Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 28

Ðề tài: Nghi quỹ trì các minh chú Phật (dành cho chưa quán đảnh)

  1. #1

    Mặc định Nghi quỹ trì các minh chú Phật (dành cho chưa quán đảnh)

    NGHI THỨC CĂN BẢN HÀNH TRÌ CHÂN NGÔN

    * Thiết lập Đạo tràng, thiêu hương tán hoa, tu pháp Chân ngôn nào thì thờ Bổn tôn của Chân ngôn đó. nếu không đủ, thì thờ một Tượng Phật nào cũng được.

    * Hành giả phải tắm rửa sạch sẽ trước khi vào đạo tràng. trước Tôn tượng Bổn tôn ý chí phải kiên thành tưởng như có Bổn tôn trước mặt, tưởng như vậy xong chí thành đảnh lễ Tam Bảo. Trướccần phải đọc :

    1)- TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN :Om Rôm ;( 7 lần )
    ( Đọc Aum Raom với tất cả các câu chú đều đọc với tông trầm nốt Si giáng của octave thứ nhất của piano)
    2)- TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN :
    Om- Xoa-ba-va Sút-đa Sạt-va Đạt-ma Xoa-ba-va Xút-độ Ham ( 7 lần )

    3)- AN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN :
    Na-ma Sa-măn-tá Bút-đa-nâm. Om- Đờ-rịt Thi-vi-dê Xoá-ha ( 7 lần )

    4)- PHỔ CÚNG DƯỜNG CHÂN NGÔN :
    Om- Ga-ga-na Sam-ba-ra Vắc-ra Hốc ( 7 lần )

    Khi đọc chú nầy, tưởng hương hoa, đồ ăn uống dâng cúng biến ra rất nhiều cúng dường tất cả chư Phật, Hiền Thánh và lục đạo trong mười phương.

    5)- PHỔ LỄ CHÂN NGÔN :Om- Vắc-ra Vít ( 7 lần )
    Khi đọc chú nầy, tưởng than mình ở khắp các cõi nước mười phương đương đảnh lễ Chư Phật, Bồ tát v.v…

    6)- ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT, BỔN TÔN, TAM BẢO :

    Hành giả đảnh lễ xong, ngồi bán già hoặc kiết già trước Bổn Tôn, khởi công niệm tụng Đại Luân Kim Cang :

    Na-mát Xơ-tờ-ri-da Đi-vi-ca-nâm Ta-tha-ga-ta-nâm Am-vi-ra-ti Vi-ra-ti Ma-ha Chắc-cờ-ra Vắc-ra Xa-ta Xa-ta Xa-ra-tê Xa-ra-tê Tô-ra-di Tô-ra-di Vi-đa-ma-ni Xâm-bam-ra-ni Tờ-ra-ma-ni Xít-đa Gai-da Tô-ra-ni Xoá-ha ( 7 lần )
    ( Có bài chú nầy ở nơi khác :NAMO SITRYA TIVIKANAM TATHAGATANAM AUM VIRAJI VIRAJI MAHA CHAKRA VAJRI SADA SADA SATATI SARATI DARIYI DARIYI VIDAMANI SAM BAJNI TRAMATI SIDDHA GRIYA DERAM SVAHA)

    7)- KẾT ĐÀN CHÚ :Om- Vắc-ra Chắc-cờ-ra Hùm, Rắc Hùm , Vam Hốc( 7 lần )

    Khi đọc tụng 2 chú trên thì trên hư không Chư Phật sẽ vì hành giả kết Đàn , nếu không đủ phương tiện sắm sửa cúng dường ….đọc Chú nầy sẽ đầy đủ, mau thành sở nguyện.

    8)- TỐC TẬT THÀNH TỰU NHẤT THẾ CHÂN NGÔN :
    Om- Ta Ta Tu Ti Ti Ti Ti , Tu Tu Tu Tu Vắc-ra Xắc-đô Rắc Hùm Vam Hốc, Hờ-rịt Hắc Hùm Phạt Hùm( 21 biến )

    Tụng Chú nầy thì tu Chân ngôn mau thành tựu .

    9)- GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN :
    Hành giả hai tay nâng chuổi để trước ngực .
    Om- Vairocana Mala Svaha ( 7 lần )

    10)- CĂN BẢN CHÚ :
    Đến đây, là nghi lễ quy y tam bảo ,hành giả trì tụng một Chân ngôn nào nhất định mà hành trì . Có thể đó là Đại-bi Chú, Ngũ Bộ chú, Chuẩn-Đề v.v… tụng nhiều ít, tuỳ thời gian của mình. mỗi biến, Mỗi hột chuổi. Thông thường 108 biến một chuổi cho mỗi chân ngôn hay nhiều hơn tùy tâm tùy thời gian mình có hoặc chí ít thì cũng 21 biến cho mỗi câu chú rồi tùy duyên khi mình thấy tụng tăng số biến lên ở câu chú mà mình thích , tức đã gieo duyên với vị bổn tôn đó, chỉ cần thành tựu 1 chú là tất cả thành tựu chớ tham nhiều quá , sẽ không có lợi mà loạn tâm thêm.

    Sau khi tụng trì xong các chú tụng một biến bát nhã tâm kinh với câu chú , hoặc có thể quán tưởng sự ta thấy trước mặt là huyễn ảo , nhưng có cái ta không thấy nhưng lại là thật, ngũ uẩn ba đời quá khứ hiện tại vị lai đều là giai không, chẳng có gì là thật cả, mà cũng chẳng có gì là không thật cả , chẳng có chứng đắc mà cũng không có không chứng đắc, khi mắt tai mũi lưỡi bất động , thân về với đất , thì sắc thanh vị xúc pháp.... cũng chẳng còn, có thật ta chết hay không ? không có ! ta lại chuyển kiếp, do đó ý nghĩa của cái chết chỉ là bỏ xác thân mà thôi,cái mà ta cần có là bỏ đi , buông xả tất cả ,phá chấp trước để phá mê, để về với tự tánh lúc đó trí bát nhã mới là thật sự sáng suốt và vĩnh cửu trường tồn, nếu các vị đọc kinh mà không hiểu kinh nói gì, thì chỉ cần quán tưởng như trên rồi đọc 21 biến chú bát nhã , điều nầy giúp cho các vị thu được nhiều lợi lạc hơn là tụng kinh

    Gate gate para gate para sangate bodi sô ha
    Hay là thu gọn bát nhã tâm kinh như sau:

    Sắc không ngay ở sự đời
    Không là sắc đó, sắc đồng không đây
    Cùng không ngũ uẩn ba đời
    Chẳng thật chẳng giả đồng là như như
    Chứng gì mà cứ khư khư
    Chứng hay không đắc đồng cư đó mà
    Mắt, tai, mũi, lữơi lạnh tanh
    Sắc thanh vị xúc pháp hương không còn
    Xác thân tan rã, ta còn
    Chết hay không chết,tiếng đời mà thôi
    Buông ra, xả bỏ tâm ta
    Ngày càng tự tánh phơi bày trong tâm
    Trí bát nhã rạng ngời câu:
    Gate gate.......


    11) PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
    Quán tưởng trước mặt và trên hư không các pháp giới rất nhiều chúng sinh, giữa tim và rốn của hành giả có một giọt tâm màu đỏ, nhỏ như hạt mè, dứt mỗi câu chú sẽ lớn ra vô cùng (tùy sức quán của hành giả) dứt câu thi giọt tâm nhỏ lại, và cứ thế cứ thế.
    Mỗi cỏi 21 biến hay nhiều hơn:cỏi trời, cỏi atula, cỏi ngạ quỹ cỏi súc sinh, cỏi người, cỏi địa ngục

    Aum Bodhi Citta Mudpa dayami

    Quán tưởng trước mặt mình người ghét nhất, người yêu nhất, người chưa quen, phát tâm yêu quý họ như nhau.
    Quán tưởng trước mặt mình người giàu có , người nghèo , phát tâm yêu quý như nhau
    Quán trưởng trước mặt mình con chó , con chuột, con gián , phát tâm yêu chúng như nhau.
    ……..Tùy theo có thời gian thì quán tiếp…


    12)- PHỤNG TỐNG CHÂN NGÔN :
    Om- Vắc-ra Múc-cờ-xá-múc ( 7 lần )

    Niệm tụng xong, tụng Chú nầy đưa Bổn-Tôn Hiền Thánh trở về Bổn cung.

    Hành giả nếu kiêm niệm Phật tam muội thì tới đây, bưng chuổi mà niệm tiếp . Bằng không đứng dậy phát nguyện hồi hướng (13) mà ra Đạo tràng hoặc có thể chú vào ly nước cúng cam lồ darani rồi tung ra ngoài sân để bố thí cho atula , ngạ quỹ …..

    Nam Mô Turu ba gia đát tha yết đa gia, đát điệt tha, Aum tu ru tu ru, bà ra tu ru bà ra tu ru sô ha (7 biến)

    13) HỒI HƯỚNG
    Nguyện đem công đức tu tập nầy
    Hồi hướng khắp tất cả
    Đệ tử và chúng sinh
    Giai cộng thành phật đạo

    Bài nầy của huynh Phổ Quang đã post lên diễn đàn từ lâu , phần màu xanh là chú thích riêng của tôi.Chú ý khi trì tụng với nghi quỹ nầy có gặp sự lạ gì trong đời hay trong mơ cũng không được nói, nếu nói ra sẽ không bao giờ gặp vị thầy của mình cả.Hãy nhớ lời Phật dặn đừng tin những gì .......mà hãy quán chiếu xem đúng sai rồi hành theo.
    !,
    Last edited by Vân Quang; 25-06-2010 at 01:49 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  2. #2

    Mặc định

    Theo mình biết thì âm phạn chữ v thì đọc thành w
    2)- TỊNH TAM NGHIỆP CHÂN NGÔN :
    Om- Xoa-ba-va Sút-đa Sạt-va Đạt-ma Xoa-ba-va Xút-độ Ham
    (Um, Xoa Ba Qua Sút Đa Sát Toa Đa Rơ Ma Xoa Ba Qua Xút Độ Hăm)

    3)- AN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN :
    Na-ma Sa-măn-tá Bút-đa-nâm. Om- Đờ-rịt Thi-vi-dê Xoá-ha ( 7 lần )
    (Na Ma Sa Măn Ta Bút Đa Năm. Um Đu Ru Đu Ru Đi Ri Đi Ri Bơ Rịt Thi Qui Dê Sô Ha)

    4)- PHỔ CÚNG DƯỜNG CHÂN NGÔN :
    Om- Ga-ga-na Sam-ba-ra Vắc-ra Hốc ( 7 lần )
    (Um, Ga Ga Na Sam Ba Ra Qua Chơ Ra Hốc)

    5)- PHỔ LỄ CHÂN NGÔN :Om- Vắc-ra Vít ( 7 lần )
    (Um, Qua Chơ Ra Vít)

    6)- ĐẢNH LỄ CHƯ PHẬT, BỔN TÔN, TAM BẢO :
    Na-mát Xơ-tờ-ri-da Đi-vi-ca-nâm Ta-tha-ga-ta-nâm Am-vi-ra-ti Vi-ra-ti Ma-ha Chắc-cờ-ra Vắc-ra Xa-ta Xa-ta Xa-ra-tê Xa-ra-tê Tô-ra-di Tô-ra-di Vi-đa-ma-ni Xâm-bam-ra-ni Tờ-ra-ma-ni Xít-đa Gai-da Tô-ra-ni Xoá-ha ( 7 lần)
    (Nam Mô Sít Ti Ri Da Ti Qui Ca Năm Ta Tha Ga Ta Năm, Um, Qui Ra Chi Qui Ra Chi Ma Ha Chắc Cơ Ra Qua Ri, Sa Đa Sa Đa, Sa Ta Ti Sa Ra Ti, Đa Ri Di Đa Ri Di, Qui Đa Ma Ni, Sam Ba Quơ Ni Tờ Ra Ma Ti, Sít Đa, Gơ Ri Da, Đê Răm Sô Ha)

    7)- KẾT ĐÀN CHÚ :
    Om- Vắc-ra Chắc-cờ-ra Hùm, Rắc Hùm , Vam Hốc( 7 lần )
    (Um, Qua Chơ Ra Chắc Cơ Ra Hùm, Rắc Hùm, Quam Hốc)

    8)- TỐC TẬT THÀNH TỰU NHẤT THẾ CHÂN NGÔN :
    Om- Ta Ta Tu Ti Ti Ti Ti , Tu Tu Tu Tu Vắc-ra Xắc-đô Rắc Hùm Vam Hốc, Hờ-rịt Hắc Hùm Phạt Hùm( 21 biến )
    (Um, Ta Ta Tu Ti Ti Ti Ti , Tu Tu Tu Tu Qua Chơ Ra Xắc Đô Rắt Hùm Quam Hốc, Hờ Rì Hắc Hùm Phát Hùm)

    9)- GIA TRÌ SỔ CHÂU CHÂN NGÔN :
    Om- Vairocana Mala Svaha ( 7 lần )
    (Um, Quây Rô Cha Na Ma La Sô Ha)

    10)- CĂN BẢN CHÚ :
    Gate gate para gate para sangate bodi sô ha
    (Ga Tê Ga Tê, Ba Ra Ga Tê, Ba Ra Săng Ga Tê, Bô Đi Sô Ha)

    11) PHÁT BỒ ĐỀ TÂM
    Aum Bodhi Citta Mudpa dayami
    (Um Bô Đi Chít Ta Mu Đơ Ba Đa Da Mi)

    12)- PHỤNG TỐNG CHÂN NGÔN :
    Om- Vắc-ra Múc-cờ-xá-múc ( 7 lần )
    (Um, Qua Chơ Ra Múc Cờ Xá Múc)

    13)- Cam Lồ Đà Ra Ni
    Nam Mô Turu ba gia đát tha yết đa gia, đát điệt tha, Aum tu ru tu ru, bà ra tu ru bà ra tu ru sô ha (7 biến)
    (Nam Mô Su Ru Ba Da Ta Tha Ga Ta Da, Ta Đi Da Tha: Um, Su Ru Su Ru, Bơ Ra Su Ru Bơ Ra Su Ru Sô Ha)
    Last edited by 123456789; 25-06-2010 at 11:37 AM.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  3. #3

    Mặc định

    Các câu chú trên của Thầy Thích Quảng Trí đã Việt Âm, trong đó có thể có vài khác biệt tùy theo dòng truyền thừa mà có thêm bớt, nếu các bạn đã có duyên gặp hiện thân của đức A Di dà Ngài Tubden thuộc Nyingma thì sẽ thấy cầu nầy , Ngài khẩu truyền lại theo dòng của mình.

    Aum A ma ran ni di wen ti yê so ha

    Ngài khẩu truyền là:
    Aum a ma ra nơ di wên tơ sô ha

    Có nơi còn phiên chú cam lồ da ra ni:
    Nam Mô đu ru ba gia đát tha yết đa gia, đát điệt tha, om đu ru đu ru, bà ra đu ru bà ra đu ru sô ha (7 biến)
    Hay
    Nam Mô đu lu ba gia đát tha yết đa gia, đát điệt tha, om đu lu đu lu, bà la đu lu bà la đu lu sô ha (7 biến)
    Hay
    Nẳng mồ đổ lô ba gia đát tha yết đa gia, đát điệt tha, án đổ lô đổ lô , bà la đổ lô bà la đổ lô sô ha (7 biến)

    Tất cả đều có cảm ứng. Vì tụng chú do tâm thành chuyển hóa , miễn với âm trầm thấp là OK.
    Chúc các bạn tinh tấn.
    Amitaba
    Last edited by Vân Quang; 25-06-2010 at 12:21 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  4. #4

    Mặc định

    * Thiết lập Đạo tràng, thiêu hương tán hoa, tu pháp Chân ngôn nào thì thờ Bổn tôn của Chân ngôn đó. nếu không đủ, thì thờ một Tượng Phật nào cũng được.
    Ta có thể dùng 1 cái lư nhỏ bằng đồng để thiêu hương và hoa cúng dường chư Phật, nếu bạn tụng chú Chuần đề thì nên in hình pháp đàn Chuẩn đề , hình bổn tôn, câu chú , dán cả 3 vào 1 tấm bìa cứng rồi để trước mặt có thể để luôn ở bàn Phật cũng OK.
    Trước khi trì tụng cần phải dùng an tức hương và gổ thông ( loại dâm bào để mồi than, tốt nhất là dùng than từ gổ vụn đàn hương ) thiêu hương nầy để tẩy trần hai bàn tay của mình, sau đó ngắc vài bông, bẻ cánh bông và cho vào lò, quán tưởng hương hoa tỏa lên hư không tận mười Phương chư Phật để cúng dường chư Phật và bổn tôn.
    Bột an tức hương là nhựa của cây bồ đề đỏ,có thể mua ở tiệm thuốc Bắc, nó đóng cục có màu đen trắng,pháp đàn cần tránh bàn thờ ông bà .
    An tức hương có mục đích thanh tịnh pháp đàn giúp phổ quang chư Phật dễ dàng phổ chiếu và tăng tha lực các minh chú Phật, giúp giải trừ tà khí, xú khí, ác thần tà thần sẽ chạy xa, nhiều lần lặp lại như vậy họ sẽ không trú ở nhà mình nữa.
    Nếu có nhang an tức hương để thắp thì quá tốt, đốt hết 1 cây nhang là 1 giờ 30 phút, ngoài ra bạn có thể đốt thêm trầm, hay tiếp tục thiêu bột an tức hương ở lư nhỏ.

    Đàn CHÚ


    PHÁP ĐÀN



    HÌNH BỔN TÔN- ĐỨC CHUẨN ĐỀ VƯƠNG


    Nguyện chúng sinh đồng tâm hành Phật đạo
    Amitaba
    Last edited by Vân Quang; 25-06-2010 at 01:29 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  5. #5

    Mặc định

    PHÁP ĐÀN DƯỢC SƯ



    ĐỨC DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG VƯƠNG PHẬT



    MINH CHÚ:
    Namo bhagavate bhaishajya-guru vaidurya prabarajaya tathagataya arhate samyak sambuddhaya tadyata Aum bhaishajye bhaishajye maha bhaishajya raja samudgate svaha

    Trì 7 biến
    Sau đó trì tâm chú phần tô đỏ 108 biến trở lên
    Aum bhaishajye bhaishajye maha bhaishajya raja samudgate svaha

    Amitaba
    Last edited by Vân Quang; 25-06-2010 at 02:03 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  6. #6
    Moderator Avatar của blackcatpro9x
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Quỷ Cốc
    Bài gởi
    830

    Mặc định

    Các bác có thể cho em xin quy trình để tụng đại bi chú được không ạ??? Cám ơn các bác nhiều

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi blackcatpro9x Xem Bài Gởi
    Các bác có thể cho em xin quy trình để tụng đại bi chú được không ạ??? Cám ơn các bác nhiều
    NGHI THỨC TRÌ TỤNG

    Tịnh pháp giới chơn ngôn:
    Um Ram Sô Ha (3 lần)

    Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:
    Um, Xoa Ba Qua Sút Đa Sát Toa Đa Rơ Ma Xoa Ba Qua Xút Độ Hăm (3 lần)


    Kính lạy đức Thế tôn,

    Quy y các Phật đà,

    Nay con phát đại nguyện

    Trì tụng chú Đại bi,

    Trên trả bốn ơn nặng,

    Dưới giúp ba đường khổ.

    Những người thấy, nghe được

    Đều phát tâm bồ-đề,

    Thực hành hạnh trí huệ,

    Tập hợp mọi phước đức

    Báo thân này kết thúc,

    Đồng sanh cõi cực lạc.

    Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật (3 lần)

    Phật pháp tuyệt diệu,

    Cực kỳ cao xa,

    Trăm ngàn vạn kiếp

    Khó mà gặp được.

    Nay con thấy nghe,

    Lại được thọ trì

    Nguyện cầu thấu hiểu

    Ý thật của Phật.

    Kính nghe

    Đấng viên thông giáo chủ,

    Vẻ từ ái trăng tròn.

    Hầu Di Đà nơi Cực lạc phương Tây,

    Giúp Thích Ca cõi Ta bà uế trược.

    Ở trên núi báu lưu ly

    Ngự giữa sen hồng nghìn cánh,

    Quá khứ là Chánh pháp minh vương,

    Hiện nay là Quán âm tự tại,

    Ba mươi hai ứng rộng độ quần sinh,

    Bảy nạn, đa cầu, nhiều phương ứng vật.

    Sức mầu thù thắng

    Tán thán khôn cùng.

    Ngưỡng trông đức cả từ bi

    Rũ lòng thương tưởng.

    Hôm nay ngày ... tháng ... năm ... Đệ tử ... quy đầu Tam bảo, trì tụng chú Đại bi, hồi hướng công đức cầu nguyện (nguyện cầu ... ) Cúi mong Phật đức từ bi không thể nghĩ bàn, ban ơn gia hộ.

    Nam mô Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quán-thế-âm Bồ-tát.

    Cúi lạy Quán âm đại bi chủ,

    Nguyện lực sâu dày tướng hảo thân.

    Nghìn tay trang nghiêm khắp hộ trì.

    Nghìn mắt sáng ngời soi muôn nẻo.

    Mật ngữ phô bày trong thật ngữ,

    Bi tâm khơi dậy giữa vô tâm.

    Khiến con sớm trọn các mong cầu,

    Vĩnh viễn diệt trừ bao tội chướng.

    Long thiên thánh chúng thường gia hộ.

    Trăm nghìn tam muội trọn huân tu.

    Thọ trì, thân con quang minh tràng.

    Thọ trì, tâm con thần thông tạng.

    Rửa sạch trần lao nương biển nguyện,

    Siêu chứng bồ đề phương tiện môn.

    Con nay xưng tụng, thề quy y

    Sở nguyện như lòng thảy trọn đủ.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con chóng thông hết thảy pháp.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm chứng mắt trí huệ.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con chóng độ hết muôn loài.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm trọn phương tiện khéo.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con chóng lên thuyền bát-nhã.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm vượt qua bể khổ.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con chóng tròn giới định đạo.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm lên đỉnh niết bàn.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con chóng đến nhà vô vi.

    Nam mô Đại bi Quán Thế Âm,

    Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

    Nguyện con nhìn núi đao,

    Núi đao tự gãy đổ.

    Nguyện con nhìn vạc dầu,

    Vạc dầu tự khô cạn.

    Nguyện con nhìn địa ngục,

    Địa ngục tự tiêu diệt.

    Nguyện con nhìn ngạ quỷ,

    Ngạ quỷ tự no đủ.

    Nguyện con nhìn tu la,

    Ac tâm tự dập tắt.

    Nguyện con nhìn súc sanh,

    Tự chứng thành đại trí.

    Nam mô Đại bi hội thượng Phật, Bồ tát (3 lần)

    Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.

    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

    Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. An a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê lị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê lị đà dựng. Câu lô câu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa ri ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra da, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.

    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha. An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.

    (Trì tụng bao nhiêu lần tùy ý).

    Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

    Đêm ngày sáu thời thường an lành,

    Tất cả các thời đều an lành,

    Nguyện đức Từ bi thường gia hộ.

    Nguyện tiêu ba chướng, trừ phiền não,

    Nguyện chơn trí huệ thường sáng tỏ,

    Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,

    Kiếp kiếp thường tu bồ tát đạo.

    Nguyện sanh cực lạc cảnh phương Tây,

    Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,

    Hoa nở thấy Phật, chứng vô sanh,

    Bất thối bồ tát là bạn hữu.

    Nguyện đem công đức này,

    Hướng về khắp tất cả,

    Đệ tử và chúng sanh

    Đều trọn thành Phật đạo.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi blackcatpro9x Xem Bài Gởi
    Các bác có thể cho em xin quy trình để tụng đại bi chú được không ạ??? Cám ơn các bác nhiều
    Nếu bạn tin rằng topic nầy là có lợi cho việc tu tập của bạn, bạn hãy làm theo cho đúng với nghi quỹ nầy, phần trì chú đại bi bạn đưa vào mục số 10 là OK

    Nam mô khai pháp tạng bồ tát ( 3 lần) O
    Nam mô Đại bi hội thượng Phật, Bồ tát (3 lần) OOO

    (*)Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.O

    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. An tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.

    Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a lị da bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà.

    Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đà sa mế. Tát bà a tha đậu thâu bằng a thệ dựng, tát ba tát đá, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê lô ca đế, ca ra đế, di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Cu lô cu lô kiết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xa da đế. Đà ra đà ra địa rị ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô, ma ra hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, Ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha, ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha.

    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ ta bà ha.
    An tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.( đọc câu nầy 3 lần) OOO


    Chữ O phía sau các câu là tiếng chuông

    Bạn đã xong 1 biến, và trở lại (*) Thiên thủ thiên nhản.....
    Các Thầy tổ sau nầy khuyên không nên tụng như các phái Phật Trung quốc cầu thần thông .....vì trong câu chú nầy bản chất nó là như vậy, nếu nguyện cầu linh tinh sẽ làm tâm tham gia tăng khiến uy lực của chú giảm đi.
    Bạn có thể chú vào hồ nước, hay hủ gạo trong nhà mỗi thứ 7 biến, nếu đã được quán đảnh dược sư lưu ly quang vương Phật thì kiết dược sư, búng ngón giữa vào vật muốn trì, còn chưa thì cũng không cần bắt ấn chỉ cần chú tâm thật thanh tịnh rồi nghĩ tưởng tới Phật Mẫu ngàn tay ngàn mắt, hay Bồ tát Quán Thế Âm.
    Cũng có thể gia trì chú nầy vào nước uống, sửa, thức ăn trong tủ lạnh cũng rất tốt, nếu có thế lực đen tối bạn sẽ có cảm ứng ngay, như nặng ngực, hoa mắt, nhức đầu. Gặp các trường hợp nầy chỉ cần quán tưởng Đức từ hộ QUán Âm va thành tâm niệm 4 câu cuối
    Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
    Nam mô a rị da bà lô kiết đế,
    Thước bàn ra dạ ta bà ha.
    Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ, ta bà ha.

    Nam Mô Quán Thế âm Bồ Tát

    Thực hiện như trên là sẽ tránh được ngay, việc nầy VQ đã thực nghiệm nhiều lần và càng ngày càng thấy nhiều chuyện rất linh ứng.Kể cả khi bị bịnh , bạn vẫn cứ uống thuốc , nhưng dùng nước có trì chú đại bi, thời gian hết bịnh so với trước đây bạn phải mất 10 ngày mới hết bệnh, thì nay chỉ còn không tới 3 ngày.
    Hy vọng đạo hữu phát tâm trì tụng và tinh tấn, khi bạn thành tựu chú nầy thì các chú khác của chư Phật mười phương , bạn chỉ cần tụng đọc 7 biến là có ứng khởi, vấn đề cần là bạn hãy tự mình thử nghiệm để tạo , vung bồi đức tin, đừng cho tôi nói đúng, mà bạn hãy tin chắc rằng nếu bạn có đức tin, hành thiện,xa lìa thân khẩu ý bất thiện, là bạn có thể thành tựu.
    Amitaba
    Last edited by Vân Quang; 29-06-2010 at 10:46 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  9. #9

    Mặc định




    Nếu các vị có duyên với Ngài Liên hoa Sanh thì đây là câu chú của Ngài
    Ngài Liên Hoa Sanh là thuộc dòng truyền thừa Nyingma , chú của Liên Hoa Sanh
    Aum A Hum Vajra Guru Pama siddi Hum (108 biến )
    (đọc là Aum A Hum Vagra Guru Pa ma Sít đi Hum)

    Và nguyện như sau:
    Cầu nguyện đến đức Phật của ba thời
    Guru Rinpoche , Đức Phật của ba thời , quá khứ, hiện tại, vị lai
    Suối nguồn của tất cả các thành tựu và giác ngộ
    Xin hãy xóa tan những chướng ngại, những xấu xa của Mara.
    Cầu Nguyện đến Ngài, xin ban phước cho chúng con
    Những chướng ngại bên trong, bên ngoài, và bí mật đường hoàn toàn thanh tịnh
    Những mong ước của chúng con được thành tựu một cách tự nhiên
    ---------------------
    Bài cầu nguyện bảy dòng đến Guru Rinpoche
    Hung! nơi xứ Oddiyana Ấn Độ
    Trên một hoa sen đỏ
    Đức Phật của ba thời
    Lừng danh Liên Hoa Sanh
    Đông đảo Dakini vây quanh
    Như Ngài, con giác ngộ
    Xin ban phước nơi đây
    GURU PEMA SIDDHI HUNG
    Chúc bạn thành tựu.
    Last edited by Vân Quang; 29-06-2010 at 09:54 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  10. #10

    Mặc định

    Aum A Hum Vajra Guru Pama siddi Hum !

  11. #11

    Mặc định



    MINH CHÚ QUÁN ÂM ĐỘ MẪU TARA XANH :
    AUM TARE TUTTARE TURE SVAHA
    (AUN TA RÊ TÚT TA RÊ TU RÊ SÔ HA)
    Thành tựu các thần thông, vượt qua khổ nạn, tăng cường sức khỏe và tuổi thọ, ngăn ngừa nguy hiểm sợ hải

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  12. #12

    Mặc định




    PHÁP TU VÔ LƯỢNG THỌ & PHOWA
    PHÁP TU VÔ LƯỢNG THỌ (TĂNG TỌ MẠNG , TĂNG PHƯỚC)
    TÂM CHÚ (KHÔNG CẦN QUÁN ĐẢNH NHÌN HÌNH VÀ QUÁN CHƯ PHẬT ĐANG Ở TRƯỚC MẶT)
    AUM A MA RA NƠ ZI WEN TƠ SO HA

    TÂM CHÚ PHOWA (PHÁP NẦY LÀ PHÁP DI CHUYỂN THẦN THỨC, CẦN PHẢI THỌ QUÁN ĐẢNH VÀ PHÁP HÀNH NẾU KHÔNG DỄ ĐI LUÔN....)
    AUM AMI ĐÊ WA A DU SÍT ĐI HUNG HRI
    Last edited by Vân Quang; 30-06-2010 at 09:58 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  13. #13

    Mặc định



    PHỔ HIỀN BỒ TÁT
    Phổ Hiền Bồ tát (dịch âm là Tam mạn đà bạt đà la, hoặc Tam mạn đà bạt đà, zh. pǔxián 普賢, sa. samantabhadra, ja. fugen, bo. kun tu bzang po ཀུན་ཏུ་བཟང་པོ་). Phổ là biến khắp, Hiền là Đẳng giác Bồ tát, Phổ Hiền là vị Bồ tát Đẳng giác có năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy mong cầu của chúng sanh mà hiện thân hóa độ. Ngài là một trong những vị Bồ Tát quan trọng trong Phật giáo Đại thừa. Theo kinh Pháp Hoa, Ngài là vị Bồ tát ở quốc độ của Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương Như Lai, phía Đông cõi Ta Bà, nghe thế giới này thuyết kinh Pháp Hoa liền lãnh đạo năm trăm vị Đại Bồ tát đến nghe pháp và phát tâm hộ trì Chánh pháp của Đức Phật Thích Ca.

    Phổ Hiền được xem là người hộ vệ của những ai tuyên giảng đạo pháp và đại diện cho "Bình đẳng tính trí" tức là trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt. Bồ Tát Phổ Hiền hay được thờ chung với Phật Thích-ca và Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (sa. mañjuśrī). Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà, voi trắng tượng trưng cho trí huệ vượt chướng ngại, sáu ngà cho sự chiến thắng sáu giác quan. Trong hệ thống Ngũ Phật, Phổ Hiền được xem ở trong nhóm của Phật Đại Nhật (sa. vairocana). Biểu tượng của Phổ Hiền là ngọc như ý, hoa sen, có khi là trang sách ghi thần chú của Bồ Tát. Tại Trung Quốc, Phổ Hiền được xem là một trong bốn Đại Bồ Tát, trú xứ của Phổ Hiền là núi Nga Mi, nơi Bồ Tát lưu trú sau khi cỡi voi trắng từ Ấn Độ sang Trung Quốc (xem thêm Tứ đại danh sơn).


    Samantabhadra und Samantabhadri (Tibet, 17. Jh.)

    Trong Kim cương thừa, tên Phổ Hiền được sử dụng chỉ Bản Sơ Phật (sa. ādi-buddha), hiện thân của Pháp thân (sa. dharmakāya, xem Tam thân). Phổ Hiền này (không phải vị Đại Bồ Tát) được vẽ với màu xanh đậm, tượng trung cho tính Không. Tranh tượng cũng vẽ Phổ Hiền hợp nhất với nữ thần sắc trắng, tượng trưng cho sự nhất thể. Trong phép Đại thủ ấn (sa. mahāmudrā), thân của Phổ Hiền là Báo thân (sa. saṃbhogakāya) và đóng một vai trò trung tâm.
    Thần chú Phạn văn phiên âm La tinh:
    ADANDE DANDA PATI DANDA VARTE DANDA KUSHALE DANDA SUDHARE SUDHARE SUDHA RAPATI BUDDHA PASHYANE SARVA DHARANI AVARTANI SARVAN DHASHYA VARTANI SU AVARTANI SAMGHA PARIKSHANI SAMGHA NARGHATANI ASAMGE SAMGA PAGATE TRI ADHVASAMGATULYA ARATE PRAPTY SAVA SAMGASAMA TIKRANTE SARVADHARMA SUPARIKE SARVASATTVA RUTA KAUSHALY ANUGATE SIMHAVIKRIDITE

    Câu chú này để giúp hành giả không bị các thứ chướng ngại trên sự tu tập. Hành giả phải nhất tâm trì tụng càng nhiều càng tốt.



    Thần chú Phổ Hiền nầy, Ngài Pháp Hộ đã dịch ở trong Chánh Pháp Hoa Kinh như sau:
    “Vô ngã trừ ngã nhân ngã phương tiện. Tân (thấn) nhân hòa trừ thậm nhu nhuyến nhu nhược cú, kiến chư Phật, nhân chư tổng trì hành chúng, chư thuyết cái (thiện) hồi chuyển tận tập hội, trừ chúng thú, vô ương số kế, chư cú tam thế số đẳng, việt hữu vi, cử (học) chư pháp, hiểu chúng sanh âm sư tử ngu lạc”. (Phạn văn Hán dịch nầy, Ngài Pháp Hộ đã dịch từ bản Phạn văn được cất giữ tại cung vua nước Kotan (Vu điền). Phạn văn Hán dịch nầy hiện có ở trong Chánh Pháp Hoa Kinh 10, tr 133B, Đại Chính 9.)

    Tạm dịch:
    “Vô ngã loại trừ nhân và duyên (tác nhân và điều kiện) sinh khởi ngã. Hoà hợp yêu thương quyện vào nhau loại trừ những trường hợp quá yếu đuối và hèn mọn. Thấy chư Phật và do thực hành các pháp tổng trì, những lời nói làm xoay chuyển hội chúng đang hiện hữu một cách tốt đẹp, loại trừ sự trói buộc không còn tính hệ số ương luỵ, cả thảy số lượng ba đời. Học tập các pháp, siêu việt nhân duyên sinh khởi. Hiểu rõ âm thanh của hết thảy chúng sanh. Vui niềm vui sướng như sư tử!”.
    Căn cứ vào sự hộ trì tinh cần bằng Thần chú của Bồ tát Phổ Hiền tuyên thuyết, qua bản Hán dịch của Ngài Pháp Hộ ta thấy có những điểm sau:
    - Vô Ngã Chính Là Đà La Ni:
    Vô ngã là tự thân của thực tại, hay là tự thân của mọi sự hiện hữu. Nên, tiếng nói vô ngã là tiếng nói có năng lực loại trừ các tác nhân và tác duyên sinh khởi ý niệm hữu ngã.
    Tác nhân sinh khởi ý niệm ngã là vô minh và các chủng tử tâm hành. Tác duyên sinh khởi ý niệm ngã là những nhận thức sai lầm đối với thực tại, đối với tự thân.
    Do đó, tiếng nói vô ngã là tiếng nói của Đà La Ni. Tiếng nói ấy, làm rơi rụng hết thảy ý tưởng hữu ngã, làm rơi rụng hết thảy các tham ái, chấp thủ nơi tâm thức người nghe. Và có năng lực giữ gìn chánh kiến và chánh tư duy, khiến cho các thiện căn vô tham, vô sân, vô si nơi tâm thức hành giả sinh khởi và lớn mạnh trong đời sống và hoà nhập với thực tại toàn diện.

    - Hòa Hợp Và Thương Yêu Chính Là Đà La Ni:
    Tự thân của thực tại là sự hòa điệu tuyệt đối với nhau một cách tự nhiên. Và sự hiện hữu nầy không làm trở ngại sự hiện hữu kia và sự hiện hữu kia không làm trở ngại sự hiện hữu nầy. Sự hiện hữu của mắt không làm trở ngại sự hiện hữu của tai hay miệng, sự hiện hữu của tay không làm trở ngại sự hiện hữu của chân và sự hiện hữu của tay trái không làm trở ngại sự hiện hữu của tay phải, sự hiện hữu của trái tim không làm trở ngại sự hiện hữu của dạ dày…, cũng vậy, sự hiện hữu của mặt trời không làm trở ngại sự hiện hữu của mặt trăng, sự hiện hữu của biển không làm trở ngại sự hiện hữu của núi. Mọi sự hiện hữu là hiện hữu trong một quy luật trật tự nhân duyên, nhân quả của nó. Nhưng, những trật tự ấy trở nên vô trật tự và rối loạn là do tâm thức vô minh hay tâm thức chấp ngã của con người hay tâm thức chấp ngã của chúng sanh tác động, khiến cho thực tại toàn diện bị phân cắt từng mảnh.
    Tuy rằng, với tâm thức hữu ngã, con người muốn biến thực tại trở thành thực tại của tâm thức cá nhân và tâm thức cộng đồng, nhưng những gì được biến hiện bởi tâm thức đều là hư ảo và bất thực, vì sao? Vì ngã là cái đại ảo của nhận thức và do nhận thức tạo thành.
    Nhận thức đã là ảo, nên càng nhận thức là càng tạo ra những ảo giác về cái tôi. “Tôi” là như thế nầy, tôi không thể là như cái kia”. Từ nhận thức và quan điểm ấy, làm cho con người không thể đi tới với nhau. Và nếu có đi tới với nhau là để khống chế và thanh toán nhau mà không phải giúp nhau sống trong hoà bình.
    Tự thân của con người là một sự hòa điệu tuyệt đối, một sự an lạc hạnh phúc tuyệt đối, nhưng do con người khởi lên một ý niệm về “ cái tôi”, cái của tôi”, nên đã tạo ra sự rối loạn trong đời sống con người và đã đẩy con người đi vào phương trời đọa đày và lận đận.
    Từ một con người sáng trong và toàn diện, con người đã thành con người khuyết tật. Khuyết tật tâm hồn và nhận thức, khuyết tật tư duy và hành động, khuyết tật về ngôn ngữ và sự đối xử với nhau, đời sống con người trở nên độc ác và lạc loài, trở nên yếu đuối và hèn mọn.
    Nên, con người chỉ sống hòa bình với nhau, thương yêu nhau, khi nào con người cùng nhau cương quyết buông bỏ mọi ý niệm “về tôi và của tôi”. Và sự thảnh thơi của con người đích thực có mặt, khi ý niệm về cái tôi và cái của tôi không còn vận khởi. Do đó, tiếng nói vô ngã là tiếng nói của Đà la ni, có năng lực thương yêu, đưa con người trở lại với sự hòa điệu tuyệt đối mà con người đã bị vô minh làm đánh mất từ thuở hồng hoang.
    Mọi sự hiện hữu không làm trở ngại nhau mà chỉ hỗ tương cho nhau, tại sao? Là vì tự thân của mọi sự hiện hữu là không có tự tánh, nên mọi sự hiện hữu không những có mặt để hỗ trợ nhau mà còn liên thông với nhau và có mặt trong nhau giúp nhau tồn tại liên tục và toàn diện.
    Tự thân thực tại là vậy, nhưng nếu ta vọng tưởng về một bản ngã, là ta tự tách rời ta ra khỏi thực tại, nhưng tự thân thực tại không bao giờ tách rời ta.

    - Thực Hành Đà La Ni Là Thực Hành Vô Vi Pháp:
    Vô Vi pháp là pháp tịch diệt của Niết bàn. Pháp ấy siêu việt nhân duyên sinh khởi. Nên, thực hành pháp Đà la ni dẫn hành giả đi vào cảnh giới Niết bàn tuyệt đối của chư Phật. Thấy được chư Phật và thành tựu tuệ giác của các ngài.
    Tiếng nói của Đà la ni là tiếng nói sinh khởi từ đại định, tiếng nói ấy có năng lực xóa sạch mọi tập khởi của sinh tử, không phải một đời mà nhiều đời, không phải nhiều đời mà nhiều kiếp của chúng ta.

    - Đà La Ni Là Ngôn Ngữ Của Mọi Ngôn Ngữ:
    Do thực hành Đà la ni mà đi vào đại định, đoạn trừ hết thảy phiền não và tập khí ở nơi tự tâm, khiến tuệ giác sinh khởi, mắt có thể nhìn xuyên suốt mọi sự hiện hữu, từ bản thể đến hiện tượng, từ nhân đến quả, từ một điểm đến vô số điểm, từ gốc rễ đến ngọn ngành. Tai có thể nghe và hiểu hết thảy mọi thứ thanh âm, ngôn ngữ của hết thảy chúng sanh thuộc hữu tình và vô tình. Và tai có thể nghe và hiểu hết thảy mọi ngôn ngữ diễn đạt theo quy ước và vượt khỏi quy ước.
    Bởi vậy, Đà la ni là ngôn ngữ của hết thảy ngôn ngữ, và mọi ngôn ngữ từ nơi ẩn ngữ mà biểu hiện. Do đó, Đà la ni là ẩn ngữ của mọi ngôn ngữ, mọi ngôn ngữ đều từ ngôn ngữ của Đà la ni mà hiển bày.
    Bồ tát do thành tựu ngôn ngữ của Đà la ni, nên có khả năng hiểu rõ mọi thứ ngôn ngữ của hết thảy chúng sanh, và có thể sử dụng vô số ngôn ngữ để giáo hóa chúng sanh, làm cho họ đạt tới niềm vui sướng chân thật. Niềm vui ấy là niềm vui sướng của Nhất Thừa, biết rõ mình có Phật tính, mình được Phật giáo hóa, được các thiện tri thức hộ niệm, thì nhất định tương lai sẽ thành Phật.

    Thần Chú Bồ tát Phổ Hiền Phạn Văn Theo Bản Phiên Âm Hán Của Ngài La Thập:

    A đàn địa. Đàn đà bà địa. Đàn đà bà đế. Đàn đà cưu xá lệ. Đàn đà tu đà lệ. Tu đà lệ. Tu đà la bà để. Phật đà ba chiên nể. Tát bà đà la ni. A bà đa ni. Tát bà bà sa a bà đa ni. Tu a bà đa ni. Tăng dà bà lý xoa ni. Tăng dà niết dà đà ni. A tăng kỳ. Tăng dà ba dà địa. Đế lệ a đọa tăng dà đâu lược. A ra đế bà ra đế. Tát bà tăng dà tam ma địa dà lan địa. Tát bà đạt ma tu ba lỵ sát đế. Tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược a nâu dà địa. Tân a tỳ cát lỵ địa đế.

    Tạm dịch theo bản phiên âm Hán:
    “Hỡi Người chủ hình phạt, hãy miễn hình phạt; hãy xoay chuyển hình phạt; hãy thông minh đối với hình phạt; hãy giữ an toàn hình phạt; hãy gìn giữ an toàn; hỡi Người chủ duy trì an toàn!
    Thấy chư Phật, hãy làm xoay chuyển bằng tất cả Tổng trì; hãy xoay chuyển tất cả sự hiểu biết; hãy xoay chuyển an toàn; hãy cùng nhau đạt ngộ; hãy cùng nhau vượt qua; hãy chứng nghiệm chánh pháp; hãy giải thoát từ sự trói buộc; hãy cùng nhau vượt qua sự trói buộc; hãy vượt qua sự trói buộc cả ba đời; hãy cùng nhau vượt qua mọi sự trói buộc; hãy chứng ngộ hết thảy pháp cao thượng; hãy hiểu rõ âm thanh của hết thảy chúng sanh; hãy xoay chuyển nhanh chóng như sư tử; hãy xoay chuyển theo, xoay chuyển, xoay chuyển, chào mừng thành công!”.

    Thần chú Phổ Hiền bằng Phạn văn La tinh theo bản dịch của ngài La Thập trong phần ghi chú trang 61, Đại chính 9:

    Adande dandapati dandavartani dandakusale dandasudhari sudhāri sudharapati buddhapasyane sarvadharani avartani sarvabhasyavartane su-avartani samghapariksani samgha-nirghatani (saddharmasu-pariksite) asamge samgapagate tr-adhvasamgatulya sarvasamga samatikrante sarvadharmasu pariksite sarvasattvarutakausalyanugate simhavikridite anuvarte vartani vartali svha

    (Adande: Miễn hình phạt, được hưởng tự do, không bị ràng buộc bởi bổn phận và trách nhiệm gì cả. Bản Ngài La Thập phiên âm a đàn địa.
    - Dandapati: Pati động từ gốc của nó là pat, nghĩa là rơi xuống và nó cũng có nghĩa là ông chủ. Vậy, daṇḍapati là làm cho hình phạt rơi xuống, hay là ông chủ hình phạt. Bản Ngài La Thập phiên âm là đàn đà bà địa.
    - Dandavartani: Āvartani đi từ động từ gốc của nó là ā-vrit xoay chuyển. Nên, dandavartani nghĩa là xoay chuyển hình phạt. Bản Ngài La Thập phiên âm là đàn đà bà đế.
    - Dandakusale: Kusale là hãy thông minh, hãy khéo léo; daṇḍakuśale là hãy thông minh đối với hình phạt, hãy khéo léo với hình phạt. Bản Ngài La Thập phiên âm đàn đà cưu xá lệ.
    - Dandasudhari: Sudhari, đi từ động từ gốc su- DHR, nghĩa là giữ gìn an toàn. Nên, Dandasudhari là hãy giữ gìn an toàn hình phạt. Bản Ngài La Thập phiên âm đàn đà tu đà lệ.
    - Sudhari: Giữ gìn an toàn. Bản Ngài La Thập phiên âm tu đà lệ.
    - Buddhapasyane: Thấy chư phật. Bản Ngài La Thập phiên âm phật đà ba chiên nể.
    - Sudharapati: Ông chủ giữ gìn an toàn. Bản Ngài La Thập phiên âm tu đà la bà để.
    - Sarvadharaṇi: Tất cả tổng trì, tất cả minh chú. Bản Ngài La Thập phiên âm tát bà đà la ni.
    - Avartani: Hãy xoay chuyển, hãy chuyển hóa, hãy thay đổi. Bản Ngài La Thập phiên âm a bà đa ni.
    - Sarvabhasyavartane: Động từ gốc của nó bhās là chiếu sáng, hiểu biết, ngẫm nghĩ, suy xét. Nên, Sarvabhasyavartane là hãy xoay chuyển tất cả sự hiểu biết. Bản Ngài La Thập phiên âm tát bà bà sa a bà đa ni.
    - Su-avartane: Hãy xoay chuyển an toàn. Bản Ngài La Thập phiên âm tu a bà đa ni.
    - Samghapariksani: Động từ gốc là naśe, đạt được thành công, đến mục đích. Nên, Samghapariksani nghĩa là cùng nhau đạt mục đích, cùng nhau đạt ngộ. Bản Ngài La Thập phiên âm tăng già bà lý xoa ni.
    - Samghapariksani : Hãy cùng nhau vượt qua. Bản Ngài La Thập phiên âm tăng già niết già đà ni.
    - Asamge: Tự do từ sự trói buộc. Bản Ngài La Thập phiên âm a tăng kỳ.
    - Samgapagate: Cùng nhau vượt qua sự trói buộc, cùng nhau giải thoát. Bản Ngài La Thập phiên âm tăng dà ba dà địa.
    - Tr-adhvasamgatulya: Cùng nhau vượt qua sự trói buộc cả ba đời. Bản Ngài La Thập phiên âm đế lệ a đọa tăng dà đâu lược.
    - Sarvasamgasamatikrante: Hãy cùng nhau vượt qua mọi sự trói buộc. Bản Ngài la Thập phiên âm tát bà tăng dà tam ma địa dà lan địa.
    - Sarvadharmasupariksite: Hãy chứng ngộ hết thảy pháp cao thượng. Bản Ngài La Thập phiên âm tát bà đạt ma tu ba lỵ sát đế.
    - Sarvasattvarutakauśalyanugate: Hãy hiểu rõ âm thanh hết thảy chúng sanh. Bản Ngài La Thập phiên âm tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược a nâu dà địa.
    - Simhavikridite: Vikridite, động từ gốc là krìd, đùa chơi, đùa vui, chuyển động nhanh chóng; nên simhavikridite, chuyển động một cách nhanh chóng như sư tử. Bản Ngài La Thập phiên âm tân a tỳ cát lỵ địa đế.
    - Anuvarte: Chuyển động theo, xoay chuyển theo.
    - Svāhā: Chào mừng sự thành công!)

    Thần Chú Phổ Hiền Phạn Văn Bằng Devanagari ở Buddhist Sanskrit Texts-No 6-p 265, Phiên Âm Bằng Phạn Văn La Tinh như sau:
    ..............................
    Tạm dịch theo bản Phạn văn ở trong tạng Buddhist Sanskrit Texts:
    “Hỡi Người chủ hình phạt, hãy miễn hình phạt, hãy xoay chuyển hình phạt, hãy thông minh đối với hình phạt, hãy gìn giữ an toàn hình phạt, hỡi Người chủ duy trì an toàn!
    Thấy chư Phật, hãy xoay chuyển bằng tất cả tổng trì, hãy cùng xoay chuyển, hãy cùng nhau đạt ngộ, hãy cùng nhau vượt qua!
    Hãy chứng ngộ pháp, hãy hiểu rõ âm thanh hết thảy chúng sanh, hãy xoay chuyển nhanh chóng như sư tử, hãy xoay chuyển theo, xoay chuyển, xoay chuyển , chào mừng sự thành công!”
    Thần chú Bồ tát Phổ Hiền ở Phạn bản phiên âm của ngài La Thập và Phạn bản hiện có ở trong tạng Sanskrit Texts có nhiều đoạn khác nhau, nhưng nội dung chính là chuyển hóa hình phạt, thực hành pháp Tổng trì để thấy chư Phật, chứng ngộ pháp và vượt qua sinh tử. Bản dịch của ngài Pháp Hộ nội dung có nhiều đoạn khác hẳn với bản của ngài La Thập và Phạn bản ở trong tạng Sanskrit Texts, No 6, p 265.
    Thần chú Phạn văn của ngài La Thập và Phạn văn hiện có, nội dung đề cập đến chuyển hóa hình phạt bằng sự thực hành pháp Tổng trì.
    Hình phạt ở đây, chính là sinh tử và nguyên nhân gây ra hình phạt là vô minh và sự chấp ngã về nhân và pháp. Do đó, Thần chú nầy giúp ta phá hủy những hình phạt do sự chấp ngã về nhân và pháp đem lại. Vượt qua sự chấp ngã về nhân và pháp mới thành tựu Phật Thừa.
    Ta kẹt ở nơi ý niệm về ngã là ta kẹt ở trong sinh tử và sẽ bị sanh, già, bệnh, chết hành hạ và trừng phạt, ta không có tự do đối với chúng. Và ta bị mắc kẹt vào pháp, thì ta không thể nào đi tới được bảo sở hay thành tựu được tuệ giác hoàn toàn.
    Bởi vậy, ở phẩm nầy, Bồ tát Phổ Hiền không những yểm trợ hành giả Pháp Hoa thực hành Lục độ, qua sự hiện ra voi trắng sáu ngà, mà còn yểm trợ bằng năng lực thọ trì, đọc tụng diễn giảng và sống cuộc đời bằng Pháp Hoa.
    Bồ tát Phổ Hiền không những hộ trì cho những hành giả kinh Pháp Hoa bằng những sự biểu hiện trực tiếp của thân tướng Lục độ mà còn hộ trì cho những hành giả Pháp Hoa bằng Thần chú Đà la ni hay bằng pháp Tổng trì nữa.
    Như vậy, Bồ tát Phổ Hiền yểm trợ những hành giả Pháp Hoa bằng thần chú Đà la ni là yểm trợ toàn diện khiến cho thân, ngữ và ý của vị đó luôn luôn an trú ở trong thiền định của Pháp Hoa để có thể vượt qua mọi chướng ngại của tâm và cảnh, nhằm đi đến sự thể nhập tuệ giác Pháp Hoa hoàn toàn.
    Ở phẩm nầy, ngoài sự khuyến phát lưu thông kinh nầy của Bồ tát Phổ Hiền, ta còn thấy thần lực của Ngài đối với sự giữ gìn kinh Pháp Hoa. Và độc đáo hơn nữa là đức Phật Thích Ca đã ấn chứng cho lời phát nguyện hộ trì kinh Pháp Hoa của Bồ tát Phổ Hiền và lại còn đem thần lực của Ngài mà giữ gìn cho những người trì niệm danh hiệu Phổ Hiền, như kinh nói:
    “Bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni tán dương rằng, nầy Phổ Hiền, tốt lắm, tốt lắm! Đại sĩ đã có khả năng giữ gìn, yểm trợ kinh Pháp Hoa, khiến cho chúng sanh nhiều lợi ích an lạc. Đại sĩ đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, và lòng từ bi rộng lớn sâu xa.
    Đại sĩ đã phát tâm Vô thượng Bồ đề từ xa xưa liên tục cho đến hôm nay, mà nay vẫn tiếp tục đem hạnh nguyện của thần lực để giữ gìn kinh Pháp Hoa!
    Như Lai sẽ đem thần lực của Như Lai mà giữ gìn cho những ai có khả năng thọ trì danh hiệu của Bồ tát Phổ Hiền”. (Đại Chính 9, tr 61C.)


    Tham khảo:http://www.todinhlinhson.com/ts_tthgtpbtph.htm

    Last edited by Vân Quang; 30-06-2010 at 11:38 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  14. #14

    Mặc định

    Phẩm 28

    PHỔ HIỀN BỒ-TÁT KHUYẾN PHÁT

    Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát có nghĩa là Bồ-tát Phổ Hiền khuyên người phát tâm trì kinh Pháp Hoa. Người sau khi Nhập Tri kiến Phật, công hạnh đã viên mãn có đầy đủ diệu dụng, theo sở nguyện sở cầu của chúng sanh mà vào đời ngũ trược để giáo hóa họ. Mở đầu kinh này, Bồ-tát Văn-thù đứng ra giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc, nói lên ý nghĩa muốn Nhập Tri kiến Phật là phải bắt đầu bằng trí tuệ tức là Căn bản trí. Sau khi nhập Tri kiến Phật phá hết năm ấm, công hạnh tu hành viên mãn, khởi Sai biệt trí biết rõ tâm bệnh của chúng sanh, mà dùng mọi phương tiện để giáo hóa. Bấy giờ ra giáo hóa thì không còn chướng ngại thoái lui.

    CHÁNH VĂN:

    1.- Lúc bấy giờ, ngài Phổ Hiền Bồ-tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng vô biên bất khả xưng sổ chư đại Bồ-tát từ phương Đông mà đến; các nước đi ngang qua khắp đều rúng động, rưới hoa sen báu, trỗi vô lượng trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc.

    Lại cùng vô số các đại chúng: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân v.v... vây quanh, đều hiện sức oai đức thần thông đến cõi Ta-bà trong núi Kỳ-xà-quật, đầu mặt lạy đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật rằng:

    - Thế Tôn! Con ở nơi nước của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi Ta-bà này nói kinh Pháp Hoa nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ-tát đồng đến để nghe thọ, cúi mong đức Thế Tôn nên vì chúng con nói đó.

    Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân sau khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể được kinh Pháp Hoa này?

    GIẢNG:

    Bồ-tát Phổ Hiền từ cõi Phật phương Đông, nghe Phật Thích-ca ở cõi này nói kinh Pháp Hoa, Ngài cùng với chúng đồng đến để nghe pháp. Bồ-tát Phổ Hiền không dùng tai để nghe, mà Ngài dùng tâm để nghe. Ngài đặt câu hỏi: Sau khi Phật diệt độ, thiện nam tử, thiện nữ nhân, làm sao có thể được kinh Pháp Hoa này? Dưới đây Phật trả lời.CHÁNH VĂN:

    2.- Phật bảo Phổ Hiền Bồ-tát rằng:

    - Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ được kinh Pháp Hoa này: một là được các đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.

    Thiện nam tử, thiện nữ nhân thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như Lai diệt độ quyết được kinh này.

    GIẢNG:

    Phật dạy muốn được kinh Pháp Hoa phải thực hành bốn pháp. Một là được chư Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh. Pháp thứ nhất là được chư Phật hộ niệm, chúng ta có được Phật hộ niệm không? Nơi mỗi người ai cũng có Tri kiến Phật, tuy có nhưng vì quên, nên không được Phật hộ niệm. Nếu chúng ta hằng sống với Tri kiến Phật thì Phật luôn luôn ở bên cạnh mình không có xa vắng. Như vậy Phật không hộ niệm là gì? Pháp thứ hai là trồng các cội công đức, hiện tại chúng ta đang gieo trồng công đức qua việc tự giác và giác tha. Pháp thứ ba là vào trong chánh định, thì hiện tại chúng ta đang buông bỏ những vọng tưởng điên đảo, khi vọng tưởng điên đảo lắng xuống, đó là chúng ta đang ở trong chánh định chớ gì? Còn phát lòng từ làm lợi ích chúng sanh, thì chúng ta đang thực hiện, tuy chưa làm được những việc lớn, nhưng những việc nhỏ đang làm. Như vậy, là bốn pháp phải có để được kinh Pháp Hoa, hiện tại mỗi người chúng ta ai cũng có, mặc dù chưa được viên mãn.

    Chúng ta nhớ, được kinh Pháp Hoa không phải đem tiền đi thỉnh bộ kinh bằng văn tự in trên giấy mực. Được kinh Pháp Hoa đây là phải thực hiện bốn pháp vừa nêu để sống với Tri kiến Phật. Đó là được kinh Pháp Hoa.


    CHÁNH VĂN:

    3.- Lúc đó ngài Phổ Hiền Bồ-tát bạch Phật rằng:

    - Thế Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho được an ổn, khiến không ai được tiện lợi rình tìm làm hại; hoặc ma, hoặc con trai của ma, hoặc con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc dạ-xoa, hoặc la-sát, hoặc cưu-bàn-trà, hoặc tỳ-xá-xà, hoặc kiết-giá, hoặc phú-đơn-na, hoặc vi-đà-la v.v... những kẻ làm hại người đều chẳng được tiện lợi.

    Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cưỡi tượng vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ-tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra, để cúng dường thủ hộ an ủi tâm người đó, cũng để cúng dường kinh Pháp Hoa.

    Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cưỡi tượng vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong kinh Pháp Hoa có quên mất một câu, một bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.

    Bấy giờ, người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa được thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh tấn, do thấy thân con nên liền được tam-muội và đà-la-ni tên là “Triền đà-la-ni”, trăm nghìn muôn ức “Triền đà-la-ni”, “Pháp âm phương tiện đà-la-ni”, được những môn đà-la-ni như thế.

    GIẢNG:

    Bồ-tát Phổ Hiền phát nguyện đi vào cõi đời ác trược để ủng hộ cho người trì kinh Pháp Hoa. Tất cả các loại ma muốn phá phách, làm cho người trì kinh Pháp Hoa thoái tâm, thì Ngài liền tới ủng hộ, để cho những người đó tu hành, không bị tổn hại vì ma. Những người đó đi, đứng, ngồi, nằm đều trì kinh Pháp Hoa thì Ngài sẽ cưỡi tượng vương trắng sáu ngà, cùng với chúng đại Bồ-tát đến thủ hộ an ủi những người đó và cúng dường kinh Pháp Hoa. Chúng ta thấy Bồ-tát Phổ Hiền từ cõi tịnh đi vào cõi uế, để bảo hộ người tu theo kinh Pháp Hoa. Thường, chúng ta thấy tượng Phật Thích-ca ở giữa, hai vị Bồ-tát ở hai bên là Văn-thù và Phổ Hiền. Bồ-tát Văn-thù cưỡi sư tử tượng trưng cho Căn bản trí phá dẹp tà kiến xiển dương chánh pháp. Cũng như con sư tử một phen rống lên, thì mọi con thú khác đều né tránh bỏ chạy hết, chỉ còn lại loài sư tử, chúa sơn lâm thôi.

    Qua giai đoạn Căn bản trí phá tà hiển chánh, tới giai đoạn Sai biệt trí khởi phát từ bi đi vào đời giáo hóa ủng hộ người tu. Biểu trưng qua hình ảnh Bồ-tát Phổ Hiền cưỡi voi trắng sáu ngà. Voi trắng ngầm nói lên tâm hạnh vững mạnh rộng lớn mà thanh tịnh của Bồ-tát. Sáu ngà là chỉ cho Lục độ. Bồ-tát Phổ Hiền vào cõi trần tục ô uế với tâm hạnh lớn mạnh, trí tuệ sáng suốt không bị nhiễm nhơ, lúc nào cũng dùng pháp Lục độ an ủi làm lợi ích cho chúng sanh chóng viên thành đạo quả. Tương tợ, trong mười bức Tranh chăn trâu Thiền tông, chúng ta thấy bức tranh thứ mười, Thiền sư mặc áo bày ngực, đi chân trần, tay cầm bầu rượu, tay xách con cá chép, đi vào xóm làng hòa mình với chúng sanh để độ họ. Các ngài đã vào Phật quốc là chỗ thanh tịnh rồi, bấy giờ tùy theo căn cơ chúng sanh đi vào chỗ uế trược, để cứu độ làm lợi ích cho họ. Đó là hạnh nguyện lợi sanh.

    Như vậy, người tu tới chặng chót này là phải lao mình vào trần thế để cứu độ chúng sanh, cứu độ chúng sanh viên mãn mới thành Phật. Đó là tinh thần Tự giác Giác tha Giác hạnh viên mãn. Nếu mình được giác ngộ mà chưa giác tha thì chưa đủ công hạnh để thành Phật. Vì vậy mà phẩm chót của bộ kinh Pháp Hoa nói lên hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Cũng như bức tranh thứ mười trong Thập mục ngưu đồ, Thiền sư thõng tay vào chợ, vào làng hòa mình với những người nhiễm nhơ trần tục, để giáo hóa hướng dẫn họ trở về với chánh pháp.

    Đây nói người suy nghĩ kinh Pháp Hoa, nếu quên hoặc một câu hoặc một bài kệ, thì Bồ-tát Phổ Hiền đến chung đọc tụng làm cho thông thuộc. Quí vị tụng kinh Pháp Hoa có vị nào được nhắc chưa? - Chưa. Tại sao ở đây nói như vậy? Vì kinh Pháp Hoa là chỉ cho người nhận ra Tri kiến Phật, mọi người có Tri kiến Phật, nếu quên thì có thiện tri thức nhắc cho nhớ để tu. Và Bồ-tát Phổ Hiền sẽ đến gia hộ cho được tất cả đà-la-ni tức là nhớ hết các pháp.


    CHÁNH VĂN:

    4.- Thế Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác trược, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ-tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi ích vui mừng cũng lại cho chú Đà-la-ni.

    Được chú Đà-la-ni này thời không có phi nhân nào có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế Tôn nghe con nói chú Đà-la-ni này. Liền ở trước Phật mà nói chú rằng:

    A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà đà la ni a bà đa ni, tác bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược, a la đế ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa, dà lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế.”Thế Tôn!
    Nếu có Bồ-tát nào được nghe chú Đà-la-ni này, phải biết đó là sức thần thông của Phổ Hiền.

    GIẢNG:

    Người trì hay biên chép kinh Pháp Hoa khoảng hai mươi mốt ngày, thì Bồ-tát Phổ Hiền sẽ tới hiện thân cho thấy để chỉ dạy cho người đó và tặng thêm thần chú. Đây ngầm ý nói rằng người biết hướng về Tri kiến Phật, hoặc hằng sống với Tri kiến Phật thì lúc nào cũng được gia hộ, được tâm đại tổng trì.

    Ý này có hai nghĩa. Một là người thọ trì kinh Pháp Hoa, muốn cho nhân và phi nhân không hoặc loạn nhiễu hại, thì phải giữ tâm thanh tịnh không dấy động nhiễm nhơ, đó là được chú Đà-la-ni. Hai là người hướng về sống với Tri kiến Phật, không có tâm trông cầu ở người khác. Tuy không trông cầu, mà vẫn được gia hộ của chư Phật và Bồ-tát. Hằng ngày, tuy làm mọi việc mà vẫn ở trong Thiền định, nên nói Bồ-tát Phổ Hiền nói thần chú để gia hộ.


    CHÁNH VĂN:

    5.- Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong Diêm-phù-đề có người thọ trì, thời nên nghĩ rằng: Đều là sức oai thần của Phổ Hiền.

    Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh hiểu nghĩa thú trong kinh đúng như lời mà tu hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, sâu trồng cội lành, được các Như Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép người này mạng chung sẽ sanh lên trời Đao-lợi.

    Bấy giờ, tám muôn bốn nghìn thiên nữ trỗi các kỹ nhạc mà đến rước đó, người đó liền đội mão bảy báu, ở trong hàng thể nữ vui chơi khoái lạc, huống là thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành.

    Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú kinh này, người đó khi mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Đâu-suất, chỗ Di-lặc Bồ-tát mà sanh vào hàng quyến thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ, đức Di-lặc Bồ-tát có ba mươi hai tướng, chúng đại Bồ-tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép, thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh đúng như lời tu hành.

    Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông giữ gìn kinh này, sau khi Như Lai diệt độ, làm cho rộng lưu bố trong Diêm-phù-đề khiến chẳng dứt mất.

    GIẢNG:

    Người trì kinh Pháp Hoa thì được Bồ-tát Phổ Hiền gia hộ. Và nếu người thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa thú trong kinh, đúng như lời dạy của Phật mà tu hành, đó là người tu theo hạnh Phổ Hiền. Có nghĩa là Bồ-tát xoay lại sống với Tri kiến Phật của mình và biết chúng sanh cũng có Tri kiến Phật mà họ quên, nên khởi lòng thương xót, giáo hóa khiến cho họ nhận ra Tri kiến Phật của họ. Và khi giáo hóa, với Trí sai biệt, Bồ-tát biết rõ căn cơ trình độ của chúng sanh, dùng phương tiện thích ứng với căn tánh họ, khiến họ tin nhận và tu theo, nên việc giáo hóa không chướng ngại, thực hành được hạnh nguyện lớn của Phổ Hiền.

    Phật nói, chỉ cần biên chép kinh Pháp Hoa thôi mà được phước báo sanh lên cõi trời, rồi được đội mão bảy báu, được thiên nữ tới đón vui chơi khoái lạc đầy đủ. Còn nếu trì tụng ghi nhớ chân chánh nghĩa thú kinh và đúng như lời Phật dạy mà tu hành, thì công đức không thể lường được. Chư Bồ-tát luôn luôn khuyến khích chúng sanh tu bằng mọi hình thức, hoặc là dùng lời ngon ngọt để khuyến khích, hoặc dùng những hình ảnh mà chúng sanh ưa thích, hoặc nói lên lý đạo chân chánh, để cho chúng sanh phát tâm tu. Đó là phương tiện của Bồ-tát giáo hóa, khiến chúng sanh hướng về Tri kiến Phật, hoặc ít hoặc nhiều rồi tiến tu cho đến thành tựu viên mãn. Cuối cùng Bồ-tát Phổ Hiền tuyên bố rõ ràng rằng: Ngài sẽ làm lưu bố kinh Pháp Hoa khắp cõi Diêm-phù-đề chẳng để dứt mất. Hạnh nguyện của Ngài cốt làm sao đưa mọi người tới chỗ tỉnh giác, nhận ra nơi mình có Tri kiến Phật. Phật giáo hóa giảng dạy cốt đưa chúng sanh ngộ được Tri kiến Phật, Bồ-tát giúp chúng sanh cũng trở về với Tri kiến Phật, là cái gốc của sự tu hành.


    CHÁNH VĂN:

    6.- Lúc bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật khen rằng:

    - Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có thể hộ trợ kinh này làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích. Ông đã thành tựu bất khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà có thể thật hành nguyện thần thông đó, để giữ gìn kinh này.

    Ta sẽ dùng sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì danh hiệu Phổ Hiền Bồ-tát.

    Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chân chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích-ca Mâu-ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho đức Thích-ca Mâu-ni Phật, phải biết người đó được Phật, Ngài khen lành thay, phải biết người đó được Thích-ca Mâu-ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người đó được đức Thích-ca Mâu-ni Phật lấy y trùm cho. Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui trong đời, chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần gũi ngoại đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn, hoặc kẻ buôn bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thiệt, có lòng nghĩ nhớ chân chánh có sức phước đức. Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng bị tánh ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ Hiền.

    GIẢNG:

    Phật khen ngợi Bồ-tát Phổ Hiền có lòng từ bi rộng lớn, đem hết khả năng để thực hiện hạnh nguyện của mình, là giữ gìn kinh này tồn tại ở cõi Ta-bà, để cho chúng sanh được lợi ích. Phật hứa sẽ bảo hộ cho những người phát tâm thọ trì danh hiệu Bồ-tát Phổ Hiền. Nói cách khác là Phật sẽ gia hộ cho người tu theo hạnh nguyện Phổ Hiền, khởi lòng đại bi quán xét căn cơ của chúng sanh, rồi đi vào đời ngũ trược để tiếp độ chúng sanh khiến cho họ được giác ngộ.

    Phật lại xác nhận một lần nữa, người mà thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa một cách chân chánh, thì người đó sẽ được thấy Phật Thích-ca, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này, được Phật Thích-ca khen ngợi, được Phật Thích-ca xoa đầu và lấy y trùm cho... Vì sao được như thế? Vì bản hoài của Phật là muốn cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật của chính mình. Vậy nếu ai thực hành theo bản hoài của Phật, đấy là trung thành với Phật, nên được Phật nâng đỡ. Đó là nói sự gia hộ bên ngoài. Sau đây là nói đến bản thân của người trì tụng kinh Pháp Hoa. Người khi nhận ra Tri kiến Phật là cái Thể sáng suốt không sanh không diệt, hằng hữu thì những thú vui tạm bợ ở đời không nhiễm trước, những cái nhân gây ra phiền não có thể dẹp bỏ được như đối với kinh sách của ngoại đạo không thích đọc và không thích gần gũi với những người ngoại đạo. Đối với những thú vui tạm bợ ở thế gian, cùng những người có nghiệp ác thì không tương ưng, không thân cận. Vì mọi ý niệm xấu xa không còn, nên nói chẳng bị tánh ghen ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại; lại còn ít muốn biết đủ, nên có thể tu theo hạnh Phổ Hiền, làm lợi ích cho chúng sanh.

    CHÁNH VĂN:

    7.- Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào thấy người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các chúng ma thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển pháp luân, đánh pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử trong đại chúng trời, người.

    Phổ Hiền! Nếu ở đời sau, có người thọ trì, đọc tụng kinh điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y phục, giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cùng ở trong hiện đời được phước báo đó.

    Nếu có người khinh chê đó rằng: “Ông là người điên cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không được lợi ích.” Tội báo như thế sẽ đời đời không mắt. Nếu có người cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời nay được quả báo hiện tại.

    Nếu lại thấy người thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc thiệt, hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời mắc bệnh bạch lại(1). Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chưn cong quẹo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mủ, bụng thủng, hơi ngắn, bị các bệnh nặng dữ.

    Cho nên Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này phải đứng dậy xa rước, phải như kính Phật.

    GIẢNG:

    Khi Phật diệt độ khoảng năm trăm năm về sau, có người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa, thì biết người đó chẳng bao lâu sẽ là người ngồi đạo tràng phá chúng ma, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và chuyển pháp luân giáo hóa chúng sanh. Người đó được nhiều phước báo về bốn món: ăn, mặc, ở, bệnh, vì công phu tu hành đã tới mức phải được, dù không muốn cũng có, còn người chưa đủ phước đó, dù muốn cũng không được. Ý Phật nói rằng người mà biết sống với Tri kiến Phật thì mọi phước đức không cầu mà vẫn được.

    Đến đây Phật nêu ra hai trường hợp. Nếu ai thấy người trì kinh Pháp Hoa mà chê bai và cho rằng điên dại, thì người đó bị tội báo nặng nề. Ngược lại ai mà tán thán khen ngợi, thì người đó sẽ được quả báo tốt trong đời hiện tại này. Thông thường chúng ta thấy ai khen người hiền trí, không khen kẻ hung ác thì biết người đó đã có chủng tử lành, mà đã có chủng tử lành, thì tự nhiên sẽ hưởng phước lành. Ngược lại, kẻ khinh chê người hiền trí, lại khen người hung dữ, thì chúng ta biết kẻ đó ác và ngu, vì đã có chủng tử ác, ắt phải đọa vào cõi ác, chịu quả báo khổ đau không nghi ngờ.

    Sau đây Phật lại nói, kẻ chê bai người trì kinh Pháp Hoa thì răng thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp... Xét lại, nếu người nào mắc phải những tướng xấu đó, là trước đã chê bai người trì kinh Pháp Hoa, nay phải sám hối và khen ngợi đừng chê nữa. Đây Phật kết thúc cho chúng ta thấy rằng người biết xoay lại sống với Tri kiến Phật thì chắc chắn quả Phật sẽ đến. Và đối với người sống với Tri kiến Phật, chớ có khinh thường, nếu khinh thường là tạo nghiệp ác đi trong đường dữ chịu khổ đau.

    CHÁNH VĂN:

    8.- Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ-tát Khuyến Phát này có hằng hà sa vô lượng vô biên Bồ-tát được trăm nghìn muôn ức môn “Triền đà-la-ni”, tam thiên đại thiên thế giới vi trần số các đại Bồ-tát, đủ đạo Phổ Hiền.

    Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền v.v... các vị Bồ-tát, Xá-lợi-phất v.v... các vị Thanh văn và hàng trời, rồng, nhân, phi nhân v.v... tất cả đại chúng đều rất vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.

    GIẢNG:

    Phẩm Phổ Hiền là phẩm chót khuyến khích người trì kinh Pháp Hoa và ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa. Đó là phần lưu thông cho mọi người thấy rằng, người thọ trì và bảo hộ kinh Pháp Hoa sẽ được Phật và Bồ-tát ủng hộ. Vậy chớ có xem thường.
    Last edited by Vân Quang; 30-06-2010 at 11:04 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  15. #15

    Mặc định

    cho em co ai o ben thong thien giao ko
    cho em cach bat an, chu va cach nuoi binh gia cung nhu cach cung to nhu the nao
    em xin cam on truoc nha

  16. #16

    Mặc định

    NAM MÔ PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT!
    NAM MÔ PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT!
    NAM MÔ PHỔ HIỀN BỒ TÁT MA HA TÁT!

    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  17. #17
    Thành viên tích cực SPAM Avatar của hcthinh
    Gia nhập
    Apr 2010
    Bài gởi
    38,281

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi sang Xem Bài Gởi
    cho em co ai o ben thong thien giao ko
    cho em cach bat an, chu va cach nuoi binh gia cung nhu cach cung to nhu the nao
    em xin cam on truoc nha
    học mấy cái này chi vậy em.

  18. #18

    Mặc định

    Hướng dẫn hành trì Pháp tu Kim Cang Tát Đỏa [Sonam Tenzin Rinpoche –Hồng Như biên tập]

    HƯỚNG DẪN HÀNH TRÌ
    PHÁP TU KIM CANG TÁT ĐỎA BÁCH TỰ CHÚ

    Kagyu Lineage

    Dựa theo bài giảng của
    Ven.Sonam Tenzin Rinpoche

    Instruction on Visualisation
    100 Syllable Vajrasatva Mantra Purification Practice

    based on the teachings by Ven. Sonam Tenzin Rinpoche

    VIETNAMESE ONLY

    Ghi Chú:

    Đây là phần chi tiết quán tưởng do ngài Sonam Tenzin Rinpoche hướng dẫn, cần hành trì chung với Nghi Quĩ Hành Trì Kim Cang Tát Đỏa. Pháp tu này mọi người đều có thể hành trì, nhưng để có thể có hiệu năng tối đa, cần thọ pháp truyền khẩu và trực tiếp nghe hướng dẫn hành trì từ vị thầy chân chính đủ khả năng truyền pháp.
    Hồng Như Thubten Munsel thông dịch và biên tập. Tháng 05, 2010.

    Vì là pháp sám hối, hãy quán thân mình trong thân tướng bình thường. Trên đỉnh đầu xuất hiện chữ PAM màu trắng.

    PAM biến thành đài sen ngàn cánh màu trắng (không còn chữ PAM).

    Trên đài sen hiện ra chữ AH màu trắng biến thành đài mặt trăng (không còn chữ AH).

    Trên đài sen và đài mặt trăng xuất hiện chữ HUM màu trắng. HUM biến thành chùy kim cang màu trắng (không còn chữ HUM).
    Giữa chùy kim cang có chữ HUM màu trắng.

    Từ chữ HUM trắng giữa chùy kim cang phóng ra ánh sáng lớn chói ngời khắp mười phương. Theo luồng ánh sáng đó các Daka và Dakini mang phẩm vật cúng dường hương hoa đèn nhạc v.v... dâng lên chư Phật mười phương. Chư Phật mười phương hoan hỉ nhận phẩm vật cúng dường, sau đó mười phương Phật Pháp Tăng tan thành ánh sáng tan vào các vị Daka, Dakini và các Daka, Dakini tan trở lại thành ánh sáng, theo luồng ánh sáng đó trở về chùy kim cang có chữ HUM trắng giữa chùy.

    Một lần nữa chữ HUM trắng giữa chùy kim cang phóng tỏa ánh sáng mang sự gia trì của chư Phật mười phương xuống khắp sáu cõi, đặc biệt là ba cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, tịnh hóa mọi ác nghiệp, ác chướng của chúng sinh ở đó. Khi chúng sinh trong ba cõi này được tịnh hóa hết ác nghiệp ác chướng thì ba cõi này biến thành các cõi Tịnh độ và chúng sinh ở đó biến thành Đức Kim Cang Tát Đỏa, tan thành ánh sáng và theo luồng ánh sáng đó trở về chùy kim cang và chữ HUM màu trắng trên đỉnh đầu ta.

    Chùy kim cang và chữ HUM màu trắng (ở giữa chùy kim cang) nằm trên đài sen trên đỉnh đầu ta biến thành Đức Kim Cang Tát Đỏa như trong hình trên sadhana.

    Trong pháp sám hối, Đức Kim Cang Tát Đỏa ngồi trong tư thế chân trái thu vào, chân phải đưa ra đặt trên đài sen, chạm vào đỉnh đầu ta. Đức Kim Cang Tát Đỏa ánh sáng trắng, một mặt, hai tay, tay phải cầm chùy kim cang nơi tim, tay trái cầm chuông nơi bụng. Ngài đeo đầy đủ 6 món trang sức [mũ miện, bông tai, chuỗi dài, chuỗi ngắn, thắt lưng, vòng tay chân v.v...] tượng trưng cho sáu hạnh ba la mật.

    Từ Đức Kim Cang Tát Đỏa tỏa sáng chói ngời như hàng trăm mặt trời phản chiếu trên đỉnh núi tuyết. Sau đó, khi mọi sự hiện ra rõ ràng rồi, ta quán tưởng trên đỉnh đầu của Đức Kim Cang Tát Đỏa xuất hiện chữ OM màu trắng tượng trưng cho Hóa thân, nơi cổ có chữ AH màu đỏ tượng trưng cho Báo thân, thấp hơn vùng tim một chút có chữ HUM màu xanh dương tượng trưng cho Pháp thân.

    Ngay giữa tim ngài [ngang vùng tim ở chính giữa ngực] có đài sen màu trắng, trên đó có chữ HUM đứng màu trắng. Xung quanh chữ HUM là chuỗi bách tự chú (các chủng tự được xếp ngược chiều kim đồng hồ, khi xoay sẽ xoay theo chiều kim đồng hồ). Hai chữ của chuỗi minh chú không dính vào nhau, giữa hai chữ có khe hở, tỏa ánh sáng trắng.

    Bấy giờ ta hướng về đức Phật Kim Cang Tát Đỏa cất lời khẩn nguyện như sau:

    [đọc Nghi Quĩ câu p.32] "Lạy đức bổn sư / Kim Cang Tát Đỏa,/ xin ngài hoan hỉ / quét sạch ác nghiệp, / ác chướng, phạm giới / cùng mọi phá giới, / của con, cùng với / chúng sinh nhiều như / không gian vô tận.”

    Nhờ lời thỉnh cầu chân thành, chữ HUM nơi tim đức Kim Cang Tát Đỏa phát ra nguồn ánh sáng vô tận, phóng ra cùng tận không gian thỉnh mời chư Phật đà bồ tát của khắp cả mười phương ba thời, theo luồng ánh sáng cam lồ [tựa vô số hạt tuyết trắng ngần] tan về lại vào trong chữ HUM.

    Rồi ánh sáng từ chữ HUM lại thêm một lần nữa phóng ra, xuống ba cõi thấp, tịnh hóa nghiệp chướng của chúng sinh nơi đó, tất cả tan vào tánh không, trở thành đức Phật Kim Cang Tát Đỏa, rồi theo luồng ánh sáng tan về lại vào trong chữ HUM.

    Từ đó chuỗi minh chú khởi xoay theo chiều kim đồng hồ. Ta bắt đầu tụng chú ở đây. Trong khi tụng chú và chuỗi minh chú xoay, ánh sáng cam lồ trắng như sữa non từ chuỗi minh chú ứa ra. Đây là suối cam lồ như ý, dần dần rót đầy toàn thân Đức Kim Cang Tát Đỏa, trào ứa ra từ ngón chân cái bên phải của ngài, rót xuống đỉnh đầu ta (ngón chân này chạm đỉnh đầu ta), tịnh hóa mọi ác nghiệp thân, khẩu, ý của ta. Chất cam lồ như ý rót vào thân ta, tẩy rửa và tống hết mọi nhiễm uế ra các lỗ dưới: tật bệnh bị tống ra dưới dạng máu mủ hôi thối, ám chướng dưới dạng nhện, bò cạp, rắn rết, ác nghiệp ác chướng dưới dạng bùn dơ, bụi khói. Mặt đất bên dưới nẻ ra, vô số oan gia trái chủ (là chúng sinh mà ta từng gây tổn hại tạo nợ máu với họ) vươn tay, há miệng đòi nợ cũ. Suối cam lồ tống hết uế nhiễm từ thân ta chảy xuống, biến thành chất cam lồ, hoàn thành mọi ước nguyện cho họ. Các oan gia trái chủ hưởng suối cam lồ như ý, hoàn toàn thỏa mãn.

    Vừa tụng chú vừa tiếp tục quán tưởng như vậy. Nếu quán không xuể thì chia ra mỗi lúc quán một phần, khi thì quán chủng tự HUM và chuỗi minh chú xoay, ánh sáng cam lồ chảy xuống; khi thì quán sắc tướng của đức Kim Cang Tát Đỏa với đủ mọi trang sức quí báu; khi thì quán ánh sáng cam lồ từ ngón chân đức Kim Cang Tát Đỏa rót vào đỉnh đầu ta, ban đầu từng giọt, sau thành cả một dòng suối cam lồ tuôn chảy, gột sạch mọi tật bệnh, ác nghiệp, ác chướng; khi thì quán oan gia trái chủ dưới lòng đất hưởng dòng cam lồ từ thân ta chảy xuống v.v...

    Tụng chú lúc đầu đọc chậm, về sau đọc nhanh. Nếu đọc chú Trăm Âm khó quá thì có thể đọc chú Sáu Âm [Ôm Ben-Dza Xa-tô Hung], nhưng đọc Trăm Âm vẫn tốt hơn.

    CHÚ TRĂM ÂM:
    OM, VAJRASATTVA SAMAYA MANUPALAYA, VAJRASATVA TVENOPA TISTHA DRDHO ME BHAVA / SUTOSYO ME BHAVA, SUPOSYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVASIDDHIM ME PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTAM SRIYAH KURU HUM, HA HA HA HA HOH, BHAGAVAN, SARVATATHAGATA VAJRA MA ME MUNCA, VAJRI BHAVA, MAHASAMAYA SATTVA, AH


    Ghi Chú: chú này có thể phát âm theo tiếng Tây Tạng theo âm đọc của Sonam Tenzin Rinpoche, như sau: Ôm ben-dza xa-tô xa-mai-da / ma-nu-pa-lai-da / bendza xa-tô tê-nô-pa / tít-ta đri đô mê ba-wa / xu-tô-cai-ô mê ba-wa / xu-pô-cai-ô mê ba-wa / a-nu-rắt-tô mê ba-wa / xạt-wa xi-đim mê tra-yê-dza / xạt-wa-cạt-maxu dza mê / xư-tam shri-i-da / ku-ru hum / ha ha ha ha hô / băng-ga-wê / xạt-wa ta-ta-ga-ta / ben-dza ma mê mun-dza / ben-dza ba-wa ma-ha sa-mai-da / xa-tô, A
    [Đọc cách nào cũng được, không tạo trở ngại cho công phu tụng chú]

    Để kết thúc thời công phu, hãy quán tưởng nhờ ánh sáng cam lồ gột rửa, thân ta bây giờ trong như pha lê, không còn thành phần máu thịt. Oan gia trái chủ dưới đất đều mãn nguyện, hoan hỉ, thu tay ngậm miệng, tịnh hết nghiệp chướng, vãng sinh Tịnh độ. Mặt đất khép lại, cam lồ thôi không chảy xuống, dâng lên trong thân thể ta, từ chân dâng đến đỉnh đầu, trào ra và chạm vào ngón chân của Đức Kim Cang Tát Đỏa.

    Ở điểm này phải có khái niệm là mọi ác nghiệp ác chướng của ta trong ba thời quá khứ, hiện tại và tương lai đều được tịnh hóa và phải áp dụng bốn năng lực sám hối. Nếu không có bốn năng lực sám hối này thì cho dù quán tưởng rõ ràng thế nào chăng nữa, việc sám hối của ta sẽ không có kết quả. Bốn năng lực đó là:
    1. Năng lực nền tảng: nương tựa vào Đức Phật Kim Cang Tát Đỏa,
    2. Năng lực hối cải: hối hận lỗi lầm phạm phải trong cả ba thời quá khứ hiện tại và tương lai,
    3. Năng lực quyết tâm không tái phạm, và
    4. Năng lực thực hành công phu sám hối, ở đây là thực hành pháp tu Kim Cang Tát Đỏa.

    Có đủ bốn năng lực này thì sự sám hối của ta mới có kết quả.

    Vậy khi kết thúc thời công phu sám hối, ngưng tụng chú Trăm Âm, bắt đầu tụng 100 lần chú Sáu Âm: Ôm Ben Dza Xát Tô Hum. Dùng thời gian này để quán về bốn năng lực sám hối và đọc Nghi Quĩ p.36, p.37, p.38:

    Lạy đấng chở che / Con vì không biết / ở trong vô minh / đã đi ngược và / phá phạm giới nguyện / mật thệ của con, / đạo sư hộ trì / xin cho con về / nương dựa nơi thầy.

    Lạy đấng tối thượng / tay cầm Kim Cang, / là đấng thiện xảo / của tâm đại bi / là đấng Thế Tôn, / đệ tử qui y, / phát lộ tất cả, / giới nặng, giới nhẹ / con đã phá, phạm / qua thân khẩu ý.

    Xin Phật gia trì / cho con sám hối / thanh tịnh ác nghiệp / ác chướng phạm giới / cùng mọi phá giới.

    Đức Kim Cang Tát Đỏa chấp nhận lời thỉnh cầu trên, ngài vô cùng hoan hỉ, mỉm cười và nói: “Hỡi đứa con của gia đình tôn quý, mọi ác nghiệp, ác chướng, phạm giới và phá giới của con đã được tịnh hóa.”

    Đức Kim Cang Tát Đỏa tan thành ánh sáng, tan vào đỉnh đầu ta. Quán tưởng thân, khẩu và ý của Đức Kim Cang Tát Đỏa và của ta là một. Ta và Đức Kim Cang Tát Đỏa trở thành bất nhị, không thể phân chia.

    Hãy nghĩ rằng: "Đức Kim Cang Tát Đỏa từ bi và trí tuệ như thế nào thì tôi cũng từ bi và trí tuệ y như thế. Đức Kim Cang Tát Đỏa làm được bao nhiêu công hạnh thì tôi cũng làm được bấy nhiêu công hạnh." Giữ ý thức như vậy trong khi đi, đứng, nằm, ngồi. Thân Khẩu Ý của mình và thân khẩu ý của Phật là một. Giữ tri kiến thanh tịnh: mọi người đều là Đức Kim Cang Tát Đỏa, mọi âm thanh đều là minh chú, mọi cảnh vật bên ngoài cùng dân cư bên trong đều là cõi Tịnh độ của Đức Kim Cang Tát Đỏa.

    Phát nguyện và hồi hướng, [Nghi Quĩ các câu p118, p.119, p.120]:

    Nguyện hồi hướng công đức / cho khắp cả chúng sinh / không chừa sót một ai / đạt quả vị Phật đà, / dấn thân vào con đường / dẫn đến tâm kim cang / vô sinh và thường lạc / của quả vị hợp nhất / phương tiện và trí tuệ.

    Nhờ vào công đức này / nguyện tôi sớm thành tựu / chứng ngộ đại thủ ấn / chứng ngộ rồi, nguyện xin / đưa khắp cả chúng sinh / không chừa sót một ai / cùng vào quả vị này.

    Xin nương lực gia trì / của các đấng Thế Tôn / thành tựu tam thân Phật; / của pháp tánh bất biến; / của tâm ý tăng bảo / không bao giờ lay chuyển, / nguyện lời nguyện nơi đây / đều trở thành sự thật.

    Chấm dứt thời công phu./.

    Mọi sai sót là của người dịch
    Mọi công đức xin hồi hướng pháp giới chúng sinh

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  19. #19

    Mặc định cho e hỏi

    cho e hỏi cac thầy các huynh. quáng đảnh thì chỉ đc truyền 1 câu chú về trì niệm thôi phải ko , còn các câu chú khác thì vẫn chưa đc trì hả .vậy nghĩa là phải đc quáng đảnh nhìu lần để có thể trì đc nhìu chú ?
    15 AL này bên chùa khuônviệt phú nhuận có lập đàn dược sư trì chú. nghe nói trong tháng7 có tổ chức quáng đảnh cho bà con nữa, ai tham gia cũng đc , hình như là vậy.
    lại nghe nói quáng đảnh chỉ truyền cho người có am hiểu nhìu về phật pháp là sao nữa ? vậy quáng đảnh có 2 dạng khác nhau hả các thầy , các huynh???

  20. #20
    Moderator Avatar của phúc minh
    Gia nhập
    Dec 2010
    Nơi cư ngụ
    thế giới Ta Bà
    Bài gởi
    1,646

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vân Quang Xem Bài Gởi



    PHÁP TU VÔ LƯỢNG THỌ & PHOWA
    PHÁP TU VÔ LƯỢNG THỌ (TĂNG TỌ MẠNG , TĂNG PHƯỚC)
    TÂM CHÚ (KHÔNG CẦN QUÁN ĐẢNH NHÌN HÌNH VÀ QUÁN CHƯ PHẬT ĐANG Ở TRƯỚC MẶT)
    AUM A MA RA NƠ ZI WEN TƠ SO HA

    TÂM CHÚ PHOWA (PHÁP NẦY LÀ PHÁP DI CHUYỂN THẦN THỨC, CẦN PHẢI THỌ QUÁN ĐẢNH VÀ PHÁP HÀNH NẾU KHÔNG DỄ ĐI LUÔN....)
    AUM AMI ĐÊ WA A DU SÍT ĐI HUNG HRI
    thế post lên diễn đàn làm gì, ai thiếu hiểu biết cứ trì thì thế nào?

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Những nghi án bán mình cho ma quỷ nổi tiếng
    By HellBoy in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 20
    Bài mới gởi: 23-05-2010, 07:33 PM
  2. Nghi án Thái sư hóa hổ và hơn 30 đạo sắc minh oan
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 24-03-2010, 05:47 PM
  3. Đưa hài cốt vua Hàm Nghi về VN
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 8
    Bài mới gởi: 31-07-2008, 08:25 AM
  4. nghi lễ
    By tranvinhan in forum Thế Giới Bùa Ngải
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 18-07-2008, 03:39 PM
  5. Nghi Thức Trì Chú
    By kimcang in forum Mật Tông
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 25-01-2008, 01:06 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •