mà trong đó có những đóng góp to lớn của lực lượng Công an Thủ đô thời kỳ ấy.



    Quỳnh Vân
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  10. #30

    Mặc định

    Nghịch lý chiến tranh Việt Nam: Radar 'bỏ đi' ăn đứt radar hiện đại

    Hà Dũng | 27/06/2013 06:50



    Chia sẻ:
    (Soha.vn) - Nhiều khi những vũ khí lạc hậu tưởng “vứt đi” lại hiệu quả hơn cả loại hiện đại


    Sự tự tin của người Mỹ

    Năm 1965, hệ thống SAM-2 (C-75) được Liên Xô viện trợ cho Ai Cập và Syria để chống lại không quân Israel. Trong cuộc chiến tranh 6 ngày (5 đến 11 tháng 6 năm 1967) giữa Liên quân Ai Cập - Syria với Israel, quân đội Ai Cập không chịu nổi đòn tấn công của các binh đoàn thiết giáp Israel nên đã tháo chạy khỏi sa mạc Sinai, bỏ lại hơn 20 bộ khí tài SAM-2, cùng loại với khí tài mà Việt Nam đang sử dụng chống lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc của Mỹ.
    Các bộ khí tài này được các chuyên gia vũ khí Mỹ mổ xẻ và nghiên cứu, áp dụng các phương pháp tác chiến điện tử nhằm đối phó với SAM-2.

    Năm 1969, đến lượt 1 hệ thống radar cảnh giới P-12 của Ai Cập bị rơi vào tay Israel, toàn bộ kết quả phân tích được chuyển giao cho Mỹ.Như vậy đến năm 1970, các loại radar phòng không chủ yếu của Quân đội nhân dân Việt Nam đều đã bị Mỹ nắm bắt và Mỹ đã chế tạo ra các thiết bị gây nhiễu rất hiệu quả. Như chiếc B-52D, lúc đầu mang 8 máy gây nhiễu, thì tới tháng 12/1972 đã có tới 15 máy gây nhiễu, 2 máy phóng nhiễu giấy bạc.




    Tổ hợp tên lửa C-75 (SAM-2) của Việt Nam



    Đài radar nhìn vòng P-12 của Việt Nam



    Mỹ cho rằng, đối thủ lúc bấy giờ của B-52 không phải là tên lửa SAM-2 mà là máy bay MiG bởi mọi bí mật về tính năng kỹ thuật của SAM-2 đã bị Mỹ khai thác. Thế nên ngay từ đầu, chúng đã tập trung đánh tất cả các sân bay của chúng ta.
    B-52 là máy bay ném bom chiến lược có khả năng gây nhiễu điện từ rất lớn. Một tốp 3 chiếc B-52 có 45 máy gây nhiễu, tất cả nhiễu đó tạo thành giải nhiễu chồng chéo, dày đặc, đan xen, công suất rất lớn và rộng. Chưa kể bay kèm B-52 là đội hình máy bay chuyên tác chiến điện tử, gây nhiễu ra-đa. Điều này khiến radar của hệ thống phòng không gặp nhiễu, không thể phát hiện và khóa mục tiêu được với B-52. Các đài radar P-12 của các tiểu đoàn tên lửa SAM-2 chỉ thu được các giải nhiễu đậm đặc, có lúc làm trắng xóa cả màn hình


    Đấy là chưa kể các nguồn nhiễu khác như: Nhiễu ngoài hạm tàu, nhiễu của các máy bay chuyên gây nhiễu từ xa, cùng với máy gây nhiễu của máy bay chiến thuật tạo thành một từ trường nhiễu tổng hợp gây rất nhiều khó khăn cho bộ đội phòng không, không quân.

    Hầu hết các đài radar của Việt Nam lúc ấy đều báo cáo rằng nhiễu rất nặng, không thể phát hiện được mục tiêu. Thực tế tên lửa SAM-2 có thể hạ mục tiêu ở độ cao trên 24.000m trong khi trần bay tối đa của B-52 chỉ là 17.000m (khi bay ném bom thì độ cao bay khoảng 10.000m) nên SAM-2 đủ sức vươn tới B-52.
    Tuy nhiên, với hàng loạt loại nhiễu điện tử, tên lửa SAM-2 khi phóng lên không thể điều khiển, có khi rơi ra chỗ khác gây thương vong cho chính quân dân ta.




    B-52 có lắp máy gây nhiễu ALR-18 hướng về phía đuôi để gây nhiễu radar của MiG-21





    Máy gây nhiễu rãnh đạn AN/ALQ-71 của Mỹ

    Ngày 10/4/1972, B-52 đánh vào thành phố Vinh nhưng hai ngày sau, chúng ta mới phát hiện được. Ngày 13/4, B-52 đánh vào Thanh Hóa, chúng ta có 2 tiểu đoàn tên lửa ở khu vực này nhưng vì radar bị nhiễu rất nặng nên cũng không đánh được B-52.Đặc biệt, sáng sớm 16/4/1972, 12 chiếc B-52 vào đánh Hải Phòng đúng lúc Sư đoàn Phòng không 363 đang diễn tập phương án đối phó B-52. Các phái viên của Bộ Tổng tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân và các chuyên gia đang có mặt ở từng trận địa tên lửa cho rằng, đây là cơ hội rất tốt để chiến thắng B-52.Nhưng trận đánh ấy, Sư đoàn 363 đã bắn lên 93 tên lửa nhưng lại không rơi một chiếc máy bay nào. Những tên lửa của chúng ta rơi chỗ khác hoặc là mất điều khiển.

    Từ sự khởi đầu khá suôn sẻ trong trận 16/4/1972, Mỹ tin rằng B-52 có thể đánh phá bất cứ mục tiêu nào trên miền Bắc trong đó có thủ đô Hà Nội. Nhưng cũng chính thất bại này, lại càng thôi thúc các chiến sĩ radar cũng như chiến sĩ tên lửa tìm mọi cách vạch nhiều tìm thù để phát hiện B-52.

    Radar "bỏ đi" ăn đứt radar hiện đại

    Khi quân chủng phòng không - không quân đang nghiên cứu mọi biện pháp để phát hiện B-52 trong nhiễu thì có một đồng chí cán bộ nảy ra ý nghĩ rằng: Máy gây nhiễu hiện đại của B-52 đối phó được với radar hiện đại thế hệ thứ 8 thứ 9 mà chúng ta đang trang bị, nhưng nó chưa chắc đối phó được với thế hệ radar cũ như thế hệ thứ 2,3,4. Vì vậy, đồng chí này đề xuất bố trí radar cũ vào trong đội hình mạng radar quốc gia. Quả nhiên chiếc radar tưởng như bỏ đi đó lại hoàn toàn không bị ảnh hưởng từ nhiễu của B-52.Từ phát hiện trên, đồng chí này cùng với cán bộ kỹ thuật của binh chủng tên lửa đã nghiên cứu thiết kế lắp đặt một bộ điều khiển mang mật danh KX trang bị cung cấp cho các đơn vị tên lửa của chúng ta. KX chính là sự kết hợp giữa radar cổ lỗ và bộ điều khiển của hệ thống điều khiển SAM-2.

    Chính bộ điều khiển mang mật danh KX đã góp phần vào việc phát hiện B-52 rất chính xác, thậm chí có thể phát hiện đâu là B-52 thật, đâu là B-52 giả để tập trung lực lượng tiêu diệt.

    Quân chủng phòng không không quân đã xây dựng phương án đánh B-52 bảo vệ Hà Nội dựa trên cơ sở bộ điều khiển KX từ tháng 5/1972 và sau đó tiếp tục hoàn chỉnh phương án này vào tháng 7, tháng 9, tháng 11. Đây là một phương án có tính chất chiến lược để phát huy cao độ các lực lượng của quân chủng phòng không không quân để đánh thắng B-52.




    Hệ thống radar KX được trưng bày tại bảo tàng phòng không-không quân


    Phương án này được nhanh chóng phổ biến trong toàn quân chủng và đã góp phần quan trọng trong thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không. Đôi khi, trong chiến tranh, vũ khí hiện đại không hẳn là yếu tố tạo nên chiến thắng. Các yếu tố làm lên thắng lợi của chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” chính là làm tốt các khâu từ chuẩn bị kỹ thuật khí tài, yếu tố linh hoạt và sáng tạo trong khai thác, sử dụng cũng như tư duy về chiến thuật trong công tác nghiên cứu địch và phương pháp bố trí trận địa để đánh địch. Điều đó cho thấy, yếu tố con người vẫn là quan trọng nhất làm nên sức mạnh Việt Nam.

    theo Trí Thức Trẻ
    Last edited by Bin571; 14-04-2015 at 09:12 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Hành trình về phương Đông
    By Itdepx in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 19
    Bài mới gởi: 16-09-2013, 08:57 PM
  2. Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 11-11-2012, 11:52 PM
  3. DÒNG CHẢY MIÊN VIỄN CỦA THIỀN
    By bichthuybt in forum Thiền Tông
    Trả lời: 176
    Bài mới gởi: 28-07-2012, 06:22 PM
  4. kinh nói về tái sinh
    By joo_minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 10-03-2012, 07:56 AM
  5. DU GIÀ BỒ TÁT GIỚI BỔN
    By maihoa in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 29-07-2011, 08:57 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •