Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 39

Ðề tài: thiên chúa giáo cũng là 1 hình thức đồng hóa dân việt 1 cách trá hình

  1. #1

    Smile thiên chúa giáo cũng là 1 hình thức đồng hóa dân việt 1 cách trá hình

    việt nam là nước đa tính ngưỡng nhưng niềm tin lại được đặt không đúng chổ bị lợi dụng của các tôn giáo khác làm đồng hóa dân việt chúng ta. thiên chúa giáo cũng là 1 hình thức đồng hóa dân việt 1 cách trá hình trong quá trình xâm lược việt nam mà dân việt không thấy đó là sai mà lại còn sùng đạo mê tín vô những tập tục của họ. nhiều tội ác đc gây ra cũng do những tín ngưỡng sai trái này gây ra vì họ sùng đạo họ tin vào chúa nên có làm ác cũng đc chúa rửa tội cho, còn đạo phật thì không có được. và việc tu hành theo đạo phật lại quá khó khăn với nhiều phàm nhân. mong sao dân việt chúng ta ngẩm ngiệm lại và đi theo con đường giác ngộ của Đức Phật.
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  2. #2

    Mặc định

    Lại thêm 1 thành phần bất hảo xuất thân từ Phật tử nữa sao? Cảm thấy thật tội nghiệp và thương hại.

  3. #3

    Mặc định

    có vay có trả thôi bạn ơi
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  4. #4

    Mặc định

    Trần Nhân Tông – Đức Vua, Phật hoàng của dân tộc Việt

    Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm Giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn Phật giáo là Quốc giáo.

    Trong diễn văn của Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại buổi khai mạc Đại lễ Phật Đản Liên Hợp Quốc 2008 tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình Hà Nội, sáng ngày 14.5.2008 đã khẳng định:

    “Việt Nam là đất nước đa tôn giáo mà đạo Phật là tôn giáo có mặt rất sớm từ gần 2000 năm trước. Ngay từ buổi đầu tiên, với tư tưởng Từ bi, hỷ xả, Phật giáo đã được nhân dân Việt Nam đón nhận, luôn đồng hành cùng dân tộc với phương châm nhập thế, gắn bó giữa Đạo và Đời phấn đấu vì hạnh phúc an vui cho con người. Trong các thời đại, thời nào lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những nhà Sư đại đức, đại trí đứng ra giúp đời, hộ quốc, an dân. Đặc biệt lịch sử Việt Nam mãi mãi ghi nhớ công lao của vị vua anh minh Trần Nhân Tông có công lớn lãnh đạo nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Khi đất nước thái bình, Người nhường ngôi từ bỏ giàu sang, quyền quý, tìm đến nơi non cao Yên Tử để học Phật tu hành, sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm, một dòng Thiền riêng của Việt Nam tồn tại mãi tới ngày nay.”

    Sách Đại Việt Sử ký toàn thư ghi: Vua Trần Nhân Tông tên “húy là Khâm, con trưởng của Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong năm thứ 8, tháng 11, ngày 11, được tinh anh thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng. Hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử. Trên vai bên trái có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn, ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức Lăng. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần”.

    Nhân dịp kỷ niệm 700 năm ngày nhập niết bàn của Phật hoàng Trần Nhân Tông, đức vua Phật của dân tộc Việt (16.11.1308-16.11.2008) ôn lại cuộc đời của Ngài để chúng ta tự hào về con người Việt, văn hóa, Phật giáo Việt Nam.

    Vua Trần Nhân Tông là một con người có thật trong lịch sử bằng xương, bằng thịt như bao con người bình thường khác, sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long.

    Năm 1284 được tin quân giặc tập trung ở Hồ Nam tới 50 vạn tên, Vua Nhân Tông liền trao cho Trần Quốc Tuấn chức Quốc công tiết chế tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang để lo chống giặc. Ngoài ra Trần Nhân Tông còn tổ chức triệu tập các bô lão về họp ở điện Diên Hồng để hỏi ý kiến về đường lối giữa lúc nước sôi lửa bỏng. Hội nghị Diên Hồng là một đại hội đại biểu nhân dân thời ấy, đã bày tỏ quyết tâm sắt đá của toàn dân đánh giặc đến cùng, đem lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân Đại Việt.

    Sau khi chiến thắng giặc ngoại xâm Nguyên Mông, Vua nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, từ bỏ ngai vàng, vào Yên Tử tu hành rồi hiển Phật… - một Hoàng Đế minh quân kỳ tài, góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần, tạo đỉnh cao nền văn minh Đại Việt. Triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm 1225 đến năm 1400 và trải qua 14 đời vua. Trần Nhân Tông là đời vua thứ 3, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua cha là Trần Thánh Tông.

    Ngài sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258, tức vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ và mất ngày 16 tháng 11 năm 1308 tức vào ngày 03 tháng 11 năm Mậu Thân.

    Thuở nhỏ, nhà vua thường theo vua cha lên chơi núi Yên Tử, sớm bộc lộ chí xuất gia tu hành. Năm 16 tuổi, được vua cha lập làm Hoàng Thái tử, Ngài hai lần cố xin nhường ngôi lại cho em là Đức Việp, nhưng Vua Trần Thánh Tông không cho, vì thấy Ngài có khả năng gánh vác việc lớn.

    Năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi báu (1297) và đã làm vua suốt 14 năm. Ngài là bậc minh quân có biệt tài kinh bang tế thế, có công lớn trong việc lãnh đạo toàn dân hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, xây dựng đất nước phồn vinh.

    Tháng 7 năm 1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am và theo Thánh Đăng Lục tháng 10 năm ấy Vua len núi Yên Tử xuất gia tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Mười lăm năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, cũng là mười lăm năm vua Nhân Tông tu hành.

    “Thế tôn bỏ ngai vàng quý báu, nửa đêm vượt thành, bỏ áo rồng cao sang, non xanh cắt tóc, mặc chim thước làm tổ trên đỉnh đầu, mặc con nhện chăng tơ trên vai cánh, tu pháp tịch diệt để tỏ đại chân như, dứt cõi trần duyên mà thành bậc chính giác. Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế ra khỏi cõi trần, thoát vòng tục lụy, bỏ chốn cung vua ra giữa sơn môn…”

    “Công danh chẳng trọng.

    Phú quý chẳng màng.

    Tần Hán xưa kia,

    Xem đà hèn hạ.

    Yên bề phận khó,

    Kiếm chốn dưỡng thân.

    Khuất tịch non cao.

    Náu mình sơn dã.

    Vượn mừng hủ hỷ

    Làm bạn cùng ta.

    Vắng vẻ ngàn kia

    Thân lòng hỷ xả.

    Rồi

    Dốc chí tu hành

    Giày sồi, áo vá



    Thân này chẳng quản,

    Bữa đói, bữa no.

    (Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, Trần Nhân Tông)

    Có điều, nhà vua không phải cứu đời theo cách của một vị Vua, mà theo cách của bậc thánh nhân, bậc vĩ nhân. Bởi vì làm vua chỉ chăn dân trăm họ, làm Phật cứu độ cả muôn loài. Tấm gương Phật hoàng tuy ẩn mà hiện, tuy mờ mà lại sáng. Ngài vượt qua cái bình thường để trở thành cái phi thường. Cho nên, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước, bao người đã làm vua. Song có ai được mọi người ngưỡng vọng, tôn thờ và nhớ mãi như Phật hoàng Trần Nhân Tông?

    Nếu ngày xưa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo thành Phật là nhờ vào phép tu Thiền Định dưới gốc cây Bồ Đề thì Vua Trần Nhân Tông cũng tu thiền, luyện pháp tu thiền để đạt đạo. Thiền (Dhyana) là sự tập trung tư duy cao độ, được các nhà tu hành thực hiện bằng cách ngồi im lặng (tĩnh tọa) gọi là tọa thiền, tham thiền, nhập định hay thiền định.

    Tinh thần Thiền Trúc Lâm của Ngài đã thể hiện trong bài kệ:

    Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

    Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

    Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

    Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

    居塵樂道

    居塵樂道且隨緣

    饑則飧兮困則眠

    家中有宝休寻覓

    对鏡無心莫問禪

    Tạm dịch:

    Sống ở trên đời theo với hoàn cảnh mà vui với đạo

    Đói thì ăn, mệt thì ngủ

    Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm

    Đứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi Thiền là gì.

    Dịch thơ:

    Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên,

    Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền.

    Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

    Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.

    Giáo pháp của Đạo Phật có tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, giống như nhiều dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển, giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật tại tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tịnh thì lập tức thành Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn Thiền Định đứng ngoài kinh luận. Chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tổ để làm phương pháp truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ khi nào đôi bên hiểu nhau, thông cảm đạo lý, truyền thụ được chân lý thì mới thực hiện được phép tâm truyền.

    Trong khi tham thiền nhập định người tu hành dùng phép điều thân và điều tâm. Điều thân bằng cách tiết chế sự ăn uống, hơi thở và cơ thể theo những cách thức nhất định của phép tu Thiền Định. Điều tâm bằng cách đưa tâm mình trở về một trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối, không nghĩ việc dữ lành, thoát ly những ý niệm mê ngộ, sinh tử, tiến đến mà an trú vào cảnh giới tuyệt đối, dẹp trừ ý niệm và ngôn ngữ: trừ tuyệt tâm tư. Cả thân lẫn tâm trở về với trạng thái an lạc, tĩnh lặng. Đến một lúc nào đó, tất cả các ý niệm đều tiêu tán, hơi thở cũng gần như đoạn tuyệt, chỉ có một trạng thái sáng suốt, bên trong không thấy có thân tâm, bên ngoài không thấy có thế giới, đó chính là cảnh giới ngộ đạo.

    Người tu theo pháp môn Thiền Định rất cần một nơi yên tĩnh, thanh tịnh để ngồi thiền. Núi rừng Yên Tử cách biệt với phàm trần là một nơi lý tưởng để tu thiền.

    Không bàn tới yếu tố tĩnh mịch, linh thiêng của ngọn núi này mà xét tới tính khoa học của vấn đề, các nhà nghiên cứu cho rằng: Những quả núi lâu đời giống Yên Tử như Hy Mã Lạp Sơn (Tây Tạng), Phú Sỹ (Nhật Bản)… đều có lực từ trường khá lớn. Những luồng điện này sẽ làm tăng thêm lực cho dòng lưu nhân điện trong thân thể những người ngồi thiền nơi núi đó. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nhập định và thành đạo dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, cạnh núi Tượng Đầu. Sau khi đắc đạo, ngài vẫn thường cùng với các đệ tử ngồi thiền định trên non Linh Thứu.

    Vua Trần Nhân Tông về Yên Tử, bởi nơi này thuở trước, đã lưu danh kỳ tích An Kỳ Sinh tu tiên.

    Người tu thiền theo chính pháp và đạt đạo có được những quyền năng siêu việt mà người thường không dễ gì có được. Truyền thuyết Phật giáo truyền rằng:

    Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du hành các cõi Phật. Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi Phật đến quốc độ của Đức Phật Thích Ca có tầm âm vang xa.

    Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng vâng mệnh của Đức Phật Thích Ca xuất thân từ hư không bay vào trong ngục giảng thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-Ta La là vua nước Ma-Kiệt-Đà đang bị giam cầm. Tôn giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi Phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp người về trước, Tôn giả A Nan Đà nhìn thấy cõi Tây Phương Cực lạc mà ở đó Đức Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có phép tha tâm thông nên từ xa đã đọc được tư tưởng của đại đệ tử Tu-Bồ-Đề. Các nhà sư tu Thiền khẳng định rằng: Tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông tỏ.

    Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn kính. Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.

    Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm Giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn Phật giáo là Quốc giáo. Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực. Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần Nhân Tông trở về ngôi tôn quý Nhà Phật. Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc chết, Vua Trần Nhân Tông mới hóa Phật. Danh hiệu Vua Bụt (Phật Hoàng) đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.

    “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”. (Thiền Tông chỉ nam)

    “Niên thiếu hà tằng liễu sắc không.

    Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.

    Như kim khám phá Đông hoàng diện

    Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.”

    (Xuân Vãn, Trần Nhân Tông)

    春晚

    年少何曾了色空,

    一春心事百花中?

    如今勘破東皇面,

    禪板蒲團看墜紅?

    Tạm dịch:

    Thuở bé đâu từng rõ sắc không

    Xuân về rộn rã nức trong lòng.

    Chúa Xuân nay bị ta khám phá,

    Ngồi lặng nhìn xem rụng cánh hồng.

    Kỷ niệm 700 năm ngày nhập diệt của Phật hoàng Trần Nhân Tông là một sự kiện có nhiều ý nghĩa, theo nguyện vọng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Thủ tướng chính phủ đã có chỉ đạo “Giao Ban Tôn giáo chủ trì phối hợp Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Viện Khoa học xã hội Việt Nam và Ủy ban Nhân Dân tỉnh Quảng Ninh giúp Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức Lễ tưởng niệm và Hội thảo Khoa học 700 năm ngày mất của Đức Vua Trần Nhân Tông”, giờ đây hàng triệu cháu con của Rồng Tiên đất Việt và bạn bè bốn phương lại có dịp về Yên Tử lễ Phật, vãng cảnh.

    Tưởng niệm Phật hoàng Trần Nhân Tông. Ông vua đã khước từ phú quý, vinh hoa, tước vị cao sang, giã biệt chốn phồn hoa, lên non xanh Yên Tử tu hành, trút bỏ một cuộc sống của người thường để trở thành mộ đức Đại Hùng, Đại Lực, Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng, xứng danh là Đức Phật của dân tộc Việt Nam..
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  5. #5

    Mặc định

    Tục ngữ Việt có câu:
    Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
    Người trong một nước phải thương nhau cùng.
    Thế mà những người theo CG là tự nhận là thế hệ sau của cái ông David là dân du mục mãi tận bên Trung Đông.


  6. #6

    Mặc định

    Trần Nhân Tông, một ông Vua - Phật
    Triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm 1225 đến năm 1400 và trải qua 14 đời vua. Trần Nhân Tông là đời vua thứ 3, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua cha là Trần Thánh Tông.

    Chẳng phải siêu nhân do truyền thuyết thêu dệt, một con người có thật trong lịch sử bằng xương bằng thịt, sinh ra và lớn lên tại kinh đô Thăng Long. Sau khi đã hoàn thành sự nghiệp vẻ vang; đánh đuổi ngoại xâm, đem lại quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân Đại Việt, đã từ bỏ ngai vàng, vào Yên Tử tu hành rồi hiển Phật… Đó là Đức Vua Trần Nhân Tông - một Hoàng Đế minh quân kỳ tài, góp phần tô thêm trang sử vàng chói lọi của dân tộc thời nhà Trần, tạo lập đỉnh cao nền văn minh Đại Việt.


    Triều đại nhà Trần kéo dài 175 năm, từ năm 1225 đến năm 1400 và trải qua 14 đời vua. Trần Nhân Tông là đời vua thứ 3, sau ông nội là vua Trần Thái Tông và vua cha là Trần Thánh Tông.
    Ngài sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258, tức vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ và mất ngày 16 tháng 11 năm 1308 tức vào ngày 03 tháng 11 năm Mậu Thân.
    "Khi đức vua sinh ra, được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, gọi là kim Tiên Đồng Tử, ở vào bên tả có nốt ruồi đen" (1).
    Thuở nhỏ, nhà vua thường theo vua cha lên chơi núi Yên Tử, sớm bộc lộ chí xuất gia tu hành.
    Năm 21 tuổi, Ngài được vua cha truyền ngôi báu (1297) và đã làm vua suốt 14 năm trời. Vì là bậc minh quân có biệt tài kinh bang tế thế, Ngài có công lớn trong việc lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, xây dựng đất nước phồn vinh.
    Mười lăm năm ở ngôi Thái Thượng Hoàng, cũng là mười lăm năm vua Nhân Tông tu hành và hiển Phật.
    "Thế tôn bỏ ngai vàng quý báu, nửa đêm vượt thành, bỏ áo rồng cao sang, non xanh cắt tóc, mặc chim thước làm tổ trên đỉnh đầu, mặc con nhện chăng tơ trên vai cánh, tu pháp tịch diệt để tỏ đại chân như, dứt cõi trần duyên mà thành bậc chính giác. Đức tổ ta là Điều Ngự Nhân Tông Hoàng đế ra khỏi cõi trần, thoát vòng tục lụy, bỏ chốn cung vua ra giữa son môn…"
    Vua Trần đi tu, không phải để trốn đời, yếm thế, mà đi tu để nhập thế, cứu đời. Có điều, nhà vua không phải cứu đời theo kiểu của một ông Vua, mà là theo kiểu của thánh nhân.
    Làm vua chỉ chăn dân trăm họ. Làm Phật cứu độ cả muôn loài bởi. Bởi vậy, tấm gương Vua Phật tuy ẩn mà lại hiện, tuy mờ mà lại sáng. Ngài bứt khỏi cái bình thường để vượt lên trở thành cái phi thường.
    Bởi thế, hàng ngàn năm qua, bao triều đại thịnh suy trị vì đất nước này, bao người đã làm vua. Song có ai được nhân gian ngưỡng vọng, tôn thờ như Vua Phật Nhân Tông?
    Vua Trần đi tu, không để tự biến mình thành lính gác biên thùy như lời nhận định của Hải Lượng Thiền sư - người tự coi mình là đệ tử Tổ Trúc Lâm vào thế kỷ 18: "Người ta thấy Điều Ngự Đệ nhất Tổ đến chùa Hoa yên thì bảo là ngài xuất gia. Ta biết rằng Đức Ngài lúc bấy giờ biết xem thiên hạ là công, trong nước vô sự, nhưng ở phía bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, sợ người ta dao động, cho nên nhằm được ngọn núi Yên Tử là núi cao nhất, phía đông nhìn về Yên Quảng, phía bắc liếc sang hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, dựng lên ngôi chùa, thường thường dạo chơi để xem động tĩnh cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm".
    Một ông vua biểu trưng cho quyền lực quốc gia, trong tay có hàng vạn binh mã. Quốc gia lâm nguy mỗi người dân trở thành một chiến sỹ… đâu lại trở thành một cái tôi hữu hạn biến mình thành lính gác biên thùy.
    Thực ra, đỉnh núi Yên Tử - nơi Vua Phật tu hành - không đủ cao để nhìn tới tận biên cương phương bắc; không thể nhìn xa tận biển Đông. Cái nhìn hạn hẹp, cách lý giải chủ quan của người đời sau như trên mà ngày nay chúng ta cứ mặc nhiên công nhận đã làm giảm sút, lệch lạc cái động cơ và mục đích tu hành rất cao cả, thiêng liêng của Vua Phật Nhân Tông. Việc coi Vua Trần trở thành người lính gác biên thùy có thế là ý tưởng đẹp đẽ theo kiểu tư duy thời chiến tranh, có tác dụng giáo dục bao thế hệ biết hy sinh cho cuộc sống yên bình hưởng lạc, xông pha nơi bom đạn chiến trường, song vô tình đã làm giảm đi cái đẹp lớn lao của ông Vua hóa Phật.
    Điều này dễ hiểu, vì lúc xuất gia, Vua Trần không nói cho ai biết vì sao mình lại đi theo gót chân Bụt, và vì sao lại chọn về Yên Tử… để đời sau mặc sức luận bàn.
    Phải chăng Yên Tử có đủ những điều kiện để giúp cho những bậc tu hành trì đắc đạo, không kém gì xứ sở Phật đà Giá La (NairanJana) của Đức Phật Thích Ca?
    Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo thành Phật là nhờ vào phép tu Thiền Định dưới gốc cây Bồ Đề. Vua Trần cũng tu thiền, lấp pháp tu thiền để đạt đạo.
    Thiền (Dhyana) là sự tập trung tư duy cao độ, được các nhà tu hành thực hiện bằng cách ngồi im lặng (tĩnh tọa) gọi là tọa thiền, tham thiền nhập định hay thiền định.
    Phật giáo ngày nay chia thành 10 giáo pháp khác nhau, giống như 10 dòng sông về chung một bến bờ giác ngộ và giải thoát. Các giáo phái khác dựa vào kinh điển, giáo lý Phật dạy để tu trì, Giáo phái Thiền chủ trương dùng tâm mà truyền tâm. Phật ở trong tâm. Tâm tức Phật. Phật tức Tâm. Nếu ai thấy được tâm tính thì lập tức thành Phật. Thiền phái cho rằng tất cả kinh điển chẳng qua như ngón tay chỉ mặt trăng. Đến như mặt trăng chân lý thì chúng ta không thể dùng văn tự ngôn ngữ mà diễn tả hay hiểu rõ được. Vì thế, người tu hành theo pháp môn thiền định đứng ngoài kinh luận. Họ chỉ dùng phép tâm ấn của Phật tỏ để làm môn đơn truyền tâm cho thế hệ sau. Chỉ khi nào đôi bên tâm đầu ý hợp, thông cảm đạo lý, truyền thụ đượ chân lý thì mới thực hiện được phép tâm truyền.
    Trong khi tham thiền nhập định người tu hành dùng phép điều thân và điều tâm. Họ điều thân bằng cách tiết chế sự ăn uống, hơi thở và cơ thể theo những cách thức nhất định của phép tu thiền định. Họ điều tâm bằng cách đưa tâm mình trở về một trạng thái tĩnh lặng tuyệt đối, không nghĩ việc dữ lành, thoát ly những ý niệm mê ngộ, sinh tử, tiến đến mà an trú vào cảnh giới tuyệt đối, dẹp trừ ý niệm và ngôn ngữ: trừ tuyệt tâm tư. Cả thân lẫn tâm trở về với trạng thái hoan lạc tĩnh lặng. Đến một lúc nào đó, tất cả các ý niệm đều tiêu tán, hơi thở cũng gần như đoạn tuyệt chỉ có một trạng thái sáng suốt, bên trong không thấy có thân tâm, bên ngoài không thấy có thế giới, đó chính là cảnh giới ngộ đạo.
    Người tu theo pháp môn Thiền Định rất cần tới một nơi yên tĩnh, thanh tịnh để ngồi thiền. Núi rừng Yên Tử cách biệt với phàm trần là một nơi lý tưởng để tu thiền.
    Không bàn tới yếu tố tĩnh mịch, linh thiêng của ngọn núi này mà xét tới tính khoa học của vấn đề, các nhà nghiên cứu cho rằng: Những quả núi lâu đời giống Yên Tử như Hy Mã Lạp Sơn (Tây Tạng), Phú Sỹ (Nhật Bản)… đều có lực từ trường khá lớn. Những luồng điện này sẽ làm tăng thêm lực cho dòng lưu nhân điện trong thân thể những người ngồi thiền nơi núi đó. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng nhập định và thành đạo dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, cạnh núi Tượng Đầu. Sau khi đắc đạo, ngài vẫn thường cùng với các đệ tử ngồi thiền định trên non Linh Thứu.
    Người ngồi thiền mặt quay về hướng nam, lưng xây về hướng bắc là tốt nhất. Khi ngồi, tư thế lưng phải thật thẳng đứng để cho luồng hỏa hấu của cơ thể lưu chuyển dễ dàng trong cột sống. Muốn vậy người ta phải kê gối ngồi thiền, hay tận dụng mặt bằng có độ dốc hơi nghiêng về phía trước. Vị trí ngồi thiền phải ở nơi thanh tịnh, thoáng khí trong lành. Môi trường ô nhiễm sẽ làm cho khí Prana trong cơ thể (được tạo ra sau khi tọa thiền) sẽ không được tinh khiết, bất lợi cho việc tạo luồng hỏa hầu trong cơ thể người thiền.
    Vạt núi sườn nàm của Yên Tử hợp cách rất tự nhiên giúp cho người thiền có được đầy đủ các điều kiện ngoại cảnh để tu thiền, như có lực từ trường, việc ngồi quay hướng nam, mặt dốc hơi nghiêng về phía trước tự nhiên và không khí trong lành, thanh tịnh.
    Vua về Yên Tử, bởi nơi này thủa trước, đã lưu danh kỳ tích An Kỳ Sinh tu tiên, đắc đạo. Cuối thời Lý có thiền sư Hiện Quang, đầu thời Trần có nhà thiền sư Đạo Viên, Tiêu Diêu. Đại Đăng là thầy độ của Điều Ngự Giác Hoàng cũng tu hành và đắc đạo ở đây. Cho nên, việc Đức Điều Ngự Giác Hoàng lựa chọn Yên Tử để tu hành không phải là vô căn.
    Người tu thiền theo chính pháp và đạt đạo có được những quyền năng siêu việt mà người thường không dễ gì có được. Phật giáo truyền rằng:
    Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Mục Kiền Liên có khả năng xuất thần du hành các cõi Phật. Xuống cả địa ngục để quan sát chúng sinh, bay qua mười ức cõi Phật đến quốc đọ của Đức Phật Thích Ca có tầm âm vang được bao xa.
    Nhờ phép tu Thiền Định, Tôn Giả Phú Lâu Na cùng Mục Kiều Liên đã từng vâng mệnh của Đức Phật Thích Ca xuât thân từ hư không bay vào trong ngục giảng thuyết pháp yếu và truyền trao tâm pháp yếu cho Vua Tần-Đà-TaLa là vua nước Ma-Kiệt-Đà đang bị giam cầm. Tôn Giả A Na Luật tuy bị mù lòa có khả năng thiên nhãn thông (nhìn xa ngàn dặm). Tôn giả Xá Lợi phất mắt có thể nhìn thấy 60 tiểu kiếp người về trước, Tôn giả A Nan Đà nhìn thấy cõi Tây Phương cực lạc mà ở đó Đức Phật A Di Đà đã phóng ra muôn vàn ánh hào quang rực rỡ. Đức Thích Ca Mâu Ni có phép tha tâm thông (thấy được lòng người khác) nên từ xa đã đọc được tư tưởng của đại lệ tử Tu-Bồ-Đề.
    Các nhà sư tu thiền khẳng định rằng: tuy ngồi thiền trong am cỏ Ngọa Vân trên đỉnh núi Yên Tử. Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đã dùng hào quang định lực của mình mà quán chiếu trong, ngoài, trên dưới, mọi sự với Ngài đều thông tỏ.
    Trên đỉnh núi Yên Sơn, cách biệt với kinh kỳ. Vua Phật Nhân Tông vẫn rõ được triều chính, nhiều lần về triều khuyên bảo vua Anh Tông tu dưỡng tâm tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm… xứng đáng trở thành bậc quân vương tôn kính. Ngài còn biết rõ được biên cương phương bắc, phương tây và phương nam, có được những quyết sách lớn lao và đúng đắn nhằm gìn giữ tình bang giao giữa các nước láng giềng và Đại Việt, giữ vững, nền an ninh chính trị nước nhà.
    Trên non Yên Tử, Ngài hoàn thiện hệ thống giáo lý của Pháp phái Trúc Lâm Giáo lý Trúc Lâm đã trở thành nền tảng tư tưởng và đạo đức của thời đại hoàng kim triều Trần, giai đoạn phật giáo là Quốc Đạo.
    Cho nên, việc từ bỏ ngôi vua vào núi để tu hành của Vua Trần Nhân Tông tưởng chừng xuất thế, nhưng đích thực lại nhập thế tích cực. Từ chức vụ cao sang của Nhà Vua, Vua Trần trở về ngôi tôn quý Nhà Phật. Nhà Vua từ cái nhất thời, hữu hạn mà trở về cái vô hạn, vĩnh hằng. Không phải lúc chết, Vua Trần mới hóa Phật. Cái tên Vua Bụt (Phật) đã được tôn vinh cho Vua Trần khi Ngài còn tại thế.
    "Bụt ở cung nhà, chẳng phải tìm xa. Nhân thiếu gốc nên ta tìm Bụt; Đến biét hay Bụt chính là ta" (2).
    Hàng năm, mỗi độ xuân về, hàng triệu cháu con của Rồng Tiên đất Việt và bạn bè bốn phương lại về Yên Sơn lễ Phật và vãng cảnh.
    Họ bồi hồi tưởng niệm đức Vua Trần. Một ông vua đã khước từ phú quý, vinh hoa, tước vị cao sang, giã biệt chốn phồn hoa đô hội lên non xanh Yên Tử tu hành, trút bỏ một cuộc sống lý tưởng của người thường để trở thành một đức Phật Đại Hùng Đại Lực, Đại Bi và Đại Trí, xứng danh là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của Việt Nam.
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  7. #7

    Mặc định

    phanquanbt sau "một màn nói xấu" dìm hàng đối thủ, rồi tranh thủ bày hàng ra bán trên mảnh đất mà mình mới...chiếm được. Đẹp mặt nhỉ?
    Các tầng trời biểu hiện vinh quang Đức Chúa
    Khắp không gian loan báo sự việc bởi tay Ngài
    Ngày lại ngày, chúng không ngừng lên tiếng.
    Đêm từng đêm, kiến thức chúng phơi bày.
    ...
    (trích Thánh Vịnh 19)

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    việt nam là nước đa tính ngưỡng nhưng niềm tin lại được đặt không đúng chổ bị lợi dụng của các tôn giáo khác làm đồng hóa dân việt chúng ta. thiên chúa giáo cũng là 1 hình thức đồng hóa dân việt 1 cách trá hình trong quá trình xâm lược việt nam mà dân việt không thấy đó là sai mà lại còn sùng đạo mê tín vô những tập tục của họ. nhiều tội ác đc gây ra cũng do những tín ngưỡng sai trái này gây ra vì họ sùng đạo họ tin vào chúa nên có làm ác cũng đc chúa rửa tội cho, còn đạo phật thì không có được. và việc tu hành theo đạo phật lại quá khó khăn với nhiều phàm nhân. mong sao dân việt chúng ta ngẩm ngiệm lại và đi theo con đường giác ngộ của Đức Phật.
    Ciến thắng vẻ vang nhỉ?
    Các tầng trời biểu hiện vinh quang Đức Chúa
    Khắp không gian loan báo sự việc bởi tay Ngài
    Ngày lại ngày, chúng không ngừng lên tiếng.
    Đêm từng đêm, kiến thức chúng phơi bày.
    ...
    (trích Thánh Vịnh 19)

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    ...

    B. 48 đại nguyện của đức Phật A-di-đà: Đức tin căn bản của Tịnh độ tông được dựa trên nguyện lực của đức Phật A-di-đà. Vì thế, nội dung 48 lời nguyện của ngài từ khi còn hành đạo Bồ Tát là rất quan trọng để giúp người niệm Phật sinh khởi lòng tin. Bốn mươi tám lời đại nguyện này được ghi chép đầy đủ trong Đại A-di-đà kinh. Trong kinh Vô Lượng Thọ cũng có đủ 48 lời nguyện này, nhưng sự sắp xếp trật tự có phần khác và nội dung cũng có phần giản lược hơn. Để giúp quý độc giả tiện việc tham khảo, chúng tôi chọn dịch và giới thiệu nội dung 48 lời nguyện này theo kinh Đại A-di-đà, bản Hán văn do Quốc học Tiến sĩ Vương Nhật Hưu đời Tống hiệu chỉnh và biên tập.

    ...

    Đại nguyện thứ sáu: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều thương yêu kính trọng lẫn nhau, không có lòng ganh ghét oán giận. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.

    Đại nguyện thứ bảy: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều không có các tâm tham lam, sân hận và si mê. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.

    Đại nguyện thứ tám: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều cùng một tâm lành, không nghi ngờ lẫn nhau. Có điều gì vừa muốn nói ra thì tự nhiên đều hiểu được ý nhau. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.

    Đại nguyện thứ chín: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều không nghe biết đến những danh từ chỉ sự bất thiện, huống chi là thật có những điều ấy. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật. ...
    Bạch thầy phanquanbt...Em còn có một đại nguyện nữa là...xin thầy đừng làm mất mặt phật tử nũa ạ.
    Các tầng trời biểu hiện vinh quang Đức Chúa
    Khắp không gian loan báo sự việc bởi tay Ngài
    Ngày lại ngày, chúng không ngừng lên tiếng.
    Đêm từng đêm, kiến thức chúng phơi bày.
    ...
    (trích Thánh Vịnh 19)

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Stromatolites Xem Bài Gởi
    Bạch thầy phanquanbt...Em còn có một đại nguyện nữa là...xin thầy đừng làm mất mặt phật tử nũa ạ.
    Thế sáng con soi guơng bản mặt con còn đó không,
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    Thế sáng con soi guơng bản mặt con còn đó không,
    Wow, thật là thâm thúy. đệ tử xưa nay chấp mê cứ tưởng xách mé, chà đạp người khác để vươn cao cao bản thân mình là mất mặt. Không ngờ pháp của thày phanquanbt thật là vô vi diệu vợi, đã khai mở cho đệ tử biết cách soi gương để khai thông mở thần nhãn mới biết ...mặt mình vẫn còn(????). Quả là uyên thâm, uyên bác.

    Bạch thầy phán quan, xin thầy hãy thu nạp đệ tử và truyền lại pháp của thầy cho đệ tử tu luyện nhé. Bái phục, bái phục
    Các tầng trời biểu hiện vinh quang Đức Chúa
    Khắp không gian loan báo sự việc bởi tay Ngài
    Ngày lại ngày, chúng không ngừng lên tiếng.
    Đêm từng đêm, kiến thức chúng phơi bày.
    ...
    (trích Thánh Vịnh 19)

  12. #12

    Mặc định

    [QUOTE=Stromatolites;1459757.

    Bạch thầy phán quan, xin thầy hãy thu nạp đệ tử và truyền lại pháp của thầy cho đệ tử tu luyện nhé. Bái phục, bái phục [/QUOTE]

    Phanquan se thu nhân con ta chẵn có pháp nào gọi là vi diệu cả, ta có thể dạy con làm con người như thế nào là trung quân ái quốc thế nào là tôn kính các tiền nhân,biết ơn các tiền nhân,uống nưới nhớ nguồn,vậy con muốn học không
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  13. #13

    Mặc định

    cái này là box Công Giáo, bạn cũng không nên quảng cáo như vậy, cũng không hay.

  14. #14

    Mặc định

    Tại sao khi đi lễ nhà thời, cha xứ vẫn giảng nên coi những người đạo Phật là anh em. Không nên khinh bác đạo nghĩa của họ. Đạo của ai người đó giữ. Còn ở đây một tên "đắc đạo" lại hàm hồ ngông cuồng.

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    Phanquan se thu nhân con ta chẵn có pháp nào gọi là vi diệu cả, ta có thể dạy con làm con người như thế nào là trung quân ái quốc thế nào là tôn kính các tiền nhân,biết ơn các tiền nhân,uống nưới nhớ nguồn,vậy con muốn học không
    THÌ TRUNG QUÂN ÁI QUỐC. QUÂN LÀ VUA. Vua chúng ta, nhân loại trên trái đất, LÀ THƯỢNG ĐẾ HẰNG SỐNG HẰNG TRỊ. Ái quốc là YÊU MẾN NƯỚC CHÚA, NƯỚC TRỜI, KO CÓ CHÍNH TRỊ ĐẢNG PHÁI NÓI DÓC THAM NHŨNG . Những thứ phù du KO BAO GIỜ "MUÔN NĂM" ĐƯỢC THÌ TRUNG VỚI ÁI VỪA VỪA THÔI. Ví dụ nước Tàu ngày xưa là mấy nước riêng. Bị Tần Thủy Hoàng gom lại THÌ SAO NÀO? Truyền thống tổ tiên cũng lơ mơ chẳng biết GỐC LÀ Đâu? GỐC LINH HỒN CHUẨN NHẤT

  16. #16
    Đai Xanh Avatar của remytran
    Gia nhập
    Jun 2012
    Nơi cư ngụ
    Đường Đời
    Bài gởi
    157

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    việt nam là nước đa tính ngưỡng nhưng niềm tin lại được đặt không đúng chổ bị lợi dụng của các tôn giáo khác làm đồng hóa dân việt chúng ta. thiên chúa giáo cũng là 1 hình thức đồng hóa dân việt 1 cách trá hình trong quá trình xâm lược việt nam mà dân việt không thấy đó là sai mà lại còn sùng đạo mê tín vô những tập tục của họ. nhiều tội ác đc gây ra cũng do những tín ngưỡng sai trái này gây ra vì họ sùng đạo họ tin vào chúa nên có làm ác cũng đc chúa rửa tội cho, còn đạo phật thì không có được. và việc tu hành theo đạo phật lại quá khó khăn với nhiều phàm nhân. mong sao dân việt chúng ta ngẩm ngiệm lại và đi theo con đường giác ngộ của Đức Phật.
    Tôi là bạn thì tôi "ứ chơi" thứ ngôn ngữ đang sử dụng từ 500 năm nay và hiện tại bạn đang sử dụng đấy! Vì chữ Quốc ngữ hình thành cũng nhờ rất nhiều công sức của các giáo sĩ dòng Tên, Hội Thừa sai Paris. Hóa ra bạn chỉ giỏi "chửi" và chê người khác.
    Là dân "vô thần", tôi chỉ thích tìm hiểu, nên nhận thấy ở đạo Công giáo yếu tố huyễn hoặc, mê tín dị đoan xem ra nhẹ nhàng hơn "đạo Phật của thời nay".
    To Be Or Not To Be

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi remytran Xem Bài Gởi
    Tôi là bạn thì tôi "ứ chơi" thứ ngôn ngữ đang sử dụng từ 500 năm nay và hiện tại bạn đang sử dụng đấy! Vì chữ Quốc ngữ hình thành cũng nhờ rất nhiều công sức của các giáo sĩ dòng Tên, Hội Thừa sai Paris. Hóa ra bạn chỉ giỏi "chửi" và chê người khác.
    Là dân "vô thần", tôi chỉ thích tìm hiểu, nên nhận thấy ở đạo Công giáo yếu tố huyễn hoặc, mê tín dị đoan xem ra nhẹ nhàng hơn "đạo Phật của thời nay".
    Không có chữ quốc ngữ thì dân Việt vẫn dùng chữ Khoa Đẩu hoặc loại chữ biến thế của chữ Khoa Đẩu mà giáo sĩ Alếch-xăng-đờ-rốt học của đứa trẻ để soạn ra chữ tượng thanh ký tự La tinh.
    Tự nhận là "vô thần" nhưng những câu viết của remytran chứng tỏ remytran chẳng biết gì về Đạo Phật là đạo duy vật cả.
    Last edited by Nhật Nam; 14-04-2014 at 10:38 PM.

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    Phanquan se thu nhân con ta chẵn có pháp nào gọi là vi diệu cả, ta có thể dạy con làm con người như thế nào là trung quân ái quốc thế nào là tôn kính các tiền nhân,biết ơn các tiền nhân,uống nưới nhớ nguồn,vậy con muốn học không
    Bạch thầy, con cũng thừa biết thày chẳng có pháp nào ngoài pháp đố kỵ, ghen tuông, ấm ức...cả. Các bậc tiền nhân thì ai chẳng kính, lúc nào con chẳng trung quân ái quốc, mặc dù bị bóc lột, xã hội rác rưởi, trộm cướp cũng được tôn vinh. thế nhưng con vẫn một lòng ái quốc, trung quân đấy ạ. Con vẫn uống nước nhớ nguồn đấy chứ. nguồn là do con làm ra nhưng bị ăn cướp mất thì sao mà không nhớ được nhỉ.
    Các tầng trời biểu hiện vinh quang Đức Chúa
    Khắp không gian loan báo sự việc bởi tay Ngài
    Ngày lại ngày, chúng không ngừng lên tiếng.
    Đêm từng đêm, kiến thức chúng phơi bày.
    ...
    (trích Thánh Vịnh 19)

  19. #19

    Mặc định

    những người ngu dốt mới phát biểu những câu nói đó. Sao không suy nghĩ phật giáo có phải xuất phát từ Việt Nam hay không hay là từ Ấn Độ và Trung Quốc. Những phát biểu trên tự cho mình là người ngu dốt cũng chẳng phải là người của phật giáo. Đúng là ngũ ngu đần cứ phát ngôn mãi mà chẳng biết nhục.

  20. #20

    Mặc định

    Điều gì còn băn khoăn về Phạm Quỳnh?
    ngominh | 17 Apr, 2014, 09:24 | DIỄN DÀN | (1089 Reads)


    QTXM- Bạn đọc thân mến. NXB Tri Thức chỗ anh Chu Hảo vừa ấn hành cuốn sách mới của nhà văn Tô Nhuân Vỹ có đầu đề rất luận bàn : BẢN LĨNH VĂN HÓA. Đây là những vài viết, tiểu luận nhà văn viết trong nhiều năm qua, rất tâm huyết, gửi NXB nào họ cũng “sợ”, may có TRi THức cuốn sách mới đến với bạn đọc. Gần đây một số tờ báo như Hồn Việt, Văn nghệ TP HCM đã in lại những bài viết "đánh" cụ Phạm Quỳnh. Chúng tôi xin in bài viết của nhà văn Tô Nhuận Vỹ trong BẢN LĨNH VĂN HÓA để nói rõ quan điểm, đả phá tư tưởng cổ hũ một thời , rằng “ai không theo ta là địch”.

    Điều gì còn băn khoăn về Phạm Quỳnh?

    Tô Nhuận Vỹ
    Đã có quá nhiều bài viết, nhiều dẫn chứng sinh động, cả trong nước và nước ngoài, và ngay ở cuốn sách của tác giả Nguyễn Văn Khoan, về sự đóng góp của Phạm Quỳnh cho Văn hóa Việt Nam. Tôi chỉ xin đi thẳng vào vấn đề cụ thể.

    1. Điều gì còn băn khoăn về Phạm Quỳnh?

    + Đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều cuộc kỷ niệm về Phạm Quỳnh, đã có nhiều nhà xuất bản đã in lại nhiều tác phẩm của Phạm Quỳnh sau năm 1975… khẳng định sự đóng góp to lớn của Phạm Quỳnh đối với sự gìn giữ, phát huy nền quốc ngữ, nền văn học văn hóa dân tộc.

    + Ai cũng biết, băn khoăn còn lại, tựu trung là Phạm Quỳnh đã từng trực tiếp hợp tác với Pháp (Từ Nam Phong cho đến việc tham chính ở cấp cao nhất của chính quyền do Pháp lập nên).

    2. Với điều băn khoăn này, suy nghĩ của tôi là:

    + Trong suốt chiều dài lịch sử, đất nước ta liên tục bị các thế lực lớn mạnh bên ngoài chế áp, xâm chiếm. Lực lượng tiên tiến nhất, quyết liệt nhất của nhân dân yêu nước là cầm súng chiến đấu, nhưng không phải tất cả nhân dân yêu nước đều ra Liên phòng, lên chiến khu, lên R. Nhiều người phải ở lại vùng địch, buộc phải liên quan tới địch, thậm chí làm cho địch. Nhưng không phải tất cả những người ở lại đó đều không yêu nước, đều theo địch. Bác Hồ còn nói “yêu nước tùy theo sức của mình”. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn là cực khó, không phải ai cũng làm được. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã chỉ rõ: không phải chỉ có những người cộng sản mới yêu nước. Sự giỏi dang nhất là người cộng sản đã tập hợp được cả những người không ưa cộng sản trong mặt trận chống Mỹ, đến cả tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn cũng có hành động có lợi cho Cách mạng. Đó chính là TẦM NHÌN HỒ CHÍ MINH trong việc đãi cát tìm nhân tài, trong việc đoàn kết dân tộc, đặc biệt trong việc đối xử với các nhân vật lớn mà cả “địch” và “ta” đều chú ý.

    Với Phạm Quỳnh, Bác Hồ đã thảng thốt khi nghe tin ông bị giết.

    Điều gì còn băn khoăn về Phạm Quỳnh? “Giết một học giả như vậy thì nhân dân được gì? Cách mạng được ích lợi gì?” " Hỏi là đã trả lời,khẳng định: Phạm Quỳnh là một học giả và việc xử như vậy là một sai lầm. Với tầm nhìn đổi mới ấy, trong những năm qua, mặt bằng dân trí cũng như mặt bằng quan trí đã có những thay đổi lớn trong việc thẩm định nhiều giá trị văn hóa. Chúng ta đã trả lại đúng giá trị cho Phan Thanh Giản, Nguyễn Văn Tường, một số tác giả nhóm Nhân văn giai phẩm, cho Leopold Cadière…

    Tôi muốn nhắc lại trường hợp P. Cadière. Ông là inh mục được dòng chính thống Paris bổ nhiệm, theo chân đoàn quân thực dân Pháp đi truyền giáo xứ An Nam. Nhưng trên mảnh đất này, tâm hồn con người và đầu óc bác học của ông đã được “khai sáng”. Ông trở thành một nhà bác học lớn về xã hội học, dân tộc học, địa chất học, ngôn ngữ học, sinh vật học… của Việt Nam mà bao chục năm trời vì vấn đề chính trị (không phải là vô lý) mà chúng ta “quên” đi sự đóng góp vĩ đại của ông. Vừa qua, cuộc hội thảo đánh giá sự nghiệp của ông đã được tổ chức long trọng, chu đáo, trong ba ngày liền tại Huế

    . Hỏi là đã trả lời, khẳng đã chứng minh cho sự đúng đắn của tầm nhìn sáng . Khái niệm “địch”, “ta”, “bên này” “bên kia” trong nhiều trường hợp khi sử dụng phải hết sức cẩn trọng, trong đó yếu tố thời gian lịch sử nếu bỏ qua sẽ “là Acid Sunfuric phá hủy hết mọi giá trị”, như J. P.

    Cách nay hơn 30 năm, tôi có tiểu thuyết Ngoại ô, viết về cuộc sống của một vùng ngoại ô Huế sau giải phóng. Trong cuốn sách này có sự xung đột gay gắt giữa tư tưởng “ai không theo ta là địch” với tư tưởng “ai không theo địch là ta”. Cuối cùng tư tưởng “ai không theo địch là ta” thắng thế. Với Phạm Quỳnh, tôi nghĩ, với nhiều lý do chính đáng, đã đến lúc Nhà nước, ở đây là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cần kết luận và vinh danh chính thức sự đóng lớn lao cho văn hóa dân tộc của ông.

    Huế ngày 30/8/2012

    ( Trích sách BẢN LĨNH VĂN HÓA )

    ------------

    1 Nguyễn Văn Khoan, Phạm Quỳnh – Một góc nhìn, Nxb Công an nhân dân, 2011, tr.280.

    ( Tác giả gửi cho QTXM)

    http://ngominh.vnweblogs.com/post/2246/450794
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 09-01-2014, 05:02 PM
  2. Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 20-01-2013, 01:20 AM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 31-08-2012, 07:29 AM
  4. Nguyên Thủy Thiên Tôn Thuyết Thăng Thiên Đắc Đạo Chân Kinh--元始天尊說升天得道真經
    By The_Sun in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 02-09-2011, 05:31 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •