kết quả từ 1 tới 13 trên 13

Ðề tài: Sự bất tử của linh hồn được cơ học lượng tử chứng minh!

  1. #1
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định Sự bất tử của linh hồn được cơ học lượng tử chứng minh!



    Gần đây, một luận thuật hoàn toàn mới dựa trên cơ học lượng tử đã chứng minh sự bất tử của linh hồn do nhà khoa học Mỹ – Giáo sư Robert Lanza đưa ra đã được các phương tiện truyền thông toàn cầu thông báo rộng rãi, và thu hút được nhiều sự quan tâm, đồng thời cũng gián tiếp chứng thực những nhận thức vốn có về sinh mệnh của giới tu luyện. (Fotolia)
    [Đại Kỷ Nguyên ngày 26 tháng năm 2014] (Phóng viên Đại Kỷ Nguyên – Kỷ Tiểu Minh báo cáo tổng hợp) cái chết đối với mọi người có dư vị gì? Một lần là kết thúc hết chăng? Hay là sinh mệnh bắt đầu một cuộc hành trình mới? Mặc dù dân gian và giới tu luyện đều cho rằng linh hồn là bất diệt, con người có luân hồi chuyển thế, nhưng giới khoa học từ trước tới nay vẫn không thể tìm thấy bằng chứng để phủ nhận điều này. Gần đây, một luận thuật hoàn toàn mới dựa trên cơ học lượng tử đã chứng minh sự bất tử của linh hồn do nhà khoa học Mỹ – Giáo sư Robert Lanza đưa ra đã được các phương tiện truyền thông toàn cầu thông báo rộng rãi, và thu hút được nhiều sự quan tâm, đồng thời cũng gián tiếp chứng thực những nhận thức vốn có về sinh mệnh của giới tu luyện.


    Giáo sư Robert Lanza tại đại học y Wake Forest North Carolina từ quan điểm của cơ học lượng tử đã chứng minh “linh hồn là bất diệt” (Alex Wong / Getty Images)

    Sự hiểu biết hoàn toàn mới của giới khoa học “linh hồn là bất diệt”

    Giáo sư Robert Lanza tại đại học y Wake Forest North Carolina, thông qua nghiên cứu đã phát hiện, trong cơ học lượng tử có đủ bằng chứng cho thấy con người không hề biến mất, tử vong chỉ là ảo ảnh được tạo thành bởi ý thức của con người.
    Lanza nói: “Khi tim người ngừng đập, máu ngừng chảy, khi các nguyên tố vật chất ở trong trạng thái ngừng lại, thì ý thức con người vẫn tiếp tục hoạt động, ngoài sự hoạt động của thân thể xác thịt này, còn có những “thông tin lượng tử” khác siêu việt trên cả thân thể xác thịt, hoặc có thể nói một cách thô tục là “linh hồn”.
    Lanza cũng đưa ra những luận thuật về trung tâm sinh vật (biocentrism) mà đã ủng hộ các quan điểm của ông : sinh mệnh sáng tạo ra vũ trụ, có ý thức cá nhân rồi mới có sự tồn tại của vũ trụ, thực chất về sinh mệnh và các sinh vật là trung tâm thực sự của thế giới, sau đó mới có vũ trụ, vũ trụ bản thân nó không thể tạo ra sinh mệnh; ý thức sẽ làm cho thế giới biến đổi một cách có ý nghĩa, thời gian và không gian chỉ là công cụ của ý thức nhân loại. Cách nhìn về vũ trụ này là rất gần với nhận thức về vũ trụ của tôn giáo và giới tu luyện, mà trong đó ý thức của Sáng Thế Chủ đã tạo ra vũ trụ và sinh mệnh.
    Phát hiện của Lanza khiến cho sự tranh luận trong thời gian dài giữa “duy vật luận” và “duy tâm luận” trở nên vô nghĩa, từ một phương diện khác nó đã chứng minh tính chính xác của pháp lý “vật chất và tinh thần là nhất tính” trong giới tu luyện.
    Người có tín ngưỡng đều tin rằng linh hồn (nguyên thần) là bất diệt, tin tưởng vào luân hồi chuyển thế, và không ít người đã từng trải qua kinh nghiệm cận tử. Hai năm trước, nhà vật lý học nổi tiếng người Anh Roger Penrose, phó chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu ý thức đại học Arizona của Mỹ – tiến sĩ Stuart Hameroff đã khẳng định tính xác thực của kinh nghiệm cận tử. Họ cho biết, khi người ta chết đi, các vật chất lượng tử cấu tạo nên linh hồn rời khỏi hệ thống thần kinh và sau đó tiến nhập vào vũ trụ, lúc ấy sẽ xuất hiện trải nghiệm cận tử. Khi các bệnh nhân xuất hiện kinh nghiệm cận tử, linh hồn rời khỏi cơ thể, trở lại vũ trụ, nếu bệnh nhân tỉnh lại, linh hồn sẽ lại một lần nữa quay trở về thân thể.
    Tiến sĩ Hamer Rove tiến thêm một bước về nhận thức, linh hồn được cấu thành từ vật chất cơ bản nhất của vũ trụ, có thể là xuất hiện đồng thời với thời gian. Bộ não con người chỉ là bộ máy tiếp nhận và khuếch đại các ý thức nguyên lai (cấu trúc bên trong vốn có trong không gian). Nhận thức này của Hamer Rove cũng là tương đối gần với cách nói của giới tu luyện. Giới tu luyện cho rằng, bộ não chỉ là một nhà máy gia công, bản thân nó không thể tự tạo ra ý thức tư tưởng, chức năng chủ yếu của nó là tiếp nhận những tín tức từ vũ trụ và gia công thành ngôn ngữ, rồi biểu đạt ra ngoài.
    Như thế rốt cuộc linh hồn tồn tại ở đâu? Giáo sư Lanza cho rằng, linh hồn không chỉ tồn tại trong vũ trụ của chúng ta, mà nó còn có thể tồn tại trong một vũ trụ khác. Năng lượng của ý thức linh hồn tại mỗi điểm có thể được chiêu hồi trở lại và đưa vào một thân thể khác. Cùng với sự việc này, nó tồn tại trong thế giới chân thực bên ngoài cơ thể vật lý, nhưng lại rất có thể sẽ là một vũ trụ khác. Cách nói này từ góc độ lập luận khoa học đã chứng minh tính chân thực của luân hồi chuyển thế.


    Nhà vật lý nổi tiếng người Anh Roger Penrose chỉ ra, khi người ta chết đi, các vật chất lượng tử cấu tạo nên linh hồn rời khỏi hệ thống thần kinh và sau đó tiến nhập vào vũ trụ, lúc ấy sẽ xuất hiện trải nghiệm cận tử. (Ảnh cắt ra từ clip)


    Phó chủ nhiệm trung tâm nghiên cứu ý thức đại học Arizona của Mỹ – tiến sĩ Stuart Hameroff cho rằng, linh hồn được cấu thành từ vật chất cơ bản nhất của vũ trụ, có thể là xuất hiện đồng thời với thời gian. Mà não người chỉ là bộ máy tiếp nhận và khuếch đại các ý thức nguyên lai (Ảnh cắt ra từ clip)

    Giới tu luyện từ lâu đã có luận định “Nguyên thần bất diệt”

    Cái mà người phương Tây gọi là linh hồn, trong giới tu luyện ở phương Đông gọi là “nguyên thần”. Trong giới tu luyện, bất luận là Phật gia hay Đạo gia, đều nhận thức rằng nguyên thần là bất diệt. Một sinh mệnh chết đi, chỉ là sự tử vong của xác thịt bề mặt, linh hồn của nó sẽ lại tiếp tục chuyển sinh, tiến nhập vào sinh mệnh của một cuộc hành trình khác. Và không chỉ con người có nguyên thần, mà vạn vật đều có linh (nguyên thần). Điểm này cũng đã sớm được chứng thực bởi những phát hiện khoa học.
    Ngay từ năm 1966, tại cục tình báo trung ương Mỹ, chuyên gia Cleve Backster đã sử dụng máy phát hiện nói dối để tiến hành một loạt các thí nghiệm khoa học trên thực vật, và đã xác nhận rằng thực vật không những có ý thức, mà còn có hoạt động tình cảm cao cấp, có thể phân biệt được người, ngoài ra còn có công năng siêu cảm. Thí nghiệm của Backster làm chấn động toàn thế giới, rất nhiều các quốc gia trên thế giới đã lặp đi lặp lại các thí nghiệm của Backster để xác nhận tính chân thực trong các thí nghiệm của ông.
    Sự khác nhau lớn nhất trong các thảo luận về sinh mệnh của giới tu luyện và các nhà khoa học chính là ở chỗ: giới tu luyện là nhìn vũ trụ từ vi quan cho tới hoành quan, xem xét nó trên cả một diện, chứ không phải chỉ một điểm. Còn các phương pháp lý luận khoa học thì bắt đầu từ một điểm (ví dụ: phân tử), rồi tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu (phân tử, nguyên tử, hạt nhân nguyên tử, proton, ….).
    Vì thế, giới tu luyện cho rằng, cả một tầng các phân tử chính là một không gian, các nguyên tử tổ hợp thành phân tử lại là một không gian còn lớn hơn, vi quan hơn. Vì vậy, khi một sinh mệnh chết đi, chỉ là cấu trúc phân tử bề mặt này của cơ thể bị giải thể, tầng vi quan hơn của cơ thể (do các nguyên tử cấu thành) trong không gian nguyên tử thì vẫn còn tồn tại.
    Còn về nguyên thần (linh hồn), giới tu luyện cho rằng nó mới chính là sinh mệnh chân chính vĩnh hằng, thân thể người hoặc động vật hay thực vật chỉ đóng vai trò tải thể của nguyên thần (linh hồn), là nơi để hoàn thành các quá trình sống của sinh mệnh. Đây là những gì mà mọi người thường gọi là luân hồi chuyển thế. Giới tu luyện cho rằng, một nguyên thần (linh hồn) phải xuống địa ngục chịu tội trả nợ, hay là chuyển sinh thành động vật hoặc thực vật, đều là do các sinh mệnh cao cấp hơn dựa trên những biểu hiện thiện và ác trong các kiếp sống trước của sinh mệnh ấy mà quyết định.
    Về vấn đề này, ông Gia Cát Minh Dương, một nhà văn độc lập cho biết: “‘linh hồn bất diệt” là một chủ đề rất lớn, nó liên quan đến sinh mệnh, vũ trụ và luân lý đạo đức v.v… nó vượt qua lĩnh vực nhận thức của nền khoa học nhân loại. Mặc dù các luận chứng chứng minh “‘linh hồn bất diệt” của Robert Lanza và các nhà khoa học khác không chắc đã hoàn toàn chính xác, nhưng lại có một ý nghĩa rất đặc biệt, nó đã phá vỡ những điều cấm kỵ của khoa học, khiến mọi người phải suy nghĩ lại về cội nguồn của ý thức tư tưởng, nguồn gốc và ý nghĩa thực sự của sinh mệnh, mối quan hệ giữa con người và vũ trụ, và những hậu quả của hành thiện và làm ác .v.v…

    theo vietdaikynguyen

  2. #2
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    Sự thật về linh hồn

    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.

  3. #3

    Mặc định

    Bất tử có cái lợi mà cũng có hạn chế. Ví dụ như chư Phật bất tử sống vĩnh hằng trong niết bàn rất là an lạc thì khỏi nói rồi .Còn những linh hồn đang bị giam trong địa ngục vô gián thì chẳng muốn bất tử chút nào . Vì vừa bị hành chết xong , họ cứ tưởng mình đã giải thoát thì khi tái sinh mở mắt ra lại thấy mình bị hành tiếp nữa , vừa nhắm mắt chết lại mở mắt ra thấy bị hành tiếp , một vòng luẩn quẩn cứ tiếp diễn như vậy thì ai muốn mình bất tử ?

  4. #4
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    Bất tử thì rõ ràng,trong tôn giáo thường nói người tu hành cao siêu có thể thấu quá khứ, vị lai, nhìn đc tiền kiếp của mình, đức Phật trải qua vô lượng kiếp, từ vô minh tới giác ngộ. Như vậy là Bất tử!
    ,,, khác nhau ở sự trải nghiệm của mỗi linh hồn qua những tư tưởng, hành động, thuận theo qui luật của vũ trụ,,,sẽ đưa họ đến những cảnh giới tương ứng. và nó đem đến bài học vô giá, sự đau khổ, an lạc....linh hồn phải tự nếm trải rồi tự lựa chọn phải thay đổi, tiến hóa đi lên hoặc tiếp tục khổ đau...
    như Tứ diệu đế, bắt đầu bằng chữ Khổ. Con người phải rúng động, sợ trước cái nghiệp khổ do chính mình tạo ra, có thể rất rất khổ (địa ngục)...sinh,lão,bệnh,tử,,,,biết vậy rồi nên tìm đường tu tập giải thoát....giải thoát khỏi nghiệp lực, khỏi tư tưởng cố chấp, để tìm tới sự an lạc nội tâm....

    Tất cả đều là linh hồn bất tử, tự do trải nghiệm và tìm cho mình một con đường!....

  5. #5
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    54 CÂU HỎI ĐÁP VỀ LINH HỒN VÀ CON NGƯỜI

    PHẦN 1 QUAN NIỆM VỀ LINH HỒN THEO TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC

    1.LINH HỒN LÀ GÌ?
    Mặc dù đã có sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật, con người đã đặt chân lên Mặt trăng và sao Hỏa, “linh hồn” vẫn luôn là một trong những vấn đề bí ẩn nhất đối với con người. Sự hiện hữu của linh hồn cũng là đề tài được nhiều người tranh luận nhất.
    - Người Tây phương gọi linh hồn là Âme, Soul (Pháp, Anh, Mỹ) hay Psyché (Hy Lạp) hoặc Seel (Đức) có nghĩa là sự sống, tinh thần, ý thức
    - Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh thì Hồn là phần tinh thần hay Linh tính của con người, là ý thức, tư tưởng của con người. Theo Tự điển và Danh từ triết học của Trần Văn Hiến Minh thì Hồn là nguyên sinh lực hội tụ nơi sinh vật. Linh hồn là cái yếu tố quyết định quan trọng. Nhờ linh hồn mà sinh vật mới có sự sống.
    - Linh hồn trong nhiều truyền thống tâm linh, triết học, và tâm lý truyền thống là bản chất tinh thần (incorporeal) và bất tử của một người. Thường thì linh hồn được hiểu là phần tinh anh, cái tinh thể, tinh thần của con người, đối lập với vật chất, với bất cứ cơ quan sinh học nào của cơ thể.
    - Theo cách hiểu thông thường, linh hồn là một nguyên lý phi vật chất (immaterial principal), kết hợp cùng với thể xác, kiến tạo nên một thực thể con người hoặc sinh vật hữu cơ hoàn chỉnh. Linh hồn là phần sâu nhất sự tồn tại, sâu hơn cả tâm hồn chúng ta. Nó chính là “con chip” mà Thượng Đế đã tạo ra và đặt vào bên trong con người. Người đời thường tự hỏi cái gì ở trong người mình mà nói liên tục dù không phát ra âm thanh. Nó bảo mình đừng làm trước một việc ác hay sái quấy; nó cũng bảo mình nên làm hay phải làm trước một việc thiện. Người đời hay gọi đó là tiếng nói của lương tâm, tuy “vô thinh” không phát ra âm thanh nhưng khi nhẹ nhàng, khi mãnh liệt. Muốn nó ngưng lại không phải dễ. các nhà yoga, các vị tu hành cố công tìm cách định cái trí này bằng phương pháp tham thiền nhưng rất khó có kết quả. Nguyên lý phi vật chất này đã gián tiếp cho con người biết có cái gì phi vật chất, thiêng liêng gọi là “LINH” có trong con người. Linh hồn không thể là cái có hình dạng hoặc có thể thấy được qua mắt người... bởi vì nếu là hữu hình thì làm sao linh hồn đi vào thể xác được?

    2.QUAN NIỆM LINH HỒN THEO CÁC TRIẾT GIA?
    Từ thời cổ đại xuất hiện thuyết nói về linh hồn đó là thuyết vạn vật linh (hay thuyết linh hồn nguyên thủy: Animism). Theo thuyết này thì tất cả mọi thứ trên quả đất từ con người đến con thú và ngay cả cỏ cẩy đất đá cũng đều có linh hồn. Quan niệm này còn bàng bạc trong dân gian và ta cũng đã thường gặp lại trong các câu như: "Hồn thiêng sông núi" "Hồn nước"...
    Bắt đầu từ Homère, vấn đề “linh hồn” đã được đề cập đến trong lịch sử tư tưởng – triết học của loài người, kể từ thế kỷ thứ VII trước Tây lịch,với nhiều quan niệm và nhận thức khác nhau. Cho đến khi nền văn minh cổ Hy Lạp tiếp xúc với đạo Saman (Chamanisme), một loại hình tôn giáo sơ khai phổ biến ở Siberia và các vùng lân cận, thường tổ chức các cuộc tiếp xúc với linh hồn người chết, thì do ảnh hưởng của đạo này, một số tác giả Hy lạp, trong đó có Pythagore, Empédocle cho rằng trong con người tồn tại một linh hồn hay một “cái ngã” có nguồn gốc thần thánh, mà bằng các phương pháp và kỹ thuật thích hợp, có thể tách rời linh hồn ra khỏi thể xác.
    Trong số các tác giả Hy Lạp cổ, có lẽ Platon, cùng với Aristote, là những triết gia đã đưa ra được một lý thuyết tương đối hoàn chỉnh về linh hồn. Socrates bảo linh hồn là tinh thể (Essence). Platon giảng rằng linh hồn bao gồm lý trí (Logos), tình cảm (Thymos) và ái dục (Eros). Aristote định nghĩa linh hồn là hoạt tính của một cơ thể sống và cho rằng linh hồn sẽ mất đi khi cơ thể không còn nữa, giống như hoạt tính của con dao là cắt, khi con dao bị hư hoại thì hoạt tính cắt không còn nữa (xem De Anima - Về Linh hồn). Chịu ảnh hưởng sâu xa từ học thuyết nhị nguyên luận. Platon cho rằng linh hồn có thể hiện hữu một cách độc lập đối với thể xác và nó chỉ ở trong một trạng thái “thuần khiết” khi nào nó được giải thoát ra khỏi ngục tù – cơ thể. Platon cũng đã đưa ra nhiều luận chứng khác nhau để chứng minh về sự “bất tử” của linh hồn.

    3.BẢN CHẤT CỦA LINH HỒN?
    - Bản chất (nature) của linh hồn là ánh sáng (light), tình thương (love) và cảm thông (understanding).
    - Linh hồn chỉ là tên gọi chung vì nó ở dưới ba trạng thái (aspect):
    - Sinh hồn (Animal soul)
    - Nhân hồn (Human soul)
    - Hồn Thiêng, Linh (Spiritual soul).
    - Linh hồn là thực thể biết nhận thức, được tạo ra qua sự phối hợp của CHA-TINH THẦN VÀ MẸ-VẬT CHẤT. Đó là cái mà trong giới thực vật, thí dụ, tạo ra sự đáp ứng với tia nắng và trổ nụ. Đó là cái mà trong giới động vật, khiến con chó biết săn mồi, theo đuổi sự sống bản năng và yêu thương chủ nó. Đối với con người, đó là cái giúp con người vừa là chủ thể tri giác (perceiver), vừa là diễn viên (actor), vừa là kẻ đứng ngoài cuộc (onlooker). Điều này cho phép con người khám phá ra rằng: linh hồn của mình có ba phần, một phần đáp ứng với sinh hồn (THÚ), một phần hướng về Hồn Thiêng (PHẬT) của mình. Nhân hồn (người) ở giữa bị lôi kéo. Chính sự kiện này lôi cuốn con người con người vào sự dằn vật của nội tâm.

    4. LINH HỒN DƯỚI MẮT CÁC NHÀ KHOA HỌC?
    Khoa học không trả lời được những câu hỏi về linh hồn vì khoa học chỉ giải thích được về vật chất mà thôi. Do các nghiên cứu con người sau chết đang được tiến hành và đã nhận thấy có dấu hiệu của tình trạng thoát “khí” một dạng năng lượng khỏi cơ thể con người, có sự tụ tán theo quy luật của các thể “khí” đó, dẫn đến sự nghi vấn có tồn tại linh hồn. Mặt khác cũng đã có nhà ngoại cảm tìm được mộ thật được xác định sau khi thử ADN, cũng như có những hiện tượng khoa học chưa giải thích được như thần giao cách cảm, giác quan thứ 6, giấc mơ tiên đoán, kinh nghiệm cận tử… nên các nhà khoa học từ thế kỷ 20 đã tập trung nghiên cứu về linh hồn.
    - Ký giả Báo Paris Match là Patrice Van Eersel đã viết cuốn sách nhan đề "La Source Noire", trong đó ông trình bày những trường hợp đặc biệt về những người chết đi sống lại mà những nhà khoa học, những giáo sư, bác sĩ tại các Đại Học Hoa Kỳ đã lưu tâm nghiên cứu. Theo đó, phần lớn những người chết đi sống lại ấy đều không ít thì nhiều đã có những cảm nhận lạ lùng là thấy... "hình như" họ đã thoát khỏi thân xác trong một khoảng thời gian tương ứng với lúc họ mê man bất động. Điều đặc biệt là "họ thấy chính họ" đang nằm chết.
    - Trường hợp nổi bật nhất cũng là chứng cớ sôi nổi nhất đã do chính Văn Hào Emest Hemingway kể lại trong lần bị thương nặng đến thập tử nhất sinh nơi chiến trường trong trận thế chiến thứ 2. Ông đã thấy rõ ràng chính ông đã thoát ra khỏi cơ thể của ông giống như như hình ảnh của việc lôi cái khăn tay ra khỏi túi áo, rồi sau đó ông thấy chính mình trở lại, nhập vào cái thân xác của chính mình lúc hồi tỉnh... Chính sự kiện này đã là nguyên nhân thúc đẩy ông viết cuốn: Giã từ vũ khí (A Farewell to Arms) rất nổi tiếng trên thế giới.
    - Đề tài Out of body đã được nói nhiều trong cuốn Life after Death (Đời sống sau khi chết). Theo nhà nghiên cứu hiện tượng vừa nói là Jim Hogshire thì các nhân chứng thường là bác sĩ, y tá, bệnh nhân... không những chính bản thân của người bị nạn thấy "hồn" mình thoát khỏi cơ thể mình vào lúc họ thiếp đi vì tai nạn, mổ xẻ...Bác sĩ Josef Issels, (bác sĩ nổi danh về khoa ung thư ở Đức) cho rằng: hiện tượng người chết "xuất hồn" là chuyện mới nghe qua có vẻ kỳ bí và phản khoa học. Nhưng đó là một vấn đề trước mắt mà giới y khoa cần phải lưu tâm. Nếu xét theo hiện tượng Vật lý thì hơi ra từ nắp ấm nước cho thấy nước đã bắt đầu sôi thì khối hơi trắng đục thoát ra khỏi cơ thể bệnh nhân là dấu hiệu của sự chết bắt đầu. Cái khối hơi ấy là hồn, là linh hồn hay gì đó thì cũng chỉ là tiếng gọi mà thôi. Điều quan trọng là khoa học cần lưu tâm nghiên cứu xem đó là gì? Và phần thoát ra khỏi cơ thể ấy sẽ đi đâu? Nhiệm vụ nó là gì?... "
    - Giáo sư C. J. Ducasse là một trong những nhà triết học và khoa học tự nhiên nổi tiếng đã tìm cách lý giải những gì mà hiện nay giới khoa học đang bàn cãi sôi nổi về sự kiện có hay không cái gọi là hồn hay linh hồn và sự rời lìa của hồn khỏi xác khi chết. Theo giáo sư thì hiện nay, các nhà nghiên cứu và ngay cả các nhà khoa học đã dấn thân vào lãnh vực tìm hiểu sự thật của vấn đề. Họ đã thu thập vô số trường hợp có liên quan, những mô tả về điều mà họ gọi là linh hồn, về sự liên kết giữa linh hồn và thể xác qua một vật thể giống như một sợi dây. Sự rung động đầy sức sống của sợi dây ấy và cả trường hợp sợi dây liên hợp ấy đứt rời để cái gọi là "hồn" tách lìa khỏi thể xác cũng được nhiều người mô tả, sự mô tả thường đồng nhất và nhân chứng không phải chỉ có người lớn mà còn là trẻ con, sự kiện mà chúng chưa bao giờ nghe, đã thấy hay đã đủ khả năng nghĩ tới.
    - Trong cuốn Life after life (đời tiếp nối đời) của bác sĩ Raymond A. Moody cũng có nhiều đoạn mô tả những hình ảnh, ánh sáng và màu sắc lạ lùng như đầu tiên họ thấy một vùng ánh sáng hình quả cầu xuất hiện ở góc phòng, ngay dưới trần phòng. Khối cầu sáng ấy có năng lực lạ lùng nâng nhẹ họ lên rồi sau đó họ thấy mình ở trên cao và nhìn xuống thân xác mình nằm bất động trên giường. Họ nhìn lại cái thể mới của họ cái thể vừa thoát ra khỏi thân xác. Cái thể mới này giống như sương khói, có pha chút màu sắc xanh lơ, màu cam và màu vàng. Cái thể ấy họ gọi là "cái hồn". Hồn ấy có dạng hình bầu dục. Hồn họ chuyển theo khối cầu sáng ấy, họ như được đẩy đi hay nói khác đi là được khối cầu hút theo nó. Họ cho biết lúc bấy giờ họ nhẹ như tơ và lòng thanh thản vô biên. Họ xuyên qua tường, xuyên qua những cây cột ở hành lang bệnh viện, xuyên qua các tầng lầu để xuống tầng dưới các cửa dù đóng hay mở họ đều đi xuyên qua, xuyên qua cả các nhân viên ở bệnh viện nữa. Điều kỳ lạ là họ không biết vận tốc của sự chuyển dịch, nhất là nhận thức về tốc độ. Mỗi lần đền gần sát một vật cản như bức tường, cánh cửa họ đều thấy tất cả như tan biến hết và trống không vì thế mà họ xuyên qua dễ dàng. Trong thời gian di chuyển họ thường nghe bên tại như có lời khuyên bảo hay chỉ dẫn và cái âm thanh lạ lùng kia xa vắng mông lung khó diễn tả được.
    - Giáo sư H. H. Price (tại Đại học Oxford) cho rằng: Linh hồn của con người là một phương tiện của ý thức hay nói rõ là hơn là một công cụ của sự hiểu biết và trong cuộc sống, từ cổ đại đến nay. Kinh nghiệm ở mỗi con người đã có được những sự kiện để chứng minh rằng có cái gì đó ngay trong thân xác họ. Nhiều chứng nhân và nhiều sự kiện được chứng minh về sự hiện hữu của linh hồn và còn khẳng định rằng linh hồn không chỉ đơn thuần là một thể luân phiên thay đổi cho thân xác mà còn là một thể siêu việt hơn nhiều vì giữ những vai trò then chốt, quan trọng trong vấn đề suy nghĩ, cảm nhận, cũng như là cầu nối cho những cuộc sống khác ...
    Tóm lại: Hiện tượng về sợi dây liên kết giữa thân xác người chết và phần giống như sương khói thoát ra từ thân xác ấy mà người ta thường gọi là hồn hay linh hồn đã là sự kiện mà các nhà khoa học và nhất là giới y học hiện nay quan tâm và ra sức nghiên cứu đời sống sau khi chết... Kênh truyền hình CNN đã chiếu bộ phim LIFE AFTER LIFE trong đó phỏng vấn những người từng chết đi sống lại và cố tìm cách ghi lại hình ảnh những gì có được lúc con người vừa trút hơi thở cuối cùng. Một số hình ảnh chụp được khối hơi thoát ra từ cơ thể người mới chết, nhưng những nhà nghiên cứu còn muốn thu được những hình ảnh rõ ràng về sợi dây bạc (Silver core). Theo một số lớn các nhà khoa học thì hình ảnh cho thấy khối siêu vật thể ấy khi tách khỏi cơ thể tức là sự sống không còn, giống như giòng điện đã ngưng truyền nguồn điện lực vào cái máy.

  6. #6
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    PHẦN THỨ HAI QUAN NIỆM LINH HỒN THEO CÁC TÔN GIÁO


    5. QUAN NIỆM LINH HỒN THEO ẤN GIÁO, KỲ NA GIÁO, ĐẠO SIKH?
    5.1
    Sau khi đạo Phật mất ảnh hưởng trên đất Ấn Độ, Bà la môn giáo được cải biên thành Ấn Độ giáo (Hinduism). Đặc trưng của Bà La Môn giáo là công nhận Brahma (thần Sáng tạo), Vishnu (thần Bảo tồn) và Shiva (thần Hủy diệt) làm ba vị thần linh tối cao.Theo Ấn Độ giáo thì linh hồn là thực thể vô cùng quan trọng đối với mọi vật thể sống. Linh hồn được gọi là Atman và do đấng toàn năng Brahma tạo ra. Tất cả mọi loài sống trên quả đất này đều có linh hồn. Linh hồn giúp sự tái sinh chuyển hóa. Linh hồn chuyển hoán từ thân xác này qua thân xác khác để trải qua một kiếp sống khác, cứ thế cho đến khi đạt được điều kiện để hợp nhất hay liên kết với Brahma mới thôi. Brahma được hiểu như linh hồn của vũ trụ. Tóm lại, theo Ấn Độ Giáo tiến trình giải thoát cá nhân chính là tiến trình thể nhập và đồng nhất tiểu ngã (atman) với đại ngã Brahma.
    5.2
    Mục đích cuối cùng của một người theo Kỳ-na giáo là đạt lấy giải thoát tối hậu (moksha), chấm dứt luân hồi. Người Kỳ-na tin vào thuyết nghiệp và tái sanh, xem cái chết chỉ là một sự thay đổi sự hiện hữu nên họ không khóc than khi có người thân qua đời. Thêm nữa, người Kỳ-na tin rằng, sau khi qua đời người ta sẽ tái sinh ngay lập tức, cho nên họ không tổ chức cúng giỗ hay làm lễ tưởng niệm ngày mất của người quá cố. Người Kỳ-na tin rằng linh hồn (jīva) của một người sẽ tái sinh ngay và linh hồn ấy sẽ hoàn toàn quên đời sống kiếp trước. Cái chết chỉ là sự đánh dấu một sự chuyển tiếp của đời sống không cùng tận, cho nên khóc than hay cúng giỗ là không cần thiết.
    5.3
    Sau Phật giáo và Kỳ-na, Sikh là tôn giáo có nguồn gốc ở Ấn đã phản đối hệ thống đẳng cấp của Ấn giáo, và cũng nêu cao sự bình đẳng. Đạo Sikh xem cái chết là một tiến trình tự nhiên và cũng là ý muốn của thần linh. Do đó, đạo Sikh khuyên tín đồ của mình không nên than khóc khi có người thân qua đời. Bởi vì thân xác của một con người chỉ được xem như một nơi chốn để linh hồn cư ngụ tạm thời, cho nên đạo Sikh không xem trọng việc lập bia mộ cho người chết.

    6. QUAN NIỆM LINH HỒN THEO KHỔNG GIÁO?
    Kinh Xuân Thu, theo Đổng Trọng Thư, đưa ra hai ý niệm triết lý và đạo giáo sau đây:
    - Trời Người có quan hệ mật thiết với nhau,
    - Con người đúng với danh nghĩa của nó, phải toàn thiện, hoàn hảo như Trời.
    Đổng Trọng Thư cho rằng sách Xuân Thu cốt là để xiển minh cái quan niệm THIÊN NHÂN TƯƠNG DỮ, Nghĩa là Trời và Người có quan hệ mật thiết với nhau. Trời là Tổ của vạn vật, là tổ của con người. (Xem Trần Trọng Kim, Nho giáo, quyển II, tr. 35). Tức là, trong con người đã sẵn có Thiên Chân, Thiên tính, và đã sẵn có mầm mộng hoàn thiện. Con người có bổn phận làm triển dương mầm mộng hoàn thiện ấy, cho tới tinh vi cao đại. Chính trị có bổn phận hướng dẫn, giáo hoá dân, thành toàn sứ mệnh cao cả ấy. Trung Dung cho rằng bản tính con người là Thiên tính. Nói nôm na bản tính con người và bản tính Trời là một. Tức là sau những bộ mặt nạ hoá trang mà sân khấu đời đã bắt ta mang, sau những lớp bùn đất thời gian, ngoại cảnh của những con nguời đang luân lạc trong chốn hồng trần, còn có bộ mặt vô cùng xinh đẹp của con người thật sự ẩn khuất ở bên trong. Bộ mặt đó, người Á Đông thường gọi là Bản Lai Diện Mục. Muốn theo đạo Trời, muốn theo Thiên lý, con người chỉ cần lắng nghe tiếng gọi của lương tâm:
    · Một là trời chẳng hề xa con người.
    · Hai là con đường dẫn người tới Trời đã có sẵn ngay trong tâm hồn mỗi một người.

    7. QUAN NIỆM LINH HỒN THEO PHẬT GIÁO
    Đức Phật, tuỳ căn cơ tùng đệ tử đã tiến hành song song hai phương pháp giảng giáo: Đối với quần chúng Ngài dạy Hiển Giáo hay Quyền Giáo, tức là dạy về phần Hình, Danh, Sắc, Tướng của vũ trụ và của con người.
    Còn đối với những đệ tử có thượng căn, Ngài dạy Mật Giáo hay Thực Giáo, tức là dạy về Chân Tướng vũ trụ và con người. Ngài cho thấy rằng: Dưới những lớp lang hiện tượng biến thiên của vũ trụ và của tâm thân con người, sinh sinh diệt diệt, khổ ải lao lung, biến thiên, còn có Chân Tâm hằng cửu của trời đất, bất sinh, bất diệt.Trong suốt đời Đức Phật, Ngài đã tránh né không trả lời, hoặc không đưa ra một lập trường dứt khoát về những vấn đề triết học trọng đại như:
    - Vũ trụ vô hạn hay hữu hạn?
    - Vũ trụ có vô thỉ vô chung?
    - Con người có Ngã hay không có Ngã.
    Đối với những vấn đề trên, Ngài thường hoàn toàn yên lặng, khi có người chất vấn. Sự yên lặng của Đức Phật được hiểu như đó là những vấn đề” bất khả tư nghị”. (Chữ Sanskrit dùng để chỉ bất khả tư nghị là Avyakata hay avyakrtavastuni). Yên lặng sẽ tránh được tranh chấp.Tuy nhiên yên lặng không có nghĩa là phủ nhận, cũng không có nghĩa là tán đồng.Trong quyển Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, nơi trang 199-200, ta thấy bác sĩ Kimura Taken nhận định như sau: Bây giờ nếu đem tất cả những điều đã trình bày ở trên mà nghiên cứu một cách thấu triệt, thì ít nhất mọi người phải thừa nhận những sự thực sau đây:
    · Vạn hữu tuy là lưu chuyển, song trong cái lưu chuyển đó vẫn có cái phép tắc thường hằng.
    · Trong lưu chuyển giới này vẫn có Niết Bàn giới thường hằng bất biến.
    · Dù là Lưu chuyển giới hay Niết Bàn giới, nếu truy nguyên ra, thì rốt ráo cũng chỉ là cái tâm của chúng ta.
    · Sau hết cái chân tướng kể trên chỉ được nhận ra khi nào chính trí và chính niệm đã xa lìa sự thiên kiến và chấp kiến...
    Bà Rhys Davids, một học giả lỗi lạc về Tiểu Thừa, và thông thạo tiếng Pali, đã chứng minh rằng Đức Phật không bao giờ dạy rằng Chân Tâm là hư ảo, hay Atman là hư ảo, mà chỉ dạy rằng không thể tìm thấy được Chân Thường Hằng Cửu, hay Chân Tâm, Chân Ngã, trong cái tâm thân phiến diện, kết cấu bởi Ngũ Uẩn. Bà Rhys Davids, và ông Humphreys đã chứng minh rằng trong Tạng Kinh viết bằng tiếng Pali, nhất là trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada), Đức Phật đã dạy con người có hai thứ Ngã: Đại Ngã và Tiểu Ngã, và không hề dạy rằng Đại Ngã hay Atman là hư ảo. Bà Rhys Davids và ông Humphreys cho rằng thuyết An-atta (không có Ngã = Not Self) là do một sự hiểu lầm của nhiều người theo Tiểu Thừa, hay Nguyên Thủy. Bà Rhys Davids chủ trương dứt khoát rằng:
    – Đức Phật không nói rằng không có Đại Ngã, mà chỉ nói rằng Đại Ngã không phải do Ngũ Uẩn cấu tạo nên, Đại Ngã không phải là thân là ý, mà Đại Ngã siêu xuất lên trên Ngũ Uẩn, lên trên thân ý.
    – Đức Phật chấp nhận cái tinh hoa của Bà La Môn giáo, chấp nhận Đại Ngã (Atman) nội tại là lý tưởng cuộc đời, và dạy làm thế nào để đạt tới Atman nội tại, thực hiện Atman nội tại. Ngài cho rằng phương pháp để đạt tới Atman nội tại là giới, định, tuệ, chứ không phải là hình thức lễ nghi bên ngoài.
    Bà dịch mấy câu quan trọng sau đây trong kinh Mahaparanibbana Sutta (Đại Niết Bàn) 11-13:
    Attadipa viharatha attapatisarana.
    Dhammadipa viharatha, dhamma patisarana, n'anna patisarana
    «Các thày hãy lấy Đại Ngã là đuốc sáng, lấy Đại Ngã làm nơi nương tựa, hãy lấy Giáo luật (các định luật thiên nhiên, vĩnh cửu) làm đuốc sáng, làm nơi nương tựa, chứ đừng cậy trông chi khác.»
    Bà Rhys Davids là một người rất giỏi tiếng Pali, và đã để cả đời nghiên cứu về Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) mà chủ trương chính yếu là không làm gì có «hồn vĩnh cửu». Bà đã lẩy ra rất nhiều đoạn kinh Tiểu Thừa để chứng minh rằng Đức Phật không hề dạy rằng Chân Ngã con người là hư ảo, mà chỉ dạy rằng không thể tìm thấy Chân Ngã đó, không thể tìm thấy được Chân Thường hằng cửu, trong cái thân phiến diện kết cấu bởi Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, bởi Ngũ Uẩn biến thiên.
    Bà Rhys Davids và ông Humphreys đã chứng minh rằng trong Kinh Tạng viết bằng tiếng Pali, nhất là trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada), Đức Phật đã dạy rằng con người có hai thứ Ngã: Đại Ngã và Tiểu Ngã, và không hề dạy rằng Đại Ngã là hư ảo. Bà Rhys và ông Humphreys cho rằng thuyết An-Atman (không có Ngã = Not-Self) là do một sự hiểu lầm của nhiều người theo Tiểu Thừa.
    Bà Rhys Davids tóm tắt sứ mạng của Đức Phật như sau:
    «Ngài bắt đầu sứ mạng Ngài bằng cách khuyên mọi người tìm cho ra Chân Tâm, Chân Ngã (Atman), sau đó kết thúc bằng lời chỉ dạy con người phải lấy Chân Tâm, Chân Ngã mình, làm đèn soi, và làm nơi nương tựa cho mình.» Và bà dẫn chứng bằng hai câu kinh Pháp Cú: «Đại Ngã là Chúa của tiểu ngã, và là mục đích của nó.»
    Phật giáo mới phân Chân Tâm, Vọng Tâm, Chân Ngã, Vọng Ngã.
    Vọng Tâm, Vọng ngã gồm tất cả những trạng thái biến thiên của tâm hồn, gồm thất tình, lục dục, tri giác, cảm giác, hoài bão, lý luận, tư tưởng, sinh sinh, diệt diệt với các hiện tượng bên ngoài. Còn Chân Tâm, Chân Ngã thời tế vi, huyền diệu, bất biến trường tồn.
    Chân Tâm, Chân Ngã còn gọi là Đại Ngã. Vọng tâm, Vọng Ngã gọi là Tiểu Ngã. Đại Ngã là có. Tiểu Ngã là không.
    Tìm ra được Chân Tâm tiềm ẩn dưới lớp Vọng Tâm, các hiền triết Phật Giáo mới chủ trương con người ngoài ngũ quan và ý thức, còn có đến tám thức: nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt Na thức, A lại Da thức. Ý thức là Vọng Tâm, mà A Lại Da thức chính là Chân Tâm. Còn Mạt Na thức ở giữa đóng vai môi giới. Khi mê thì Mạt na đóng vai vô minh chỉ liên lạc được một chiều từ Chân Tâm ra Vọng Tâm, thành thử Vọng Tâm không bao giờ nhìn nhận ra được Chân Tâm. Khi Ngộ thì Mạt Na đóng vai Bát Nhã, thành con thuyền đưa người từ bờ Vọng Tâm cho tới bến Chân Tâm, lúc ấy sự liên lạc sẽ hoàn tất cả hai chiều. Đại Ngã là Phật Tính, là Chân Như, là căn cốt của tạo vật và của con người; vĩnh cửu, trường tồn, chân thường, bất biến, bất hoại. Còn Tiểu ngã là vọng tâm của mỗi người, kết cấu bằng những tầng lớp hình ảnh, tư tưởng, dục tình, biến thiên, vô thường, vô định.
    Trở về Đại Ngã Đại Đồng, Chân Ngã vô tướng, tức là không còn cái mình nhỏ nhoi, hèn mọn nữa, và sẽ trở thành Pháp Thân uy nghi, trang trọng, phổ biến, phổ quát. Đạt tới Đại Ngã là đạt tới Niết Bàn.
    Nhiều người theo Phật giáo chỉ chú trọng đến vô thường, vô ngã (Anatta, Anatman) mà quên mất Chân Thường, Chân Ngã. Như vậy mới là biết Biến Thiên chưa biết Hằng Cửu, mới biết hiện tượng chưa biết Bản Thể, mới biết Luân Hồi chưa biết Niết Bàn. Biết Hiện Tượng, chưa biết Bản Thể gọi là Mê; thấy Bản Thể mà không thấy hiện tượng cũng chưa gọi được là Ngộ. Giác Ngộ là phải thông suốt lẽ biến hằng, thông suốt hai phương diện thể dụng trong trời đất và lòng người.
    Kinh Thủ Lăng Nghiêm viết:
    «Thất nhữ Nguyên Thường, cố thụ luân chuyển.» 失 汝 元 常 故 受 輪 轉 (Không biết căn nguyên vĩnh cửu nên bị luân chuyển).
    Chân Tâm là Phật Tánh, là Chân Như bất biến, hằng cửu lồng ngay trong vạn hữu và trong tâm hồn ta, chẳng ở đâu xa. Phải đi sâu vào đáy lòng mới tìm ra Chân Tâm, mới tìm ra Niết Bàn, mới tìm ra hạnh phúc, tự do, giải thoát. Ngài Lục Tổ Huệ Năng nói: «Tự mình tu, tự mình hành, thấy Pháp Thân của mình, thấy Phật ở Tự Tâm mình, độ lấy mình mới được.»
    Theo giáo lý Phật giáo, con người có cái năng lực vi diệu được chuyển từ kiếp này qua kiếp khác. Cái năng lực ấy được gọi là Yid Kyi Mawpar Shespa, một danh từ ất đặc biệt phức tạp mà thông thường được hiểu như cái gọi là Linh Hồn. Đó chỉ là danh từ tạm dùng để hiểu thuyết luân hồi theo luật Karma (nghiệp). Vì con người thường hiểu nhầm chữ Linh Hồn với Thân Trung Ấm hay Thân Thức là phần lìa khỏi thân xác sau khi chết. Để dễ hiểu khi giải thích sự chuyển hóa của hiện tượng luân hồi, tái sinh, linh hồn được xem như cái cầu nối, là cái chuyển sinh là cái để đầu thai, trả nghiệp. Vì thế nhiều sách Phật giáo thỉnh thoảng vẫn thấy bóng dáng chữ Hồn hay Vong Hồn.
    (theo BS Nguyễn văn Thọ)


    8. QUAN NIỆM LINH HỒN THEO KY TÔ GIÁO?
    Trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, vấn đề linh hồn cũng đã được đề cập. Hầu hết các giáo phụ cho rằng linh hồn là một “chất thể tâm linh” (spiritual substance) được cấu tạo bởi Thượng đế và có tính chất bất tử.Theo quan niệm của Ky Tô giáo thì con người là một linh hồn.
    LINH HỒN LÀ GÌ? LÀ THẦN LINH, LÀ SỰ SỐNG CỦA THÂN THỂ.
    (Êsai 26:9): gọi linh hồn tôi là Thần linh trong tôi. Vậy linh hồn là thể thần linh trong con người xác thịt.
    (Jop 34:14-15): Đức Chúa Trời thâu lại thần linh và (sanh khí) hơi thở của Ngài thì loài người xác thịt chắc chết và trở vào bụi đất.
    (Giacơ 2:26) nói sự chết thân xác là khi hồn lìa khỏi ( xác không có hồn thì chết)
    (Sáng 35:18-19) sự chết thân xác còn được gọi là sự qua đời và sự trút linh hồn.
    (Sáng 5:5) Ađam hưởng thọ được chín trăm ba mươi tuổi rồi qua đời. Sự qua đời, sự chết, hồn lìa khỏi xác, sự trút linh hồn còn được gọi là trở về bụi đất.
    (1. Cô-rinh-tô 2:11). Chỉ có linh hồn của con người mới nhận biết được những gì thực sự nằm bên trong của con người. "Vì ai biết được những gì bên trong người ngoại trừ tâm linh trong chính người ấy?"
    (1. Tê-sa-lô-ni-ca 5:23).Theo Lời của Thượng Đế và theo như kinh nghiệm của mình, chúng ta biết được con người cấu tạo bởi thân xác, tâm hồn, và linh hồn
    "Thượng Đế dựng nên loài người như hình Ngài; Ngài dựng nên loài người giống như hình Thượng Đế" (Sáng thế ký 1:27).
    Trong khi tất cả những tạo vật khác - cỏ cây, muôn thú - được tạo dựng theo từng loài, thì Chúa lại tạo ra con người theo hình hài của chính mình.Thượng Đế, Đấng vô hình, Ngài muốn bày tỏ mình qua toàn bộ tạo vật, đặc biệt là qua loài người. Sau khi tạo dựng loài người, Thượng Đế ban cho họ cây của sự sống. Thượng Đế muốn tạo vật mang hình hài Ngài được đầy dẫy sự sống thiêng vĩnh hằng của mình để thể hiện Ngài một cách xứng đáng trên trái đất này. Tuy nhiên con người đã không tiếp nhận quà tặng của Thượng Đế, họ đã ăn trái của cây biết điều thiện và điều ác, cây dẫn đến sự chết, dầu Thượng Đế đã cấm. (Sáng thế ký 2:17). Và hành động nầy đã đem sự chết đến với con người, đó chính là việc con người bị cách ly khỏi Thượng Đế hằng sống. Từ đó, Sa-tan, kẻ thù của Thượng Đế, đã thắng thế, kiểm soát con người và làm bại hoại con người. Đến ngày phán xét: "mọi người trong Mồ Mả nghe tiếng Ngài và ra khỏi: ai làm lành thì sống lại để được sống, ai làm ác thì sống lại để bị xét đoán... (Giăng 5: 28 - 30).
    Như thế, khi một linh hồn chết đi (người là một linh hồn) thì có thể trong tương lai, trong ngày phán xét, linh hồn ấy sẽ sống lại và qua sự phán xét của Đấng tối cao, sẽ được sống đời đời hay chết vĩnh viễn. Phán xét là một quan niệm lâu đời trong các tôn giáo cổ xưa. Theo quan niệm này, thần minh xét xử con người và thưởng phạt tùy theo tội phúc họ đã làm. Từ ban đầu, các tín hữu đầu tiên ít quan tâm đến phán xét riêng. Mãi đến thế kỷ thứ 4, có một ý kiến phổ thông – như thánh Ambrôsiô – cho rằng có những nơi tạm trú (habitations provisoires) chờ sẵn các linh hồn sau khi lìa xác. Chỗ tạm trú không phải giống nhau cho mọi người. Có người phải chịu phạt, có người lại được thưởng công. Theo công đồng Lyon II năm 1274 và công đồng Florence năm 1439, thì liền sau khi chết, kẻ lành vào ngay thiên đàng hay luyện ngục và kẻ dữ vào ngay hỏa ngục. Năm 1964, trong hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, công đồng Vatican II dã dạy :”Thật vậy, trước khi ngự trị với Chúa vinh hiển, mọi người chúng ta đều phải trình diện trước tòa Chúa Kitô” ( 2Cr 5,10).
    Theo chiều hướng thần học nói chung, con người vừa mới chết được Thiên Chúa soi sáng nhận biết rõ ràng mọi sự trong giây lát và đánh giá tổng kết toàn bộ cuộc đời mình trên trần gian, qua đó, linh hồn nhận thấy rõ phần thưởng hay hình phạt tương ứng dành cho mình, nghĩa là chính mình quyết định nhận lấy phần thưởng hay hình phạt cho mình. Đức Hồng y Billot nói :”Ngay sau khi linh hồn lìa khỏi xác, trong phút chốc thì cuốn sách lương tâm liền mở ra , làm cho ta nhận thức ngay một trật toàn bộ các việc ta đã làm khi còn sống”. Linh mục Parvilliez giải thích thêm : Chính ta sẽ phán xét ta, bởi tình trạng quá hiển nhiên công khai không thể chối cãi được. Công trạng và lỗi lầm sẽ xuất hiện trước mắt ta trong ánh sáng chói lọi; đồng thời cũng cho thấy những phần thưởng và hình phạt tương xứng với ta. Như thế, chính ta sẽ tuyên án cho ta và quan tòa khoan dung hay khắc nghiệt không có gì ảnh hưởng đến bản án đó, thiên thần và quỉ dữ có trổ tài hùng biện cũng không thể thay đổi bản án đó.
    (Parvilliez, Niềm vui trước sự chết, tr 57-58). (theo Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

    Trích:
    54 CÂU HỎI ĐÁP VỀ LINH HỒN VÀ CON NGƯỜI http://www.daotam.info/booksv/54chdvlhvcn/54chdvlhvcn.htm

  7. #7

    Mặc định

    Sưu Tầm được Bài viết Hay tuyệt vời về Linh Hồn! xin được share cho mọi người tham khảo!

    LINH HỒN CON NGƯỜI LÀ GÌ?
    [IMG]http://api.ning.com/files/eX-og3WcvbG1OJGkbYMe0N0H6mhvjbAXR09aKlW7RuoU0AP*drFbx oWGeRxtOirM9DmyIz179RQnZdrBUtxzogyHdcUg6f*F/DigitalMerkaba1.jpg[/IMG]

    Linh hồn con người là một phần của Thượng đế, là một khối linh quang nhỏ trong khối linh quang lớn (Thượng đế).
    - Linh hồn con người là một khối vật chất siêu đẳng, phát triển cao của vật chất tiến hoá, có ở trong con người.
    - Khi con người ở trần giới, thì linh hồn tồn tại là ý thức và trí tuệ bao bọc của trường sinh học biến hoá của cơ thể đó. Khi thể xác chết, linh hồn thoát ra, về các cảnh giới khác nhau, gọi là vong linh hay linh hồn. Nó tồn tại ở dạng vật chất bậc cao, không phân hoá được nữa, nên tồn tại vĩnh viễn. Các hạt vật chất này duy trì sự tồn tại bằng cách tự tổ chức theo trình độ tiến hoá của linh hồn đó, được Thượng đế, tức Khối linh quang Lớn quản lý (thu hút) và tiếp năng lượng từ Vũ trụ khi trong thể xác và cả khi rời thể xác. Linh hồn bất tử, bất tan, bất diệt, nhưng trường hợp đặc biệt, Cha và Ta, cùng các thần thánh có thể diệt linh hồn, vì có sinh có diệt.
    Linh hồn có các dạng tổ chức theo các chuỗi sóng, lớp sóng, theo qui luật của vật lý lượng tử, gồm có trung tâm của linh hồn hay, “hạt nhân” của linh hồn. Đó là một khối nguyên năng nhỏ, là hạt nhân hút các điện tích âm, là lõi chứa thông tin. Ở đây, các thông tin này tích trữ quá trình tiến hoá các kinh nghiệm trong các kiếp, được hạt nhân thu hút, thành các lớp, theo qui luật nặng ở trong, nhẹ ở ngoài.
    Linh hồn vận động dưới dạng sóng điện từ, có các tần số khác nhau, có tốc độ di chuyển cực nhanh, nhanh hơn vận tốc ánh sáng, có thể cùng lúc có mặt ở mọi nơi, mọi lúc; hay nó tập trung tổng hợp ở một nơi, theo ý chí của nó.
    Nó nghe, hiểu và nhìn thấy mọi thứ trong thế giới trần gian, trong đó có tư tưởng của con người đang sống; vì tư tưởng của con người cũng là sóng vật lý vật chất, có chứa thông tin, nên linh hồn đọc được thông tin tư tưởng đó. Toàn bộ tư tưởng của con người tồn tại dưới dạng sóng, tích trữ và phát đi từ não, là một phần của linh hồn đang sống, nên linh hồn khác nhau có thể đọc và hiểu được nhau. Nhưng với Thượng đế và các bậc thần thánh-là những linh hồn cao cấp, tuỳ các linh hồn khác nhau mà Thượng đế cho chúng thấy hoặc hiểu được tư tưởng của Người.

    -Linh hồn có hai phần cơ bản: Phần lõi thông tin (gồm hạt nhân, các lớp điện tử nhẹ trong cùng ) và phần bao bọc (thể nhựa hay còn gọi là thể vía) nằm bên ngoài. Nó giống như một cái màng thu nhỏ của Vũ trụ vậy. Vỏ ngoài (màng) này dày hay mỏng, nặng hay nhẹ là do quá trình tích trữ năng lượng sinh học của con người khi còn sống. Năng lượng này được tạo ra, tích trữ từ đạo đức, trí tuệ, tư tưởng, tình cảm của con người. Có hai phần âm và dương.

    -Tư tưởng, đạo đức, trí tuệ, kinh nghiệm càng tốt đẹp, cao siêu, thì linh hồn càng nhẹ (màng vía nhẹ); khi thể xác chết, linh hồn tất yếu được thăng hoá lên cảnh giới cao hơn, có tính dương và ánh sáng của Thượng đế
    (Tức là khối linh quang-Đại Nguyên năng) nhiều hơn. Và ngược lại.

    Tính âm của thể vía được hình thành từ các điện tích thông tin tối, là các điện tích âm. Đó chính là mặt tối của tư tưởng, đạo đức, tình cảm; nó bao gồm các thông tin xấu độc, yếu kém, do con người tích trữ trong quá trình sống ở trần gian. Tính dương của thể vía gồm các thông tin đối lập với những cái xấu kia. Có nghĩa: Con người sống tốt, hay xấu, tham, ác hay vị tha cao thượng, có đạo đức nhiều hay ít mà thể vía của anh ta nặng hay nhẹ (Đây chính là nghiệp quả); và khi chết đi, tuỳ cái nặng hay nhẹ đó mà được hút, kéo, nâng, đẩy về các tầng điện tích khác nhau cao hay thấp trong không gian một cách phù hợp đây chính là các cảnh giới! Và cảnh giới cao nhất là Thiên đường (nơi có Thiên đình, Thượng đế).
    Nên nhớ, Thượng đế không tuyệt đối làm được việc cho sinh linh lên các cảnh cao hay thấp, mà theo qui luật vật lý tự nhiên, linh hồn đó được hưởng những gì đã có. Thượng đế có các cách giúp linh hồn là: Thấy tốt, thì lập tức cho các thiên sứ đón, hoặc phân định tránh có sự lẫn lộn, do có tác động của nước quỉ (là khối tính âm xấu độc, gồm quỉ vương và các quỉ ma các loại chưa tiến hoá trong Vũ trụ-đối lập với khối dương quang). Bọn quỉ có thể làm xáo trộn việc này, nếu Thượng đế không can thiệp.
    Thứ hai: Thượng đế có thể có các biện pháp giáo hoá linh hồn các cấp để cho nó xuống thấp hoặc cho nó lên cao nhanh hơn qui luật thông thường, cho nó đi đầu thai nhanh hay chậm, cho nó vào các kiếp nghiệp tiếp theo với số phận như thế nào (tái sinh, tái thế, luân hồi); giữ nó ở thế giới vô hình bao lâu mới cho đầu thai trở lại.
    Như thế, xét theo nghĩa hẹp, thì Thượng đế xét được số phận linh hồn, định đoạt giá trị của nó sau khi chết (Thượng giới có cơ quan xem xét công tội của linh hồn sau khi chết). Đó cũng là sự phán xét công minh, hoàn toàn phù hợp và phụ thuộc các qui luật của tự nhiên ( qui luật của phép tự nhiên, còn gọi là khoa học, trong đó khoa học về vật lý thông thường).
    Linh hồn được sắp xếp theo qui luật vật lý lượng tử, không có gì là lạ. Mỗi linh hồn là một tổ hợp thông tin, có chứa các mã gien đặc biệt, đó chính là bản chất riêng của linh hồn đó.
    Linh hồn có các tần số giao động khác nhau, ở mức cực thấp (tần số âm), do thể vía nặng hay nhẹ tạo ra; nó giao động liên tục, chuyển động để tồn tại. Tuỳ từng loại linh hồn mà có các tần số giao động nhanh hay chậm. Nếu là một linh hồn có thể vía nặng, có nhiều điện tích âm, tối (phần âm tính nhiều), thì nó giao động chậm chạp, nặng nề, đầy rẫy sự xáo trộn và lộn xộn, không ổn định. Đó chính là một linh hồn chưa siêu thoát, hay nói cho đúng hơn là chưa giải thoát ra khỏi những cái xấu xa của mình, tức là chưa tự do, tự mình làm khổ mình, trói mình chứ không ai trói. Những linh hồn này theo qui luật vật lý tự nhiên, sẽ ở những tầng không gian (cảnh giới) thấp và phía ngoài của khối Đại Linh quang (Thượng đế, hạt nhân Đại Nguyên năng, nơi có tính dương sáng chan hoà), tức ở xa thiên đường. Nó sẽ chịu các lực hút nặng nề của trái đất, chịu sự tác động mạnh mẽ của sóng từ trường từ Thượng đế phát ra, chính là các hành tinh có nguồn năng lượng dương tính lớn trong Vũ trụ, và nó bị “ quằn quại”, đau khổ, vì bị xáo trộn, nó sẽ dần trút bỏ những hạt điện tử nhẹ ở thể vía, để biến đổi nhẹ dần, bị hút lên trên. Các cảnh giới chính là các tầng điện trường khác nhau, ứng với một loại linh hồn có các bước sóng tương ứng.
    Vậy cảnh giới còn gọi là môi trường điện tích hoá học, thuần tuý vật chất. Linh hồn cũng là thuần tuý vật chất mà thôi.
    Tất cả là vật chất: Các tia Vũ trụ, ánh sáng, âm thanh. Trong đó có 9 tầng điện tích cơ bản, càng lên cao, mật độ điện tích âm mỏng, điện tích dương càng cao ( Mà chúng ta từ đây gọi là chín cảnh giới-trong đó có bảy cảnh Trung giới và hai cảnh Thượng giới, trần gian chúng ta là Hạ giới).
    Linh hồn cấp thấp không thể lên cảnh cao được, nếu lên, điện tử âm của nó sẽ bị đốt cháy ngay, mà hình thức là “lửa Tam Muội” đốt nó để trừng phạt nó, nhưng cũng có nghĩa bắt nó siêu thoát cưỡng bức một cách đau đớn; ngược lại, các linh hồn bậc cao hoàn toàn di chuyển trong các cảnh thấp và có thể làm chủ, điều khiển được các cảnh thấp, do có tốc độ di chuyển nhanh hơn, và quan trọng có năng lượng nhiều hơn, do ở trên (Dương-gần Nguyên năng-Thượng đế); chính điều này tạo ra sức mạnh và giải thích tại sao các linh hồn đã siêu thoát, “chết” lâu đời có sức phù trì lớn hơn-có nghĩa là sức tác động của sóng điện này mạnh hơn.
    Nơi nào có vật chất là nơi đó có và tích trữ năng lượng; cả Vũ trụ này là một kho vô cùng vô tận năng lượng, trong đó năng lượng ở vật chất vô hình nhiều gấp bội lần vật chất hữu hình! Giống như biển với lục địa vậy.
    Với các linh hồn nhẹ hơn, có nghĩa là thanh nhẹ ( có đạo đức, trí tuệ cao hơn, tu luyện tốt hơn), thì khi thể xác chết, sẽ được thăng ngay lên các cảnh giới cao tương ứng. Và tuỳ từng nhân duyên cụ thể, họ ở đó lâu hay mau, rồi sẽ được luân hồi trở lại trần gian, ứng với nghiệp quả đã có, đã tích lại trong các kiếp gần nhất vừa qua.
    Về năng lượng cho linh hồn: Với linh hồn nặng, nghiệp quả nhiều, đường nhiên nhiều điện tích âm (đen) bu bám xung quanh và nó cần nhiều năng lượng để “nuôi” các điện tích này. Nhưng tạo hoá có một qui luật rất rõ: Càng dùng nhiều năng lượng, thì các vật chất sống (sinh vật nói chung) càng nhanh bị lão hoá và tan ra nhanh. Như vậy, khi Thượng đế chiếu sáng nó, nó nhanh tan, linh hồn “đau đớn” trút bỏ thể nặng.
    Đó chính là Thượng đế sử dụng các biện pháp giáo hoá, cải tạo linh hồn, trong đó có việc Cha cho khai sinh các Đạo để giáo hoá linh hồn, phát nguyện và cầu cho chúng sinh “mở mắt” thấy được Chân Lý của Thượng đế.
    Các linh hồn chưa được giải thoát, siêu thoát cưỡng bức rất sợ ánh sáng, sức nóng, vì ánh sáng từ mặt trời ( cũng là một khối nguyên năng nhỏ của Vũ trụ), chính là một loại sóng có điện tích dương rọi tới, làm tan nó ra, nên nó sợ. Nhiệt độ sẽ làm chúng tan rã, nên bọn này cũng sợ cả lửa, nhiệt độ cao. Hoặc dùng sóng có điện tích cao, có tần số nhanh, mạnh tác động, cũng làm chúng sợ.
    Ngược lại với linh hồn cấp thấp này, là các linh hồn cao cấp. Đây là các linh hồn được giáo hoá, có ý chí là tư tưởng cao, đạo đức tốt, họ sẽ được thăng lên trên cao theo qui luật vừa nói ở trên. Các linh hồn càng cao cấp, thì càng có sức mạnh, sức tác động của nó trong không gian, thời gian càng lớn; vì họ được gần Thượng đế, được tiếp nhiều năng lượng, nhưng lại dung ít năng lượng; và đặc biệt, vì được tiến hoá cao hơn, do đó sức tác động trở lại trần gian: Tác động phù trì trần gian mạnh hơn, to lớn, chi phối được các linh hồn cấp thấp. Điều này giải thích hiện tượng: Thượng đế có sức mạnh vĩ đại nhất, vô biên vô lường. Các thần thánh tiên phật, đặc biệt các đức phật có sức mạnh vô biên vô thường. Tổ tiên xa đời, các vị chết trẻ chưa thành gia thất (gọi là tổ cô, tổ cậu) thường rất thiêng, vì họ đã được siêu thoát hoàn toàn. Với người chết trẻ, thanh cao, xưa bọn phù thuỷ đã biết sử dụng linh hồn đó để trấn yểm, vì họ còn thanh sạch nên rất thiêng, bị chúng biến thành quỉ giữ của rất thiêng. Các vị trí giả chân tu khi chết đi cũng rất linh thiêng.
    Chúng ta phân tích rõ điều này để chúng sinh biết: Tại sao phải theo đạo tu luyện, tại sao phải tiến hành các biện pháp giáo hoá chúng sinh và cả linh hồn sau khi đã về Trung giới. Đây là sứ mệnh các đạo. Chúng ta tiếp thu những kiến thức, trí tuệ ưu việt và mới nhất của nhân loại do Thượng đế truyền cho, nên đây sẽ là khoa học tâm linh mới nhất để giải thích toàn bộ các vấn đề của thế giới, Vũ trụ; đồng thời, có các biện pháp tổ chức để làm chúng sinh nhanh tiến hoá nhất theo Chân Lý của Thượng đế. Thượng đế đã quyết định điều này, khi thế giới đang hỗn độn các giá trị, để mở ra ánh sáng, khai sáng cho toàn nhân loại. Tất cả các lý thuyết của các đạo trước về Thượng đế, đều được chúng ta trân trọng, có cả tận dụng, nếu chúng còn phù hợp. Đến một giai đoạn nào đó, để tồn tại, các đạo phải bổ sung và hợp nhất Chân Lý. Vì Chân Lý của Thượng đế là hệ thống mở, một hệ thống hoàn mỹ, nhưng phải dân hoàn thiện từ từ, theo từng nấc thang tiến hoá cuảu loài người. Những vấn đề lạc hậu, cần cải sửa và điều chỉnh theo lý trí của Thượng đế.


    Nguồn: http://tamlinhvn.blogspot.com/2015/0...edium=facebook

  8. #8
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    Sưu Tầm được bài viết TUYỆT HAY về LINH HỒN! Xin share cho mọi người tham khảo!

    LINH HỒN CON NGƯỜI LÀ GÌ?

    Linh hồn con người là một phần của Thượng đế, là một khối linh quang nhỏ trong khối linh quang lớn (Thượng đế).
    - Linh hồn con người là một khối vật chất siêu đẳng, phát triển cao của vật chất tiến hoá, có ở trong con người.
    - Khi con người ở trần giới, thì linh hồn tồn tại là ý thức và trí tuệ bao bọc của trường sinh học biến hoá của cơ thể đó. Khi thể xác chết, linh hồn thoát ra, về các cảnh giới khác nhau, gọi là vong linh hay linh hồn. Nó tồn tại ở dạng vật chất bậc cao, không phân hoá được nữa, nên tồn tại vĩnh viễn. Các hạt vật chất này duy trì sự tồn tại bằng cách tự tổ chức theo trình độ tiến hoá của linh hồn đó, được Thượng đế, tức Khối linh quang Lớn quản lý (thu hút) và tiếp năng lượng từ Vũ trụ khi trong thể xác và cả khi rời thể xác. Linh hồn bất tử, bất tan, bất diệt, nhưng trường hợp đặc biệt, Cha và Ta, cùng các thần thánh có thể diệt linh hồn, vì có sinh có diệt.
    Linh hồn có các dạng tổ chức theo các chuỗi sóng, lớp sóng, theo qui luật của vật lý lượng tử, gồm có trung tâm của linh hồn hay, “hạt nhân” của linh hồn. Đó là một khối nguyên năng nhỏ, là hạt nhân hút các điện tích âm, là lõi chứa thông tin.Ở đây, các thông tin này tích trữ quá trình tiến hoá các kinh nghiệm trong các kiếp, được hạt nhân thu hút, thành các lớp, theo qui luật nặng ở trong, nhẹ ở ngoài.
    Linh hồn vận động dưới dạng sóng điện từ, có các tần số khác nhau, có tốc độ di chuyển cực nhanh, nhanh hơn vận tốc ánh sáng, có thể cùng lúc có mặt ở mọi nơi, mọi lúc; hay nó tập trung tổng hợp ở một nơi, theo ý chí của nó.
    Nó nghe, hiểu và nhìn thấy mọi thứ trong thế giới trần gian, trong đó có tư tưởng của con người đang sống; vì tư tưởng của con người cũng là sóng vật lý vật chất, có chứa thông tin,nên linh hồn đọc được thông tin tư tưởng đó. Toàn bộ tư tưởng của con người tồn tại dưới dạng sóng, tích trữ và phát đi từ não, là một phần của linh hồn đang sống, nên linh hồn khác nhau có thể đọc và hiểu được nhau. Nhưng với Thượng đế và các bậc thần thánh-là những linh hồn cao cấp, tuỳ các linh hồn khác nhau mà Thượng đế cho chúng thấy hoặc hiểu được tư tưởng của Người.
    -Linh hồn có hai phần cơ bản: Phần lõi thông tin (gồm hạt nhân, các lớp điện tử nhẹ trong cùng ) và phần bao bọc (thể nhựa hay còn gọi là thể vía) nằm bên ngoài. Nó giống như một cái màng thu nhỏ của Vũ trụ vậy.Vỏ ngoài (màng) này dày hay mỏng, nặng hay nhẹ là do quá trình tích trữ năng lượng sinh học của con người khi còn sống. Năng lượng này được tạo ra, tích trữ từ đạo đức, trí tuệ, tư tưởng, tình cảm của con người. Có hai phần âm và dương.
    -Tư tưởng, đạo đức, trí tuệ, kinh nghiệm càng tốt đẹp, cao siêu, thì linh hồn càng nhẹ (màng vía nhẹ); khi thể xác chết, linh hồn tất yếu được thăng hoá lên cảnh giới cao hơn, có tính dương và ánh sáng của Thượng đế (Tức là khối linh quang-Đại Nguyên năng) nhiều hơn. Và ngược lại.
    Tính âm của thể vía được hình thành từ các điện tích thông tin tối, là các điện tích âm. Đó chính là mặt tối của tư tưởng, đạo đức, tình cảm; nó bao gồm các thông tin xấu độc, yếu kém, do con người tích trữ trong quá trình sống ở trần gian. Tính dương của thể vía gồm các thông tin đối lập với những cái xấu kia. Có nghĩa: Con người sống tốt, hay xấu, tham, ác hay vị tha cao thượng, có đạo đức nhiều hay ít mà thể vía của anh ta nặng hay nhẹ (Đây chính là nghiệp quả); và khi chết đi, tuỳ cái nặng hay nhẹ đó mà được hút, kéo, nâng, đẩy về các tầng điện tích khác nhau cao hay thấp trong không gian một cách phù hợp đây chính là các cảnh giới! Và cảnh giới cao nhất là Thiên đường (nơi có Thiên đình, Thượng đế).
    Nên nhớ, Thượng đế không tuyệt đối làm được việc cho sinh linh lên các cảnh cao hay thấp, mà theo qui luật vật lý tự nhiên, linh hồn đó được hưởng những gì đã có. Thượng đế có các cách giúp linh hồn là: Thấy tốt, thì lập tức cho các thiên sứ đón, hoặc phân định tránh có sự lẫn lộn, do có tác động của nước quỉ (là khối tính âm xấu độc, gồm quỉ vương và các quỉ ma các loại chưa tiến hoá trong Vũ trụ-đối lập với khối dương quang). Bọn quỉ có thể làm xáo trộn việc này, nếu Thượng đế không can thiệp.
    Thứ hai: Thượng đế có thể có các biện pháp giáo hoá linh hồn các cấp để cho nó xuống thấp hoặc cho nó lên cao nhanh hơn qui luật thông thường, cho nó đi đầu thai nhanh hay chậm, cho nó vào các kiếp nghiệp tiếp theo với số phận như thế nào (tái sinh, tái thế, luân hồi); giữ nó ở thế giới vô hình bao lâu mới cho đầu thai trở lại.
    Như thế, xét theo nghĩa hẹp, thì Thượng đế xét được số phận linh hồn, định đoạt giá trị của nó sau khi chết (Thượng giới có cơ quan xem xét công tội của linh hồn sau khi chết). Đó cũng là sự phán xét công minh, hoàn toàn phù hợp và phụ thuộc các qui luật của tự nhiên ( qui luật của phép tự nhiên, còn gọi là khoa học, trong đó khoa học về vật lý thông thường).
    Linh hồn được sắp xếp theo qui luật vật lý lượng tử, không có gì là lạ. Mỗi linh hồn là một tổ hợp thông tin, có chứa các mã gien đặc biệt, đó chính là bản chất riêng của linh hồn đó.
    Linh hồn có các tần số giao động khác nhau, ở mức cực thấp (tần số âm), do thể vía nặng hay nhẹ tạo ra; nó giao động liên tục, chuyển động để tồn tại. Tuỳ từng loại linh hồn mà có các tần số giao động nhanh hay chậm. Nếu là một linh hồn có thể vía nặng, có nhiều điện tích âm, tối (phần âm tính nhiều), thì nó giao động chậm chạp, nặng nề, đầy rẫy sự xáo trộn và lộn xộn, không ổn định. Đó chính là một linh hồn chưa siêu thoát, hay nói cho đúng hơn là chưa giải thoát ra khỏi những cái xấu xa của mình, tức là chưa tự do, tự mình làm khổ mình, trói mình chứ không ai trói. Những linh hồn này theo qui luật vật lý tự nhiên, sẽ ở những tầng không gian (cảnh giới) thấp và phía ngoài của khối Đại Linh quang (Thượng đế, hạt nhân Đại Nguyên năng, nơi có tính dương sáng chan hoà), tức ở xa thiên đường. Nó sẽ chịu các lực hút nặng nề của trái đất, chịu sự tác động mạnh mẽ của sóng từ trường từ Thượng đế phát ra, chính là các hành tinh có nguồn năng lượng dương tính lớn trong Vũ trụ, và nó bị “ quằn quại”, đau khổ, vì bị xáo trộn, nó sẽ dần trút bỏ những hạt điện tử nhẹ ở thể vía, để biến đổi nhẹ dần, bị hút lên trên. Các cảnh giới chính là các tầng điện trường khác nhau, ứng với một loại linh hồn có các bước sóng tương ứng.
    Vậy cảnh giới còn gọi là môi trường điện tích hoá học, thuần tuý vật chất. Linh hồn cũng là thuần tuý vật chất mà thôi.
    Tất cả là vật chất: Các tia Vũ trụ, ánh sáng, âm thanh. Trong đó có 9 tầng điện tích cơ bản, càng lên cao, mật độ điện tích âm mỏng, điện tích dương càng cao ( Mà chúng ta từ đây gọi là chín cảnh giới-trong đó có bảy cảnh Trung giới và hai cảnh Thượng giới, trần gian chúng ta là Hạ giới).
    Linh hồn cấp thấp không thể lên cảnh cao được, nếu lên, điện tử âm của nó sẽ bị đốt cháy ngay, mà hình thức là “lửa Tam Muội” đốt nó để trừng phạt nó, nhưng cũng có nghĩa bắt nó siêu thoát cưỡng bức một cách đau đớn; ngược lại, các linh hồn bậc cao hoàn toàn di chuyển trong các cảnh thấp và có thể làm chủ, điều khiển được các cảnh thấp, do có tốc độ di chuyển nhanh hơn, và quan trọng có năng lượng nhiều hơn, do ở trên (Dương-gần Nguyên năng-Thượng đế); chính điều này tạo ra sức mạnh và giải thích tại sao các linh hồn đã siêu thoát, “chết” lâu đời có sức phù trì lớn hơn-có nghĩa là sức tác động của sóng điện này mạnh hơn.
    Nơi nào có vật chất là nơi đó có và tích trữ năng lượng; cả Vũ trụ này là một kho vô cùng vô tận năng lượng, trong đó năng lượng ở vật chất vô hình nhiều gấp bội lần vật chất hữu hình! Giống như biển với lục địa vậy.
    Với các linh hồn nhẹ hơn, có nghĩa là thanh nhẹ ( có đạo đức, trí tuệ cao hơn, tu luyện tốt hơn), thì khi thể xác chết, sẽ được thăng ngay lên các cảnh giới cao tương ứng. Và tuỳ từng nhân duyên cụ thể, họ ở đó lâu hay mau, rồi sẽ được luân hồi trở lại trần gian, ứng với nghiệp quả đã có, đã tích lại trong các kiếp gần nhất vừa qua.
    Về năng lượng cho linh hồn: Với linh hồn nặng, nghiệp quả nhiều, đường nhiên nhiều điện tích âm (đen) bu bám xung quanh và nó cần nhiều năng lượng để “nuôi” các điện tích này. Nhưng tạo hoá có một qui luật rất rõ: Càng dùng nhiều năng lượng, thì các vật chất sống (sinh vật nói chung) càng nhanh bị lão hoá và tan ra nhanh. Như vậy, khi Thượng đế chiếu sáng nó, nó nhanh tan, linh hồn “đau đớn” trút bỏ thể nặng.
    Đó chính là Thượng đế sử dụng các biện pháp giáo hoá, cải tạo linh hồn, trong đó có việc Cha cho khai sinh các Đạo để giáo hoá linh hồn, phát nguyện và cầu cho chúng sinh “mở mắt” thấy được Chân Lý của Thượng đế.
    Các linh hồn chưa được giải thoát, siêu thoát cưỡng bức rất sợ ánh sáng, sức nóng, vì ánh sáng từ mặt trời ( cũng là một khối nguyên năng nhỏ của Vũ trụ), chính là một loại sóng có điện tích dương rọi tới, làm tan nó ra, nên nó sợ. Nhiệt độ sẽ làm chúng tan rã, nên bọn này cũng sợ cả lửa, nhiệt độ cao. Hoặc dùng sóng có điện tích cao, có tần số nhanh, mạnh tác động, cũng làm chúng sợ.
    Ngược lại với linh hồn cấp thấp này, là các linh hồn cao cấp. Đây là các linh hồn được giáo hoá, có ý chí là tư tưởng cao, đạo đức tốt, họ sẽ được thăng lên trên cao theo qui luật vừa nói ở trên. Các linh hồn càng cao cấp, thì càng có sức mạnh, sức tác động của nó trong không gian, thời gian càng lớn; vì họ được gần Thượng đế, được tiếp nhiều năng lượng, nhưng lại dung ít năng lượng; và đặc biệt, vì được tiến hoá cao hơn, do đó sức tác động trở lại trần gian: Tác động phù trì trần gian mạnh hơn, to lớn, chi phối được các linh hồn cấp thấp. Điều này giải thích hiện tượng: Thượng đế có sức mạnh vĩ đại nhất, vô biên vô lường. Các thần thánh tiên phật, đặc biệt các đức phật có sức mạnh vô biên vô thường. Tổ tiên xa đời, các vị chết trẻ chưa thành gia thất (gọi là tổ cô, tổ cậu) thường rất thiêng, vì họ đã được siêu thoát hoàn toàn. Với người chết trẻ, thanh cao, xưa bọn phù thuỷ đã biết sử dụng linh hồn đó để trấn yểm, vì họ còn thanh sạch nên rất thiêng, bị chúng biến thành quỉ giữ của rất thiêng. Các vị trí giả chân tu khi chết đi cũng rất linh thiêng.
    Chúng ta phân tích rõ điều này để chúng sinh biết: Tại sao phải theo đạo tu luyện, tại sao phải tiến hành các biện pháp giáo hoá chúng sinh và cả linh hồn sau khi đã về Trung giới. Đây là sứ mệnh các đạo. Chúng ta tiếp thu những kiến thức, trí tuệ ưu việt và mới nhất của nhân loại do Thượng đế truyền cho, nên đây sẽ là khoa học tâm linh mới nhất để giải thích toàn bộ các vấn đề của thế giới, Vũ trụ; đồng thời, có các biện pháp tổ chức để làm chúng sinh nhanh tiến hoá nhất theo Chân Lý của Thượng đế. Thượng đế đã quyết định điều này, khi thế giới đang hỗn độn các giá trị, để mở ra ánh sáng, khai sáng cho toàn nhân loại. Tất cả các lý thuyết của các đạo trước về Thượng đế, đều được chúng ta trân trọng, có cả tận dụng, nếu chúng còn phù hợp. Đến một giai đoạn nào đó, để tồn tại, các đạo phải bổ sung và hợp nhất Chân Lý. Vì Chân Lý của Thượng đế là hệ thống mở, một hệ thống hoàn mỹ, nhưng phải dân hoàn thiện từ từ, theo từng nấc thang tiến hoá cuảu loài người. Những vấn đề lạc hậu, cần cải sửa và điều chỉnh theo lý trí của Thượng đế.


    Nguồn: http://tamlinhvn.blogspot.com/2015/0...edium=facebook

  9. #9

    Mặc định

    Vô minh duyên hành , hành duyên thức , thức duyên danh sắc , danh sắc duyên lục nhập , lục nhập duyên xúc , xúc duyên thọ , thọ duyên ái , ái duyên thủ , thủ duyên hữu , hữu duyên sanh , sanh duyên lão tử , lão tử duyên sầu than khổ não ......

  10. #10
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    Sưu tầm thêm về Linh Hồn nữa nè!

    BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI
    * Con người: Là tổng hoà của cấu tạo vật chất đơn giản (thể xác) và vật chất cao cấp (linh hồn): Là kết quả của sự tiến hoá của tự nhiên; là sản phẩm sáng tạo tất yếu của Thượng đế và là hình ảnh của Thượng đế; là động vật có tiến hoá cao nhất ở trần giới, phù hợp với xã hội hiện thực, tạo ra xã hội và là nhân tố của xã hội.

    +Thể xác-vật chất đơn giản: Thể xác của con người là bao gồm toàn thể phần cấu tạo nên hình dạng ( cá thể). Các bộ phận vật chất của cơ thể nhìn thấy được. Thể xác con người là Vũ trụ thu nhỏ, chứa nguyên khí Vũ trụ, là sản phẩm tinh vi nhất của Vũ trụ. Thể xác chịu ảnh hưởng của các qui luật sinh hoá, có tuổi thọ phụ thuộc vào các giá trị tích tụ và duy trì nguyên khí Vũ trụ trong nó. Thể xác con người chấp nhận sự tìm hiểu và khám phá như nền y học hiện đại nghiên cứu. Nhưng nay Thiên Đạo tìm ra qui luật, kiến thức mới về cơ thể con người như: “Qui luật chuyển hoá nguyên khí từ trường trong con người”, ‘các cửa sổ của con người”, “khai mở năng linh”, “ sự vận hành của khí, trí, lực”, “cải tạo tế bào bằng nhân điện”, “Điều khiển tâm hồn và chữa trị nhân cách”, “Não người-bộ ra-di-o-máy phát điện đa chiều”, “phép biến đổi linh hồn”…(Nguyên Lý Trung Phương bổ trợ).
    Các công trình này, khi được phổ quát kiến thức, mở ra hướng nghiên cứu, giúp nhận thức con người hoàn thiện hơn về bản thân một cách khoa học. Dòng nguyên khí lưu chuyển trong con người là nguồn cung cấp và duy trì năng lượng tự nhiên, trong đó có linh hồn dựa vào dòng nguyên khí này để duy trì sự tồn tại của cơ thể theo qui luật tự nhiên. Các huyệt đạo chính là các điểm nối tập trung nguyên khí: Các dòng máu là vật chở nguyên khí. Nguyên khí lan toả khắp cơ thể. Giống như trái đất vậy và Vũ trụ cũng vậy.
    Thức ăn là vật nạp năng lượng trực tiếp cụ thể. Còn nguyên khí gốc được hình thành, được Thượng đế tu tạo ngay từ ban đầu, nó là một “cơ chế” mở, được biến đổi theo các qui luật khắt khe của tự nhiên, là một hành lang cụ thể, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nguồn nguyên năng, tức là sự tác động tự nhiên, tức Thượng đế an bài: Đó chính là số phận của thể xác (sống, chết).
    Cơ thể con người là cơ thể của một động vật, do đó, nó cần thiết các yếu tố thông thường của động vật như: Cơ chế bản năng, cơ chế sinh hoá, cơ chế chuyển hoá vận động. Nó đơn thuần là một thể xác dục vọng tầm thường. Nó là bộ máy cao cấp kỳ diệu của tự nhiên-không thể hoàn thiện hơn được nữa. Mọi vấn đề của nguyên khí có được của cơ thể, đều biểu hiện cụ thể, trực tiếp ở thể xác. Nguyên khí mạnh, tất mặt, hình dáng, khí chất, gan bàn chân tay…(gọi là tướng học hay diện tướng) có các đặc điểm tương ứng và ngược lại. Cho nên, số và tướng hài hoà với nhau, không có gì là bí hiểm cả. Về cấu tạo, đặc tính, nguyên lý hoạt động, sự vận hành của cơ thể con người, đến nay khoa học đã nghiên cứu, mổ xẻ nhiều, đạt được những thành tựu sát thực. Duy có một về sự hình thành của tư tưởng (suy nghĩ), cấu tạo như thế nào, nguyên lý tồn tại của nó. Động vật cao cấp thì cótư duy (tức đồng nghĩa với việc có linh hồn), thì khoa học chưa chứng minh được.
    Tại sao nói: Thể xác là “vật chất đơn giản”. Bởi vì: Vốn dĩ thể xác nếu tách khỏi linh hồn, thì nó là vật vô tri. Nó “đơn giản” so với “vật chất siêu đẳng” là linh hồn khi chết, và là “hồn vía” khi người còn ở thế gian. “Vật chất đơn giản” cấu tạo bằng các phân tử hạng nặng, là khối nặng. Các điện tử hoá học tạo nên các phân tử này, hoạt động chậm, nặng nên tiêu thụ năng lượng lớn. Càng tiêu thụ năng lượng lớn, cơ thể càng nặng nề, các phân tử càng nhanh già. Đó là lý do tại sao người tu hành ăn kiêng khem, lại sống thọ. Người ăn thịt nhiều, tuổi thọ lại ít hơn những người sống thanh bạch. Đặc biệt, sống thanh sạch dễ siêu thoát hơn người sống không thanh sạch, nặng về vật chất, nhiều tham vọng. Vấn đề này có ngược với chủ trương là phấn đấu an lạc, no ấm không? Chúng ta không chủ trương sống thanh bần, mà sống thanh sạch: Thanh sạch tinh thần và thể xác. Nếu còn đói khổ thì còn mưu cầu, còn sinh ra vô số tham ác khác nhau; vả lại, mục đích của con người muôn đời là no ấm hạnh phúc, các kiếp trước tu tốt, kiếp sau mới an khang, no ấm, ấy là luật Trời. Nhưng thanh sạch, no ấm phải có đạo đức. No ấm, giàu sang mà có đạo đức thì quý vô cùng! Con người đã hưởng no đủ, ấm lòng, sẽ hướng về cuộc sống xa các thứ xa xỉ để chuẩn bị cho hành trang tinh thần lên Thượng giới.
    Vấn đề tâm lý khát vọng, tham vọng cực kỳ quan trọng trọng các cảnh giới: Thế thì một giáo hữu no ấm, đầy đủ, không thèm khát gì, lại thuần đạo Chân Lý, coi khinh sự phàm tục vật dục ở cuối đời, thì sẽ giải thoát nhanh hơn các loại khác!
    Thiên đường Hạ giới có, khi con người đạt đỉnh cao về hạnh phúc cá nhân và hạnh phúc tư tưởng, thế thì còn hối tiếc gì, mà không về Trung-Thượng giới? Vấn đề là ở chỗ mục đích sống là gì? Cùng thiện, cùng no ấm, cùng tiến bộ, cùng thanh sạch, phải cần thanh sạch, hoặc ngược lại. Thế đó!

  11. #11
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    +Hồn vía (linh hồn)-vật chất siêu đẳng:
    Khi còn sống ở trần gian, linh hồn tồn tại, ngự trị trong thể xác gọi là “hồn vía" người.
    Hồn người (linh hồn): Là tổng hoà các giá trị vật chất siêu đẳng, được tích luỹ từ nhiều kiếp sống khác nhau, có sự tiến hoá theo qui luật Nhân quả, duyên nghiệp. Là một hệ thống thông tin dạng sóng, có nhiều cấp khác nhau; là một hệ tư duy đặc biệt, đặc trưng của con người trong ý thức.
    Ý thức là một khái niệm chung chung. Động vật cấp thấp cũng có ý thức đặc trưng tương ứng. Con tinh tinh có ý thức không? Có chứ! Nó rất chăm lo, bảo vệ con, biết lãnh đạo, đấu tranh, phân công công việc trong bầy đàn. Ai bảo nó không có ý thức? Nó có hồn của nó, khi chết đi, nó có linh hồn. Chỉ khác là ở trình độ thấp, so với con người mà thôi. Các loại động vật khác cũng thế.
    Vô thức: Là hành vi, tình trạng nhận thức khi con người giảm sự tập trung, sự ý thức giảm xuống, nhưng linh hồn người vẫn hoạt động, chỉ đạo thể xác hoạt động. Ý thức và vô thức là hai cấp chỉ huy của hồn người. Khi vô thức, trong vô thức đôi khi hồn vẫn sáng sạo, làm việc, có khi tạo ra các tác phẩm vĩ đại, như một số trường hợp ( ví dụ: nhà hoá học Mendeleep…).
    Ta chỉ nên gọi: Sự ý thức, sự vô thức. Ý thức không đồng nghĩa với tư duy, tư tưởng, sự nhận thức. Tất cả những cái này là những khả năng của hồn người. Vì khoa học thô mộc, giản đơn và thậm chí lạc hậu trong cái vỏ hiện đại-không công nhận linh hồn, nên có khi qui nạp toàn thể sự suy nghĩ, tư tưởng, các nội dung và biểu hiện của não trong một khái niệm, đó là khái niệm ý thức, thực ra không phải thế.
    Hồn người là một hệ thông tin dạng sóng: Như đã trình bày. Cấu tạo của linh hồn gồm hệ thống các hạt siêu vật chất ( các hạt điện tử nhẹ nhất). Chúng phải được tổ chức, sắp xếp theo một qui luật nhất định. Qui luật nào? Trong tất cả các thể dạng vận động của vật chất, thì vận động xoay tròn là vận động ưu việc nhất, vì các lý do nhanh nhất, tồn tại lâu nhatá; vậy ngay cả xã hội, các hình thức phát triển, luôn theo qui luật “xoáy trôn ốc”, ở dạng sóng tròn, hướng lên cao. Vậy linh hồn-loại vật chất siêu đẳng, cũng tồn tại ở dạng này: Trục xoáy trôn ốc, xoay tròn, ngược chiều kim đồng hồ, tịnh tiến theo các chiều biến hoá.
    Trong cơ thể sống, linh hồn vận động theo các kinh mạch của cơ thể để chỉ đạo nguồn năng lượng cho cơ thể.

    Linh hồn có nhiều cấp khác nhau: Chính là cấp tiến hoá của linh hồn, hay là trình độ tổ chức các lớp sóng thông tin khác nhau.
    Kẻ kém trí tuệ, ắt hẳn là linh hồn của y đơn giản hơn so với kẻ nhân tài khôn ngoan. Động vật các loại cũng vậy, theo cấp tiến hoá khác nhau; sự cấu tạo các lớp sóng thông tin càng dày đặc, phức tạp, cho thấy đó là một linh hồn siêu đẳng hơn. Các lớp thông tin này chính là các lớp tri thức tích luỹ được của linh hồn. Tri thức tích luỹ trong toàn bộ các kiếp sống. Và nó chỉ được khai mở từng bộ phận, trong những nguyên cớ và điều kiện khác nhau. Một người kiếp trước sống tại nước khác, văn hoá khác, kiếp sau không nhớ được là do không được mở “kênh” thông tin này. Có thể khai mở bằng phương pháp tâm linh, phương pháp thôi miên.

    Linh hồn là một hệ tư duy đặc biệt:
    Bất cứ một linh hồn nào cũng biết tư duy, không tư duy tức là không có linh hồn; chỉ khác là ở cấp tư duy khác nhau mà thôi.
    Hệ tư duy đặc biệt: Hệ này biết “xáo động” các luồng sóng thông tin trong hệ thông tin, tạo xung sóng mới, có giá trị nhận thức mới; lưu giữ hay không là do linh hồn quyết định. Vậy, tư tưởng là cấp độ thông tin khi con người tư duy( tức là đang suy nghĩ) là gì? Tư tưởng là các cấp thông tin, được tạo ra ở dạng sóng điện trường vật lý. Khi ta tư duy, các phản ứng điện-hoá học xảy ra ở óc-là cơ sở vật chất của linh hồn trú ngụ. Trong đó, các dây thần kinh làm nhiệm vụ truyền sóng. Việc tạo ra sóng ( tức tư tưởng) là do sự “cọ xát” của các sóng thông tin linh hồn, không liên quan gì đến óc cả. Óc chỉ là “cái nhà” tiếp nhận và chứa sóng thôi: Vì khi óc chết, linh hồn rút ra khỏi đó, vẫn nguyên giá trị của linh hồn.
    Tác động của tư tưởng có khai mở kênh dẫn, lên mọi sự vật hiện tượng, gây ra hiệu ứng phản ứng lý-hóa học, gọi là tâm năng điều khiển, trong đó phổ biến nhất là dùng ý chí chữa bệnh, dùng ý dời vật, phóng công cách không, thôi miên, truyền tâm nhập mật, thần giao cách cảm, linh tính; đặc biệt khi xuất vía, thực hiện các phép huyền thuật, điều khiển tâm năng trong môi trường vô hình mà người thường không nhìn thấy được; nó cũng ứng dụng trong lĩnh vực bùa chú, yểm đảo, thư phù, nguyền rủa, cầu khấn, ám thị…Hoặc với cá nhân, khi lo âu, buồn đau, đã gây bệnh, ốm chết vì buồn; hoặc tư tưởng, lối sống đã tạo ra trường năng lượng điện từ trường xung quanh mình, chính là thể vía-đã chứng minh; hoặc khi khai mắt huệ, chúng ta nhìn thấy hình tư tưởng của chúng ta và mọi người được lưu giữ trong không gian vật lý 9 chiều, mới thấy ý nghĩ khủng khiếp chừng nào! Do đó, ý nghĩ mang nghiệp ở chỗ đó. Không gian lưu giữ hình tư tưởng của chúng ta. Vì khoa học đơn giản ngày nay đang cố gắng đi về…quá khứ, để học và khám phá bản chất thế giới, nhưng vô số những “nhà” khoa học văn phòng tham vật chất ấy không thể khám phá được các qui luật của linh hồn, lượng tử, nên đến nay, họ không công nhận linh hồn và bất lực hoàn toàn trước những hiện tượng liên quan đến thế giới vô hình!
    Trong tương lai, nhân loại phải học lại tất cả từ…cổ xưa; cả khinh thân, tâm năng điều khiển, chữa bệnh từ xa không dùng thuốc, đến các thuật phong thủy-thực chất là khoa học về sử dụng năng lượng tự nhiên, các phép chiêm bói, tử vi…mà thực chất đó là phép toán tìm năng lượng của Vũ trụ hiệu ứng và chi phối con người, tìm ra qui luật và tính qui luật của nó tác động đến con người, quả đất, mọi sự vật hiện tượng-có tính qui luật-mà ta gọi một cách thô thiển là Số Phận.
    Các khái niệm: Ý thức, nhận thức, tư tưởng, tư duy, suy nghĩ, vô thức, tiềm thức, là các khả năng của linh hồn. Có hoặc không có các khả năng đó. Khi con người hôn mê, trạng thái này vô thức, nhưng hoàn toàn không suy nghĩ, cứ đờ ra, một cảm giác cứng nhắc đờ đẫn vô hồn. Linh hồn lúc đó ra sao? Nó đang tư duy, nhưng nó ở trạng thái khép lại các bộ phận khác. Một người thiên tài chẳng hạn, khi ông ta hôn mê, hoặc bệnh tật làm cho trì trệ, thì linh hồn ông ta ra sao? Một linh hồn hoàn bị thiên tài còn nguyên, nó chỉ khép lại các khả năng khác mà thôi!
    Trình độ tư duy phụ thuộc cái gì? Phụ thuộc vào trình độ tổ chức thông tin của linh hồn. Trình độ tổ chức thông tin, hay nói cho đúng là “kho thông tin” của anh nhiều hay ít, tốt xấu ra sao, thì anh tư duy, tức là anh có khả năng sản xuất ra các sóng thông tin khác nhau (đó chính là tư tưởng, các giá trị suy nghĩ). Kho này có sẵn cộng với vừa tiếp nhận của khách quan.
    Vậy sự thông minh của con người là gì? Xét theo vấn đề trên thì sự thông minh vốn là khả năng sắp xếp của hệ thống thông tin, hay chính là trình độ tổ chức và xử lý thông tin của linh hồn. Sự thông minh có hai khả năng: Do Trời phú, hai là do rèn luyện. Trời phú, có nghĩa thông minh sẵn. Linh hồn khin đầu thai, phù hợp với nguyên khí tốt đẹp tương ứng, nên linh hồn có đủ điều kiện duy trì các yếu tố thuận lợi. Ở chế độ ưu việt hơn về mặt nguyên khí. Và ngược lại. Do rèn luyện, là do anh biết tích luỹ kinh nghiệm, để lưu giữ tri thức ( Ví dụ anh chọn lọc phương pháp học tập tốt, ắt kết quả lưu trữ thông tin tri thức tốt). Sau đó là khả năng anh tư duy để cho ra “sản phẩm” mới-chính là tư tưởng, các phương thức và hệ quả tri giác để có tư tưởng nhận thức mới. Có người học một biết mười. Học một suy ra ba góc còn lại. Nhưng có người có nhồi vào đầu cũng rớt ra hết, hoặc không đẻ ra được cái gì trong cái tối tăm của linh hồn đó.
    Tiềm thức là sự khai mở một “hộp” thông tin nào đó của linh hồn, việc nhớ lại khác tiềm thức, tiềm là có sẵn, được mở không chủ ý. Còn nhớ lại là chủ ý.
    Vậy trong hệ thống đó (tức linh hồn), thì cái gì là chủ đạo, tức chi phối các hoạt động của hệ thống đó? Chính là “hạt nhân vĩ đại” của linh hồn. Đây là một khối Nguyên năng hoàn mỹ, trung tâm của linh hồn. Khối này là khối hạt nhân siêu việt (cụm hạt Trung Phương), qui tụ các lớp hạt điện tử xung quang nó. Nguyên hạt-hạt nhân này chính là Nguyên năng gốc, là phần của Thượng đế tách ra cho một sinh linh, qui định nó, chi phối nó. Nó chịu ảnh hưởng của Nguyên năng lớn, chính là Thượng đế. Cũng như Thượng đế chịu sự chi phối của Đại Nguyên Năng của Đại Vũ trụ. Hạt nhân này vĩnh cửu và không bao giờ ngủ.

  12. #12
    Đai Đen
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Đi khắp mọi nơi mà ko dời..một chốn
    Bài gởi
    584

    Mặc định

    Bí mật của sự sống linh hồn:

    Hiện nay về thuyết sự sống sinh vật trên trái đất, khoa học đã giải thích: Từ các phân tử, hợp tử rồi thành tế bào, rồi có sự trao đổi chất, thành sự sống sinh vật, từ đó tiến hoá lên cao thành thế giới sinh vật như ngày nay. Điều này Pháp ta tạm chấp nhận.
    Còn việc tiến hoá của con người, không phải từ loài vượn, mà là sự cô đặc hồn dần dần, khi hồn các thiên thần được Thượng đế cho xuống thế, tiến hoá dần đặc dần thân người, việc này sau sẽ bàn thêm. Vì Cha Ta sinh ra các bầu Thái dương, hành tinh được, thì cũng sinh được hồn xác người, không có chi là lạ.
    Vấn đề mà Ta muốn nói ở đây là cái bí mật nhất, mà chưa một tài liệu nào, tôn giáo nào, hay chân sư nào nói ra trong suốt lịch sử hàng triệu năm, cho đến nay là: Công nhận linh hồn? Vậy linh hồn tại sao lại có: Tức hình thành linh hồn ban đầu? Và vật chất đó có trí tuệ-Ta nói là trí tuệ: Bao hàm cả ý thức, tư duy, bản ngã. Là do nguyên nhân nào? Đây là câu hỏi làm đau đầu bao nhà nghiên cứu khoa học tâm linh chân chính.
    Chúng ta biết: Nguyên tử có các điện tử, trong các hạt điện tử có các mặt bán nguyên Spin có khả năng lưu giữ thông tin và tái lập thông tin; đồng thời khi các nguyên tử liên kết với nhau, thì tạo ra khả năng xử lý thông tin và xử lý thích ứng với các tác động ngoại cảnh, ngoại lực. Đối với bất cứ nguyên tử nào cũng có khả năng này. Tích luỹ thông tin và xử lý thông tin: Tạo ra trí tuệ vật chất một cách tự nhiên-đó chính là bí mật hình thành linh hồn.
    Vậy: Có vật chất là có linh hồn-hay khả năng trí tuệ riêng của chúng, ở mọi cấp độ vật chất. Như vậy: Vật chất siêu đẳng-hay linh hồn luôn luôn sinh ra một cách tất yếu khi có tồn tại vật chất đó, với tư cách là một chỉnh thể hoàn chỉnh của vật chất. Và Đại Thượng đế, hay Thượng đế được tạo ra cùng lúc với việc hình thành Đại Vũ trụ, Vũ trụ. Trước khi Cha chúng ta có, Vũ trụ thuộc Hư vô khí, trong một Đại Vũ trụ đã có linh hồn là Đại Thượng đế… Đại Thượng đế quyết định lập Vũ trụ của chúng ta, thì tạo ra Vũ trụ mới. Trước khi hình thành Vũ trụ của chúng ta, các cấp nguyên tử chưa hình thành khối lượng Vũ trụ, mà chỉ ở dạng Tổng bộ hạt Trung Phương (Linh hồn Thượng đế), cùng với dạng khí tinh vân của Đại Vũ trụ phía ngoài, chưa cô đặc. Khi lập thành Vũ trụ có hình dạng, thì nguyên khí tự nhiên hình thành trí tuệ-thể xác Vũ trụ tất yếu-đó là Cha chúng ta. Còn chúng ta: Như đã nói: Cũng là tổ hợp nguyên tử siêu đẳng-được Cha trực tiếp chiết ra theo qui luật phân chia vật chất; có cá thể vật chất, thì có linh hồn đó; khi linh hồn ta xuống thế đầu thai, thì kết hợp với vật chất đặc thành con người tại thế. Như vậy: Cha sinh ra chúng ta. Tất nhiên Cha cũng có thể diệt-tức làm tan rã được chúng ta.
    Trong quá trình hành Đạo vừa qua, Bản tôn Ta đánh vô số trận với tà ma, trong đó có lúc buộc lòng phải diệt vĩnh viễn vài vong linh ác tặc, sau khi đã giáo hoá, kêu gọi, nhưng chúng quá ác, không hồi tỉnh, không thể siêu thoát được. Thật đáng tiếc cho những kẻ đã qua hàng triệu kiếp làm người trong lịch sử tiến hoá của loài người hàng triệu năm qua; chúng không tỉnh ngộ, thời nay phải diệt, đúng phép Cha dạy, để làm sạch thiên linh, trước Chuyển thế và xây Thánh Đức.
    Đây là bài học cảnh tỉnh cho mọi kẻ chống Thiên Đạo từ nay đến muôn năm sau.



    Nguồn: http://tamlinhvn.blogspot.com/2015/0...con-nguoi.html.

  13. #13

    Mặc định

    Thuyết về Thượng đế mãi mãi vẫn là Thượng Đế. Thượng đế thường kèm với quyền năng, mà quyền năng hay thần thông thì cũng chỉ là vô thường trong vô thường. Mà đã là vô thường thì chẳng có gì tồn tại bất biến theo thời gian hết. Tất cả là tùy duyên, vạn vật là tùy duyên, còn duyên ta bước chung đường, hết duyên ta bị vô thường dẫn đi.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Linh hồn thầy Lương Minh Đáng?
    By jinggun333 in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 29-01-2014, 08:01 PM
  2. Trả lời: 51
    Bài mới gởi: 07-06-2011, 08:37 AM
  3. Tâm linh - những chuyện khoa học đã chứng minh
    By Gautama in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 19-03-2011, 11:27 PM
  4. Những hình ảnh linh hồn tồn tại. Minh chứng sự tồn tại vĩnh hằng.
    By khaiphamkhac in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 51
    Bài mới gởi: 25-11-2010, 08:30 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •