kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Các đại đệ tử của Phật

  1. #1

    Mặc định Các đại đệ tử của Phật

    Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sariputra)ĐỆ NHẤT TRÍ TUỆ

    Tại miền Nam nước Ấn Độ, có một vương quốc tên là Ma Kiệt Đà và cách kinh thành Vương Xá khoảng 3,4 cây số có một thôn trang tên là Ca Tỳ Nỏa Ca. Nơi đây thì rừng đẹp trúc cao, núi xanh sông biếc và quang cảnh thì thanh tịnh u nhàn và đây cũng chính là quê hương của Ngài Xá Lợi Phất.

    Thân phụ của Ngài là Đề Xá và là một luận sư nổi tiếng trong giáo đoàn Bà La Môn. Ngay cả thân mẫu của Ngài cũng là người có trí tuệ vượt xa hơn những phụ nữ bình thường lúc bấy giờ.

    Khi Xá Lợi Phất vừa lên 8 tuổi thì trí thông minh của Ngài đã phát triển một cách nhanh chóng. Một hôm, trong nước Ma Kiệt Đà, có hai anh em ông trưởng giả là Cát Lợi và A Già La, mở tiệc đãi đằng vua quan, các nhà quyền quý và các vị luận sư để thưởng thức ca vũ nhạc kịch và cùng nhau bàn luận về chuyện cổ kim. Theo quy định của đại hội thì mọi người được ngồi theo chỗ đã định sẳn chỉ riêng có cậu bé Xá Lợi Phất thì nhảy phóc lên ngồi ở ghế chủ tọa. Ban đầu thì mọi người không chú ý mấy đến cậu bé ngổ nghịch nầy, nhưng về sau khi nghe Xá Lợi Phất với lời lẽ hùng hồn, nghĩa lý tinh thông, chẳng những làm kinh ngạc những vị luận sư Bà La Môn đương thời mà còn làm cho quốc vương Ma Kiệt Đà sửng sốt. Để tỏ lòng quý mến, quốc vương Ma Kiệt Đà đã đem một thôn trang phong tặng cho cậu bé Xá Lợi Phất.

    Khi lớn lên thì Ngài có dáng người cao lớn, dung mạo thanh tú, mắt sáng như sao và tay dài quá gối. Vì được thừa hưởng truyền thống học giả của cha mẹ và với phong độ trí thức sẵn có nên tên tuổi của Ngài vang dội nhanh chóng cả xứ Ma kiệt Đà nầy.

    Lúc vừa 20 tuổi, Ngài từ giã quê hương và gia đình để lên đường tìm sư học đạo. Ban đầu, Ngài tìm đến bái kiến vị Bà La Môn nổi danh đương thời là San Xà Dạ làm thầy. Nơi đây Ngài kết bạn với người đồng học tên là Mục Kiền Liên. Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tuổi tác thì ngang nhau và trí thức cũng như tư tưởng thì rất tương đồng. Thêm vào đó cả hai đều cùng chí nguyện tầm sư học đạo để tìm chân lý tối thượng của cuộc sống nên tình cảm rất hòa hợp. Khi Xá Lợi Phất tâm sự cho Mục Kiền Liên về kiến thức giới hạn của thầy mình thì cả hai quyết định ly khai San Xà Dạ. Họ nghĩ rằng trên đời nầy không có người trí thức nào sánh kịp với họ và cũng chẳng có ai đủ tư cách làm thầy của họ cả. Họ thành lập một học đoàn riêng biệt và bắt đầu thâu nhận đệ tử. Tôn chỉ của họ là tự tu và truyền dạy những điều họ khám phá được cho hơn 200 đệ tử của họ. Dưới ánh mắt của họ thì những học giả trên toàn nước Ấn Độ lúc bấy giờ quá tầm thường, không có gì đáng kính nể.

    Một ngày nọ, trên đường đi vào kinh đô Vương Xá, Ngài Xá Lợi Phất gặp một nhóm đệ tử của Phật. Họ là năm vị đệ tử đầu tiên mà Đức Phật đã quy y tại vườn Lộc Uyển. Đó là các ông Kiều Trần Như, Ác Bê, Thập Lực, Ma Ha Nam và Bạc Đề và đây là những người tu khổ hạnh với Đức Phật khi xưa trên núi Tuyết sơn.

    Xá Lợi Phất hỏi với khẩu khí của một trưởng giả:

    - Thầy của Ngài là ai? Và bình thường dạy Ngài đạo lý gì?

    Vị Tỳ kheo chậm rãi trả lời:

    - Thầy tôi là bậc đại thánh Thích Ca Mâu Ni, xuất thân từ dòng họ Thích Ca. Ngài dạy về chân lý của vũ trụ nhơn sanh. Kẻ ít học như tôi không thể lãnh hội trọn vẹn, nhưng tôi còn nhớ đạo lý Ngài thường giảng là:

    Các pháp do nhân duyên sanh

    Các pháp do nhân duyên diệt.
    Đức Phật cũng dạy rằng: “ Các hạnh vô thường là pháp sanh diệt, sanh diệt diệt rồi tịch diệt là vui”. Đối với lời dạy của bậc đạo sư, thật khó diễn tả được hết cảm kích của chúng tôi.

    Sau khi nghe danh hiệu Phật Đà và những giáo pháp của Đức Phật thì Xá Lợi Phất như người vừa thức mộng. Trước mắt Ngài là ánh sáng mặt trời vừa xóa đi những đám mây đen bao trùm trong tâm khảm bấy lâu nay. Tất cả những mối nghi ngờ về vũ trụ nhân sinh đều biến mất. Ngài đứng bên đường đàm đạo với các vị Tỳ kheo như là bạn tri kỷ trăm năm và sau đó ước hẹn để yết kiến Đức Phật.

    Xá Lợi Phất về đến nơi, Mục Kiền Liên thấy dáng vui tươi của bạn, liền hỏi thăm:

    - Hôm nay có việc gì mà trông bạn hân hoan đến thế?

    Xá Lợi Phất trả lời:

    - Mục Kiền Liên, đây là dịp cao hứng đệ nhất trong đời tôi. Thật hoan hỷ, tôi báo cho bạn biết, tôi đã gặp vị lão sư của chúng ta.

    Mục Kiền Liên hỏi lại:

    - Bạn nói gì thế, ai là người có thể làm thầy chúng ta?

    Xá Lợi Phất trả lời:

    - Phật Đà! Đó chính là Đức Phật Đà.

    Sau đó, Xá Lợi Phất liền đem những lời giáo pháp của vị Tỳ kheo kể lại cho Mục Kiền Liên nghe. Kẻ nghe, người kể đều không ngăn được xúc động và cả hai đều rơi lệ.

    Đối với pháp nhân duyên thì người bình thường sau khi nghe chưa chắc đã lãnh hội được. Nhưng cả hai càng nghe thì càng thích thú bởi vì nếu không thể thấu hiểu được pháp nhân duyên thì khó lòng mà nhận thức được Phật pháp.

    Ngày hôm sau, Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đem toàn bộ đệ tử đến Tịnh xá Trúc Lâm xin quy y theo Phật. Đức Phật thâu nhập hai ông vào Tăng đoàn với câu nói đơn giản:” Hãy đến đây! Các Tỳ Kheo”.

    Từ khi thành đạo đến nay, Đức Phật đã thu nhập rất nhiều đệ tử. Nhưng đến khi hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên gia nhập tăng đoàn thì Đức Phật mới tin rằng chân lý mình chứng ngộ đã gặp đúng người có thể tiếp thọ. Chính Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng cảm thấy mình đã gặp đúng bậc minh sư.

    Thiết lập tu viện Kỳ Viên:

    Sau khi Xá Lợi Phất quy y theo Phật thì lực lượng tăng đoàn bắt đầu tăng thêm. Lúc ban đầu Đức Phật hoằng dương đạo pháp phần lớn các nơi ở miền Nam xứ Ấn Độ đặc biệt là tại nước Ma Kiệt Đà. Ngài lưu lại tịnh xá Trúc lâm trong 6 mùa an cư kiết hạ. Nhưng hai năm đầu, ở phương Bắc chưa có một tu viện căn bản nào để dùng cho việc thuyết pháp. Do nhân duyên kỳ ngộ, một ngày nọ có ông trưởng giả Cấp Cô Độc là vị đại thần của vua Ba-Tư-Nặc mà kinh đô là thành Vương Xá của nước Kiều Tát La, nhân đến phương Nam thăm người quen và được dịp gặp gỡ Đức Phật. Sau khi nghe Phật thuyết giảng về đạo lý cứu khổ, ông phát tâm quy y và nguyện xây một tịnh xá nơi quê hương của ông để cung thỉnh Đức Phật cùng chư tăng đến để truyền pháp ngỏ hầu dìu dắt chúng sinh ra khỏi đường mê lối vọng. Đức Phật bèn sai Ngài Xá Lợi Phất là người đệ tử đầu tiên nhận lãnh sứ mạng của Đức Thế Tôn lên phương Bắc để lo hoằng pháp và trông coi việc xây cất tu viện Kỳ Viên. Công việc xây cất tịnh xá thì không phải là dễ, nhưng đối diện với ngoại đạo thì vạn phần khó hơn và ngoài Xá Lợi Phất ra không ai có thể gánh vác nổi trách nhiệm nặng nề nầy. Sau khi tìm được mảnh đất của Thái tử Kỳ Đà thì ông Tu Đạt Đa dùng vàng rồng trải khắp mặt đất để mua vườn hoa làm nơi kiến tạo tịnh xá.

    Quả như lời tiên đoán của Đức Phật, Tịnh xá vừa khởi công không bao lâu thì ma nạn khởi lên. Nhiều nhóm ngoại đạo ganh ghét sự phát triển của Phật giáo, đến yêu cầu ông Tu Đạt Đa từ bỏ ý định xây cất tịnh xá và chúng khuyên ông đừng nên tin theo tín ngưỡng của Phật Đà.

    Cho dù bọn ngoại đạo dùng áp lực nhưng ông Tu Đạt Đa đã thọ lãnh pháp ân của Phật thì ông khi nào lại nghe lời của chúng nên họ bèn xoay qua Ngài Xá Lợi Phất. Nếu họ biện luận đánh đổ được thuyết Phật giáo thì ông Tu Đạt Đa sẽ tĩnh ngộ. Khi nghe được tin nầy thì ông Tu Đạt Đa hết sức kinh sợ vì ông nghĩ rằng chỉ một mình Ngài Xá Lợi Phất thì làm sao có thể tranh biện nổi với bọn ngoại đạo?

    Ngày giờ ước định đã đến, bên phía Phật thì chỉ có một mình Ngài Xá Lợi Phất còn phía ngoại đạo thì có hơn mười vị luận sư danh tiếng. So sánh về lực lượng thì một phải chọi tới mười, nhưng Ngài Xá Lợi Phất rất hoan hỷ bởi vì đây là cơ hội tốt để Ngài phát huy triết lý cao siêu của Đức Phật. Ngài không sợ hãi bởi vì Ngài xuất thân trong một gia đình từ ông nội, đến phụ thân đều là học giả hạng nhất của toàn nước Ấn Độ. Họ cũng như Ngài đều là những luận sư danh tiếng của Bà La Môn do đó Ngài rất tinh thông tất cả kinh điển của ngoại đạo và thêm nữa hiện tại Ngài là người vừa chứng được Thánh quả của Phật giáo. Với giáo pháp cao siêu thông suốt như Ngài, sau cuộc tranh luận, bọn ngoại đạo đều giơ tay đầu hàng và một số lớn xin Ngài giới thiệu với Phật để quy y theo Phật giáo. Đức Phật tuy ngồi ở phương Nam mà ánh sáng oai đức đã chiếu trùm đến phương Bắc. Sau đó Ngài Xá Lợi Phất hướng dẫn trên mấy vạn người đến yết kiến và quy y theo Phật. Trưởng giả Tu Đạt Đa lúc nầy càng khâm phục Ngài Xá Lợi Phất, nhưng ông ta lại càng cảm kích oai đức của Đức Thế Tôn.

    Việc xây cất tu viện Kỳ Viên tiến hành rất nhanh chóng và đúng như thiết kế của Ngài Xá Lợi Phất. Tu viện có tất cả 16 giảng đường dành cho đại hội giảng kinh. Ngoài ra tu viện cũng còn có 16 tiểu đường để làm phòng ngủ, nhà khám bệnh….

    Lúc Tịnh xá sắp hoàn thành, Xá Lợi Phất nói với Tu Đạt Đa:

    -Trưởng giả! Ông nhìn xem, trên trời xuất hiện những gì kìa?

    Tu Đạt Đa thất vọng trả lời:

    - Thưa Tôn giả! Con chẳng thấy có gì cả.

    Xá Lợi Phất nói tiếp:

    - Chẳng có gì lạ, tại vì mắt thường không thể thấy được những biến hiện. Bây giờ ông hãy nương theo sức thiên nhãn của tôi và nhìn lại một lần nữa.

    Bây giờ Tu Đạt Đa vui mừng kêu lên:

    - Thưa tôn giả! Con thấy có nhiều cung điện trang nghiêm rực rỡ.

    Xá Lợi Phật tiếp:

    - Đó là cung điện của sáu cõi trời dục. Vì ông cúng dường tịnh xá cho Phật thuyết pháp, tịnh xá tuy chưa hoàn thành, nhưng cung điện của ông trên sáu cõi trời đã sớm dành sẵn cho ông.

    Tu Đạt Đa hỏi:

    - Trong sáu cõi trời ấy, cung điện thì nhiều đến thế thì con phải ở cõi trời nào mới tốt?

    Xá Lợi Phất trả lời:

    - Cõi trời Đạo Lợi thọ mạng rất lâu. Nếu biết tu hành, siêng năng trong Phật đạo thì khó mà đọa lạc.

    Tu Đạt Đa hoan hỷ:

    -Vậy sau nầy con nhất định nguyện sanh về cõi trời Đạo Lợi.

    Khi Tu Đạt Đa vừa nói xong, những cung điện kia dần dần tan biến mất, chỉ còn lại cung điện của cõi trời Đạo Lợi sáng rực đẹp đẽ hiện ra ở không trung. Ta Đạt Đa thấy rồi rất mừng rỡ vì bình sanh ông ta chưa từng thấy cung điện nào đẹp như thế.

    Không lay chuyển tâm Bồ tát

    Nhân chuyện trưởng giả Tu Đạt Đa cúng dường tịnh xá cho Phật và nhờ thần lực thiên nhãn của Ngài Xá Lợi Phất đã giúp cho ông Tu Đạt Đa thấy được cung điện cõi trời. Nhưng cơ duyên gì giúp Ngài Xá Lợi Phật có được thiên nhãn thông như vậy?

    Trở về khoảng sáu mươi tiểu kiếp trước, lúc đó Xá Lợi Phất chỉ là một nhà tu khổ hạnh. Vì muốn làm tròn Bồ tát hạnh, Ngài không những nguyện đem nhà cửa, ruộng vườn, tài sản và tất cả những vật sở hữu nơi thân vui lòng bố thí, mà Ngài còn nguyện đem cả thân thể, mạng sống của mình để bố thí cho người.

    Vì tâm nguyện chơn thiết như vậy đã làm kinh động trời đất cho nên có một thiên nhơn muốn thử đạo tâm của Ngài.

    Thiên nhơn liền biến thành một thanh niên khoảng 20 tuổi ngồi chờ trên đường Xá Lợi Phất thường đi qua. Thanh niên vừa thấy Ngài đến, bèn lớn tiếng khóc ròng. Xá Lợi Phất thấy vậy động lòng từ bi nên đến trước mặt thanh niên an ủi hỏi han:

    - Này cậu kia! Vì sao ngồi đây khóc lóc thương tâm như vậy?

    Cậu thanh niên đáp lại:

    - Ông đừng hỏi lôi thôi, cho dù có nói cho ông nghe thì ông cũng chẳng giúp gì được.

    Xá Lợi Phất hỏi thêm:

    - Tôi là sa môn học đạo, phát nguyện cứu giúp khổ nạn cho chúng sanh. Anh có cần gì nếu tôi có sẵn, tôi sẽ giúp anh mãn nguyện.

    Chàng thanh niên kể rằng:

    - Ông chẳng thể giúp tôi được đâu, tôi khóc đây chẳng phải vì thiếu tài vật thế gian, mà vì mẹ tôi mang bệnh không thể trị được. Thầy thuốc nói cần phải có con mắt của người tu để hòa thuốc thì bệnh mẹ tôi mới lành. Con mắt của người đời đã khó kiếm thì con mắt của người tu làm sao chịu cho tôi? Nghĩ đến mẹ già rên rỉ trên giường bệnh chờ thuốc nên tôi bất chợt đau đớn mà phát khóc.

    Nghe xong Xá Lợi Phất trả lời:

    - Chuyện đó đâu khó gì, tôi vừa nói với anh tôi là sa môn kia mà. Tôi sẽ bố thí cho anh một con mắt để cứu bệnh nan y cho mẹ anh.

    Thanh niên vui mừng nhảy lên:

    - Có thật Ngài bố thí cho tôi một con mắt?

    Xá Lợi Phất nói thêm:

    - Tất cả tài sản của tôi đều bố thí hết. Chính lúc muốn tiến một bước trên Bồ tát đạo, tôi nguyện đem thân ra bố thí. Tôi còn đang khổ sở vì chẳng gặp ai nhận, nay gặp lúc anh đang cần thì tôi mãn nguyện tâm đạo của tôi rồi. Tôi rất vui mừng cám ơn anh. Anh nên tìm cách lấy con mắt của tôi đi

    Người thanh niên khó chịu đáp:

    - Thật không được, làm sao tôi dám cưỡng đoạt con mắt của ông? Như lời ông phát nguyện thì ông tự móc mắt ra mà cho tôi.

    Xá Lợi Phất nghe nói có lý liền quyết tâm dũng cảm chịu đau, đưa tay móc ngay con mắt bên trái ra, đưa tận tay thanh niên và nói:

    - Đa tạ anh đã giúp tôi thành tựu tâm nguyện, mắt đây anh hãy cầm lấy.

    Thanh niên đưa tay cầm con mắt trái bèn la lớn rằng:

    - Hỏng bét! Ai biểu ông móc con mắt trái ra vậy? Bệnh mẹ tôi thì thầy thuốc nói phải dùng con mắt mặt mới tốt.

    Xá Lợi Phất nghe nói liền tự trách sao mình không hỏi kỹ rồi hãy móc mắt. Lỡ rồi bây giờ phải làm sao? Ngài tự nghĩ khi cho con mắt trái thì vẫn còn con mắt mặt để xài. Nếu bây giờ cho luôn con mắt mặt thì mình thành ra đui. Thật đáng kính phục Xá Lợi Phất, không bao giờ trách người. Ngài nghĩ tiếp rằng nếu mình đã phát tâm cứu người thì phải làm cho tới nơi tới chốn. Rất khó gặp người nhận bố thí để thành tựu đạo hạnh cuả mình, cho nên quyết định cho luôn con mắt mặt. Xá Lợi Phất nghĩ như vậy nên đến an ủi chàng thanh niên:

    - Anh đừng nóng ruột, vừa rồi tại tôi hấp tấp, không kịp hỏi nên móc lộn con mắt. Bây giờ tôi biết rằng thân thể nầy là hư huyễn là vô thường nên tôi còn con mắt bên phải tôi xin móc luôn cho anh làm thuốc chữa bệnh cho mẹ.

    Xá Lợi Phất nói xong, lại quyết tâm một phen nữa, mạnh dạn chịu đau móc luôn con mắt bên mặt cho thanh niên nọ.

    Thanh niên cầm con mắt, không thèm nói một lời cám ơn, đưa con mắt lên ngửi một cái rồi quăng luôn xuống đất và mắng:

    - Ông là thầy tu cái gì? Con mắt hôi hám khó ngửi, làm sao nấu thuốc cho mẹ tôi dùng?

    Thanh niên mắng xong, còn lấy chân chà lên con mắt Xá Lợi Phất.

    Mặc dù không còn thấy được nữa, nhưng lỗ tai vẫn còn thính nên sau khi nghe lời mắng cũng như tiếng chân chà đạp con mắt của mình, Ngài chỉ còn biết thở dài và thầm nghĩ:” Chúng sanh khó độ, tâm Bồ tát khó phát, ta chẳng dám nghĩ tới Bồ tát giới. Ta nên quay lại chú trọng việc tu hành để tự độ mà thôi”.

    Trong tâm Ngài vừa khởi ý niệm ấy thì trên không trung xuất hiện rất nhiều thiên nhơn và nói với Ngài rằng:

    - Thưa tôn giả! Xin Ngài đừng chán nản vì người thanh niên lúc nãy là do thiên nhơn chúng tôi sai đến thử thách Bồ tát đạo tâm của Ngài. Ngài phải tinh tấn dũng mãnh lên theo như tâm nguyện của mình để mà tu đạo.

    Xá Lợi Phất nghe nói lấy làm xấu hổ nhưng tâm Bồ tát lợi tha bắt đầu mở rộng trong Ngài.

    Từ 60 tiểu kiếp đến nay, Ngài Xá Lợi Phất không ngừng tu Bồ tát đạo từ đời nầy đến kiếp khác cho đến khi gặp Phật Thích Ca Mâu Ni thì chứng được thánh quả và đạt được Thiên nhãn thông.

    Giáo Hóa Kẻ Phản Đồ

    Trong hàng đệ tử của Phật có một Tỳ kheo tên là Đề Bà Đạt Đa. Ông là bậc vương tôn và đã quy y theo Phật cùng lúc với những chàng thanh niên dòng họ Thích khi Đức Phật về thăm gia đình. Ông là anh của tôn giả A Nan. Mặc dù xuất gia trên 10 năm nhưng ông ta không chứng được quả vị gì. Vì ham mộ thần thông nên ông bị ma quỷ làm mờ tâm trí. Ông mưu đồ phản lại Đức Phật và tách rời khỏi tăng đoàn. Một hôm sau khi Đức Phật đi khất thực về và cùng với các đệ tử nghỉ ngơi tại giảng đường thì Đề Bà Đạt Đa ngang nhiên dẫn đầu nhóm bè đãng đến yêu cầu Phật nhường quyền lãnh đạo tăng đoàn cho ông. Phật từ chối vì biết ông là người không đủ tư cách. Càng giận ông càng la lớn tiếng và kêu gọi các tỳ kheo đi theo ông. A Nan lúc ấy mới nói:

    - Xin anh đừng hồ đồ. Anh là huynh trưởng của tôi. Tôi nghĩ đến anh tạo tội nặng như thế, tương lai sẽ bị đọa mà cảm thấy ghê sợ. Đức Phật là bậc đại từ bi. Con người như anh không thể sánh với Ngài. Nếu hôm nay có mặt Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên ở đây, chắc chắn họ không để cho anh tung hoành như vậy.

    Sau đó Đề Bà Đạt Đa dùng mọi thủ đoạn từ uy hiếp đến lợi lộc để dụ dỗ một số đệ tử của Phật theo mình. Có một số tỳ kheo lòng tin không vững cùng với sự tham mê sự cúng dường nồng hậu của vua A Xà Thế đã đổi lòng mà đi theo ông.

    Đức Phật sai hai Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến Gayasima để thuyết pháp đem họ về với chánh đạo. Một ngày nọ, đang khi các phản đồ cùng với số đệ tử của Đề Bà Đạt Đa nhóm họp thì Xá Lợi Phất uy nghiêm đi đến và hỏi:

    - Này quý vị, tôi hỏi quý vị một câu. Vậy chớ quý vị xuất gia tu đạo là vì thọ cúng dường? Hay vì tu đạo?

    Đại chúng đồng đáp:

    - Vì mục đích tu đạo và muốn thoát sanh tử!

    Xá Lợi Phất nói tiếp:

    - Nếu như vậy, các ông không tu theo chánh đạo của Đức Phật, lại để cho lòng tin thuần khiết tôn quý của mình bị lay động vì chút vật chất cỏn con. Các ông phải mau mau phản tỉnh giác ngộ mới được.

    Khi Xá Lợi Phất nói lời ấy tức thì từ trong mình phóng ra muôn đạo kim quang trong đó hiển hiện từ dung của Phật. Các tỳ kheo bội phản và môn đồ của Đề Bà Đạt Đa kinh sợ và đều quỳ xuống sám hối. Sau đó Xá Lợi Phất lại dẫn họ trở về với tăng đoàn.

    Đức Phật từ đó càng tin cậy Xá Lợi Phất vì Ngài có công lớn trong sự hòa hợp tăng đoàn. Riêng Đề Bà Đạt Đa không sợ Phật nhưng rất kính nể Xá Lợi Phất.

    Cõi Tây Phương Cực Lạc

    Đúc Phật vì lòng từ bi mà xuất gia tìm đạo để cứu chúng sanh ra khỏi bể trầm luân. Khi Ngài còn ở tịnh xá Kỳ viên thì thường thuyết giảng cho chúng sanh hiểu rõ về biển khổ của sanh tử luân hồi. Chúng sanh vì mê lầm mà mãi trầm luân trong sáu nẻo. Ngài muốn nói lên pháp môn Tịnh độ nhưng lại sợ hạng căn cơ thấp kém không thể tin tưởng và thọ trì nên Ngài quyết định dùng trí huệ của Xá Lợi Phất để truyền dạy về cảnh Tây phương Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm của Đức Phật A Di Đà. Phật dạy:

    - Nầy Xá Lợi Phất! Ở phương Tây cách thế giới của ta rất xa xôi, có một thế giới tên là thế giới Cực lạc. Ở đó vị giáo chủ là Đức Phật A Di Đà hiện đang thuyết pháp.

    Xá Lợi Phất hỏi:

    - Thế giới ấy tại sao gọi là thế giới Cực lạc?

    Phật dạy rằng:

    - Vì thế giới ấy không giống thế giới Ta bà nầy có nhiều xấu xa, nhỏ hẹp và đau khổ. Chúng sanh ở quốc độ đó chỉ có đầy đủ, không hề thiếu thốn, chỉ có an vui không hề đau khổ, cho nên gọi là thế giới Cực lạc. Cõi ấy cảnh vật tốt đẹp trang nghiêm, bằng phẳng, sạch sẽ và giàu có. Người trong nước về phần ăn mặc, đi đứng, thuốc men… đều tùy theo nhu cầu mà đầy đủ tiện nghi. Những người ấy đều là các bậc thượng thiện ở chung một cõi. Phong cảnh như một rừng hoa tuyệt mỹ. Kiến trúc như một đô thị nguy nga.

    Phật lại dạy tiếp:

    - Xá lợi Phất! Chỉ cần nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, gieo trồng nhân duyên phước đức, tu học 37 phẩm trợ đạo, tương lai sẽ được Phật A Di Đà tiếp dẫn và được vãng sanh về nước của Ngài. Nầy Xá Lợi Phất! Chúng sanh ở thế giới Ta bà nếu muốn thoát khỏi khổ não trong sáu nẻo luân hồi, chỉ nên phát nguyện cầu được sanh về cõi ấy. Ta từng bảo A Nan lễ bái Phật A Di Đà và chính A Nan cũng từng được thấy Phật A Di Đà phóng hào quang sáng chói. Các ông nên tin vào pháp môn mà ta vừa nói. Đó chính thật là con đường cứu khổ.

    Đức Phật nói xong, đại trí Xá Lợi Phất không hề có một niệm hoài nghi. Tôn giả và đại chúng đều tin sâu vào pháp môn Tịnh độ của Phật A Di Đà.

    Sự Sanh Tử Của Kẻ Tu Hành

    Một ngày kia, tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi thiền trong một khu rừng gần thành Vương Xá, trong lúc chuẩn bị để nhập chánh định thì bỗng nhiên Ngài nghe tiếng Tỳ kheo ni Ưu Ba Tiên Na gọi Ngài trong lúc bà ta đang ngồi thiền từ trong hang động đối diện. Mặc dù Ngài là bậc trưởng lão đã chứng thánh quả, Ngài cũng tôn trọng những ni cô tu hành đắc đạo. Khi Ngài vừa bước đến thì Ưu Ba Tiên Na nói:

    - Thưa tôn giả! Khi tôi đang tọa thiền, trên thân mình bỗng chạm nhằm vật gì. Ban đầu tôi không lưu ý, nhưng sau mới biết là đụng phải loài rắn độc. Tôi đã bị nó cắn, thế nào cũng chết. Bây giờ thừa lúc nọc độc chưa hoành hành, xin Ngài từ bi vì tôi tìm cách mời đại chúng đến cho tôi được cáo biệt.

    Khi nói câu nói ấy, Ưu Ba Tiên Na không tỏ một chút gì kinh sợ và tư chất của bà rất tự nhiên như chẳng có việc gì xảy ra.

    Xá Lợi Phất hỏi:

    - Ở đây vừa xảy ra việc đó sao? Ta xem sắc mặt cô không có gì biến đổi. Nếu như bị rắn cắn thì nhất định cô sẽ biến sắc.

    Mới nhìn Xá Lợi Phất cho là không có việc gì nên mới nói như thế, nhưng Ư Ba Tiên Na trầm tĩnh đáp:

    - Bạch tôn giả! Thân người là do tứ đại, ngũ uẩn hư vọng mà thành, không có chủ tể, vốn là vô thường, vốn là “không”. Tôi đã chứng ngộ được đạo lý ấy thành ra độc xà làm sao cắn được cái không?

    Xá Lợi Phất khen:

    - Cô nói rất đúng. Cô đã đến trình độ thoát mọi đau đớn của thân thể. Cô dùng huệ mạng của mình mà giữ gìn sắc mặt không biến đổi.

    Xá Lợi Phất khen ngợi Ưu Bà Tiên Na và thông tri cho tất cả các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni tu tập gần đó. Họ đem Ưu Ba Tiên Na ra khỏi động thì lúc ấy nọc độc mới dần dần xâm nhập khắp người. Một lác sau Ưu Ba Tiên Na bình thản mà nhập diệt. Tất cả đại chúng thấy một bậc thánh được giải thoát như vậy thì ai ai cũng tán thán. Xá Lợi Phất nói thêm:

    - Người tu hành điều tâm, chủ động mà nhập diệt, đối với cái chết của thân mình coi như bỏ cái bát độc, như bệnh nặng được lành. Có cầu ắt có báo đáp, có chí nguyện thì nhất định sẽ thành. Đối với họ sắp chết mà không đổi sắc, đó là dùng mắt trí huệ mà xem tướng thế gian cũng như ra khỏi nhà lửa tam giới. Thật là đẹp đẽ vô cùng.

    Lời Ngài Xá Lợi Phất khen Ưu Ba Tiên Na chính là phương pháp quan sát của người Phật tử đối với chuyện tử sanh. Đối với kẻ tu hành thì chuyện tử sanh cũng như là một đám mưa đi qua mà thôi. Bởi vì đối với họ thân nầy là giả, mọi vật chung quanh họ cũng là giả luôn nên họ không còn luyến ái, tham lam để gìn giữ cái giả tạo đó. Ra khỏi tam giới tức là tự mình đã thoát ra khỏi lò lửa của phiền não, của đau thương để đến cảnh an vui tự tại muôn đời bất sanh bất diệt.

    Lòng Khoan Dung Độ Lượng

    Thời gian thắm thoát trôi qua, mới đấy mà giờ đây Ngài đã là bậc cao tăng trên 80 tuổi. Mặc dù tuổi đã già nhưng Ngài không bao giờ quên lãng chuyện hoằng pháp độ sanh. Năm đó sau mùa an cư kiết hạ tại tịnh xá Kỳ viên, Ngài thỉnh cầu Đức Phật cho phép được đi du phương hóa đạo. Phật nhận lời và khen ngợi tinh thần vị tha, vị pháp của Ngài. Tôn giả rời tịnh xá không bao lâu thì có một tỳ kheo đến bạch với Phật rằng:

    - Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất đi vân du hôm nay không phải vì tuyên dương Phật pháp, mà ông ấy đã làm nhục con. Khi gặp mặt con ông thấy hổ thẹn muốn tránh nên mới kiếm chuyện đi phương khác.

    Đức Phật không vui kẻ phỉ báng người vắng mặt, nghe xong lập tức cho người mời Xá Lợi Phất trở lại và ở trước đại chúng Phật nghiêm nghị hỏi Xá Lợi Phất:

    - Xá Lợi Phất! Sau khi ông đi không lâu, có một tỳ kheo đến mách với ta rằng ông đã khi dể , nhục mạ ông ấy, có thật hay không?

    Xá Lợi Phất ôn hòa, cung kính thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Từ khi con theo Ngài đến nay gần 80 tuổi, con nhớ chưa từng sát hại sinh mạng, chưa hề nói lời hư vọng. Chỉ trừ khi vì muốn tuyên dương chân lý, cũng chưa từng nói chuyện riêng tư, lợi hại được mất của người hay là cùng người bàn tán tốt xấu. Trong ba tháng an cư, con mỗi ngày đều sám hối, không mất chánh niệm, tâm con thanh tịnh, không có một vẻ bất bình thì làm sao con khinh thị người khác cho được?

    - Bạch Thế Tôn! Đất bùn hay nhẫn nhục, bất cứ vật gì nhơ uế đổ lên, đất không cự tuyệt. Phân tiểu, máu mủ, đờm dãi đất đều cam thọ cũng như kẹo ngon. Tâm con hôm nay bộc bạch trước Đức Thế Tôn, nguyện như sức nhẫn nhục của đại địa, nguyện không trái nghịch ý người.

    - Dòng nước thanh tịnh không kể vật sạch dơ hay cũ nát đều dùng nước để rửa sạch. Tâm con không yêu ghét, cũng như dòng nước kia. Bạch Thế Tôn! Cây chổi dùng để quét bụi, khi quét dọn không chọn lựa tốt xấu. Tâm con hôm nay thật không hề khởi phân biệt tốt xấu. Con ở trong chánh niệm, quyết không hề khinh tiện vị tỳ kheo kia. Con đối với Phật mà nói lời nầy. Con biết việc làm của con còn vị tỳ kheo kia cũng biết việc làm của vị ấy. Như nếu con có lỗi con xin hướng về vị tỳ kheo ấy sám hối để tâm con khỏi cắn rứt.

    Khi Xá Lợi Phất bạch Phật xong thì trong đại chúng ai ai cũng cảm động. Phật bảo ông tỳ kheo vu cáo kia:

    - Ông có lỗi hủy báng trưởng lão, bây giờ không thể không sám hối. Ông đã có ý khiến tăng đoàn phân vân, ông muốn cho tăng đoàn bất hòa. Nếu như ông chí thành sửa đổi sẽ khỏi bị quả báo về sau.

    Tỳ kheo kia vội vàng quỳ trước Phật, chân thành sám hối:

    - Bạch Thế Tôn! Tôn giả Xá Lợi Phất là người không có lỗi chi. Con đối với bậc trí huệ năng lực như thế mà không biết nhún mình học tập, lại sanh tật đố. Xin Phật từ bi thương xót, cho con cơ hội đầu tiên sám hối.

    Đức Phật trang nghiêm từ hòa bảo:

    - Ông hãy đến sám hối với Xá Lợi Phất vậy.

    Vị Tỳ kheo ấy phủ phục cúi đầu quỳ trước Xá Lợi Phất, Tôn giả bèn để tay lên đầu ông và từ tốn nói:

    - Tỳ kheo! Trong giáo pháp của Phật, sám hối có sức mạnh vô cùng. Làm người ai không khỏi lầm lỗi. Nhưng biết lỗi liền sửa đó là việc lành rất lớn. Tôi nhận sự sám hối của ông, từ đây về sau đừng tái phạm.

    Trước thái độ và lời nói của Xá Lợi Phất ai nghe cũng cảm động. Ngài đã cho chúng ta thấy lòng quảng đại và tâm bình đẳng thật vô lượng đối với kẻ oán người thù.

    Chánh Đạo Thắng Ác Quỷ

    Khi Đức thế Tôn đang giảng pháp tại vườn trúc Ca Lan Đà thì tôn giả Xá Lợi Phất nhập Kim Cang tam muội ở núi Kỳ Xà Quật. Cùng ở trong núi nầy có hai con quỷ: con thiện là Ưu Bà Ca La và con ác là Già La. Từ xa chúng nhìn thấy Xá Lợi Phất đang ngồi kiết già tĩnh tọa. Ác quỷ Già La bèn nói với thiện quỷ Ưu Bà Ca La rằng:

    - Nầy Ưu Bà Ca La! Ta sẽ đánh bể cái đầu của lão sa môn kia.

    Thiện quỷ Ưu Bà Ca La cản ngăn:

    - Anh chớ nên nói như thế. Vị sa môn ấy là đệ tử của Phật. Ông ta thông minh trí tuệ số một và có thần lực. Nếu như anh khởi ác tâm làm hại vị ấy thì anh sẽ trầm luân vĩnh cửu chịu khổ vô cùng.

    Ác quỷ Già La cương quyết:

    - Anh sợ lão sa môn ấy sao? Sa môn là người rất dễ bắt nạt. Anh chú ý xem một chưởng của tôi sẽ làm cái đầu của gã sa môn ấy lập tức nát như cám.

    Thiện quỷ Ưu Bà Ca La can gián:

    - Anh nói như vậy chớ tôi thật kiêng nể sa môn. Tuy họ rất nhẫn nhục và dễ bị lấn áp nhưng các vị ấy oai đức rất lớn. Anh mà đánh vị sa môn nầy, ông ta tuy bị khổ nhất thời nhưng chúng ta sẽ vĩnh viễn bất an.

    Thiện quỷ cố cản ngăn nhưng ác quỷ vẫn không nghe liền tung chưởng đánh ngay vào đầu Xá Lợi Phất. Thiện quỷ không nỡ nhìn cảnh ấy bèn tàng hình biến đi. Ác quỷ đánh tới mà Xá Lợi Phất chỉ có cảm giác như một chiếc lá rơi trên đỉnh đầu. Ngài mở mắt ra chỉ kịp thấy một con quỷ thất khiếu chảy máu và rớt xuống địa ngục.

    Sau đó, Xá Lợi Phất từ trong Kim Cang tam muội đứng dậy, chỉnh lại y phục, đến vườn trúc gặp Phật. Thấy ông Phật hỏi:

    - Xá Lợi Phất! Hôm nay thân ông có việc gì không?

    Xá Lợi Phất trả lời:

    - Bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con không có bệnh nặng, nhưng hiện tại trên đầu có đau chút đỉnh.

    Phật dạy:

    - Xá Lợi Phất! Hôm nay ông nhập Kim Cang định rất tốt, quỷ Già La đánh lên đầu ông mà chẳng gây thương tích cho ông. Phải biết quỷ Già La mà đấm vào núi Tu Di cũng phải bể hai, sức định Kim Cang lớn mạnh như thế các tỳ kheo khác cần phải noi theo mà tu trì.

    Đối với Xá Lợi Phất thì Ngài thường đi trong Không Tam Muội và Kim Cang Tam Muội do đó tai nạn bên ngoài không thể làm hại Ngài được.

    Xin Nhập Diệt Trước Đức Phật

    Lúc bấy giờ Đức Phật đang ở trong rừng của làng Trúc Phương gần thành Tỳ Xá Ly. Sau khi thuyết pháp xong Ngài bèn báo cho đại chúng một tin kinh hãi là ba tháng nữa Ngài sẽ nhập diệt. Tin buồn nầy lan ra rất nhanh làm mọi người trong tăng đoàn buồn thảm. Riêng Xá Lợi Phất cũng không thể nào thấy Phật nhập diệt được, nên khi ở trong định Ngài nghĩ thầm:

    - Những đệ tử thượng thủ của chư Phật trong quá khứ đều nhập diệt trước Phật. Nay ta là đệ tử thượng thủ của Thế Tôn nên ta phải nhập diệt trước Ngài.

    Sau khi nghĩ như vậy, Xá Lợi Phất liền xả thiền đến trước Phật, quỳ thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Con nay muốn nhập diệt xin Đức Thế Tôn chuẩn y.

    Phật chú ý nhìn Xá Lợi Phất rất lâu mới hỏi:

    - Vì sao ông muốn nhập diệt mau vậy?

    Xá Lợi Phất thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Ngài nói Ngài sẽ nhập diệt rất gần đây.

    Thế Tôn đã ban cho con pháp tính và ân huệ rộng lớn, làm sao con có thể thấy Thế Tôn nhập diệt được. Vã lại, Thế Tôn từng nói, các đệ tử thượng thủ của chư Phật trong quá khứ đều nhập diệt trước các Ngài. Con thiết tưởng nay là đúng lúc con nhập diệt, xin Thế Tôn từ bi chấp thuận.

    Xá Lợi Phất nói có vẻ thương cảm nhưng vẫn không để mất cái phong độ an tịnh.

    Phật lại hỏi:

    - Ông định nhập diệt ở nơi nào?

    Xá Lợi Phất thưa:

    - Con định về cố hương tại làng Na La Tỳ Nỏa Ca, có mẹ già trăm tuổi của con vẫn còn khỏe mạnh. Con muốn về thăm mẹ già lần cuối và sẽ nhập diệt trong căn phòng nơi con lớn lên.

    Phật đáp:

    - Ta không cản ngăn ông, ông có thể làm theo ý mình, nhưng ông là đệ tử thượng thủ trong hàng đệ tử ta, vậy ông nên đợi ta tập họp tăng đoàn để ông có vài lời giáo huấn cho họ.

    Phật sai A Nan tập họp chúng tỳ kheo. Mọi người nghe tin Xá Lợi Phất cáo từ về quê để nhập diệt thì không khỏi ngậm ngùi.

    Trước tiên Xá Lợi Phất cáo biệt Đức Phật:

    - Bạch Thế Tôn! Con từ quá khứ vô lượng kiếp luôn luôn hy vọng được sanh nhằm thời Phật ra đời và rốt cuộc đã được mãn nguyện. Nỗi vui mừng khi gặp Phật chẳng có gì so sánh được. Trong 40 năm, lãnh thọ lời dạy từ bi của Thế Tôn, khiến kẻ ngu si như con được mở mắt trí tuệ, giác ngộ chân lý và chứng được thánh quả. Ngôn từ và hình dung trong thiên hạ không thể diễn tả được sự cảm kích và vui mừng của con.Hôm nay thời hẹn lìa cõi tục của con gần kề. Con sắp xả bỏ mọi ràng buộc thế gian, sắp sửa đi vào cảnh giới tự do tự tại. Như người gánh nặng đi xa sắp được buông xuống, con rất vui mừng vì con được thừa thọ pháp thủy cam lồ của Thế Tôn. Chính nó đã giúp con cởi mở mọi sự trói buộc của ngũ uẩn và không còn thọ những khổ não của các cõi nữa. Đây là lời từ giã cuối cùng đối với Thế Tôn, xin Ngài cho con đảnh lễ.

    Xá Lợi Phất nói xong liền gieo năm vóc sát đất. Lúc đó bầu không khí thật trầm lặng và mọi người chăm chú lắng nghe từng lời nói chân thành của tôn giả.

    Phật gật đầu nói với Xá Lợi Phất:

    - Xá Lợi Phất! Những lời giảng dạy của ta ông đã lãnh hội, nay ta thọ ký cho ông tương lai sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai và sẽ trở lại nhân gian giáo hóa chúng sanh để thành tựu quả Phật tối cao.

    Đức Phật nói xong liền bảo đại chúng tiễn đưa Xá Lợi Phất một đoạn đường. Tôn giả đứng dậy từ giả đi lui ra cho đến lúc không còn nhìn thấy Thế Tôn mới xoay mình trở lại. Các tỳ kheo đều mang hương hoa đưa tiễn tôn giả và ai ai cũng đều rướm lệ.

    Các tỳ kheo đi theo tôn giả Xá Lợi Phất một đoạn đường thì tôn giả dừng lại nói với mọi người:

    - Quý vị hãy dừng lại đây, không cần đưa tiễn thêm. Chỉ cần Quân Đầu theo tôi mà thôi. Xin quý vị hãy trở về, tự mình gấp rút tu hành, mong rằng quý vị nỗ lực tinh tấn thoát ly nơi ưu bi khổ não và mau vào cảnh giới giải thoát tự do.

    Đức Thế Tôn xuất hiện trên thế gian như hoa Vô Ưu vì hoa nầy chỉ nở trong mấy ngàn vạn năm mà thôi. Thêm nữa, thân người khó được mà đời nay chúng ta được xuất gia và lại được nghe Phật thuyết pháp. Thật là việc hy hữu trong trăm ngàn vạn ức đời. Hy vọng đại chúng tinh tấn thêm lên để chiến thắng cái khổ vô thường và đạt đến cảnh giới của Niết Bàn. Đó mới là nơi trở về vĩnh viễn chơn thật của chúng ta và đó mới chính là thế giới an bình tĩnh mịch.

    Tôn giả nói lời ấy xong, đại chúng nghĩ đây là lời tặng cuối cùng trong dịp tử biệt sinh ly. Mọi người đều không nén được nỗi bi ai và họ vừa khóc vừa thưa với tôn giả:

    - Tôn giả! Ngài là đệ tử thượng thủ của Đức Thế Tôn, là bậc trưởng lão trong hàng tỳ kheo của chúng con. Về sau chúng con rất cần Ngài lãnh đạo trong việc hoằng dương đạo pháp, vì sao Ngài lại phải nhập diệt sớm thế?

    Xá Lợi Phất thấu hiểu tâm trạng của đại chúng nhưng rất an tĩnh mà đáp lại rằng:

    - Xin các vị đừng thương cảm như thế. Thế gian nầy là vô thường Phật Đà chẳng thường nói với chúng ta như vậy sao? Núi Tu Di còn có lúc tan vỡ, biển lớn còn có ngày khô cạn thì cái chết của sắc thân Xá lợi Phất tôi như hạt cải nhỏ xíu. Đó là chuyện đương nhiên và đó cũng là thật tướng của thế giới, của vũ trụ. Lời sau cùng tôi muốn dặn dò quý vị là cần phải nhất tâm tu đạo để được thoát ly cảnh khổ để về với thế giới Cực Lạc thanh lương. Đức Phật ngày xưa đã từng nói với tôi quốc độ của Phật A Di Đà ở phương Tây là nơi giải thoát an lạc. Các vị nên niệm Phật thì nguyện vọng của quý vị sẽ được như ý. Tôi lại mong quý vị luôn luôn tuyên dương giáo pháp của Phật Đà, không nên do sự toan tính về danh lợi của riêng mình. Nếu không làm gì phước lợi cho chúng sanh thì đừng xuất gia. Cho đến thời mạt pháp, đời đời kiếp kiếp lúc nào cũng độ cho chúng sanh lìa khổ được vui để họ có thể nối tiếp huệ mạng của Phật Đà.

    Xá Lợi Phất nói xong làm mọi người vô cùng cảm động. Mỗi người đều biết đây là lần chia tay sau cùng với tôn giả và sẽ không còn có dịp để tương phùng. Tuy tôn giả bảo đại chúng trở lui, mà ai nấy đều bước theo Ngài. Ngài không vui khi thấy thái độ lưu luyến như thế nên Ngài một lần nữa cự tuyệt sự tiễn đưa của họ. Cuối cùng mọi người phải dừng lại. Mặc dù tôn giả đã đi xa và mất hút tận chân trời nhưng bóng hình của vị trí huệ đệ nhất vẫn hiện lên sáng ngời trong tâm của tất cả mọi người.

    Hồi Gia Và Nhập Diệt

    Từ giả Đức Phật và tăng đoàn, Ngài Xá Lợi Phất cùng đệ tử Quân Đầu lần bước về quê hương của Ngài. Cảnh cũ người xưa sau bao năm xa cách khiến cho lòng tôn giả khởi lên những đợt sóng triền miên. Mặc dù như thế, chẳng những trong tâm Ngài không loạn động mà nó còn phẳng lặng và sáng suốt như núi Tuyết Sơn. Tất cả những nhận định về nhân sinh quan và vũ trụ quan đều hiện rõ trong tâm Ngài.

    Khi Ngài về đến cố hương thì mặt trời đã ngã về Tây và hoàng hôn nhuộm một màu hồng nhạt cho làng Ca La Tỳ Nỏa Ca. Tôn giả ngồi nghỉ bên đường thì đứa cháu gái là Ưu Bà Ly Bà Đa đến bên lễ bái. Tôn giả bèn hỏi:

    - Bà nội có ở nhà không?

    Bé gái đáp:

    - Bà nội vẫn ở nhà.

    Tôn giả bảo bé gái:

    - Cháu về thưa với bà có ta trở về và thưa với bà cho người quét dọn căn phòng của ta sạch sẽ để ta nghĩ ở đó một đêm.

    Mẫu thân của Ngài vui mừng khôn xiết khi gặp lại con mình sau bao năm xa cách. Tuy Ngài đã 80 tuổi, nhưng đối với người mẹ già ngoài 100 tưổi thì lúc nào bà cũng xem Ngài như là đứa con nhỏ mà thôi. Ngài thăm hỏi từng người trong gia đình và sau đó Ngài an nhiên nhìn mẹ, mỉm cười và đem ý định về quê để nhập diệt báo cho mẹ cùng thân bằng quyến thuộc biết. Mọi người nghe xong đều lộ vẻ kinh hãi, nhưng Xá Lợi Phất nói tiếp:

    - Xin mọi người đừng bận tâm và xin mẹ đừng coi cái chết của con giống như mọi người. Thông thường lúc chết thì ai cũng khóc lóc nhưng việc con nhập diệt là việc rất vui mừng. Lúc nầy thân tâm con rất vui, rất an ổn. Một đời con gặp được bậc thầy cứu thế Phật Đà, nghe được giáo pháp và thực hành theo đó. Con đã được cứu vớt ra khỏi biển sanh tử và đã được giải thoát từ trong phiền não. Do đó không còn việc gì phải sợ hãi. Sở dĩ hôm nay con về cố hương là để nhập diệt. Vì con là đệ tử thượng thủ của Phật nên con phải nhập diệt trước Ngài. Xin cả nhà yên lòng bởi vì đờingười có ai khỏi chết đâu? Như tôi không chút mê mờ mà nhập diệt thì đó là một hạnh phúc lớn lao.

    Mẹ già trăm tuổi của tôn giả sau khi nghe xong thì đổi buồn thành vui vì bà nghĩ rằng con mình đã xả bỏ thế gian một cách tốt đẹp , tự do giải thoát. Bà hy vọng cái chết của mình trong tương lai cũng được như con mình nên bà đem hết tâm tình hoan hỷ mà đón nhận. Xá Lợi Phất lại đem lời của Phật nói lại cho mẹ nghe. Càng nghe bà càng hoan hỷ vì con bà một khi sáng suốt, không mê muội mà nhập diệt thì sẽ không còn vướng bận sanh tử luân hồi và về với cảnh giới an vui tự tại. Bà nói:

    - Thôi con hãy nghỉ ngơi một chút đi.

    Tuy bà nói vậy, nhưng cũng rơi nước mắt mà lui về phòng.

    Khi mọi người đã đi ngủ, tôn giả mới nói với Quân Đầu:

    - Con hãy qua phòng bên kia, để một mình ta trong phòng nầy.

    Tin Xá Lợi Phất về quê nhập diệt lan truyền khắp mọi nơi. Trong số những người đến thăm còn có vua A Xà Thế của xứ Ma Kiệt Đà. Ông đem theo rất nhiều đại thần để đến tiễn biệt tôn giả lần cuối. Lúc nầy nơi tịnh xá của tôn giả thật vắng lặng và chỉ có một ngọn đèn sáng. Khi hừng đông vừa lố dạng, tôn giả hỏi Quân Đầu:

    - Có người nào đến, phải không?

    Quân Đầu thưa:

    - Dạ phải, nhiều người nghe tin đồn tôn giả nhập diệt nên đến xin gặp mặt, có cả vua A Xà Thế cũng đến.

    Tôn giả bảo:

    - Con mời họ vào đây.

    Quân Đầu ra chào khách và ai nấy đều rón rén bước vào phòng của tôn giả. Sau một lúc, tôn giả mới nói với mọi người:

    - Các vị đến đây rất đúng lúc. Tôi cũng muốn gặp quý vị một lần nầy. Bốn mươi năm qua, tôi vâng lãnh lời chỉ dạy của Đức Thế Tôn, đi các nơi giáo hóa hoặc là tu học bên đấng đạo sư.

    Tôi đối với ân sư chưa hề có một niệm không vui, hoặc một chút bất mãn. Tôi càng lúc càng cảm kích ân lớn của Ngài. Trên đời nầy, đối với giáo thị rộng lớn sâu xa như biển lớn của Thế Tôn, cũng còn có chỗ sâu xa tôi chưa hiểu hết, hôm nay nghĩ đến điều ấy thật là thiếu sót vô cùng.Tôi được mọi người tôn xưng là trí huệ đệ nhất, chẳng qua là nhờ đức từ bi của Phật, vâng theo lời dạy để hành trì và nỗ lực tinh tấn mà chứng thánh quả.

    Tôi nói như vậy là muốn nhắc các vị biết rằng được gặp Phật ở đời là ngàn năm khó thấy, vạn năm không dễ hội ngộ. Các vị phải mau mau theo lời Phật dạy mà tu hành. Bảo bối trong biển pháp rất nhiều do đó các vị không tham cầu thì không được.

    Tôi không còn chút gì chấp ngã, hôm nay cáo biệt các vị, tôi sẽ vào cảnh giới an vui tịch mịch, tôi nguyện theo sau Phật đến nơi bất sanh bất tử vĩnh viễn trường tồn.

    Thấy dáng mạo an tịnh của tôn giả thì trong tất cả mọi người hiện diện lúc bấy giờ, không một ai có thể tin rằng đây là người sắp rời bỏ cõi đời cả. Vua A Xà Thế và tất cả đại chúng đều cung kính khâm phục và thương cảm. Sau khi nói xong tôn giả nằm nghiêng bên mặt, an trụ trong định và cuối cùng thì nhập diệt.

    Ngài Xá Lợi Phất nhập diệt được bảy ngày thì đệ tử Quân Đầu đem hài cốt trà tỳ trở về chỗ Phật và kể hết sự tình cho Đức Phật và A Nan nghe. Phật thấy A Nan rất đổi bi thương và nước mắt đầm đìa mới hỏi:

    - A Nan! Ông buồn thảm lo lắng việc gì? Xá Lợi Phất nhập diệt điều ấy không quý báu ư? Ông ấy lãnh thọ pháp giáo của ta, rồi khi viên tịch thì đem hết chân lý đi mà không để lại chút gì sao?

    A Nan cung kính chắp tay thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Không phải vậy. Con chẳng phải buồn rầu lo lắng điều ấy. Tôn giả Xá Lợi Phất phụng trì giới luật, trí huệ cao siêu, thuyết pháp khéo léo, mạnh mẽ truyền giáo. Nghĩ đến hôm nay tôn giả không còn nữa, vì sự lưu truyền chánh pháp và vị sự tồn tại của giáo đoàn ngàn vạn năm sau, chẳng phải riêng con lo lắng mà cả đại chúng cũng đều buồn rầu lo lắng.

    Phật an ủi A Nan:

    - Ông chẳng nên lo nghĩ. Xá Lợi Phất tuy không còn nhưng chánh pháp chưa từng mất. Vô thường xưa nay là thật tướng của thế gian, sanh diệt là lý đương nhiên. Đại thọ khi ngã, trước tiên gãy những cành lớn, núi báu trước khi hoại thì tảng đá to hoại trước. Xá Lợi Phất là người nhập diệt đầu tiên trong chúng tỳ kheo cũng là thuận theo pháp tự nhiên. Ta không bao lâu nữa cũng nhập diệt cho nên các ông đừng thất vọng bởi vì giáo pháp của ta chưa từng theo ta mà mất đi. Ta sống mãi ngàn vạn năm trong lòng người tin tưởng và ta luôn chiếu cố đến họ. Các ông cần phải nương nơi pháp, nương nơi chân lý ta đã nói, không nên nương tựa vào ai khác. Cố gắng tu hành để đến thế giới Cực Lạc là công phu cần thiết đệ nhất.

    Phật nói xong rồi nhận linh cốt Xá Lợi Phất từ tay Quân Đầu và nói thêm với đại chúng:

    - Các tỳ kheo! Linh cốt nầy, trước đây vài ngày còn vì chúng sanh thuyết pháp độ sanh, còn là đại trí Xá Lợi Phất, trí huệ ông ấy rộng lớn vô biên, trừ Thế tôn ra không ai sánh kịp. Ông ấy chứng ngộ pháp tánh, dũng mãnh tinh tấn, thường tu thiền định, vì giáo vì người, hàng phục ngoại đạo, tuyên dương chánh pháp, ông đã chứng quả giải thoát và không còn khổ não.

    - Các tỳ kheo hãy xem đây! Đây là di thể do Thế Tôn đích thân cầm lấy.

    Khi Đức Phật nói lời ấy, bất giác đại chúng đều đánh lễ linh cốt tôn giả và cung kính gieo năm vóc sát đất. Tôn giả tuy ra đi, nhưng trí huệ và gương sáng về đạo pháp của Ngài còn mãi mãi trong lòng của tất cả mọi người.

    Cập nhật cuối (Thứ 6, 16 Tháng 10 2009 19:04)


    Copyright © 2010 ---.
    All Rights Reserved.
    Trích Ánh Đạo Vàng /cư sỹ Lê Sỹ Minh Tùng
    Last edited by batdong; 22-06-2010 at 03:32 PM.

  2. #2

    Mặc định Tôn Giả Mục Kiền Liên (Đệ Nhất Thần Thông)(Maha Moggalyana)

    Tôn Giả Mục Kiền Liên (Đệ Nhất Thần Thông)(Maha Moggalyana)
    postdateiconThứ 5, 15 Tháng 10 2009 00:47 | PDF | In | E-mail

    Trong một kiếp quá khứ, Ngài Mục Kiền Liên sinh sống bằng nghề đánh cá và thường ở bờ biển để đánh tôm chài cá mà sinh sống qua ngày. Một ngày kia khi đang đánh cá thì thiện tâm chợt phát hiện trong tâm nên Ngài thức tỉnh mà thấy rằng nghề nghiệp của mình đã gây ra rất nhiều tội nghiệp lớn. Từ đó những ý niệm hướng thiện đã giúp Ngài nhận thấy là tuy sống trong đời nầy mà cần phải tạo công đức cho đời sau cho nên chàng ngư phủ quyết định đổi nghề. Chẳng bao lâu sau Ngài thấy trong thành xuất hiện một vị Bích Chi Phật, mỗi ngày qua đường với dáng điệu oai nghi, đi đứng trầm tĩnh và phong độ thật trang nghiêm đáng kính bèn thỉnh về nhà để cúng dường. Nhưng vị Bích Chi Phật ấy tuy bên ngoài hiện thần thông mà không giỏi thuyết pháp. Vị nầy chỉ dùng thần thông hóa độ, ngoài ra không còn pháp môn nào khác. Thường thường sau khi thọ thực xong, vị nầy bay bổng lên hư không, đi tới đi lui và lên xuống rất nhẹ nhàng. Ngư phủ trong vùng hết sức cảm phục và ai ai cũng nguyện sau nầy sẽ có được thần thông như vậy. Nhờ sức tinh tấn tu tập và do nhân duyên đó mà đời nay tôn giả Mục Kiền Liên quy y theo Phật được danh xưng là đệ nhất thần thông.

    Trong hàng đệ tử của Phật, có nhiều vị đạt được thần thông phi thường, nhưng Ngài Mục Kiền Liên được Phật tặng cho danh hiệu đệ nhất thần thông là vì trong lúc đi hóa độ Ngài thường hiện thần thông để hoằng dương đạo pháp và chống đối với ngoại đạo. Mặc dù Đức Phật tuy không cho phép các đệ tử của mình làm phép lạ để mê hoặc người, bởi vì Ngài dạy rằng với giáo lý mầu nhiệm của Ngài thì đủ sức để chuyển mê khai ngộ và cứu chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Nhưng riêng đối với Ngài Mục Kiền Liên thì Ngài chẳng những cho phép mà còn khen ngợi.

    Mục Kiền Liên dáng người cao lớn, mặt vuông tai dài biểu lộ tính cứng rắn. Tôn giả rất lạc quan, dũng cảm và thường vì chính nghĩa đả phá việc bất bình. Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên xuất gia theo Phật cùng thời gian nhưng Ngài Mục Kiền Kiên chỉ cần có bảy ngày là tiêu diệt hết các lậu phiền não và hiện sức thần thông mà chứng quả A La Hán. Từ đó Ngài Xá Lợi Phất luôn luôn hầu bên mặt còn Ngài Mục Kiền Liên thì ở bên trái của Đức Thế Tôn.

    Làm Cầu Báu Đón Phật Đà

    Khi nói về thần thông của Mục Kiền Liên thì Ngài đã chứng cả hai Thiên Nhĩ và Thiên Nhãn Thông có nghĩa là tai Ngài có thể nghe thấu mọi âm thanh xa gần, còn mắt thì thấy hết sự vật mà không bị trở ngại và không kể đường dài hay ngắn.

    Một hôm dân chúng trong thành Xá Vệ tổ chức buổi yến tiệc để cúng dường chín mươi sáu giáo phái xuất gia. Trong số thượng khách ngoài Đức Phật họ còn mời vua Ba Tư Nặc, thái tử và quần thần cùng đến dự. Họ thiết đặt bàn tiệc tại công viên đối diện với bờ sông A Kỳ. Mục Kiền Liên là vị khách đến đầu tiên và giây lát sau đó thì khách ngoại đạo cũng tấp nập đến. Ai cũng muốn đến trước để chiếm một chỗ ngồi tốt nhất. Lúc đó, Mục Kiền Liên nhìn xa xa thấy Đức Phật thống lãnh đại chúng oai nghi đi đến, nhưng hôm đó nước sông A Kỳ bỗng dâng cao, không thể qua được. Ngài lập tức hóa một chiếc cầu trân bảo bắt ngang sông. Chiếc cầu thì kết bằng hoa tưoi hương thơm tuyệt diệu cộng thêm với thất bảo để đón Phật.

    Khi thấy chiếc cầu vừa thành hình, bọn ngoại đạo reo hò inh ỏi và tranh nhau lên cầu. Trong lúc chúng đang ở giữa cầu, bỗng nghe một tiếng nổ lớn làm cho chiếc cầu gãy ngang và mọi người rơi xuống nước lủm ngủm với tiếng kêu cứu chấn động cả một phương trời.

    Khi Đức Phật đến thì cầu trở lại như cũ. Phật và các tỳ kheo đi qua, thấy các ngoại đạo đang vùng vẫy loi ngoi dưới nước. Ngài động long từ bi vận dụng thần lực cứu hết mọi người đem lên. Họ biết số phận mình nên đành đi theo sau Đức Phật. Trong khi Đức Phật và các đệ tử thọ thực, chúng ngoại đạo vì y phục ướt mem nên phải ngồi phơi nắng ngoài xa. Cũng vì thế mà sau đại hội họ đều biết sức yếu hèn của mình không thể nào so sánh với quang minh rạng rỡ của Đức Phật và chư đệ tử.

    Ứng Biến Thần Thông

    Một ngày nọ, Đức Phật ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn của nước Xá Vệ sai hai vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến vườn Trúc Ca Lan Đà ở thành Vương Xá để lãnh đạo tăng đoàn mà đi giáo hóa trong dân gian.

    Đến nơi hai vị ngụ tại một thiền phòng. Màn đêm yên tĩnh, bốn bề không tiếng động, chỉ có ánh đèn trong phòng hòa cùng ánh trăng mà thôi. Gần sáng, Xá Lợi Phất phá tan bầu không khí trầm mặc mà hỏi Mục Kiền Liên:

    - Này tôn giả! Xin phép cho tôi hỏi đường đột thế này, vậy chớ đêm qua Ngài có trụ tại chánh định tịch diệt hay không?

    Mục Kiền Liên hỏi lại:

    - Vì sao Ngài hỏi tôi như thế?

    Xá Lợi Phất đáp:

    - Vì lâu thật lâu, tôi không nghe hơi thở hô hấp của Ngài, cũng không thấy Ngài cử động, dường như không có mặt tôn giả trong phòng nầy?

    Mục Kiền Liên đáp:

    - Thưa tôn giả! Đêm qua tôi vừa khởi lên một vấn đề cần thiết, tinh tấn trên sự tu hành, nên tôi đến thỉnh ý Phật. Vừa rồi Ngài không nghe tiếng tâm tôi là vì tôi vừa ở bên Phật hỏi chuyện.

    Xá Lợi Phất phân vân:

    - Ngài nói sao khó hiểu quá. Hiện giờ Phật đang ở vườn trúc phương Nam, hai nơi cách nhau rất xa làm sao tôn giả nói chuyện với Phật? Hay là Đức Thế Tôn dùng thần túc đến đây?

    Mục Kiền Liên điền đạm trả lời:

    - Không, chẳng phải vậy đâu. Tôi không dùng thần túc đến nơi tòa Phật mà Phật cũng chẳng dùng thần túc đến chỗ chúng ta.

    Xá Lợi Phất ngạc nhiên hỏi tiếp:

    - Như vậy rốt cuộc làm sao tôn giả nói chuyện với Đức Phật?

    Mục Kiền Liên bây giờ mới cặn kẽ nói cho Xá Lợi Phất:

    - Thưa tôn giả! chẳng có gì lạ lùng hết. Đức Phật có thiên nhãn và thiên nhĩ thông. Tôi và tôn giả cũng có thần thông ấy. Chỉ cần để tâm vận dụng thì chúng ta đều có thể nói chuyện với Đức Thế Tôn bất cứ lúc nào và ở đâu.

    Xá Lợi Phất cũng biết như vậy, nhưng Ngài luôn luôn có thái độ khiêm tốn đối với bạn đồng môn. Vì vậy sau khi nghe xong, Ngài rất hoan hỷ và khen rằng:

    - Tôn giả Mục Kiền Liên! Ngài thật có đại thần lực, đại công đức. Tôi được làm bạn với Ngài thật vô cùng vạn hạnh. Tôn giả như đỉnh núi nguy nga, tôi như hòn đá nhỏ đứng bên núi, được ngồi đồng một tòa với tôn giả thật là nhân duyên hiếm có. Người nào được giao du với tôn giả, cung kính cúng dường nhất định sẽ được lợi ích tốt lành.

    Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là bạn cũ cho nên hai vị cùng tôn kính nhau, khen ngợi nhau từ đầu tới cuối đạo tình thâm trọng.

    Một hôm nhằm ngày rằm, lúc đó Phật đang thuyết pháp cho chư vị Tỳ kheo bên bờ ao A Nậu thì Phật không thấy tôn giả Xá Lợi Phất. Đức Phật bèn bảo Mục Kiền Liên:

    - Mục Kiền Liên! Ông đến thành Xá Vệ mời Xá Lợi Phất về đây, hãy nói đây là ý của ta.

    Mục Kiền Liên vâng dạ ra đi và đem những lời của Đức Thế Tôn nói lại cho Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất rất hoan hỷ mà nói:

    - Đa tạ huynh đã truyền thánh ý cho tôi, vậy chúng ta đi ngay thôi, nhưng tôi với tôn giả làm một cuộc mạo hiểm nhé.

    Mục Kiền Liên ngạc nhiên hỏi: Mạo hiểm kiểu nào?

    Xá Lợi Phất đáp:

    - Tôn giả là bậc trưởng lão đại thần thông, đây là một sợi dây cột áo, tôn giả thử đem nó kết thành một cây cổ thụ.

    Xá Lợi Phất vừa nói xong liền ném sợi dây ra. Mục Kiền Liên đưa tay bắt lấy, nhưng sợi dây không nhúc nhích. Tôn giả lại tận dụng hết sức thần thông kéo sợi dây đến nỗi chấn động đại địa. Thấy thế Xá Lợi Phất mau mau đem sợi dây quấn quanh núi Tu Di, không chịu thua Mục Kiền Liên liền nhắc núi Tu Di lên. Xá Lợi Phất nhanh như chớp bèn đem dây cột vào tòa sư tử của Đức Phật. Mục Kiền Liên một lần nữa dùng hết thần lực cũng không lay động được tòa sư tử. Thấy thế Xá Lợi Phất cười nói với Mục Kiền Liên:

    - Tôn giả! Chỗ học và chỗ chứng của chúng ta sánh với vạn đức vạn năng của Phật đã cách xa trời vực. Thần lực của chúng ta có thể dời núi Tu Di, rung chuyển thiên địa, nhưng pháp tòa của Phật không bị lay động mảy may. Lúc nãy tôi còn nghi ngờ thần lực của mình nên mới mời Ngài thí nghiệm, thôi bây giờ chúng ta hãy mau đến bái kiến Đức Thế Tôn. Ngài đi trước, tôi theo sau.

    Mục Kiền Liên rất khâm phục lời nói của người đạo hữu thâm giao , gật đầu và dùng thần túc bay về ao A Nậu. Đến nơi đã thấy Xá Lợi Phất kiết già, ngồi bên cạnh Đức Thế Tôn. Mục Kiền Liên đảnh lễ Phật xong, bèn hỏi Phật với vẻ nghi ngờ:

    - Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ con mất hết thần túc thông rồi sao? Con từ tịnh xá Kỳ Viên về đây trước Xá Lợi Phất, tại sao tôn giả lại đến nơi trước con? Phật vẫn thường nói con là đệ nhất thần thông, danh xưng đó con thiết tưởng nên tặng cho tôn giả Xá Lợi Phất mới đúng.

    Đức Phật từ bi an ủi:

    - Mục Kiền Liên! Ông có đại thần lực, trừ ta ra không kém thua ai. Ông cũng chẳng hề mất hết thần thông, nhưng ông cần phải biết Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất đấy.

    Sau khi Phật thuyết giảng ở ao A Nậu xong thì dẫn các đệ tử trở về thành Xá Vệ. Tín chúng trong thành biết chuyện vừa rồi nên ai nấy đều xôn xao bàn tán và nói rằng thần thông của Xá Lợi Phất hơn Mục Kiền Liên. Mục Kiền Liên nghe tiếng khen chê ấy không hề cảm thấy bực bội. Tâm của Ngài rộng rãi và rất khiêm tốn, cho rằng Xá Lợi Phất xứng đáng hơn mình. Vì thế mọi người khen Xá Lợi Phất là điều vinh hạnh như khen ngợi chính tôn giả.

    Mục Kiền Liên thì nghĩ như thế, còn Xá Lợi Phất lại thấy trong lòng không yên. Ngài cho rằng việc vừa rồi có gì bí ẩn chăng nên tôn giả bèn đến bạch Phật rằng:

    - Bạch Thế Tôn! Mục Kiền Liên là đại thần thông, đại công đức. Hôm nọ con đến ao A Nậu trước là vì con gấp rút muốn nghe Thế Tôn thuyết pháp. Mặc dù tôn giả Mục Kiền Liên vận dụng thần lực nhưng không nghĩ đến việc tranh thủ thời gian. Hôm nay mọi người nhôn nhao bàn tán, nói con thần thong hơn Mục Kiền Liên, thật con không dám nhận, xin Đức Thế Tôn dùng phương tiện giải trừ lời phê bình bất công ấy.

    Đức Phật nghe xong, vui vẻ gật đầu bởi vì Ngài biết rõ hai vị nầy rất khiêm nhường đối với nhau.

    Ngày kia, tại giảng đường sau khi thuyết pháp, Phật gọi Mục Kiền Liên:

    - Mục Kiền Liên! Ông là đệ tử đệ nhất thần thông của ta, vậy hôm nay ông có thể ở trong đại chúng hiện thần lực để khai phát tín tâm cho hàng sơ học.

    Mục Kiền Liên vâng lời Phật liền từ tòa đứng dậy. Một chân đạp trên quả địa cầu còn chân kia đạp cõi trời Phạm Thiên khiến đại địa chấn động sáu cách và ở trong không trung dùng phạm âm mà thuyết pháp. Sáu mươi tỳ kheo được khai thông trí tuệ. Từ đó đại chúng đều đồng thanh công nhận Mục Kiền Liên là đệ nhất thần thông.

    Dùng Thần Thông Độ Ngoại Đạo

    Mặc dù triết lý đạo Phật thì nhiệm mầu, nhưng vào thời đó ở Ấn Độ phần lớn ngoại đạo ở vùng biên giới lại không chịu học hỏi để thấu rõ chân lý của Đức Thế Tôn. Vì thế cho nên rất ít người trong bọn họ có thể am hiểu và tu hành để đạt những đức hạnh của từ bi trí tuệ ngỏ hầu giúp cho họ thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Đối với nhóm ngoại đạo nầy thì họ chỉ thán phục thần thông mà thôi, mà trong hàng đệ tử Phật thì Ngài Mục Kiền Liên là thượng thủ.

    Một hôm, Phật bảo tôn giả Mục Kiền Liên:

    - Mục Kiền Liên! Tại biên giới Ấn Độ, có một nước lớn, vua và thần dân đều không biết Phật pháp. Họ thờ phụng phạm chí ngoại đạo, có nhiều phạm chí đắc thần thông. Họ dời núi lấp sông và phân thân biến hóa dễ dàng. Ông hãy đến đó tùy phương tiện mà vận dụng oai thần khiến họ tin tưởng Phật pháp để bỏ tà quy chánh, sửa đổi mê lầm.

    Tôn giả vâng lời liền bay lên không trung mà đến nước đó. Từ trên cao tôn giả nhìn xuống thấy một ngọn núi lớn có rất nhiều ngoại đạo bao quanh, tôn giả nghĩ rằng hình như bọn họ dùng đạo lực để di động trái núi kia.

    Mục Kiền Liên liền đáp xuống đỉnh núi và đứng trụ bộ trên ấy. Với thân hình cao thấu hư không làm ngọn núi kia chẳng lay động mảy may. Tự nhiên thấy ngọn núi không còn di động, bọn chúng đang ngẩn ngơ không biết tại sao thì thấy dáng Ngài Mục Kiền Liên to lớn đứng trên đỉnh núi. Họ bèn thét lên:

    - Tên kia! Mi là ai? Dám đến đây lộng hành? Ngọn núi nầy làm trở ngại giao thông nên nhà vua ra lệnh cho chúng ta dẹp nó đi. Chúng ta vì dân trừ hoạn nạn, tại sao mi lại để nó đứng yên, không cho di chuyển?

    Mục Kiền Liên cười và nói:

    - Rõ ràng là tôi đứng giữa hư không, ai đè trái núi của các ông làm chi?

    Ngoại đạo lại huy động hết đạo lực và bao lần muốn dời núi mà hòn núi to lớn vẫn đứng yên như cũ. Đang lúc ngoại đạo cảm thấy vô phương cứu chữa làm chúng đâm ra hoang mang kinh sợ thì Mục Kiền Liên lớn tiếng kêu:

    - Các Phạm Chí! Hãy nhìn cho kỹ ta sẽ làm núi kia biến mất.

    Mục Kiền Liên vừa nói xong thì hòn núi hùng vĩ kia tức khắc biến thành bình địa. Ngoại đạo Phạm Chí cúi đầu thán phục và nói:

    - Đại đức từ đâu đến? Nếu chẳng phải là bậc trí tuệ sáng suốt, đạo đức sâu dày thì không thể được như vậy. Xin Ngài thâu nhận chúng tôi làm đệ tử và chỉ dạy bờ mê cho chúng tôi.

    Mục Kiền Liên từ trên không hạ xuống, nói:

    - Các ông có tâm chí thành hối cải, tôi biết đó không phải là lời dối gạt. Nếu các ông muốn bỏ tối cầu sáng, bỏ ác làm lành, tôi còn có bậc Tôn sư là Đức Phật Đà vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đức Phật là bậc trời trong tất cả loại trời, bậc thánh trong các thánh, đầy đủ nhất thiết trí, vạn đức vạn năng, các ông hãy theo tôi đến chổ Phật mà quy y. Đức Phật nhất định vì lòng từ bi mà tiếp thọ.

    Các Phạm Chí vui mừng nhảy nhót, hỏi thăm:

    - Giáo pháp của Phật chẳng lẽ hơn Lão sư sao?

    Mục Kiền Liên trang nghiêm nói:

    - Đức Phật như núi Tu Di còn tôi chỉ như hạt cải. Phật Đà như biển lớn còn tôi chỉ như dòng nước nhỏ. Phật ra đời khó gặp nên các ông quy y Phật mới có thể cứu thoát đời mình.

    Các Phạm Chí nghe xong vui vẻ và cùng nhau theo Mục Kiền Liên đến chỗ Phật quy y thọ giáo.

    Vì là đệ tử đệ nhất thần thông, tôn giả Mục Kiền Liên thường dùng thần thông để chế phục ngoại đạo khiến họ khởi tâm quay về với Phật pháp và dù trong hoàn cảnh nào Ngài vẫn có phương pháp để đưa họ về với chánh đạo.

    Lại một hôm Mục Kiền Liên vâng lời Phật đơn thân đến nước Bạt Già để giáo hóa chúng sinh. Lúc ấy có một ác quỷ thấy tôn giả đang đi bộ trên đường thì hắn dùng thần thông chui vào bụng tôn giả. Tôn giả cảm thấy đau nhói nơi bụng, dường như có vật gì như cái chén bơi qua bơi lại trong đó mà lại kêu rầm rầm như sấm. Tôn giả liền dừng bước, trở về thất tịnh tọa tư duy thì biết đây là ác quỷ muốn khiêu khích mình, bèn nói:

    - Ác ma, mau mau đi ra, không được xâm phạm đệ tử Phật. Các ngươi chẳng thể làm tổn hại Đức Phật và đệ tử Ngài, trừ những đệ tử nghiệp lực đến lúc phải trả, chứ bọn ngươi vĩnh viễn chẳng làm gì được.

    Ác ma nghĩ thầm:

    - Lạ thật! Hình dạng ta ra sao, ngay cả Phật còn không biết, Mục Kiền Liên tuy có thần thông nhưng làm sao biết được?

    Tôn giả lại nói:

    - Ác ma! Ngươi đừng lấy làm lạ, ta biết trong bụng ngươi đang nghĩ rằng Phật Đà chẳng biết hình thù của ngươi ra sao, còn Mục Kiền Liên tuy có thần thông làm sao lại biết.

    Ác quỷ nghe rồi kinh hãi liền biến thành nước miếng vọt ra. Từ đó chúng chẳng còn dám trêu chọc đến tôn giả nữa.

    Thần Thông Thắng Sức Quyến Rũ Của Giai Nhân

    Ngày kia khi tôn giả khất thực trở về thì Ngài đi ngang qua một khu vườn mà trong đó có một người đàn bà tuổi trung niên đang chờ Ngài. Bà ta tuy không quá ba mươi tuổi nhưng với đôi mắt kiều mị và dáng hình yểu điệu đã làm biết bao chàng trai khổ lụy vì bà.

    Khi thấy tôn giả sắp đến gần thì bà ta đứng dậy cúi chào:

    - Tôn giả, Ngài có bận đi đâu không? Ngài có thể dừng chân nói chuyện với em không ạ?

    Mục Kiền Liên dừng bước, chú ý nhìn và không những Ngài thấy dung mạo thanh lịch của cô ta mà còn biết rõ bên trong tâm cô ta đang có ý đồ gì.

    Tôn giả chẳng những không động lòng trước sức quyến rũ của sắc đẹp mà Ngài còn oai nghiêm quở trách bà ta:

    - Thật đáng thương cho cô! Cô phải chịu những điều ô nhục. tuy được chút đỉnh tiền bạc mà lương tâm mờ ám, nghe lời xúi dục của ngoại đạo mà tưởng rằng có thể dụ dỗ ta vào con đường bất chánh. Thật là một âm mưu đen tối và phi pháp.

    Bà ta nghe nói xong rất đỗi kinh hoàng nhưng làm bộ dịu giọng thưa:

    - Tôn giả! …ông….ông…tại sao ông nói như vậy?

    Mục Kiền Liên oai nghiêm như một ngọn núi trả lời:

    - Cô không thể che dấu tội lỗi của mình, cô đến đây với ý định gì thì tôi vừa nhìn qua là biết liền. Cô mê muội theo sắc đẹp hư vọng, Sắc đẹp giúp cô tăng trưởng tội ác, giống như voi già sa lầy vậy, voi càng cựa quậy thì càng lún sâu.

    Bà hỗ thẹn đáp:

    - Tôn giả! Ngài đã biết rõ tâm tôi. Tôi cũng biết không thể qua mặt Ngài. Tôi sớm nghe danh Ngài là đệ tử đệ nhất thần thông của Phật mà tôi không tin rằng thần thông có thể vượt qua sắc đẹp. Tôi biết tôi là một kẻ tội lỗi và tôi cũng nghĩ đến việc hướng thiện nhưng không còn hy vọng. Tôi nghĩ tôi là một kẻ không thể cứu vớt, một người có cái quá khứ ghê rợn thì tương lai chắc phải chịu quả báo đáng sợ.

    Mục Kiền Liên an ủi:

    - Cô không nên tự làm khổ cho mình và cũng đừng thất vọng. Tội nghiệp dù nặng đến đâu chỉ cần thành tâm sám hối thì đều có thể dùng nước tẩy trừ. Tâm không thanh tịnh có thể dùng Phật pháp rửa sạch. Trăm dòng sông nhớp nhúa một phen chảy vào biển cả thì nước biển lớn sẽ làm sạch nước bẩn của trăm sông. Lời dạy của Thế Tôn ta đủ sức khiến thanh tịnh lòng người ô uế để có thể sám hối những tội nghiệp quá khứ.

    Nghe tôn giả nói xong, bà ta rất vui mừng mà thưa:

    - Tôn giả! quả thật giáo thị của Đức Phật từ bi vĩ đại đến thế sao? Quá khứ của tôi rất là tội lỗi, tôi chỉ gặp toàn những điều bất hạnh. Tôi mà nói ra đây chắc tôn giả sẽ bịt tai ngoảnh mặt.

    Mục Kiền Liên hỏi:

    - Chẳng có gì quan hệ, cô cứ nói đi. Cô tên gì?

    Người đàn bà đáp lại:

    - Thưa tôn giả! Tôi tên Liên Hoa Sắc, là con gái của một nhà trưởng giả thành Đức Xoa Thi La. Khi tôi được mười sáu tuổi, cha mẹ lo lập gia đình cho tôi. Nhưng chẳng bao lâu, cha tôi qua đời thì bà mẹ góa bụa của tôi bèn tư thông với chồng tôi. Biết được việc nầy khiến tôi rất đau lòng. Lúc đó tôi đã có một đứa con gái nhưng tôi quyết bỏ nó ra đi. Sau đó tôi tái giá với người khác. Có một lần, người chồng sau nầy đi xa buôn bán. Khi ông từ Đức Xoa Thi La trở về thì lén tôi lấy một ngàn lượng vàng để mua một tiểu thiếp. Ban đầu thì ông ta giấu nhẹm không cho tôi hay. Ông đưa bà tiểu thiếp đến gởi nhà một người bạn, sau tôi biết được việc nầy thì rất căm hận muốn coi mặt con đó là đứa nào mà dám đoạt chồng tôi. Thật là đau đớn, thưa tôn giả, không thấy thì thôi mà thấy rồi tôi té xỉu tại chổ. Đức con gái đó không ai xa lạ mà chính là con gái của tôi với đời chồng trước.

    Liên Hoa Sắc nói đến đây thì quá thương tâm, khóc không ra tiếng. Mục Kiền Liên bèn an ủi:

    - Liên Hoa Sắc! Cô không nên thương tâm quá đổi. Người biết rõ quá khứ vị lai thì xem đó chỉ là một sự luân hồi nhân quả. Nói thật mà nghe, đời người là một biển tội lỗi. Rồi sau thế nào?

    Liên Hoa Sắc Kể tiếp:

    - Làm sao tôi có thể nhẫn nhục được nỗi khổ đau đó. Nghĩ đến ban đầu thì mẹ đoạt chồng mình, bây giờ con mình cũng cướp chồng của mình luôn. Tôi còn mặt mũi nào ở đời? Buồn quá tôi bỏ nhà ra đi, tôi chán ghét thế gian, chán ghét mọi người và cuối cùng tôi làm kẻ mua vui cho thiên hạ. Tôi muốn đùa giỡn với thế nhân và tôi phát triển mọi sinh hoạt tội lỗi của mình. Việc gì tôi cũng làm được miễn có tiền. Tôn giả có biết tại sao tôi đến đây khiêu khích Ngài, may mà tôn giả có đại thần lực, nếu không thì bây giờ chẳng biết tôi phải sám hối như thế nào?

    Mục Kiền Liên nghe Liên Hoa Sắc kể hết sự tình, không hề khởi tâm khinh khi, trái lại tôn giả biết trong tâm Liên Hoa Sắc rất chân thành, rất lương thiện. Ngài dùng lời từ bi an ủi:

    - Liên Hoa Sắc! Thân thế của cô thật đáng thương, cô nên theo lời dạy của Đức Phật mà sửa đổi. Thời điểm nhân duyên đã đến cô hãy theo tôi đến ra mắt Thế Tôn.

    Liên Hoa Sắc rất mừng rỡ, sở dĩ cô được cứu độ, chuyển họa thành phước đều nhờ sức thần thông và phương tiện thiện xảo của Mục Kiền Liên.

    Chiều Dài Pháp Âm Của Phật

    Trong tăng đoàn của đức Phật duy chỉ có Ngài Mục Kiền Liên là người rất sống động. Cái gì mà người khác không làm được thì Ngài làm xong và chỗ nào người khác không đến được thì Ngài muốn đến.

    Một hôm Phật thuyết pháp tại giảng đường của tịnh xá Trúc Lâm. Mục Kiền Liên lúc ấy đang ngồi thiền trong tịnh thất không đi nghe giảng, nhưng tiếng thuyết pháp của Phật như sấm rền bên tai. Ngài lấy làm lạ vì Ngài ở một nơi cách xa Phật như thế mà vẫn nghe tiếng, bèn nảy ra ý định dọ thử xem pháp âm của Phật còn xa đến đâu. Ngài vận dụng thần túc bay qua mười ức cõi Phật, đến một quốc độ mà nơi đây Đức Phật Thế Tự Tại Vương là giáo chủ và đang thuyết pháp. Lúc đến nơi, tôn giả rất hoan hỷ và nhanh tay nhẹ chân tìm chỗ ngồi trong pháp hội. Thật là một hiện tượng lạ thường: Mục Kiền Liên chẳng những nghe tiếng Phật ở quốc độ nầy mà Ngài còn nghe cả tiếng của Đức Phật Thích Ca.

    Đức Thế Tự Tại Vương thuyết pháp xong thì có một vị Bồ tát hướng về Phật đánh lễ và chỉ Mục Kiền Liên nói:

    - Như Lai! Trong khi thuyết pháp, chẳng biết từ đâu bò đến một con sâu lớn, trông thật quái dị, chúng con muốn đuổi nó đi!

    Đức Phật vội ngăn:

    - Đừng nói thế. Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử đệ nhất thần thông của Đức Phật Thích Ca ở cõi Ta Bà!

    Sao họ nhỏ bé như vậy? Vị Bồ tát hỏi.

    Đức Thế Tự Tại Vương giải thích:

    - Các ông đừng khinh thị tôn giả nầy. Ông ấy có đại thần lực, đại oai đức. Ông ấy có đủ thần thông để dạo chơi các quốc độ. Chẳng qua thân thể thấp bé là vì chúng sanh mỗi quốc độ nghiệp lực chẳng đồng.

    Đức Phật nói xong, từ hòa nhìn Mục Kiền Liên:

    - Tôn giả! Ông từ phương khác đến, có thể đối với chúng Bồ tát đệ tử ta mà hiện các thần thông để họ hết còn nghi ngờ.

    Mục Kiền Liên bèn thừa oai thần Phật hóa hiện các thứ thần kỳ, chúng Bồ tát thấy rồi đều sanh lòng cung kính. Mục Kiền Liên hiện phép lạ xong trở về chỗ ngồi thì Đức Phật hỏi:

    - Tôn giả! Ông đến quốc độ ta là muốn thử nghe tiếng thuyết pháp của Phật Thích Ca xa bao nhiêu phải không?

    Mục Kiền Liên đảnh lễ đáp:

    - Thưa phải quả thật đệ tử có dụng tâm đó.

    Đức Phật dạy tiếp:

    - Tôn giả! Ông không nên nghĩ như vậy. Oai lực của chư Phật hạng phàm phu và nhị thừa không thể biết hết. Thanh âm thuyết pháp của chư Phật biến khắp tất cả hư không. Cảnh giới của căn phàm duyên của chúng sanh thì có xa, gần, mà dung tâm phân biệt không thể thử biết được âm thanh Phật.

    Lời khai thị của Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai làm Mục Kiền Liên nghe xong thì rất hỗ thẹn. Từ đó về sau, tôn giả vẫn giữ vẻ linh hoạt nhưng không dám thử thăm dò Phật đức và Phật âm nữa.

    Ngạ Quỷ Và Nhân Duyên Nghiệp Báo

    Thần thông của Mục Kiền Liên chẳng những đưa Ngài du hành các cõi Phật mà thần lực còn giúp Ngài xuống địa ngục quan sát cảnh chúng sinh thọ chịu quả báo.

    Một ngày kia, tôn giả hành cước bên bờ sông Hằng thấy màu hoàng hôn hoang vắng và ánh nắng thì dịu dần không còn gay gắt chói chan. Thấy màn đêm sắp xuống tôn giả dừng chân và ngồi tĩnh tọa bên bờ sông.

    Gió thổi hiu hiu, không trung lác đác vài vì sao. Bọn ngạ quỷ tụ tập rải rác bên bờ sông Hằng và muốn tìm nước uống bởi vì chúng đang đói khát. Nhưng chúng gặp phải một con quỷ hung ác làm thần giữ mé sông. Con quỷ nầy tay cầm gậy sắt xua đuổi làm những con quỷ khác không dám đến gần bờ nước. Vừa lúc đó Ngài Mục Kiền Liên đang ngồi ngay thẳng chánh niệm thấy các loài quỷ thọ tội không đồng, bèn gọi chúng lại và nhân cơ hội nầy chúng hỏi Ngài về nhân duyên tội nghiệp về tiền kiếp của chúng.

    Quỷ thứ nhất hỏi:

    - Tôn giả! Đời trước chúng tôi là người nay đọa làm thân quỷ đói, thường bị khổ đói khát. Chúng tôi nghe nước sông Hằng trong mát, mà khi lấy nước uống thì nước liền nóng sôi. Chỉ có hớp một miếng mà lục phủ ngũ tạng liền cháy tiêu, đã vậy còn bị con quỷ giữ nước sông cầm gậy đánh đuổi. Xin hỏi tôn giả chúng tôi do nghiệp gì mà thọ khổ báo nầy?

    Mục Kiền Liên dùng sức định thần thông quan sát nhân quả ba đời rồi nói với nó:

    - Đời trước ngươi làm thầy tướng số, khi nói tướng kiết hung cho người, ngươi nói dối nhiều hơn nói thật, tùy ý khen chê và tự xưng mình thông suốt thiên văn địa lý mà dối gạt người để mưu cầu lợi dưỡng cho mình mà không thương người mê muội nên mới thọ nghiệp báo nầy.

    Bây giờ đến quỷ thứ hai hỏi:

    - Tôn giả! Tôi thường bị một con chó lớn hung dữ nhai nuốt thân thể, ăn hết thịt xong thì một cơn gió thổi qua làm bộ xương sống trở lại. Chẳng biết nhân duyên gì khiến tôi chịu khổ báo nầy?

    Mục Kiền Liên định thần xong thì nói:

    - Đời trước ngươi giết heo dê gà vịt để cúng tế trời thần nên chịu quả báo nầy.

    Quỷ thứ ba nghe xong bèn hỏi:

    - Tôn giả! Tôi thì bụng to như cái lu, tay chân cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon mà chẳng hể nuốt được.
    Vậy chẳng biết nhân duyên gì vậy?

    Tôn giả trả lời:

    - Ngươi đời trước làm quan ỷ mình giàu có, hành động tung hoành theo ý thích, khinh khi người. Tài sản của người do mồ hôi nước mắt tạo ra thì ngươi ỷ mạnh mà chiếm đoạt nên nay phải chịu khổ báo.

    Con quỷ thứ tư nghe xong lắc đầu nhưng cũng ráng hỏi:

    - Tôn giả! Lưỡi tôi le dài khắp thân mà máu huyết cứ vọt ngược từ dưới lên trên khiến cho cái đầu to bằng cái đấu lớn. Còn khi huyết quản sắp đứt mạng như chỉ mành, chẳng biết nhân duyên gì thọ khổ báo nầy?

    Mục Kiền Liên quan sát rồi nói:

    - Ngươi đời trước ưa nói chuyện thị phi, tốt xấu của người. Mỗi lời nói ra không lợi ích gì cho chúng sanh mà còn làm tăng nỗi khổ não cho người nên nay mới chịu khổ như thế.

    Mỗi ngạ quỷ lần lượt thưa hỏi về tội nghiệp đã tạo ra từ đời trước và nhân duyên quả báo cho đời nay, tôn giả dùng thần thông trí tuệ mà trả lời. Thần thông của tôn giả quả thật là lên trời xuống đất tự tại vậy.

    Thần Thông Không Thắng Nghiệp Lực

    Trong hàng đệ tử Phật thì thần thông của Mục Kiền Liên không ai sánh bằng, vì vậy bất cứ việc gì Ngài vận dụng thần thông đều được thành tựu. Trong quá khứ Ngài đã dùng thần thông để tiếp dẫn chúng sinh vào con đường Phật pháp, nhưng cho dù Ngài có tài thiên biến vạn hóa đi chăng nữa thì thần thông của Ngài cũng không thể nào thắng nổi luân hồi nhân quả và nghiệp lực để giải thoát cho chúng sinh ra khỏi sanh tử phiền não.

    Thật vậy, một ngày nọ kinh thành Ca Tỳ La Vệ của dòng họ Thích Ca bị vua Lưu Ly của nước Kiều Tất La (Kosala) xâm lược. Khi thấy cảnh đất nước bị xâm lăng, Đức Phật cũng động lòng ái quốc mà tìm cách giải cứu. Đức Phật ba lần ngồi chận đường để ngăn cản đại quân của vua Lưu Ly. Tuy vua Lưu Ly mỗi lần gặp Phật là mỗi lần lui binh, nhưng lòng thù hận muốn báo thù và xâm lược không dứt được. Đức Phật biết sự báo ứng của nhân quả và muốn cho nó tự kết thúc nên sau đó để cho vua Lưu Ly tự do đi.

    Thật ra thần thông của Mục Kiền Liên không thể nào giải hết sạch nghiệp báo của chúng sinh. Khi tôn giả biết đại quân của vua Lưu Ly bao vây thành Ca Tỳ La Vệ, Ngài rất kích động đến bạch với Phật rằng:

    - Thưa Thế Tôn! Thành Ca Tỳ La Vệ bị vua Lưu Ly xâm lược, chúng con cần phải tận lực để cứu nhân dân trong thành.

    Đức Phật nhìn tôn giả giây lâu, rồi từ hòa nói:

    - Mục Kiền Liên! Dòng họ Thích Ca chịu quả báo của tội nghiệp nhiều kiếp đã qua, đó là cộng nghiệp chiêu cảm. Ông không thể chịu thay cho họ. Họ chẳng chịu sám hối, tham lam kiêu mạn, không sửa đổi, cũng giống như nhà cửa mục nát thì đến ngày sụp đổ thôi.

    Mục Kiền Liên nghe Phật nói, tuy biết đó là sự thật, nhưng nghĩ đến thần thông quảng đại của mình nên muốn dùng nó để cứu nạn dân chúng trong thành.

    Vua Lưu Ly dùng trăm vạn đại quân vây khốn thành Ca Tỳ La Vệ cho đến một giọt nước cũng không lọt thì con người làm sao trốn ra được. Chỉ có Mục Kiền Liên vận thần thông nương hư không bay vào thành. Khi vào thành rồi, tôn giả chọn năm trăm người ưu tú trong dòng Thích Ca, rồi hóa phép để họ trong bình bát và bay ra. Đến một nơi an ổn, Ngài mở nắp bình để thả năm trăm người ấy ra. Chẳng dè bình bát thì mở mà không thấy gì cả làm Ngài một phen thất kinh hồn vía vì năm trăm người trong bình bát đều hóa thành máu cả.

    Đến lúc nầy tôn giả mới biết lời Phật nói không sai. Phép tắc nhân duyên không thể làm ngược lại ngay cả đến đệ nhất thần thông cũng không qua nghiệp lực.

    Vu Lan Cứu Mẹ

    Tôn giả Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn thông mà biết nhân quả báo ứng của loài quỷ làm Ngài thương tâm mà nhớ đến mẫu thân quá cố. Ngài bèn vận dụng thần lực mà quan sát thì thấy thân mẫu đang đọa trong loài ngạ quỷ chịu nhiều đau đớn. Cái cuống họng của bà thì nhỏ như cây kim và chỉ còn da bọc xương. Mục Kiền Liên thấy tình trạng ấy, động lòng hiếu thảo, liền dùng bình bát đựng đầy cơm, mượn sức thần đến trước lão mẫu. Nhưng mẹ Ngài vừa ôm bát cơm chưa kịp đưa vào miệng thì cơm trong tay đã hóa thành lửa đỏ không cách nào nuốt được.Mục Kiền Liên thấy vậy buồn bã rơi lệ nghĩ mình bất lực. Ngài biết được nghiệp quả của chúng ngạ quỷ nhưng không thể biết mẫu thân do nhân duyên nghiệp báo gì mà chịu khổ sở như vậy. Ngài thương cảm quá và mau mau đến trước Phật mà thưa rằng:

    - Đức Thế Tôn! Hôm nay đệ tử dùng thần thông thấy mẫu thân đang bị đọa vào ngạ quỷ, chịu nhiều khổ não, thức ăn biến thành lửa đỏ, chẳng biết do nhân duyên gì ?Thần thông của đệ tử có thể quan sát thấu đáo nhân duyên tội báo của chúng quỷ, vì sao với vong mẫu lại chẳng biết được? Cúi xin Phật từ bi chỉ dạy.

    Đức Thế Tôn từ hòa đáp:

    - Mục Kiền Liên! Mẹ ông lúc sanh tiền báng Phật mắng tăng, không tin nhân quả, tham sân tà ác, dối gạt mọi người. Do đó mới thọ khổ báo nầy. Ông vì mẫu tử tình thâm nên thần thông bị thân tịch che lấp nên không biết được.

    Mục Kiền Liên hướng về Đức Phật ai cầu:

    - Ngài có diệu pháp gì để cứu mẫu thân của đệ tử thoát khổ ngạ quỷ chăng?

    Phật dạy:

    - Mục Kiền Liên! Tội báo của mẹ ông cấu kết sâu dầy không thể dùng lực lượng một cá nhân mà cứu được. Hiếu đạo của ông tuy cảm động đất trời, nhưng thiên địa thần kỳ đối với người đọa lạc và phỉ báng tam bảo không thể làm gì được. Hiện tại, ông chỉ nương sức oai thần của thập phương tăng chúng mới giúp mẹ ông thoát khỏi ngạ quỷ. Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy là ngày giải hạ tự tứ của chúng tăng, ngày đó những người làm con nên vì cha mẹ bảy đời và cha mẹ hiện tại đang ở trong chốn nguy nan, sửa soạn trăm thức ăn ngon, quả vật tưoi tốt bậc nhất thế gian, đặt trong mâm đầy để cúng dường chư đại đức tăng mười phương. Nhân vì ngày ấy là ngày tự tứ của chư tăng, tất cả thánh chúng, hoặc tọa thiền ở rừng núi, bên giòng nước hoặc đắc tứ quả A La Hán, hoặc kinh hành dưới cội cây hoặc là bậc được lục thông giáo hóa. Cho đến có những Bồ Tát trong mười phương hiện làm tỳ kheo đều đồng nhất tâm thọ thực. Do vì chư thánh chúng đều đầy đủ giới hạnh thanh tịnh, đức độ rộng sâu như biển, bất khả tư nghị. Nếu ai hay cúng dường các vị tăng ngày tự tứ thì cha mẹ hiện đời và lục thân quyến thuộc nhất định ra khỏi ba đường khổ, liền được giải thoát, y thực tự nhiên. Nếu cha mẹ còn sống thì phước lạc trăm năm, mọi việc đều an lành thuận thảo. Đó thật là diệu pháp để cầu siêu cứu bạt.

    Mục Kiền Liên nghe Phật nói thì hoan hỷ vâng lời. Ngày tăng tự tứ làm lễ cúng dường đại chúng thánh tăng và cũng ngày đó mẹ Ngài thoát khổ của ngạ quỷ. Mục Kiền Liên rất cảm kích ân Đức Phật, bèn tán thán công đức tam bảo và khuyến khích thế gian làm theo pháp Vu Lan Bồn. Tôn giả không những là đệ nhất thần thông mà cũng còn nổi danh là bậc đại từ đại hiếu.

    Một hôm, chúng đệ tử đến yêu cầu Phật nói về nhân duyên bổn sanh của dòng họ Thích, Đức Phật nghe xong thì Ngài gọi Mục Kiền Liên thay Ngài mà thuyết giảng bởi vì nếu Ngài nói tốt về bổn tộc thì làm sao tránh khỏi người đời dị nghị.

    Mục Kiền Liên vận dụng túc mạng thông quan sát sự tích của nhiều kiếp đã qua và Ngài thuật lại tỉ mỉ lịch sử dòng Thích Ca. Mọi người nghe xong đều cảm đến việc Đức Phật giáng sinh trong dòng Thích Ca và thành Chánh giác, không phải không có nhân duyên.

    Lại một hôm, chúng tỳ kheo nhóm hợp lại cùng đàm đạo và mỗi người đều trình bày chỗ tâm đắc trong việc tu đạo. Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó nói bài kệ của bảy Đức Phật:

    Chư ác mạc ác

    Chúng thiện phụng hành

    Tự tịnh kỳ ý

    Thị chư Phật giáo

    Dịch là:

    Chớ làm các việc ác

    Nên làm các việc lành

    Tự tịnh ý của mình

    Đó là lời dạy của chư Phật

    Từ bài kệ đơn giản của Mục Kiền Liên đã làm cho mọi người biết rõ mục đích lời dạy của Đức Phật. Dầu trải qua mấy ngàn năm, Phật tử khắp mười phương đã đem bài kệ và tôn giả mà lưu giữ trong tâm của họ.

    Người Đệ Tử Đầu Tiên Hy Sinh Vì Đạo

    Mục Kiền Liên nhờ thần thông mà lên trời xuống đất để hộ trợ cho việc tuyên dương Phật pháp. Công ấy thật là to lớn, nhưng Phật vẫn thường dạy thần thông không phải là pháp môn cứu cánh.

    Lúc đó có vị đại thần của vua Ưu Điền tên là Tân Đầu Lô Phả La Đọa theo Phật xuất gia và chứng được thần thông. Nhưng ông ta thích biến hiện kỳ diệu trước hàng cư sĩ cho nên Đức Phật thường quở trách nên ông rời khỏi tăng đoàn một mình qua Châu Tây Cù Da Ni mà giáo hóa chúng sinh. Còn thần thông của Mục kiền Liên chẳng những Đức Phật không quở trách mà lại thường khen ngợi. Không phải Đức Phật không có tâm bình đẳng, nhưng chính vì Mục Kiền Liên chỉ dùng thần thông để hộ trợ cho việc hoằng pháp mà thôi. Nhưng kết cuộc thần thông cũng không qua nghiệp báo. Thật vậy, nghiệp lực của mỗi người đã tạo tác thì dù cho thần thông biến hóa xuất quỷ nhập thần cũng không tránh được cái chết. Chính Đức Phật đã nhiều lần răn dạy đệ tử của Ngài về sự thật nầy.

    Mặc dù tôn giả Mục Kiền Liên tuổi gần về già nhưng hoạt động hoằng pháp vẫn như nước chảy mây bay, càng lúc càng tinh tấn. Tôn giả vì lòng từ bi mà hóa độ chúng sinh nhưng chính Ngài không ngờ rằng càng nhiệt tâm tuyên dương giáo pháp thì càng làm cho ngoại đạo ghen ghét. Đối với Đức Phật thì bọn chúng khó lòng làm gì được nên bọn họ chỉ chờ có cơ hội là ám sát Mục Kiền Liên.

    Mục Kiền Liên luôn luôn gánh vác trách nhiệm hoằng pháp lợi sanh nên bất cứ nơi nào Ngài cũng đến được. Một ngày nọ tôn giả trên đường tuyên dương đạo pháp thì Ngài đi ngang qua núi Y Tư Xa Lê. Khi thấy Ngài đi qua thì bọn ngoại đạo từ trên núi xô đá xuống để sát hại Ngài. Đá rơi loạn xạ như mưa khiến nhục thân vô thường của tôn giả nát nhừ như tương. Mặc dầu Ngài đã chết, nhưng bọn ngoại đạo vì sợ thần thông của Ngài nên mãi đến hai ba ngày sau còn chưa dám đến gần nơi tôn giả tử nạn.

    Tin tôn giả bị ám hại truyền đến tai vua A Xà Thế. Nhà vua nổi cơn phẫn nộ, hạ lịnh bắt hết các hung thủ và mấy ngàn ngoại đạo ném hết vào hầm lửa.

    Sự ra đi của tôn giả làm cho các tỳ kheo không khỏi đau lòng vì không một ai có thể tin rằng với sức thần thông biến hóa như Ngài mà không tránh được sự phục kích của ngoại đạo.

    Các tỳ kheo bèn thỉnh Phật:

    - Bạch Thế Tôn! Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đều là đệ tử thượng thủ của Phật. Mục Kiền Liên là một người hoàn toàn. Khi Thế Tôn lên thiên cung thuyết pháp cho mẫu hậu thì tôn giả nhận lời yêu cầu của chúng con lên cung trời bái vọng Thế Tôn. Mẫu thân ông vì phỉ báng tam bảo mà bị đọa địa ngục thì ông cũng xuống địa ngục cứu mẹ. Tôn giả có thần thông oanh liệt như thế tại sao không dùng sức thần thông để đối kháng với ngoại đạo?

    Đức Phật là bậc đại tri giác, đã chứng chân lý vũ trụ nên Ngài đã biết trước sự việc nên không kích động như các tỳ kheo. Ngài an nhiên bảo đại chúng:

    - Mục Kiền Liên không phải không chống nổi với ngoại đạo, nhưng ở lần trước khi vua Lưu Ly xâm lược thành Ca Tỳ La Vệ thì ông đã dùng thần thông mà cứu không được nhân dân trong thành. Nên biết rằng thần thông không thắng nghiệp lực. Nhục thể là vô thường, nghiệp báo cần phải trả. Trong đời quá khứ ông ấy làm nghề chài lưới sát hại oan uổng không biết bao nhiêu sinh linh. Các ông đừng lấy làm khó chịu. Tuy Mục Kiền Liên chết, nhưng chân lý không hề mất.

    Thấy tỳ kheo càng phân vân, Phật dạy tiếp:

    - Các tỳ kheo! Các ông không nên nghĩ như vậy. Vấn đề sanh tử đối với người giác ngộ không quan trọng. Có sanh ắt có tử. Chuyện tử không nhất thiết là chuyện kinh sợ hoang mang, đừng quá cố chấp. Mục Kiền Liên khi vong thân chẳng mê muội thì chắc chắn đã nhập diệt, đó là điều đáng quý. Mục Kiền Liên hy sinh vì sự nghiệp tuyên dương giáo pháp, đó mới là cái đẹp vô hạn.

    Tuy Phật đã giải thích như thế mà có vài tỳ kheo vẫn còn thắc mắc. Họ than thở, lắc đầu, thương cảm mà bạch Phật:

    - Bạch Thế Tôn! Chúng con vẫn biết cần phải có tinh thần hy sinh vì đạo, nhưng tôn giả hy sinh như vậy quả thật oan uổng và còn biết bao sự nghiệp hoằng hóa lợi sinh mà chúng con cần sự lãnh đạo của tôn giả. Thế Tôn! Sao Ngài không bảo trước với tôn giả để ông ấy đề phòng?

    Qua những lời trên, chúng ta đều thấy các vị tỳ kheo rất xúc động trước sự tuẩn giáo của tôn giả. Một lần nữa Đức Phật lại dùng lời an ủi khích lệ đại chúng:

    - Các tỳ kheo! Khi Mục Kiền Liên lâm nạn, chẳng phải ông ấy không biết đề phòng. Ông ấy có thể bảo vệ cho mình khỏi chết, nhưng đó không là biện pháp cứu cánh. Người tu hành không thể làm sai pháp tắc nhân quả, ông ấy gieo nhân chài cá, nghiệp sát sanh phải kết thúc bằng quả bị hại. Vả lại, Mục Kiền Liên đã phát nguyện đem mạng sống hy sinh cho chân lý. Đó là mãn nguyện của ông, ông ấy rất hoan hỷ nhập diệt. Nếu đệ tử của ta đều có tinh thần của Mục Kiền Liên thì Phật pháp lại phát huy rộng lớn. Các ông nên bắt chước theo Mục Kiền Liên.

    Mặc dù sắc thân Mục Kiền Liên đã chết, nhưng với đệ nhất thần thông và gương đại từ đại hiếu của Ngài vẫn sống mãi trong tâm của những người con Phật như chúng ta.**************

    Mục Kiền Liên vốn lấy tên theo cha là Câu Lợi Ca, còn gọi là Câu Lợi Đa. Câu Lợi Ca tiếng Phạn là Kolika cũng chính là tên quê hương của tôn giả. Sau khi lễ trà tỳ xong toàn thân Xá lợi được đưa về quê hương Câu Lợi Ca để lưu giữ trong một Phật tháp cách chùa Na Lạn Đà khoảng tám chín dặm về hướng Tây Nam.

    Na Lạn Đà là ngôi chùa Phật nỗi tiếng nhất thời bấy giờ ở Ấn Độ. Rất nhiều đại sư phái Đại thừa tu tập và nghiên cứu Phật giáo ở đây. Lịch sử của chùa rất xưa, quy mô vĩ đại, kinh sách vô cùng phong phú và là một trong các trung tâm văn hóa chủ yếu của Ấn Độ thời cổ đại. Trong thời gian Tây Du, Ngài Trần Huyền Trang lưu học tại chùa Na Lạn Đà lâu hơn cả, hơn năm năm, được đích thân đại sư Giới Hiền truyền thụ ba thiên “Du Già Dư Địa Luận” và được nghiên cứu kinh điển của đại sư cũng như học tiếng Phạn. Có thể nói đây là thời kỳ đạt nhiều thành quả nhất của Tam Tạng Pháp Sư trong giai đoạn ở Ấn Độ.

    Trong chùa Na Lạn Đa có đến mấy ngàn tăng nhân, đều là những người tài năng xuất chúng, kiến thức uyên bác.Những người được kính trọng về mặt đạo đức, có uy tín trong và ngoài nước có đến hàng trăm. Họ tuân thủ giới quy, có phẩm hạnh thanh bạch, am hiểu giới luật, tín ngưỡng kiên định được người trong toàn nước Ấn Độ ngưỡng mộ sùng bái. Họ cùng nhau tranh luận, học hỏi lẫn nhau về Phật pháp huyền diệu. Ngày này qua ngày khác, họ học hỏi không ngừng, bất kể ngày đêm, họ đốc thúc nhau, khuyến khích nhau, già cũng như trẻ hỗ trợ nhau hoàn thành học nghiệp. Do đó nếu ai không có khả năng bàn đến nghĩa lý Phật học sâu xa thì cô độc không có bạn bè. Cho nên, giới học giả ngoại quốc thường đến đây học tập thì mới có tiếng tăm. Những người muốn đến đây học tập trước hết phải qua một kỳ trắc nghiệm, phần đông không đạt, phải chịu ra về, chỉ những người có kiến thức sâu rộng mới có thể được nhận vào tu học. Những học giả nước ngoài, thường mười người có đến bảy tám người, sau khi đàm luận học nghiệp, chịu thất bại ra về. Vài người học rộng còn lại, cùng đàm luận với tăng nhân trong chùa, cũng không tránh khỏi bị bắt bẻ, làm cho danh tiếng bị lu mờ. Chùa Na Lạn Đà gồm những bậc cao tăng đức trọng, tài cao học rộng, giỏi nhiều lãnh vực, vì xã bỏ việc đời mà quay về nơi cảnh Phật. Có những vị như Hộ Nguyệt mà tiếng tăm lưu truyền trong học giới Phật giáo. Đức Tuệ, Kiên Tuệ mà đạo đức vang danh trong đời. Quang Hữu nghị luận cực kỳ thanh nhã. Thắng Hữu thì lời lẽ rất cao minh. Trí Nguyệt có phong độ tác tuyệt, kiến thức và sự thông tuệ tuyệt vời. Sau cùng ngài Giới Hiền đức hạnh cao thượng, kiến thức thâm sâu. Họ là những tăng nhân kiệt xuất, tài đức vượt hẳn những người đi trước. Họ biên soạn, chú thích nhiều tác phẩm và mỗi người có trên mười tác phẩm được lưu truyền rộng rãi cho đến ngày nay.

    Cập nhật cuối (Thứ 6, 16 Tháng 10 2009 19:06)


    Copyright © 2010 ---.
    All Rights Reserved.
    Trích Ánh Đạo vàng/ cư sỹ Lê Sỹ Minh Tùng

  3. #3

    Mặc định Tôn Giả Đại Ca Diếp, Đệ Nhất Tu Khổ Hạnh(Mahakàsyapa)

    Tôn Giả Đại Ca Diếp, Đệ Nhất Tu Khổ Hạnh(Mahakàsyapa)
    Thứ 5, 15 Tháng 10 2009 00:47

    Khi Đức Phật giáng sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni gần kinh thành Ca Tỳ La Vệ thì tại làng Ma Ha Sa La Đà cách thủ đô Vương Xá của nước Ma Kiệt Đà không xa có một nhà hào phú trưởng giả dòng Bà La Môn tên Ni Câu Lư Đà Kiệt Ba. Gia đình nầy rất giàu đến nỗi tài sản của họ có thể tương đương với vua Tân Bà Sa La lúc bấy giờ và tôn giả Đại Ca Diếp đã sinh ra trong gia đình phú hộ nầy. Lúc đản sanh tôn giả thì có những điềm lành cũng giống như điềm lành lúc đản sanh Phật Đà vậy. Lúc mẫu thân tôn giả đang dạo chơi trong vườn hoa sau nhà, thì bà cảm thấy trong người mệt mỏi nên đến ngồi dưới bóng cây đại thọ Tát Bạt La (sau nầy gọi là cây Bồ Đề, có nghĩa là cây giác ngộ). Và sau đó tôn giả cất tiếng chào đời. Vì sanh dưới gốc cây nên cha mẹ đặt tên cho Ngài là Tát Bạt La Đà Na. Đại Ca Diếp tướng mạo xuất phàm không thua kém 32 tướng tốt của Đức Phật. Gia đình đại phú hào mà chỉ có một quý tử nên sự nuôi dưỡng thương yêu của cha mẹ đối với Ngài còn hơn cả những vương tôn công tử thời bấy giờ.

    Khi Đại Ca Diếp lên 8 tuổi thì đã làu thông các giới điều của Bà La Môn. Sau đó Ngài lại học đến pháp tế lễ, thi họa, toán thuật, văn học, thông suốt bốn kinh Vệ đà. Cho đến xem thiên văn, đoán âm dương vận số và âm nhạc ca vũ…Do sức thông minh, không có môn nào Ngài không thấu triệt. Nhưng có một điều lạ là ngay từ lúc nhỏ Ngài đã không giống như những trẻ em khác. Đối với dục lạc thế gian thì Ngài không ưa không thích và đặc biệt là chuyện yêu thương trai gái thì Ngài chẳng màng đến, tránh thật xa. Vì thế Ngài thường tìm những nơi thanh vắng, xa lánh đám đông ồn ào náo nhiệt, để ở. Ngay cả cha mẹ khi xa cách Ngài cũng không nhớ đến. Đây quả thật là con người phi thường hiếm có trong cuộc đời bởi vì sống trong giàu sang phú quý, kẻ hầu người hạ mà cũng không màng đến. Đây chính là điểm tương đồng giữa Ngài và Đức Phật.

    Người Vợ Không Chung Chăn Gối

    Ngày tháng thoi đưa, chẳng mấy lúc mà giờ đây Đại Ca Diếp đã trở thành một thanh niên anh tuấn, phong lưu. Thấy tướng diện khôi ngô của con mình, cha mẹ Ngài định sẽ tìm một tiểu thư xinh đẹp để cưới cho Ngài. Khi nghe ý định đó thì Ngài vội vã từ chối:

    - Đó là điều không nên vì con chỉ mong muốn duy nhất là tu đạo. Có vợ con thì sẽ trở ngại cho việc tu hành.

    Từ trong gia đình phú hộ mà lại là con một thì không khi nào cha mẹ Ngài chấp thuận lời nguyện đi tu của Ngài được. Biết là không còn cách nào để chối từ, Ngài bỗng nghĩ ra một biện pháp. Số là Ngài mời được một nhà điêu khắc đến và lấy vàng để đúc thành một pho tượng mỹ nữ, tuyệt đẹp và rực rỡ. Khi hoàn tất thì Ngài đem trình pho tượng cho cha mẹ mà nói:

    - Cha mẹ nhất định bảo con cưới vợ thì xin chọn cô ấy phải giống y như tượng vàng nầy bằng không con sẽ suốt đời không cưới vợ.

    Thấy điều kiện con mình thật khó khăn, cha mẹ Ngài bèn theo lời của các thầy Bà La Môn thiết lập một nhà dù thật lớn và để pho tượng vàng trong đó, thờ cúng như là một nữ thần. Sau đó cho người đi rao giảng khắp thiên hạ rằng:

    - Các thiếu nữ có cầu mong ước nguyện gì hãy đến cúng dường nữ thần! Các cô sẽ được toại nguyện như ý.

    Cứ như thế các thầy Bà La Môn đi từ thành Vương Xá , qua sông Hằng, lần lần đến Tỳ Xá Ly. Cách thành nầy không xa có một làng nhỏ tên là Ca La Tỳ Ca. Trong làng nầy có một gia đình cũng nổi danh đại phú. Họ có một cô con gái tên Diệu Hiền, thiên tư quốc sắc, nổi tiếng mỹ nhân, nhưng thường khuê môn bất xuất.Hôm ấy nhằm hội hoa đăng, nam thanh nữ tú vui chơi dập dìu. Diệu Hiền được bạn bè rủ đến chiêm bái pho tượng vàng thần nữ. Diệu Hiền có nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn nên khi đến lễ nữ thần khiến lu mờ cả tượng vàng. Các thầy Bà La Môn thấy vẻ đẹp kiều diễm của nàng thì rất đổi mừng nên hỏi thăm về gia đình nàng và sau đó đến nhà song thân Diệu Hiền để trình bày ý muốn kết thân. Bên song thân của Diệu Hiền vì từng nghe danh tiếng giàu có của nhà Ca Diếp nên rất hoan hỷ hứa gã con gái.

    Thủ tục đính hôn hoàn thành và chỉ còn chọn ngày lành tháng tốt để rước dâu. Ngày hôn lễ, Diệu Hiền mặc áo gấm, đeo chuổi ngọc trông đẹp như một nàng tiên. Nhưng có điều rất lạ là tân nương tuy có sắc đẹp nghiêng thành nghiêng nước mà gương mặt rất buồn như nặng mang một tâm sự u buồn.

    Lễ bái trời đất xong và tiệc vừa tàn thì Ca Diếp và Diệu Hiền được đưa vào động phòng. Tuy là đôi vợ chồng mới cưới, nhưng cả hai không có một nụ cười và chẳng ai ngó tới ai. Họ chỉ ngồi nhắm mắt làm thinh, mỗi người một tâm sự triền miên. Canh một rồi đến canh hai, canh ba, canh tư, canh năm đã qua và trời gần sáng mà cả hai không nói một lời nào. Lúc ánh nắng bình minh xuyên vào phòng thì Ca Diếp mới mở lời:

    - Ta xin hỏi nàng có tâm sự gì chăng?

    Diệu Hiền cau mày, ngồi làm thinh.

    Ca Diếp than thở:

    - Có điều gì xin nàng cứ nói, chúng ta cùng thương lượng.

    Diệu Hiền lại ứa nước mắt mà chẳng trả lời. Đại Ca Diếp hỏi với vẻ giận:

    - Thế này là thế nào? Tại sao nàng khóc?

    Ca Diếp hỏi hai ba phen, Diệu Hiền mới thở dài đáp nhỏ:

    - Chàng phá hoại chí nguyện của tôi. Tôi xưa nay rất ghét ngũ dục nên muốn tu phạm hạnh thanh tịnh. Chính cha mẹ tôi bị mê hoặc bởi sự giàu sang của chàng khiến nguyện vọng của tôi bị lỡ dở.

    Ca Diếp nghe nói rất mừng liền cho Diệu Hiền biết chính mình cũng rất ghét ái nhiễm và chỉ muốn tu hạnh thanh tịnh. Đây thật là nhân duyên tốt để chúng ta có thể làm theo chí nguyện của mình. Khi đã hiểu nhau rồi thì hai người cùng ước định thi hành nguyện vọng nầy. Họ kê trong phòng hai cái giường, mặc dù trên danh nghĩa là phu thê nhưng đây là cặp vợ chồng không chung chăn gối.

    Câu chuyện ngủ riêng giường lọt đến tai cha mẹ Ca Diếp. Hai ông bà bèn vào phòng xem xét thì thấy hai cái giường kê hai nơi. Ông bà không hài lòng nên la rầy:

    - Hai con là vợ chồng mới cưới mà trong phòng kê riêng hai cái giường thật không tốt. Ta sẽ gọi người đến dẹp bớt một cái.

    Ca Diếp chẳng dám cãi lời, nhưng càng giữ vững lời hứa thì càng kiên quyết lập chí nên Ca Diếp mới nói với Diệu Hiền:

    - Không lo chuyện ấy, còn một cái giường thì chúng ta thay phiên nhau ngủ. Đầu hôm đến nửa đêm thì nàng ngủ còn ta thì đi kinh hành tu niệm trong phòng. Đến gần sáng thì nàng thức, tôi ngủ, còn nàng thì đi kinh hành hoặc ngồi thiền.

    Diệu Hiền rất bằng lòng với đề nghị đó, nàng nói thêm:

    - Chúng ta cần phải mau mau rời khỏi căn nhà nguy hiểm này, chớ còn trong vòng ngũ dục thì nơi nào cũng có nguy cơ ẩn nấp, mê hoặc người trong chốn đọa lạc.

    Ca Diếp an ủi:

    - Tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng cha mẹ vẫn còn và tôi lại là con một nên không thể bỏ đi. Nàng hãy kiên nhẫn. Tôi tin rằng lý tưởng và chí nguyện của chúng ta sẽ có ngày thực hiện được.

    Hai người tuy sống trong chốn bụi trần mà tâm vui trong đạo nghiệp thanh tịnh. Họ không hề xúc phạm nhau và sống an ổn cho qua ngày tháng. Có một đêm, Diệu Hiền ngủ trên giường, Ca Diếp đang đi kinh hành trong thất thì bỗng có một con rắn độc màu đen bò ngang giường Diệu Hiền. Ca Diếp chú ý nhìn thấy cánh tay Diệu Hiền buông thỏng xuống giường cách chỗ rắn độc không xa. Ca Diếp lo lắng rủi như nàng bị rắn cắn thì làm sao? Trong lúc mườI phần cấp bách, Ca Diếp liền dùng chéo áo quấn quanh cánh tay mình rồi mới nhè nhẹ đỡ cánh tay Diệu Hiền lên trên giường. Đang ngủ ngon bỗng bị động, Diệu Hiền giựt mình choàng tỉnh. Nàng kinh sợ lật đật ngồi dậy vừa giận vừa bực mà hỏi Ca Diếp:

    - Việc gì xảy ra thế? Có chuyện gì như thế này?

    Sau khi nghe Ca Diếp giải thích, nàng mới yên lòng và rất cảm phục chàng. Hai người giữ mức sống thanh tịnh như vậy trong suốt 12 năm.

    Đời Là Khổ Não

    Có hợp ắt có phân ly và có sanh ắt có tử. Thật vậy luật vô thường của thế gian không bỏ sót một ai cả và cha mẹ của Đại Ca Diếp thì cũng không thoát ra khỏi định luật nầy. Hai ông bà thân sinh của Ca Diếp lần lượt qua đời.

    Một hôm, Đại Ca Diếp đi thăm ruộng, Ngài thấy đôi bò kéo nặng nhọc và người nông phu làm việc quá vất vả. Nhưng khi Ngài nhìn kỹ thì thấy trong ruộng có những loài côn trùng bị đường cày chặt đứt, lớp chết, lớp bị thương quằn quại thật thảm thương. Càng nhìn cảnh tượng ấy thì Ngài càng chán ngán cho sự sống trên thế gian. Ngài thầm nghĩ: chỉ vì sự ăn mặc của ta mà bao nhiêu người và bao nhiêu thú vật phải chịu trăm điều khổ sở như thế sao? Không kể là người nào, không kể ăn thức ăn gì, cũng chỉ vài chén cơm. Không kể ngủ cách nào, cũng chỉ cần cái giường 6 tấc. Còn những thứ cần dùng khác chẳng qua là một sự lãng phí. Chỉ vì những thứ lãng phí xa xỉ vô dụng đó mà làm tổn hại bao nhiêu người và vật cũng như giết hại bao nhiêu sinh linh như thế. Thật là một điều quá ư bất công và không hợp lý chút nào.

    Còn ở nhà thì Diệu Hiền sai gia nhân ép dầu mè nhưng trong dầu mè có nhiều con bọ nhỏ xíu đang cựa quậy lúc nhúc làm cho gia nhân bàn tán với nhau:

    - Ép chết bao nhiêu con vật nhỏ bé thế nầy không biết sau nầy chịu quả báo đáng sợ thế nào?

    Diệu Hiền nghe xong lập tức bảo họ ngưng ép dầu, một mình lui vào phòng, đóng cửa lại để tỉnh tọa tư duy.

    Khi Đại Ca Diếp trở về nhà thấy Diệu Hiền với những sự tình ưu não như vậy thì chẳng vui chút nào. Hai người ngỏ bày tâm sự và cả hai đều thấy nỗi khổ của thế gian cũng như nỗi buồn thảm của kiếp người.

    Đại Ca Diếp bèn nói với Diệu Hiền:

    - Nói gì thì nói, tôi sẽ bỏ ngôi nhà nầy để đi xa tìm thầy học đạo. Ở nhà thật chẳng khác nào ở chốn lao ngục bởi bao nhiêu thứ ràng buộc làm khổ não đủ điều. Ở trong gia đình tạo nghiệp không có hồi kết thúc, tôi sẽ ra đi để tìm cho ra chơn lý của kiếp người. Tu hành trong chốn rừng núi như là lui tới trong chốn hư không, không có chút trở ngại. Tạm thời tôi đi trước tìm thầy học đạo, nàng ở nhà đợi khi nào tôi gặp bậc thầy hiền minh, tôi sẽ trở về dẫn nàng cùng xuất gia. Chúng ta sẽ đem hết tài sản cứu tế cho các người nghèo cùng cơ khổ và phần còn lại thì chia cho các gia nhân. Nàng hãy đợi, nhất định tôi sẽ mang lại tin tốt đẹp lúc trở về.

    Diệu Hiền nghe xong rất kính phục chí nguyện của trượng phu cùng cảm kích mối quan tâm của Ngài. Chuyện xuất gia tu đạo này vốn là nguyện ước từ lâu của hai vợ chồng nhưng vì còn cha mẹ mà họ phải cố gắng chờ đợi qua hơn mười năm. Cung thự nguy nga, tiền bạc đầy kho đầy trắp, ruộng vườn cò bay thẳng cánh mà Ca Diếp và Diệu Hiền đều xem đó là ràng buộc, là cảnh khổ đã cột chặt con người vào biển trầm luân. Ngài đã buông xả hết bằng cách bố thí toàn bộ tài sản của mình cho kẻ khác. Hôm nay, Đại Ca Diếp có cơ hội đi xuất gia tu hành thì tâm tư rất hoan hỷ mà không thốt nên lời.

    Xuất Gia Theo Phật

    Lúc bấy giờ Đại Ca Diếp đã ba mươi tuổi và theo truyền thuyết thì ngày Ngài rời xa gia đình đi tìm đạo cũng chính là ngày Đức Phật ngồi dưới cội Bồ Đề trên tòa Kim Cương vào lúc sao mai mọc để thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

    Đại Ca Diếp đi tìm sư học đạo khắp nơi, nhưng không vị thầy nào đáp ứng nguyện vọng của Ngài được. Mãi hai năm sau, trong lúc đang tìm đạo tại nước Uyên Già thì có người cho Ngài biết là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc Đại Giác của thời nay và hiện tại Đức Phật đang thống lãnh những đạo sĩ nổi danh như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, ba anh em ông Ma Ha Ca Diếp và cả ngàn đồ đệ tại tịnh xá Trúc Lâm của nước Ma Kiệt Đà. Đại Ca Diếp nghe tin ấy lòng rất vui mừng nên tìm đường đến Trúc Lâm yết kiến Phật.

    Khi đến Trúc Lâm tịnh xá, Ngài quyết định không trực tiếp thưa hỏi Đức Phật mà chỉ mỗi ngày theo tín chúng trong thành đến nghe pháp. Ngài thầm nghĩ nếu không phải là Phật thì không tôn bái làm thầy bởi vì nếu không gặp Phật hoặc không có tôn sư thì chính Ngài cũng có thể tu chứng được quả vị Độc Giác.

    Những lời thuyết pháp vàng ngọc của Phật cộng thêm đức huệ của Đức Thế Tôn đã mở rộng tâm can của Ngài. Một hôm, sau khi nghe Phật thuyết pháp xong, Ngài trở về thành Vưong Xá. Gần cổng thành là tháp Đa Tử và cạnh đó có một cây đại thọ cành lá sum xuê, thì Ngài bàng hoàng sửng sốt khi thấy Đức Phật ngồi tĩnh tọa dưới gốc cây. Thế nầy là thế nào? Ngài tự hỏi. Vì mới lúc nãy thì còn thấy Đức Phật ngồi trên bảo tòa pháp vương ở trong tịnh xá, sao bây giờ lại gặp Ngài ở đây? Càng nhìn càng thấy Đức Phật tướng mạo oai nghiêm thần tịnh, như một tòa kim sơn. Ngài quá xúc động bèn đến đảnh lễ dưới chân Phật và thành khẩn thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Ngài là bậc đại sư của con, xin tiếp độ cho con.

    Đại Ca Diếp thọ quy y và từ nay Ngài là đệ tử của Phật. Đức Phật biết lòng tin của Ca Diếp đã chắc chắn liền bảo:

    - Này Đại Ca Diếp! Ông chính thật là đệ tử của ta. Trên thế gian nầy như người nào chưa chứng quả vị chánh giác thì không dám nhận ông làm đệ tử. Ông hãy theo ta.

    Đức Phật từ từ đứng dậy đi về tịnh xá Trúc Lâm và Đại Ca Diếp thì theo chân Ngài vừa cung kính vừa cảm động và vừa mừng đến rơi lệ.

    Đức Phật ngoái đầu lại nhìn Đại Ca Diếp và nói:

    - Ta nghe nói về ông đã lâu, ta biết thế nào rồi ông cũng đến cầu đạo với ta. Hôm nay là ngày ông được tiếp độ. Phật pháp lưu truyền về sau cần ông rất nhiều, vì chúng sanh và vì chính mình ông nên trân trọng.

    Về đến tịnh xá Trúc Lâm, Đức Phật làm lễ thế độ cho Đại Ca Diếp và nói pháp Tứ Diệu Đế, thuyết mười hai nhân duyên. Với oai đức của Thế Tôn và với từ âm thân thiết của Ngài, có thể nói rằng bầu không khí chứng ngộ đã bao trùm Đại Ca Diếp. Những lời dạy quý báu của Phật chẳng khác nào như những đám mưa lớn rơi trên thửa ruộng khô khan cằn cỗi. Chỉ tám ngày sau thì Đại Ca Diếp khai ngộ trở thành A La Hán.

    Cứu Độ Cho Vợ Hiền

    Đại Ca Diếp xuất gia theo Phật mới đây mà đã được một năm và cũng là năm thứ ba kể từ ngày Phật thành đạo. Sau chín lần thỉnh cầu của vua Tịnh Phạn, Đức Phật nhận lời cùng các tỳ kheo từ nước Ma Kiệt Đà ở phương Nam về thăm cố hương. Cùng với các tỳ kheo trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ còn có Đại Ca Diếp. Sau đó Đức Phật đi lên hướng Bắc để đến tịnh xá Kỳ Viên (thiết lập bởi trưởng giả Cấp Cô độc Tu Đà La) của nước Xá Vệ. Cũng chính lần về thăm nhà nầy rất nhiều vương tôn công tử xuất gia theo Phật. Nhờ nhân duyên nầy sau đó bà kế mẫu Ma-Ha-Ba-Xa-Ba của Phật kết hợp với công chúa Da Du Đà La và rất nhiều mệnh phụ phu nhân khác để được xuất gia theo Phật. Từ đó giáo đoàn tỳ kheo ni được Đức Phật cho phép thành lập.

    Khi đó Đại Ca Diếp nhớ đến lời hứa với Diệu Hiền vì trước đây người nữ không được xuất gia nên tôn giả không dám xin với Đức Phật. Bây giờ đã có giáo đoàn tỳ kheo ni và chính là lúc thực hiện lời giao kết với Diệu Hiền. Thời gian thắm thoát qua nhanh, mới đây mà Đại Ca Diếp rời nhà đi tìm đạo đã được ba bốn năm. Trong ba bốn năm ấy chẳng biết tình hình của Diệu Hiền như thế nào? Tôn giả bèn an tĩnh nhập định quan sát mới biết Diệu Hiền đang theo làm đệ tử một phái ngoại đạo bên bờ sông Hằng.

    Số là từ khi tôn giả đi tìm đạo, Diệu Hiền cũng ở nhà đợi tin tức, nhưng năm tháng trôi qua vùn vụt, một năm rồi hai năm mà chẳng thấy tin tức của Đại Ca Diếp ở đâu nên nàng mới quyết định tự xuất gia chớ không đợi nữa. Chí đã định xong, nàng cho gọi người quản gia đến, bảo đem hết trang sức và y phục của mình đem phân chia cho bà con, làng xóm và gia nhân. Sau đó nàng đi đến bờ sông Hằng làm lễ bái nhóm ngoại đạo đang tụ tập tại đây làm thầy.

    Làm đệ tử nhóm ngoại đạo nầy, nàng phải chịu nhiều sự lăng nhục vì dung nhan mỹ lệ của mình. Đại Ca Diếp biết nàng đang cần sự tiếp độ của mình để truyền lại chân lý nhiệm mầu của Đức Thế Tôn hầu giúp cho nàng mau giác ngộ. Tôn giả bèn nói chuyện ấy cho một vị tỳ kheo và yêu cầu đi đón Diệu Hiền thay Ngài. Vị tỳ kheo ấy bằng lòng và chẳng bao lâu đã đưa Diệu Hiền về đến.

    Diệu Hiền gia nhập ni viện không lâu thì thiên hạ bàn tán xa gần cũng chỉ vì sắc đẹp của nàng. Nàng cảm thấy rất tủi hỗ, buồn bực cho số phận hồng nhan bạc mệnh. Từ đó, nàng không đi ra ngoài khất thực, cố tâm xa lìa đại chúng để tránh tiếng thị phi bất chánh.

    Đại Ca Diếp biết chuyện nên Ngài xin phép Phật mỗi ngày chia bớt nửa phần thức ăn cho Diệu Hiền. Chuyện ấy lọt vào mắt cô tỳ kheo ni Thâu Lan Na Đà. Mặc dù là kẻ tu hành, nhưng cô nổi tiếng là hay thị phi bàn tán chuyện thế gian. Cô nói như phỉ báng:

    - Hai người này nghe nói 12 năm ở nhà không ngủ chung giường mà bây giờ mỗi ngày thấy họ thân mật chia sớt thức ăn, tôi đoán thế nào cũng có tình ý chi đây.

    Tôn giả Đại Ca Diếp nghe nói vậy nên từ đó muốn khích lệ cho Diệu Hiền mà không giúp cơm cho nàng nữa mặc dù trong tâm của vị thánh rỗng rang không có gì vướng mắc. Thật vậy, thế gian đầy thị phi ác độc, một vị thánh thanh tịnh như Đại Ca Diếp mà còn người khiêu khích đồn đãi thật ai nghe qua cũng bất bình.

    Qua sự khích lệ ấy, Diệu Hiền nhận thấy mình phải tu hành nghiêm túc. Bà suốt đêm không ngủ, thành tâm sám hối và sau cùng được khai ngộ. Sau khi chứng được quả A La hán, bà nói:

    - Đoạn trừ mọi ràng buộc, hoàn thành tịnh hạnh, việc đáng làm ta đã làm xong.

    Về sau Phật khen ngợi bà:

    - Trong chúng tỳ kheo ni, không ai có thể sánh với tỳ kheo ni Diệu Hiền về mặt túc mạng thông.

    Tôn giả Đại Ca Diếp rất hoan hỷ. Đối với ân tình của thế gian, Ngài xem nó như một áng mây bay hay một cơn gió thoảng mà thôi.

    Xá Lợi Phất Bị Tham Vấn

    Từ đó Đại Ca Diếp được người tôn xưng là thánh giả và thân danh nổi tiếng trong tăng đoàn.

    Một hôm nọ, lúc tôn giả và Xá Lợi Phất đồng tu tại núi Kỳ Xà Quật, thoạt nhiên có nhiều chúng ngoại đạo đến phỏng vấn tôn giả Xá Lợi Phất. Họ đưa ra nhiều câu hỏi như: Như Lai sau khi nhập diệt có còn sanh tử hay không? Hoặc là sau đó không có sanh tử? Hoặc là chẳng phải sanh tử cũng chẳng phải không sanh tử?

    Ngoại đạo dùng lối tứ cú để hỏi vấn đề sanh tử của Đức Phật, mà tôn giả Xá Lợi Phất đã trả lời cho họ, nhưng chỉ còn vấn đề nầy là không thể nói là Như Lai ở trong tứ cú nầy. Chúng ngoại đạo không vừa lòng về lời giải đáp của tôn giả nên họ mỉa mai:

    - Ông không trả lời được vấn đề nầy sao dám tự xưng là bậc thượng thủ của Phật? Nói là trí tuệ số một mà lý luận giống như trẻ con.

    Ngoại đạo đàm tiếu rồi bỏ đi. Xá Lợi Phất rời chỗ tu tập của mình, băng qua đám lá rậm của rừng cây và đến thạch động tham vấn tôn giả Đại Ca Diếp.

    Xá Lợi Phất đem câu hỏi của ngoại đạo thuật lại cho Đại Ca Diếp nghe và hỏi:

    - Tôn giả! tại sao Đức Phật chưa từng giải đáp vấn đề ấy, đối với câu hỏi của ngoại đạo thì phải nói như thế nào?

    Đại Ca Diếp liền trả lời:

    - Đức Như Lai đã hết sạch ái chấp, tâm không còn phiền não, vĩnh viễn giải thoát, sự chứng ngộ của Ngài rộng lớn sâu xa, không thể dùng tứ cú của mê tình mà hỏi, cũng không dùng ngôn ngữ để đáp. Chỉ vì vấn đề ấy không nên hỏi nên Ngài không giải đáp.

    Xá Lợi Phất nghe câu trả lời, thật là thích thú, cáo từ và trở về động mình để tu tập.

    Đối với việc tu hành của những vị đại đệ tử của Phật, các vị thường hay chỉ dạy nhắc nhở nhau, chia sẻ cùng nhau những kiến thức mới lạ và vấn qua đáp lại để trao dồi thêm trí tuệ. Vì thế việc hai vị tôn giả trao đổi tư tưởng với nhau chẳng có gì là lạ, nhưng đối với vấn đề khúc mắc như Xá Lợi Phất nêu ra mà có thể tự mình giải đáp thì chứng tỏ sức tu đạo của Đại Ca Diếp cao xa đến mức độ nào.

    Bà Lão Nghèo Sanh Về Cõi Trời

    Một hôm Đức Phật và các đệ tử đang thuyết pháp ở nước Xá Vệ trong khi Đại Ca Diếp thì giáo hóa tại thành Vương Xá nước Ma Kiệt Đà. Tôn giả thường ra vào thành để bố thí phước điền. Một đặc thù của tôn giả khi đi khất thực là thường tránh đến nhà giàu mà chỉ muốn đến nhà bần cùng nghèo khổ mà thôi. Ngài nghĩ rằng tất cả chúng sinh đều đáng thương, nhưng những người nghèo khổ thì họ phải lo miếng cơm manh áo hằng ngày nên không có khả năng bố thí để làm phước điền cho ngày sau thâu nhận những cái quả báo phước đức do sự bố thí của họ. Thật vậy, nước từ bi do Ngài tưới xuống đã rưới khắp những hạng người nghèo cùng đáng thương trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.

    Trong thành Vương Xá, có một bà lão rất nghèo khổ. Bà chẳng những không có bà con thân thích mà đến nhà cửa cũng không. Sáng sớm, bà đi lang thang từ ngõ đông sang ngõ tây đến khi chiều tối thì ngủ vất vưỡng ở bất cứ xó hẻm nào. Trên mình bà đeo những mảnh là khô chằm vá nhau tạm che thân. Một hôm bà đang bệnh trầm trọng và nằm quỵ trên gò đất chờ chết thì lúc ấy có một gia nhân của một nhà giàu nọ đem nước cơm đi đổ. Bà lão bị đói khát hoành hành vội vơ lấy mảnh ngói bể mà hứng lớp nước bầy nhầy để uống cho đỡ đói.

    Đại Ca Diếp biết bà lão kia bị bệnh nghèo đeo đẳng. Ngài đặc biệt đến thăm bà. Từ trước đến giờ chưa có ai hỏi han hoặc thăm viếng bà cả nên khi thấy tôn giả đứng trước mặt thì bà gượng nhỏm dậy nhìn kỹ mà nghĩ: té ra là một vị tỳ kheo trang nghiêm đang đi khất thực nhưng không lẽ thầy tỳ kheo nầy lại nghèo cùng hơn ta? Bà hỏi tôn giả:

    - Thân tôi nghèo khổ đói khát, không nhà, không cửa, lấy cát đất, gò mã, bụi bờ làm nhà. Ngài xem tôi áo mặc không kín thân. Trong đất nước nầy không ai nghèo khổ hơn tôi. Trời ơi! Chẳng lẽ trên thế gian nầy không có người nhơn từ cúng dường cho sa môn hay sao?

    Ngừng giây lát, bà nói tiếp:

    - Vì sao Ngài đến hỏi tôi? Xin Ngài chỉ dạy phương pháp cứu tôi khỏi cảnh nghèo đói.

    Đại Ca Diếp đáp:

    - Trên thế gian nầy người tôn quý nhất, nhân từ nhất không ai bằng Đức Phật, hoặc là những ai được tắm mình trong giáo lý Phật Đà. Hôm nay tôi muốn cứu độ cho bà thóat khỏi sự bần cùng, nên mới đặc biệt đến đây khất thực. Tôi cũng nghĩ đem tài vật đến giúp bà, nhưng điều đó chỉ giúp bà khỏi khổ nhất thời, mà sau lại tăng thêm bần cùng nữa. Chi bằng bà hãy tùy ý đem bất cứ thứ gì bên người mà bố thí cho tôi, bà sẽ nhờ công đức đó, đời sau sẽ được sang trọng giàu có, hoặc được sanh lên trời để hưởng thọ sung sướng lâu dài.

    Bà lão nghe tôn giả từ bi thuyết pháp như vậy rất cảm động nhưng tìm hoài không có chút gì để bố thí. Bà rất đỗi bi thương, buồn khóc thưa rằng:

    - Thưa thầy sa môn vĩ đại! Lời chỉ dạy quý báu của Ngài con ghi khắc sâu xa trong tâm, nhưng con cũng biết, con là kẻ bần cùng hạ tiện, con chẳng có một chút vật thực nào để cúng dường Ngài, cũng chẳng có y phục nào để bố thí nữa.

    Đại Ca Diếp đáp lời:

    - Này bà lão! Đã khởi tâm bố thí thì không phải người nghèo. Người biết hỗ thẹn cũng biết mặc pháp y. Bà đã có hai món bảo bối hiếm có ấy nên chắc chắn không còn nghèo. Hãy xem những người giàu có đầy tiền của châu báu trên thế gian nầy mà không biết bố thí, không biết hổ thẹn. Đó mới thật là người ngu, là người bần cùng vậy.

    Bà lão nghe lời chỉ dạy, vui mừng phấn khởi, tâm đầy hỷ lạc, đầy hy vọng về tương lai. Bà quên thân mình ô uế bưng chút nước cơm đựng trong mẻ sành đem cúng dường tôn giả. Tôn giả Đại Ca Diếp cũng cung kính tiếp nhận và để cho bà lão khỏi nghi ngờ, tôn giả đã uống cạn miếng nước cơm. Bà lão thấy thế vui mừng vô hạn. Chẳng bao lâu, bà rời bỏ cõi đời và được sanh lên cõi trời Đạo Lợi và vì do công đức cúng dường nước cơm mà bà trở thành một thiên nữ xinh đẹp. Một hôm, thiên nữ quan sát phước thiện nghiệp đời trước, nhớ đến ơn sâu của Đại Ca Diếp nên liền bay xuống cõi trần dùng thiên hoa rải cúng dường tôn giả.

    Quan Sát Hoạt Động Của Tăng đoàn

    Một ngày nọ, Đức Phật bảo Đại Ca Diếp đến thành Khoáng Dã để quan sát tình hình giáo đoàn. Sáng sớm Ngài đắp y và mang bình bát vào thành oai nghiêm đi khất thực.

    Đi qua một vài con đường, tôn giả phát hiện một chuyện lạ. Mỗi khi thấy tôn giả đi ngang qua nhà, dân chúng lập tức đóng cửa lại. Thấy lạ, tôn giả ra khỏi thành mà vào trong thôn làng mà khất thực thì cũng gặp cách đối xử như vậy. Ngài bắt đầu có khởi niệm nghi ngờ vì từ xưa Phật pháp ở đây rất hưng thịnh thì tại sao dân chúng lại đối với các tỳ kheo không một chút tôn kính như vậy?

    Ngài bèn đến một nhà một cư sĩ hiểu biết trong thành để hỏi thăm:

    - Đức Phật rời khỏi đây không bao lâu, cũng còn các tỳ kheo ở lại giáo hóa vì sao mọi người quên hẳn sự tôn kính tam bảo? Tại sao các tỳ kheo đi khất thực chẳng ai cúng dường vậy?

    Cư sĩ nọ đáp:

    - Tôn giả! Từ khi Đức Thế Tôn đi rồi, mấy năm trở lại đây, các tỳ kheo trong thành nầy bày ra nhiều chuyện xây cất. Mỗi người đều tự cất phòng ốc riêng cho mình mà họ nói là Đức Phật đã cho phép. Xưa nay nếu là kiến tạo giảng đường hay tịnh xá công cộng để dùng trong việc hoằng pháp, hoặc tu tập, thì ai cũng ủng hộ vì đó là việc công. Nhưng mà bây giờ các tỳ kheo đều cất nhà để an nhàn cho thân mình. Các thầy cất cốc, cất am lu bù, đến từng nhà thí chủ để kêu gọi cúng dường cửa lớn, cửa nhỏ, cột kèo, gạch ngói và mọi thứ khác…Lâu ngày tín chúng đều cảm thấy việc cung ứng nầy không có ngày chấm dứt, do đó nhân dân trong thành và ngoài thôn xóm hễ thấy các tỳ kheo đến liền lật đật đóng cửa. Ôi! Nói đến việc nầy, chúng con thật là hổ thẹn với Đức Phật.

    Đại Ca Diếp nghe xong, trong tâm rất khó chịu. Tôn giả lập tức quay trở về thành Vương Xá và đem câu chuyện trên bạch với Đức Phật. Đức Thế Tôn bèn xuống thành Khoáng Dã và triệu tập hết các tỳ kheo lại. Đức Phật dạy:

    - Các tỳ kheo! Chánh pháp của ta lưu truyền lâu dài đều nhờ sức thanh tịnh và cao thượng của tăng đoàn. Người đến mức vô cầu mới thanh cao. Các ông không được yêu sách chúng sanh quá nhiều, trái lại các ông phải là người cống hiến cho chúng sanh. Các ông đừng để tín chúng chê bai, xa lánh. Nhiệm vụ quan trọng của các ông là hoằng pháp độ sanh, chớ không phải là chuyện lo lắng về chỗ ăn, chỗ ở. Nếu các ông xây cất giảng đường cho tín chúng, hoặc thiết lập tịnh xá để tu chung với nhau chớ không phải xây cất cho riêng mình, thì ta mới cho phép. Còn làm nhiều tịnh thất, chùa, am lẻ tẻ, thì chỉ có một thiểu số người hưởng thọ cúng dường, đó là phân tán lực lượng tăng đoàn. Am nầy tranh với thất kia, ai cũng cho mình là ngon lành thì sẽ sanh tâm riêng tư, đố kỵ. Này các tỳ kheo! Chúng ta xuất gia là phải giải thoát mọi sự ràng buộc của thế gian để cho mình khỏi khổ và đạt được tâm thanh tịnh. Nếu chính mình không lìa khỏi phiền não, có nghĩa là tham sân si mạn còn dính chặt với chính mình thì làm sao mà độ cho người được. Tăng đoàn là tấm gương sáng cho đại chúng noi theo vì thế nếu chúng ta không trong sạch thì việc tự độ và độ sanh khó mà thành tựu. Phải tinh tấn lìa xa dục vọng nhỏ nhen của mình. Tu hành là phải buông xả tất cả bởi vì mọi thứ trên đời nầy đều là tạm bợ, giả trá mà thôi. Đừng vì lòng đố kỵ mà quên đi ý nghĩa của chữ tu hành.

    Đức Phật dạy các tỳ kheo xong, trở về thành Vương Xá chỉ có tôn giả Đại Ca Diếp ở lại gầy dựng tín tâm cho dân chúng. Tôn giả không tính toán cho đời sống của riêng mình, cho nơi cư trú của mình mà chỉ lo mang niềm vui Phật pháp cho mọi người. Đợi cho tất cả đều tin tưởng và hiểu biết chơn lý của Đức Phật xong thì tôn giả mới rời thành Khoáng Dã để đi nơi khác.

    Lấy cái họa của giáo đoàn làm cái họa cho mình, hoàn thành việc đáng làm rồi lui gót, không mong cầu cho mình mà chỉ làm việc vì Phật pháp. Chính cái tư cách và chí nguyện cao cả của bậc thánh thật đáng cho mọi người khâm phục.

    A Nan Tặng Bình Bát

    Vì lòng chân thành cho đạo pháp, nên Đại Ca Diếp rất được Đức Phật yêu mến. Nhưng trong giáo đoàn, có nhóm Lục Quần tỳ kheo cố tình tích chứa bình bát đủ loại. Bình bát thời bấy giờ có hai loại là bằng sắt thép hoặc bằng sành. Tùy địa phương sản xuất cho nên chất liệu và hình dáng mỗi thứ không giống nhau. Đại để thì có: bát thiết, bát nước Tô Ma, bát của nước Ô Già, bát màu đen, bát nước Ưu Già, bát màu đỏ đủ loại…Nhóm Lục Quần tỳ kheo thường sưu tầm các thứ bình bát tốt, đem về tàng trữ trong phòng như là một cửa tiệm đồ gốm.

    Mấy ông tỳ kheo nầy từ sáng đến chiều chẳng lo tu hành gì cả mà chỉ để hết tinh thần vào việc chứa bát, ngắm bát. Vì theo giáo luật của tăng đoàn là tuyệt đối cấm tích trử vàng bạc, y phục, gạo thóc và tài sản riêng tư cho nên mấy thầy dồn hết hứng thú trong việc thâu chứa đồ cổ. Người tu hành chân chính chỉ có tam y, nhất bát mà thôi. Do đó, Đức Phật lại cấm chỉ việc chứa bát dư. Theo chế luật, nếu ai chứa bát dư thì phạm ni tát kỳ ba dật đề.

    Trong lúc Phật sắp ban hành điều luật nầy, đại đức A Nan được cúng một cái bát nước Tô Ma rất quý. A Nan định đem nó tặng cho Đại Ca Diếp, nhưng tôn giả còn bận du hóa nước ngoài không có mặt trong thành Xá Vệ. Nếu y theo giới luật không được chứa bát dư thì A Nan không thể để lại mà tặng cho Đại Ca Diếp. Cuối cùng A Nan chỉ còn cách đem ý ấy mà bạch với Phật.

    Phật hỏi:

    - Còn mấy ngày nữa Ca Diếp mới về lại Xá Vệ?

    A Nan thưa:

    - Bạch Thế Tôn! Khoảng mười ngày trở lại tôn giả mới về đến.

    Đức Phật triệu tập đại chúng, giảng dạy pháp đầu đà (là tu khổ hạnh) chơn chánh và khen ngợi Đại Ca Diếp vâng giữ hạnh đầu đà mà không sai phạm mảy may. Ngài dạy Lục Quần tỳ kheo nên noi theo hạnh của tôn giả mà tu tập. Và sau cùng, vì sự tình A Nan trình bày, Đức Thế tôn cho phép được chứa bát dư trong mười ngày.

    Nhìn vào sự kiện nầy thì địa vị của tôn giả Đại Ca Diếp đối với tâm tưởng của Đức Thế Tôn và trong giáo đoàn rất cao vậy.


    Nguyện Tu Khổ Hạnh

    Đại Ca Diếp là đệ tử duy nhất của Phật thích tu theo lối khổ hạnh đầu đà. Cho dù nhiều người ân cần khuyên Ngài nên chuyển lối tu để thân được thanh thản đôi chút, nhưng Ngài cảm thấy rất thoải mái mà tu hành theo lối nầy từ khi còn nhỏ cho đến lúc già nua.

    Đối với người tu khổ hạnh đầu đà thì phải giữ đủ mười hạnh:

    1)Cần chọn nơi vắng vẻ.

    2)Chỉ sống bằng cách khất thực.

    3)Thường ở một chỗ.

    4)Ngày ăn một bữa.

    5)Khất thực không chọn lựa.

    6)Chỉ có ba y, bình bát và tọa cụ.

    7)Thường ngồi tu duy.

    8)Thường tịnh tọa chỗ trống.

    9)Mặc y phấn tảo.

    10)Thường ở nơi gò mả.

    Đối với một nhân vật như Đại Ca Diếp, không muốn đi hóa độ chúng sanh, mà chỉ thích ở riêng một mình và cuộc sống thì quá khắc khổ. Tâm từ bi của tôn giả thật đáng kính phục, nhưng việc hoằng pháp thì chưa đủ.

    Trừ Đức Thế Tôn, việc biện luận với ngoại đạo và giáo hóa các tỳ kheo là việc của nhị vị tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, còn Đại Ca Diếp chỉ chuyên tâm tu đạo. Trong khoảng thời gian đức Thế Tôn còn tại thế, Đại Ca Diếp chỉ thỉnh thoảng thuyết pháp cho hàng cư sĩ tại gia mà thôi. Nhưng sau khi Phật nhập diệt, tôn giả bắt đầu thay thế Phật thống lãnh đại chúng. Sau bao năm tu dưỡng trước đây với cuộc sống lặng thinh trầm mặc để giờ nầy phát tiếng ngân lớn vang dội cả không gian.

    Lúc đầu, hai tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thường khuyên Đại Ca Diếp nên quên mình để phát tâm Bồ Đề mà ra làm việc hoằng pháp lợi sanh, tuyên dương chân lý. Đại Ca Diếp nhất quyết trả lời:

    - Đối với việc hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng sanh, tôi không thể làm được bởi vì tôi không quên tự ngã nên đó không phải là chuyện dễ. Dạy dỗ những bọn người không tín tâm, ác độc như thế thì tôi thật chẳng có dũng khí và sức lực. Tôi biết chỉ có thể lo tự tu cho mình, cố gắng bền bĩ trong lối tu khổ hạnh để mang lại ảnh hưởng tốt cho lớp hậu sanh mà muốn thực hành pháp môn nầy. Còn nhiệm vụ hoằng pháp lợi sanh lớn lao kia thì phải hoàn toàn trông cậy vào hai vị.

    Hai vị tôn giả nghe Đại Ca Diếp nói thế, không hề thất vọng, trái lại còn tán thán:

    - Tôn giả đủ khả năng thành lập pháp tràng, về phương diện ấy thật cũng rất khó khăn. Phật pháp có nhiều mặt và mỗi người có thể làm theo lý tưởng và chí nguyện của mình.

    Đại Ca Diếp không thích sinh hoạt trong đoàn thể ở tịnh xá Trúc Lâm hay tịnh xá Kỳ Viên. Thậm chí tôn giả không thích hòa vui trong cảnh ấy mà tôn giả chỉ thích tịnh tọa nơi đồng trống hay nơi gò mả và vá y ở dưới gốc cây. Đối với tôn giả thì đống xương trắng hoặc mùi hôi của người chết rất hợp cho việc tu quán vô thường, thông suốt mọi nỗi khổ, thâm hiểu ý nghĩa chữ “không” và đốn ngộ về thuyết vô ngã.

    Đại Ca Diếp không sợ mưa to gió lớn, không kể ngày nắng đêm sương, cho nên mặc dù tuổi đã già mà Ngài luôn luôn ở dưới gốc cây trong rừng, hoặc nơi phần mộ xương trắng ở đồng hoang. Đối với Ngài thì tu khổ hạnh đầu đà là sự yên vui, là niềm hỷ lạc và là pháp môn duy nhất để giúp Ngài đạt đến chỗ giác ngộ.

    Đức Phật Chia Nửa Tòa


    Niên kỷ của tôn giả càng ngày càng cao mà đối với việc tu khổ hạnh đầu đà thì càng lúc càng tinh tấn.

    Một hôm, Đức Phật không nỡ nhìn thấy tôn giả tuổi tác quá cao mà cứ sống dãi nắng dầm mưa, ngày đêm phong sương như vậy nên muốn khuyên tôn giả bớt khổ hạnh.

    Khi ấy bánh xe pháp dừng lại tại giảng đường Lộc Mẫu thì Đức Thế Tôn cho gọi Đại Ca Diếp. Tôn giả mặc y rách rưới, râu tóc ra dài, chầm chậm đi đến. Các tỳ kheo trẻ chưa biết tôn giả nên khi thấy hình dáng lôi thôi của Ngài đều tỏ ý khinh rẻ, thậm chí có người còn định bước tới ngăn cản không cho đến gần Thế Tôn.

    Phật biết ý đại chúng, liền từ xa gọi tôn giả:

    - Đại Ca Diếp! Ông đến đó ư! Ta còn chừa phân nửa tòa.Ở đây, ông hãy mau mau đến ngồi.

    Các tỳ kheo trẻ tuổi nghe Phật nói, thất kinh. Họ không ngờ ông tỳ kheo già đó là tôn giả Đại Ca Diếp danh chấn tông môn. Tôn giả đảnh lễ Phật xong, lui lại vài bước và bạch:

    - Bạch Thế Tôn! Con là đệ tử của Ngài, con thật chẳng dám ngồi tòa dành riêng cho Thế Tôn.

    Lúc bấy giờ Đức Phật nói cho đại chúng rõ oai lực vô biên của Đại Ca Diếp cũng như công phu tu tập của tôn giả tương đồng với Thế Tôn. Nếu đời nay, tôn giả không gặp Phật thì Ngài cũng có thể tự giác ngộ và chứng quả vị La Hán Độc Giác.

    Qua sự việc trên cho thấy Đức Phật rất quý trọng tôn giả đến thế nào, thậm chí đối đãi Ngài như vị thượng khách cũng như biểu lộ địa vị trọng yếu của tôn giả trong giáo đoàn.

    Đức Phật khuyên tôn giả không nên tiếp tục tu khổ hạnh, hãy bỏ bớt “y” thô nặng mà nên mặc ” y “ nhẹ của thí chủ cúng dường để tịnh dưỡng tuổi già. Cho dù Đức Phật ủy lạo đến đâu, tôn giả cũng chẳng thay đổi cách tu. Tôn giả thưa với Phật:

    - Bạch Thế Tôn! Hạnh đầu đà đối với con chẳng phải là khổ nhọc mà trái lại rất an lạc. Con không bị lo lắng ưu phiền về thức ăn, y phục và không màng sự đắc thất trên thế gian. Con chỉ cảm thấy một sự tự do thanh tịnh mà thôi. Đương nhiên số người phê bình lối sống của con nặng về tự độ mà không độ tha, còn như các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên thì thay Phật làm nhiệm vụ tuyên dương chân lý, không sợ khó khăn, chẳng tiếc tánh mạng, cổ động bánh xe pháp và ủng hộ chúng sanh thấm nhuần pháp vị để cùng được pháp lạc. Về phần con, tuy không đủ nhiệt tình vì người vì pháp, nhưng con không hề quên ơn Phật và cũng vì muốn báo ơn Phật, con mới tu học khổ hạnh đầu đà. Vì chúng sinh cần cứu độ, hoàn toàn nương vào sự hoằng pháp của tăng đoàn. Các tỳ kheo có khả năng tuyên dương Phật pháp là những bậc pháp sư của tín đồ cũng cần phải kiện toàn tự thân cho chính mình thì mới có thể đảm đương công tác cao quý nầy. Còn bổn phận của tăng đoàn có được kiện toàn hay không? Dĩ nhiên là họ phải tuân theo sinh hoạt nghiêm túc của tăng đoàn để bồi dưỡng đức hạnh cho chính mình. Môn khổ hạnh đầu đà trong Phật pháp cũng là một phương pháp sinh hoạt nghiêm túc. Một khi đã quen được lối sống ấy thì mới có thể kiềm chế nổi khắc khổ, tăng thêm tính nhẫn nại và chịu sống đạm bạc để nhất tâm nhất đức vì pháp và vì chúng sinh. Bạch Thế Tôn! Con vì muốn trực tiếp củng cố tăng đoàn và gián tiếp làm lợi ích cho chúng sinh nên luôn luôn nguyện không xả bỏ khổ hạnh, xin Thế Tôn lượng thứ cho tính cách chấp trước của đệ tử.

    Phật nghe xong, rất hoan hỷ. Ngài nhìn Đại Ca Diếp rồi lại nhìn các đệ tử rồi nói:

    - Rất tốt! Tỳ kheo các ông có nghe lời trưởng lão Đại Ca Diếp vừa nói không? Tương lai chánh pháp của ta bị hủy diệt, không phải do thiên ma ngoại đạo phá hoại, mà vì sự hủy hoại tan nát của tăng đoàn. Đại Ca Diếp nói rất đúng, muốn hoằng dương Phật pháp để ánh sáng chân lý mãi mãi chiếu sáng trên thế gian, điều trước tiên là phải củng cố tăng đoàn. Mà muốn củng cố tăng đoàn thì tất cả tăng chúng phải sinh hoạt nghiêm túc. Chỉ có người như Đại Ca Diếp mới có thể phụ trách chủ trì chánh pháp của ta.

    Phật lại tiếp:

    - Này Đại Ca Diếp! Ông cứ tiến tu đạo nghiệp, ta không ép ông. Ông cứ tu theo ý nguyện của mình. Khi nào muốn gặp ta thì cứ tùy thời mà đến.

    Đức Phật và Đại Ca Diếp tuy hai mà tâm là một, vì vậy thầy trò rất thông cảm nhau. Đức Phật tiếp đãi Đại Ca Diếp như thượng khách và như bằng hữu. Nhưng tôn giả không hề quên lễ nghĩa mà dùng tư cách thầy trò để đáp lại khiến cho mối tương giao sư đệ càng thêm thâm sâu và nồng hậu.

    Mỗi khi nghe đến Đức Phật, Bồ Tát hay các vị A La Hán thì chúng ta đều tưởng tượng rằng các vị ấy lạnh lùng nghiêm nghị như cây khô, đá lạnh và đối với thế gian chẳng chút tình cảm nào. Nhưng thật ra các vị ấy đã biến đổi nhân tình tạp nhiễm thành một thứ tình cảm tự nhiên cao thượng mà chúng ta gọi là từ bi. Hạt giống từ bi nẩy mầm từ cây trí tuệ có sức hút mãnh liệt khiến chúng sanh có cơ hội gần gủi tiếp nhận được nhân cách cao thượng ấm áp ấy để sửa đổi tập khí của mình.

    Nơi chốn rừng sâu xanh thẳm của Ấn Độ có cây Sa La trổ hoa bát ngát vào những ngày nóng bức của mùa hạ và với những đêm trăng sáng trải vàng trên vòm lá xanh, Đại Ca Diếp đã tu tập năm nầy qua tháng nọ ở nơi thanh tịnh vắng vẻ mà cái phong tư cao cả của bậc thánh vẫn còn phảng phất đâu đây.

    Nhận “Y” “Bát” Của Phật

    Thời gian thắm thoát qua nhanh và sắc thân tứ đại của Đức Phật cũng theo luật vô thường mà biến đổi. Vào năm 80 tuổi và sau 49 năm truyền đạo Ngài báo tin sẽ nhập diệt trong vòng ba tháng.

    Cùng năm đó, trước tiên là Mục Kiền Liên tuẫn nạn, sau đến là Xá Lợi Phất về quê mà nhập diệt do đó khắp mọi nơi trong tăng đoàn phảng phất vẻ đau thương sầu thảm. Hiện tại trong tăng đoàn mà những người có thể thừa kế Đức Thế Tôn thì không còn là bao nhiêu. Đại Ca Diếp thì già nua còn lớp trẻ thì không ai sánh kịp với A Nan mặc dù ông chưa chứng được thánh quả. Vì sự lưu truyền chánh pháp và lãnh đạo tăng đoàn, Đức Thế Tôn đã sớm chú ý chọn người tiếp nối. Riêng tôn giả Đại Ca Diếp, khi ở trên hội Linh Sơn đã được Đức Thế Tôn ngầm trao chánh pháp nhãn tạng:” Niêm hoa vi tiếu” là điểm tích tối sơ của Thiền Tông. Số là ở trong hội Linh Sơn, Phật cầm cành hoa sen đưa lên mà tất cả đại chúng đều ngơ ngác không biết ý nghĩa là gì, duy chỉ có Ngài Đại Ca Diếp thì đắc ý chúm chím cười. Vì thế mới có câu:”Niêm hoa vi tiếu”.

    Phật sau đó nhìn Đại Ca Diếp dạy rằng:

    - Ta có chánh Pháp nhãn tạng, Niết Bàn diệu tâm, pháp môn mầu nhiệm, chẳng lập văn tự, ngoại giáo lý truyền riêng. Nay ta giao phó cho ông. Ông khéo giữ gìn chánh Pháp nầy để truyền lại mãi mãi cho những đời sau.

    Đây chính là di huấn của Đức Thế Tôn cho vị tổ thiền tông đầu tiên của Phật giáo và sau đó tôn giả A Nan là vị Tổ thiền tông thứ hai. Còn Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người mà đã đem thiền tông đến Trung quốc vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch là Tổ thứ 28.

    Khi Đức Phật nhập diệt ở thành Câu Thi Na, tôn giả Đại Ca Diếp còn đang hướng dẫn 500 tỳ kheo du hóa ở nước Đặc Xoa Na Xòa ở phương Bắc. Sau khi nghe tin, tôn giả rất cảm thương và dắt toàn bộ tỳ kheo đi suốt ngày đêm về lại thành Câu Thi Na.

    Trên đường đi, có người nước mắt đầm đìa, có người nằm lăn ra đất khóc than thảm thiết. Nhưng trong chúng tỳ kheo có ông Bạt Nan Đà thuộc nhóm Lục Quần tỳ kheo thì rất vui vẻ nói rằng:

    - Mấy thầy cần gì phải thương cảm như vậy? Phật có nhập diệt thì chúng ta mới được tự do. Lão nhân ấy khi còn sống đã trói buộc chúng ta, quản lý chúng ta. Ông thường phàn nàn chúng ta điều nầy không tốt, điều kia không được. Ổng lải nhải đến bực mình. Bây giờ ổng nhập diệt rồi, chúng ta càng nhẹ nhỏm và thong thả chứ sao?

    Không đợi Đại Ca Diếp quở trách, một tỳ kheo bước đến định đánh Bạt Nan Đà, Đại Ca Diếp vội ngăn lại và dạy rằng:

    - Đức Thế Tôn vừa nhập diệt, mọi người mất nơi nương tựa nên đều buồn thương. Tại sao ông ngu si cho điều đó là việc mừng? Kỳ thật, tôn giả phải đập cho y một trận mới được.

    Tuy là bậc đại thánh, nhưng giây phút bấy giờ tôn giả cũng một phen vọng tưởng cũng chỉ vì quá kính nhớ đến Đức từ phụ mà thôi. Càng kính nhớ đức Phật thì tôn giả càng đem tấm lòng sắc son của một trưởng lão mà lo lắng cho tiền đồ Phật pháp.

    Lúc bấy giờ kim quan của Đức Thế Tôn an trí tại chùa Thiện Quang. Bao nhiêu đệ tử vây quanh buồn bã khóc than và chuẩn bị tưới dầu thơm và sắp củi lửa để làm lễ trà tỳ, nhưng đốt hoài mà không cháy. Mãi đến bảy ngày sau Đại Ca Diếp mới về đến thì từ trong kim quan Đức Phật ló hai chân ra. Tôn giả Đại Ca Diếp trông thấy không cầm được nước mắt, liền chắp tay đảnh lễ và thưa rằng:

    - Đức Thế Tôn từ bi! Bậc cứu khổ vĩ đại. Xin Ngài an tâm chúng con xin đi theo bước chân của Ngài.

    Đại Ca Diếp nói xong, Đức Phật thâu hai chân vào và lúc ấy giữa những tiếng khóc than kinh động của chúng đệ tử, Đức Phật dùng “ tam muội chân hỏa” tự trà tỳ kim thân.

    Từ đây trách nhiệm lưu truyền đại pháp sẽ do tôn giả Đại Ca Diếp đảm đương.

    Tam Tạng Kinh

    Bốn tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, Đại Ca Diếp, thay Phật, thống xuất tăng chúng mở hội nghị để kết tập kinh điển.

    Ban đầu, Đại Ca Diếp rất băn khoăn khi phải chọn nơi tốt để kết hợp đại hội. Nếu tổ chức tại tịnh xá Trúc Lâm thì không được bởi vì tịnh xá nầy thì quá lớn nên sau cùng Ngài chọn một thạch động trong rừng nơi phía Đông Nam thành Vương Xá tên gọi là động Tất Ba La Diên.

    Trong rừng núi tịch mịch và hang động rộng rãi chính là một cảnh thoát trần rất xứng đáng để quy tụ đại hội. Tất cả 500 vị A La Hán đều suy tôn các vị Đại Ca Diếp, A Nan, A Na Luật, Ưu Bà Ly và Phú Lâu Na làm bậc thượng thủ và dĩ nhiên tôn giả Đại Ca Diếp được tôn lên làm chủ tọa. Với tư cách chủ tọa, Ngài đã luận tội A Nan trước đại chúng. Oai nghiêm như Đức Phật, Ngài quở trách A Nan không chịu tu hành nên chưa chứng thánh quả. Cho dù A Nan kiêu khí ngất trời, nhưng trước mặt tôn giả cũng không dám phản kháng mà chỉ một bề nhận lỗi.

    Khi Phật còn tại thế thì Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đã hoạt động trong và ngoài giáo đoàn và hai Ngài là hàng đệ tử thân tín của Đức Phật trong khi Đại Ca Diếp thì trầm mặc tu đạo và những hoạt động của tôn giả đều có giới hạn. Nhưng đến khi Đức Phật và hai vị đại đệ tử nhập diệt rồi thì Ngài mới đứng ra đảm nhiệm việc lãnh đạo giáo đoàn. Điều nầy đủ chứng tỏ công đức tu dưỡng cao sâu và lòng độ lượng rộng lớn của Ngài.

    Tôn giả Đại Ca Diếp không có thần thông quảng đại, nhưng với lòng kiên nhẫn tột bực thì không có vấn đề khó khăn nào mà Ngài chẳng giải quyết một cách hài hòa. Ngài đã noi theo gương Đức Phật mà đem ánh sáng của chân lý chiếu khắp mọi nơi cũng như dùng đèn trí tuệ để quét sạch mọi u minh, phiền não và đưa chúng sinh cùng đến chỗ giác ngộ như Ngài.

    Sang ngày kết tập thứ nhì, A Nan là vị đệ tử có thể nhớ đến 84,000 bài kinh nên được đề cử đọc Kinh tạng và Ưu Bà Ly là vị đệ tử thông suốt và nghiêm trì giới luật nên được đọc Luật tạng. Còn Ngài Phú Lâu Na là vị đệ tử giỏi về thuyết pháp nên được đề cử đọc Luận tạng. Ba vị thì đọc còn tất cả các vị A La Hán thì nghe và nếu câu nào không đúng với lời Đức Thế Tôn dạy thì phải sửa lại cho đúng. Đại hội kết hợp lần thứ nhất nầy cũng được xem như là đại hội kết tập pháp thân Xá Lợi của Phật.

    Ngày nay chúng ta được thừa hưởng cam lộ pháp thủy của Đức Phật và chúng ta có cả một kho tàng kinh điển rộng lớn mênh mông là do lòng từ bi vô lượng và trí tuệ vô song của tôn giả Đại Ca Diếp mà ra.

    Long Hoa Tam Hội

    Mới ngày nào mà Đức Phật nhập diệt đã trên hai mươi năm. Càng nghĩ, Đại Ca Diếp càng nhớ lại ân sâu như trời biển của Đức Thế Tôn đã vì đời sau mà lưu truyền đại pháp. Lúc bấy giờ Đại Ca Diếp đã ngoài trăm tuổi, tuy trí tuệ sáng suốt nhưng sắc thân tứ đại thì mỏi mòn theo năm tháng. Ngài biết không còn bao lâu nữa thì sẽ nhập diệt nên cố gắng củng cố tăng đoàn và phú chúc cho người thừa kế để khỏi phụ lòng của Đức Phật.

    Ngài liền đến nơi A Nan đang hoằng pháp, phó chúc pháp tạng và yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng lãnh đạo tăng đoàn. Đây là một trách nhiệm rất quan trọng cho sự hưng thịnh của Phật giáo ngày sau nên ngoài A Nan ra không ai có thể đảm đương nổi.Sau đó Ngài bay lên hư không đến tám nơi có tháp thờ Xá Lợi của Phật để cúng dường lễ bái.

    Tôn giả trở về thành Vương Xá, định đến cáo từ vua A Xà Thế, nhưng quân hầu bảo nhà vua còn ngủ nên Ngài bèn rời thành đến núi Kê Túc (Kukkut Apada) phía Tây Nam cách thành Vương Xá độ 8 dặm. Ngọn núi nầy có ba đỉnh cao chót vót có hình dáng như chân con gà. Phân nửa của ngọn núi trở lên là rừng cây rậm rạp, còn phân nửa của núi trở xuống có thảm cỏ trải dài. Tôn giả đến núi Kê Túc lên trên triền phía Bắc, theo lối mòn khúc khuỷu quanh co, rồi đi dần về sườn núi Tây Nam. Ở đây cảnh núi hiểm trở, có một tảng đá to choán ngay nơi lối mòn. Tôn giả bèn gõ một tích trượng, tự nhiên tảng đá mở ra như bị chém bằng đao. Lối đi được khai thông, Đại Ca Diếp tiếp tục đi tới, lại lối mòn khúc khuỷu quanh co dẫn tới đỉnh núi, day mặt về phía Đông Bắc mà đi vào chỗ ba ngọn núi. Khi đó ba đỉnh núi từ từ tách ra, mở rộng bên trong thành một nơi tọa thiền rất đẹp. Tôn giả liền đưa áo cà sa của Phật Đà cất vô đó, lấy cỏ trải tòa mà ngồi và tự nói: “ Hôm nay ta sẽ dùng sức thần để giữ gìn nhục thân nầy, dùng y phấn tảo che phủ lên mình, để đến 67 ức năm sau khi Đức Di Lặc ra đời sẽ bái kiến Ngài và trao lại “ y” “bát” của Đức Phật Thích Ca và giúp Ngài giáo hóa chúng sanh.” Nói xong, ba ngọn núi từ từ khép lại như cũ để giữ gìn và giấu kín tung tích của vị đại thánh cho đến ngàn đời. Về sau khi Đức Di Lặc xuất thế, sau tam hội Long Hoa thuyết pháp sẽ tìm đến núi Kê Túc và Ngài lấy ngón tay búng vào núi, tự nhiên ngọn núi tách ra. Bấy giờ Đại Ca Diếp lấy áo trao cho Di Lặc và Phật Di Lặc cung kính xin nhận. Xong việc, thân thể Đại Ca Diếp bay lên không trung, hiển thị các loại phép lạ thần biến, rồi hóa thành ngọn lửa thiêu thân, tiến nhập Niết Bàn. Ngày nay trên đỉnh núi có một Phật tháp, chờ đến đêm tối yên tĩnh thì từ xa nhìn thấy ánh lửa bốc cao, nhưng lên tới nơi lại chẳng có gì.

    Vua A Xà Thế nghe tin tôn giả nhập diệt, rất đỗi bi thương liến lập tức đến gặp tôn giả A Nan để yêu cầu cùng đi với vua đến núi Kê Túc. Khi hai người vừa đến nơi, ba ngọn núi lại tách ra và cả hai cùng thấy tôn giả Đại Ca Diếp đang tọa nhập định trong núi mà trên thân phủ đầy hoa Mạn Đà La. Nhà vua cùng A Nan cúng dường lễ bái rồi lui ra. Ba ngọn núi tự nhiên khép lại.

    Hai người ngoảnh nhìn lại ngọn núi Kê Túc xanh tươi tịch tịnh mà 67 ức năm sau, tôn giả Đại Ca Diếp đã trường kỳ giữ gìn Y, Bát của Phật Thích Ca cho đến lúc Di Lặc tôn Phật đến thăm để trao lại y bát đó cho Ngài.

    Chính vì hiện tượng nầy mà cổ nhân có câu: “Tinh thần của các bậc vĩ nhân đã hòa cùng tạo hóa và thâm nhập vào chỗ chí ảo của trời đất mà sinh mạng vẫn trường tồn với thời gian vô tận. Từ đó, chúng ta có thể thấy sinh mạng của tôn giả đã vô cùng vô tận và như thế, giáo pháp của Đức Thế Tôn nói ra cũng sẽ được lưu truyền vô cùng vô tận vậy”.

    Một đời của tôn giả xuất thân là con nhà giàu có mà kham nhẫn tu khổ hạnh đầu đà, được niêm hoa vi tiếu trên hội Linh Sơn để nối tiếp chánh pháp và nhiếp giữ đại pháp của Phật đến hơn trăm tuổi. Đây chính thật là một vĩ nhân và rất xứng đáng cho chúng ta noi theo mà tu tập.

    Cập nhật cuối (Thứ 6, 16 Tháng 10 2009 19:07)

    Copyright © 2010 ---.
    All Rights Reserved.
    Trích Ánh đạo vàng/cư sỹ Lê Sỹ Minh Tùng

  4. #4

    Mặc định Tôn Giả Ca Chiên Diên, Đệ Nhất Nghị Luận (Katyayana)

    Tôn Giả Ca Chiên Diên, Đệ Nhất Nghị Luận (Katyayana)
    Thứ 5, 15 Tháng 10 2009 00:47

    Ca Chiên Diên là con của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề (Avanti) thuộc miền Nam nước Ấn Độ. Tên của Ngài là Na La Đà còn Ca Chiên Diên là họ của Ngài. Ngài là con thứ hai của vị quốc sư và về sau vì quá nổi tiếng nên mọi người dùng họ để gọi tên Ngài. Vì cha là quốc sư, nên gia đình rất giàu có, kẻ ăn người ở cả trăm và ruộng vườn thì cò bay thẳng cánh. Nhưng cha mẹ Ngài lại là những người nhân đức, thương kẻ khốn cùng.

    Trong gia đình Ca Chiên Diên có người anh trai rất anh tuấn và hào hoa. Vì là anh lớn, được cha mẹ cho đi du học khắp nơi, thọ giáo với rất nhiều minh sư Bà La Môn nên rất thông đạt nhiều thứ học thuật. Sau thời gian du học, thì người anh trở về cố hương, tuyên bố diễn thuyết những điều nhận thức của mình về triết lý Vệ Đà tối cao. Trong khi ấy, Ca Chiên Diên chưa hề bước ra khỏi cửa, nhưng biết anh mình lập diễn đàn để thuyết pháp thì cũng lập một diễn đàn đối diện với người anh. Mặc dù không đi học, nhưng Ngài diễn thuyết rất hay, thuyết minh rõ ràng những chỗ quan trọng trong kinh Vệ Đà làm thu hút tất cả thính chúng của ông anh mình. Ông anh vốn háo thắng nên sanh lòng tật đố. Từ đó anh em bất hòa, gây gổ ồn ào trước mặt phụ thân. Người anh cằn nhằn với cha rằng:

    - Thưa cha! Xin cha trừng trị em con, Nó vô phép vô tắc làm mất mặt con. Con đã du học nhiều năm, vậy mà khi con đang diễn thuyết thì nó cũng đăng đàn đối diện và đoạt hết thính giả của con. Tức thật, con mà lại thua nó hay sao?

    Thiếu niên Ca Chiên Diên điềm nhiên chậm rãi giải thích:

    - Xin cha lượng xét. Học vấn là chuyện công khai, ai cũng có quyền nghiên cứu và diễn giảng. Tuy anh con đi du học nước ngoài, còn con ở nhà nghiên cứu, nên con muốn biết khả năng nghiên cứu của mình tới đâu chớ không có ý hơn thua với anh con đâu. Xin cha đừng bận tâm.

    Phụ thân tuy là quốc sư nhưng khi nghe hai quý tử bàn cãi cũng không biết phân xử ra sao. Rốt cuộc, ông bàn với phu nhân và họ quyết định đem gởi Ca Chiên Diên đi học đạo với tiên A Tư Đà ở núi Tân Đà, gần thành Ưu Thiền Na Di thuộc về phương Nam.

    Tiên A Tư Đà chính là cậu ruột của Ca Chiên Diên và là anh của mẫu thân Ngài. Ông là vị tiên nhân thần thông bác học của Ấn độ lúc bấy giờ. Nhắc lại, khi Đức Thế Tôn đản sanh làm Thái Tử tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ thì tiên A Tư Đà được chư thiên mách bảo, liền xuống núi đến kinh thành mà xem tướng cho Thái Tử. Thấy Thái Tử có 32 tướng tốt, Ngài nói vua Tịnh Phạn rằng:

    Tâu Đại Vương! Thái Tử có 32 tướng tốt nên sau nầy sẽ trở thành một vị Thánh. Thật đáng tiếc cho tôi đã già quá rồi, không thể lãnh hội được từ vị Thánh nầy. Tuy tôi không thể lãnh thọ giáo lý của Ngài, nhưng tôi sẽ dạy đệ tử tôi theo Ngài học đạo.

    Nói xong, ông rơi nước mắt và lui ra.

    Từ khi Ca Chiên Diên bị cha mẹ gởi đến đây thì rất được tiên A Tư Đà yêu mến. Ông đem hết sở học của mình truyền dạy lại cho đứa cháu thông minh. Vì tính thông minh sẵn có cộng thêm sự chuyên cần học đạo, Ca Chiên Diên chẳng bao lâu đạt được cả tứ thiền và năm món thần thông.

    Từ đó, Ca Chiên Diên không còn nghĩ nhớ đến gia đình nữa. Lý do là Ngài không muốn bám vào ảnh hưởng của thân phụ và càng không muốn tranh giành với ông anh háo thắng. Ngài quyết định sống riêng thế giới của mình nên từ chối lời cha mẹ muốn đón Ngài trở lại cố hương.

    Một hôm, tiên A Tư Đà biết Ca Chiên Diên không bị tình thương gia đình ràng buộc nên rất vui mà bảo Ca Chiên Diên:

    - Ca Chiên Diên! Như chí nguyện của con bây giờ thì mai sau con sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại, nhưng con phải gặp minh sư mới được. Kiến thức của ta, hiện tại không đủ cho con cầu học. Đức đại thánh Phật Đà đã xuất thế, con hãy đợi sau khi Ngài thành đạo thì mau mau theo học với Ngài.

    Ca Chiên Diên nghe lời thầy dạy, bán tín bán nghi. Nhưng tin chắc một điều là sau nầy sẽ trở thành một vĩ nhân.

    Ngày nọ, tiên A Tư Đà dắt Ca Chiên Diên xuống núi đến vườn Lộc Uyển thuộc nước Ba La Nại. Tại đây ông cho xây cất một ngôi tịnh thất và an trụ luôn ở đó. Tịnh thất hoàn thành, tiên A Tư Đà bảo Ca Chiên Diên mỗi ngày cầu ba lần cho đức đại giác Phật Đà mau đến ngày chứng quả. Tiên A Tư Đà lại bảo cháu:

    - Ca Chiên Diên! Theo sự dự đoán khi ta gieo quẻ thì Đức Phật chẳng bao lâu nữa sẽ thành đạo. Sau đó nhất định sẽ đến vườn Lộc Uyển mà quay bánh xe pháp đầu tiên. Ta chỉ biết được như thế còn Đức Phật giác ngộ chân lý gì thì ta không có phước để biết điều ấy. Con nên nhớ kỹ điều này, khi Đức Phật thành đạo rồi con phải mau mau đi tìm Ngài để cầu đạo và tu học.

    Ít lâu sau, tiên A Tư Đà chấm dứt thọ mạng từ giã cõi đời. Ca Chiên Diên không còn thầy, kể từ đó Ngài tự phát huy học vấn và tài năng. Vì thấy quần chúng trọng vọng nên Ngài thay tâm đổi tính, thay vì nghe lời di ngôn của cậu mình là đi tìm Phật để học đạo, thì Ngài bị danh văn lợi dưỡng làm mờ đi lý trí.

    Ca chiên Diên tự cho mình đã đắc đạo, rất xứng đáng cho người đời tôn kính, nên không cần mong đợi Đức Phật xuất thế làm gì. Thật đáng buồn, vị thầy vừa qua đời không lâu mà ông chẳng còn mỗi ngày cầu ba lần để sớm gặp được Phật.

    Một thời gian sau, gần thành Ba La Nại, có người đào bới được nhiều di tích của một cổ thành mấy ngàn năm trước. Đặc biệt trong ấy có một tấm bia đá trên mặt khắc một lối chữ mà chẳng ai biết là thứ chữ gì. Có người thì đoán là một bài kệ, nhưng không ai có thể đọc được. Thiên hạ lại đồn rằng, ai mà đọc được tấm bia đá đó thì chắc chắn vị đó là một bậc đại giác vậy.

    Một hôm, quốc vương Ba La Nại bảo các đại thần:

    - Nước chúng ta được một số bảo vật lưu truyền từ cổ đại, trong đó có tấm bia đá ghi kệ văn. Vậy các người phải mau mau tìm hiểu cho ta, nếu không các nước lân cận sẽ cười nước chúng ta không có người trí. Nội trong bảy ngày, nếu như không ai hiểu được bài kệ ấy ta sẽ cách chức các khanh.

    Mệnh lệnh của nhà vua tuy thật nghiêm khắc, nhưng các đại thần từ xưa đến giờ chưa từng thấy thứ chữ nầy. Người nầy nhìn người kia lắc đầu. Sau cùng họ dâng kiến nghị lên nhà vua, xin treo bảng thông báo cho toàn quốc, nếu ai đọc được bài kệ trên tấm bia sẽ được trọng thưởng mỹ nữ và tài vật châu báu.

    Yết thị nhà vua nêu ra thì tin tức đã bay đến Ca Chiên Diên. Ngày xưa tiên A Tư Đà đã từng dạy cho Ngài nhiều thứ chữ trên mọi quốc gia cùng với những thứ chữ của chư Thiên cho nên Ngài rất tự tin có thể đọc được.

    Quả thật Ca Chiên Diên đọc được toàn bộ bài kệ. Đây chính là thứ văn tự của Phạm Thiên và người không có thần thông thì không cách nào thấu rõ được. Ý bài kệ như thế nầy:

    Ai là vua trong các vị vua?

    Ai là thánh trong các bậc thánh?

    Thế nào là người ngu?

    Thế nào là bậc trí?

    Làm sao để lìa phiền não?

    Làm sao để đạt được Niết Bàn?

    Ai là kẻ chìm trong biển sanh tử?

    Ai là người tiêu diêu noi cõi nước giải thoát?

    Lâu nay không một ai đọc được bài kệ thần bí nầy, nay Ca Chiên Diên đã vén tấm màn bí mật lên và tin nầy lan ra khắp nơi. Có một điều tấn thối lưỡng nan là mặc dầu Ca Chiên Diên có thể đọc được bài kệ, nhưng chính Ngài cũng không giải đáp được ý nghĩa của nó được. Nhà vua tuy công nhận sức bác học của Ca Chiên Diên, nhưng không hiểu ý nghĩa của bài kệ thì chẳng ích lợi gì. Do đó, nhà vua lại treo giải thưởng để yêu cầu các học giả trong thiên hạ đến khai thông vấn đề.

    Ca Chiên Diên không chịu thua, Ngài hứa với nhà vua nội trong bảy ngày sẽ trở lại giải đáp ý nghĩa bài kệ nầy.

    Phải Cầu Đức Phật

    Từ khi hứa chắc với nhà vua, Ca Chiên Diên trở về nhà sưu tầm, khảo cứu và dùng tất cả thần thông thiên biến vạn hóa mà cũng chẳng hiểu được. Đến lúc không còn biện pháp gì nữa thì Ngài phải đi cầu cứu người khác. Ban đầu, Ngài tìm đến chỗ của Phú Lâu Na và Đại Ca Diếp để thỉnh giáo, nhưng ý kiến của họ chỉ rất thô thiển, không thỏa mãn được sở nguyện của Ngài. Ngài thất chí bèn tìm đến nhóm lục sư ngoại đạo để học hỏi thì họ cũng chẳng hơn gì.

    Cùng đường hết lối, Ca Chiên Diên bắt buộc phải nghĩ đến Phật Đà. Nhưng càng nghĩ đến Phật thì Ngài lại càng không muốn đi thỉnh giáo. Ngài thầm nghĩ bài kệ với lời văn từ cõi trời mà các đại lão Bà La Môn trưởng thượng, uy quyền một cõi mà còn không biết, huống chi Đức Phật tuổi còn trẻ thì làm sao mà biết được. Lời nhắn nhủ của tiên A Từ Đà căn dặn trước khi ông chết là phải tìm đến Đức Phật để thọ giáo thì ngày sau Ngài mới thành một vĩ nhân đã làm cho Ngài tỉnh ngộ mà nhận định rằng ngộ đạo không thể căn cứ trên tuổi tác lớn nhỏ mà quyết định. Nghĩ như thế nên Ngài nhắm hướng vườn Lộc Uyển mà đi tới.

    Lần đầu tiên bái kiến Đức Phật, Ca Chiên Diên mới biết lời nói của cậu mình quả không sai. Mặc dầu chưa biết được trí tuệ bao la vô cùng vô tận của Phật như thế nào, nhưng chỉ mới thấy tướng tốt trang nghiêm của Thê Tôn cũng đã khởi lòng cung kính vô biên.

    Ca Chiên Diên chắp tay, tụng qua bài kệ một lần và cầu mong Đức Phật giải đáp cho.

    Đức Phật chẳng cần suy nghĩ mà dùng kệ đáp lại rằng:

    Vua trong các vua là vua cõi trời thứ sáu.

    Thánh trong các thánh là Đức Phật đại giác.

    Bị vô minh ô nhiễm gọi là kẻ ngu.

    Hay diệt hết phiền não là bậc trí.

    Tu đạo, trừ tham, sân, si tức là lìa tội lỗi.

    Hoàn thành giới, định, tuệ là chứng Niết Bàn.

    Người chấp trước nơi ngã pháp chìm trong biển sanh tử.

    Ca Chiên Diên rất thông minh nên vừa nghe Phật đáp xong thì mỗi câu mỗi lời đều thâm nhập vào trong tâm và mối nghi ngờ ám ảnh bao lâu nay tự tan biến như những làn khói lam chiều để nhường lại cho ánh sáng của trí tuệ. Ngài rất vui mừng và lặng đi mà không nói được nên lời. Mối cảm kích của Ngài đối với Đức Phật chẳng có gì là lạ, vì trên đời nầy ngoài Đức Phật ra thì không còn ai được xem như là Chánh Đẳng Chánh Giác nữa. Ngài chậm rãi tụng lại bài kệ của Phật và hướng về phía Thế Tôn đảnh lễ để tỏ lòng tôn kính của mình.

    Ca Chiên Diên cáo từ Đức Phật trở về thuật lại cho nhà vua nghe và sau đó tuyên bố với các tín đồ của mình là từ đây Ngài sẽ quy y theo Phật để làm đệ tử của vị đại thánh nầy.

    Xưng Niệm Tam Bảo

    Với tư chất thông minh sẵn có, lại được dịp nghe lời vàng ngọc của Đức Thế tôn, nên chẳng bao lâu Ngài được khai ngộ và chứng quả trong tăng đoàn. Ca Chiên Diên rất vui mừng, chẳng những tự mình từ đây được cứu độ mà còn làm cho cậu mình là tiên A Tư Đà được ngậm cười nơi chín suối.

    Ca Chiên Diên vốn là một nhân vật phi phàm, huống chi hiện nay đã theo Phật xuất gia và chứng quả A La Hán.

    Tôn giả Ca Chiên Diên thông đạt rất nhiều kinh luận ngoại đạo và có rất nhiều bằng hữu ngoại đạo. Vì thế sau khi ngộ đạo thì Ngài phát nguyện sẽ cảm hóa những người bạn tu còn đang lạc hướng trên đường mê nẻo vọng và mỗi mỗi đưa họ về quy y theo Phật để lãnh thọ giáo lý của Thế Tôn. Do đó, tôn giả ở trong tăng đoàn không những nhiệt tâm phục vụ và tu hành, mà đối với bên ngoài lại cũng nhiệt tâm hoằng sanh lợi pháp. Lời Đức Phật nhắn nhủ với chúng tăng là người hay hoằng đạo chẳng phải đạo hoằng người, luôn luôn là sức phát động để giúp tôn giả đi sâu vào lòng người mà hoàn thành Phật sự.

    Chân lý cứu đời của Đức Phật thì trường tồn bất biến dù trải qua ngàn năm vạn kiếp. Do đó, Ca Chiên Diên càng tuyên dương Phật pháp thì đạo tâm càng sung mãn. Đối với Ngài, làm sứ giả của Đức Phật là một vinh hạnh lớn vì thế lòng tin và sự nhiệt thành của tôn giả đã biến đại danh Ca Chiên Diên bay xa như hương hoa thơm ngát làm cho ai ai cũng quý mến và kính phục.

    Một hôm, Đức Phật trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để giáo hóa chúng sinh thì tôn giả cũng theo Phật. Tôn giả ngụ tại tịnh xá trong làng Ha Lợi và tất cả dân làng trong làng nầy đều kính nhớ công đức giáo hóa của Ngài. Ngày nọ, có trưởng giả Bát Thành bị bệnh. Tôn giả nghe tin đến thăm và đặc biệt thuyết pháp cho ông nghe để giải trừ bệnh khổ.

    Ca Chiên Diên bước vào nhà trưởng giả, thấy ông còn nằm trên giường bệnh, bèn đến bên thăm hỏi:

    - Này trưởng giả! Nghe tin ông có chút bịnh, tôi vâng lời Đức Phật đến đây an ủi ông. Ông có chạy chữa thầy thuốc gì không?

    Trưởng giả rất cảm thương mà nói:

    - Kính tạ ân Đức Phật và tôn giả. Bệnh của con không còn hy vọng vì bao nhiêu thầy đều nói con mang bịnh bất trị.

    Tôn giả an ủi:

    - Ông hãy xưng niệm Tam Bảo để nương nhờ oai đức Tam Bảo khiến tâm ông được thanh tịnh và bệnh tình cũng thuyên giảm đi.

    Vị trưởng lão hỏi lại:

    - Bạch tôn giả! Chúng con quy y Tam Bảo là mong ủng hộ Tam Bảo để tịnh hóa nhân gian. Chúng con đã hiến dâng tất cả tài vật của chính mình thì không nên trở lại cầu mong nơi Tam Bảo.

    Ca Chiên Diên khuyên:

    - Thật ra là như vậy, thế gian vô thường không thể cầu xin Tam Bảo cho được bình an và thân thể bịnh hoạn không thể cầu xin Tam Bảo cho được lành mạnh. Tín ngưỡng là hy sinh cá nhân nhỏ hẹp để thành tựu đại ngã. Chúng sinh có chút ít bệnh khổ thì chúng tôi có thể đến thuyết pháp không cần phiền đến Phật, Pháp, Tăng. Nhưng nếu sức người không có cách gì giải cứu, thì thành tâm cầu nguyện Tam Bảo để được từ quang phó chiếu là việc làm tốt chẳng có lỗi chi.

    Trưởng giả Bát Thành nghe nói như thế thì mỗi ngày đều một lòng nhất tâm xưng niệm Tam Bảo và căn bịnh bất trị của ông dần dần thuyên giảm. Tuy Phật pháp rộng lớn vô biên, nhưng tôn giả đã vì chúng sinh mà dùng nước cam lồ từ bi của Phật pháp để trị liệu cho những nỗi khổ của chúng sanh.

    Tinh Thần Bình Đẳng

    Cũng giống như tấtcả những đại đệ tử của Phật, Ca Chiên Diên có khi thì tu học bên Đức Phật và có khi thì đi vân du giáo hóa khắp mọi nơi. Nhưng phương pháp giáo hóa của Ca Chiên Diên thì có chỗ khác biệt với tôn giả Phú Lâu Na. Phú Lâu Na thì thuyết pháp thường là tập hợp ngàn vạn thính chúng đến nghe, còn tôn giả Ca Chiên Diên thì thích thuyết pháp từng người.

    Từng người, từng người một đối diện mà giảng dạy là lối thuyết pháp thân thiết nhất làm cho chân lý dễ dàng thâm nhập trong tâm người nghe. Quả thật như vậy, bất cứ là ai mà chỉ cần nghe tôn giả nói vài câu liền có ấn tượng tốt và niềm tin nơi lời nói của tôn giả.

    Một hôm, Phật đang thuyết pháp tại tịnh xá Kỳ Viên, Ca Chiên Diên với ba y một bát, một mình băng qua rừng núi và xuyên qua những cánh đồng mênh mông đến nước Ma Thâu La (Mathura) ở phía Tây để giaó hóa. Khi mới đến, trước tiên tôn giả xem xét dân tình, phong tục địa phương và lề lối sinh hoạt tập quán của nước nầy trước khi vào bệ kiến quốc vương.

    Vua nước Ma Thâu La khi thấy tôn giả bèn hỏi:

    - Tôn giả! Tôi nghe nói Ngài vốn dòng dõi Bà La Môn, đó là một chủng tộc cao quý nhất. Còn Phật Đà thuộc dòng Sát Đế Lợi, mà nay Ngài trở lại quy y, làm đệ tử ông ta. Thật chẳng tai hại lắm sao?

    Ca Chiên Diên thông dung đáp lại rằng: Đại vương! Chuyện đó chẳng những không tai hại gì hết, mà trái lại tôi cảm thấy rất hân hạnh được làm đệ tử bậc đại thánh Phật Đà.

    Nhà vua thắc mắc thêm:

    - Lạ thật! Từ bỏ dòng dõi thanh tịnh để làm đệ tử một người dòng Sát Đế Lợi. Thật là không thể nào hiểu nổi.

    Tôn giả chẳng hề giận, ôn hòa giải thích cho nhá vua nghe:

    - Này Đại vương! Ngày xưa tôi là Bà La Môn, tôi cũng nghĩ như Đại vương. Nhưng sau khi nghe Phật Đà giáo thị, tôi mớI biết đó là nhận thức sai lầm. Trong xã hội chia ra giai cấp Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Phệ Xá và Thủ Đà La. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa tôn giáo, chánh trị, thương nghiệp, nông công và mọi tầng lớp khác trong lối sinh hoạt của xã hội. Nhưng Đại vương thử nghĩ lại thì bất cứ người trong dòng dõi nào cũng có kẻ thiện người ác. Hiện tại trong chủng tộc Bà La Môn, rất nhiều người làm nhiều điều ác như sát sinh, tà dâm, tà kiến mà cho rằng họ là những người tôn quý hay sao? Người tôn quý hay hạ tiện không phải do dòng họ mà phải là người có tu đạo làm lành để giác ngộ và chứng thánh quả. Chính họ mới là những bậc tôn quý và đáng kính trọng.

    Nghe xong, nhà vua chợt giác ngộ và tự nói:

    - À! Thì ra đó là lỗi của ta. Trong đất nước nầy, nhà tù chỉ nhốt toàn chủng tộc Thủ Đà La, còn giới Bà La Môn phạm pháp thì không sao cả. Hèn gì xã hội hỗn loạn, nhân tình ta thán bất bình.

    Tôn giả biết nhà vua thấy được chỗ sai lầm và thật tâm hối lỗi bèn nói tiếp:

    - Đại vương! Đại vương cần tin nơi chánh pháp. Đức Phật là bậc đại giác ngộ và là bậc tối tôn quý trong loài người. Ngài nên quy y để làm đệ tử Phật mà tìm sự giải thoát tự do cho sinh mệnh của mình. Đó mới chính thật là hạnh phúc và vinh dự tối cao trong đời nầy.

    Nhà vua được tiếp thọ Phật pháp bình đẳng, bèn yêu cầu tôn giả giới thiệu để quy y Phật. Sau đó, nhà vua ra lịnh đại xá, thả hết tù nhân dòng Thủ Đà La, chỉnh đốn lại chính trị, không còn nể mạnh ép yếu, bỏ luôn luật pháp bất công, không phân biệt giai cấp giữa người và người và ai ai cũng chịu một quốc pháp như nhau. Từ đây khắp nơi vui mừng, nhân dân sống trong an cư lạc nghiệp và mọi người đều cảm kích sự giáo hóa của tôn giả Ca Chiên Diên cùng cảm kích Phật pháp từ bi, bình đẳng.

    Luận Về Đạo Đức Và Tuổi Tác

    Tôn giả Ca Chiên Diên từ khi theo Đức Phật thì lúc nào cũng chủ trương “bình đẳng” giữa bốn chủng tộc để cùng nhau sống trong hòa bình và an lạc. Nhưng đây là điều đố kỵ đối với bọn Bà La Môn ngoại đạo. Họ tìm mọi cách để diệt trừ Ca Chiên Diên vì nếu không thì các Bà La Môn từ nay không cất đầu lên nổi. Tuy nhiên tôn giả Ca Chiên Diên rất nổi tiếng về tài biện luận cho dù kẻ đó là Bà La Môn quyền uy đến đâu mà mỗi khi gặp tôn giả thì Ngài chỉ dùng vài lời ngắn gọn đủ làm cho họ vui lòng khâm phục.

    Một hôm, tôn giả đang cùng với các tỳ kheo thọ thực trong trai đường ở một tịnh xá nằm ở bên ao Ô Nê thuộc nước Ba La Nại. Lúc đó, có một người Bà La Môn, niên kỷ thuộc hàng trưởng thượng, biết tôn giả đang ở đây liền đến khiêu chiến. Lão Bà La Môn chống gậy, làm thinh đứng bên cạnh Ca Chiên Diên mà nghĩ rằng Ca Chiên Diên thấy mình già cả đến thì chắc chắn sẽ đứng dậy nhường chỗ ngồi. Nhưng Ca Chiên Diên chẳng thèm nhìn đến ông làm ông ta nổi giận và lớn tiếng trách:

    - Các người là giống người gì? Đối với người già cả như ta tại sao không đứng dậy nhường ghế ngồi hả?

    Các tỳ kheo một phen thất kinh, có vài vị đứng lên định nhường chỗ cho Bà La Môn ngồi. Chỉ có Ca Chiên Diên chẳng nao núng chút nào mà nói với ông lão nọ:

    - Ông là người nào mà đến đây lớn tiếng ầm ỹ? Chúng ta có phép cung kính của chúng ta, nhưng mà ở đây không có ai là trưởng thượng hay tiền bối cả.

    Lão đạo sĩ Bà La Môn nổi giận, quơ gậy chỉ vào cái đầu bạc của mình với nộ khí xung thiên mà la lên:

    - Già như lão đây không phải là trưởng thượng hả? Ta đây không đáng cho mấy người cung kính hả?

    Ca Chiên Diên nói một cách khi dễ:

    - Ông à! Ông không đáng gọi là lão già cũng không đáng thọ sự cung kính của chúng ta.

    Lão già ngạc nhiên hỏi:

    - Tại sao ngươi khinh người quá vậy?

    Lão Bà La Môn nổi trận lôi đình lấy cây gậy chỉ trỏ Ca Chiên Diên. Còn Ca Chiên Diên thì ngược lại, Ngài rất bình tĩnh và từ tốn nói:

    - Tôi thấy cử chỉ và lời nói của ông không đáng gọi là người lớn, không đáng cho người ta kính trọng. Đừng kể là Bà La Môn, cho dù là tám, chín chục tuổi, tóc bạc răng rụng mà không chân chính tu đạo, đắm chìm trong trần sắc, không bỏ được phiền não và tham, sân, si, tật đố thì người đó chỉ đáng gọi là thiếu niên. Ông hãy nhìn, như những người tuổi trẻ hai mươi quanh đây, da dẻ còn tươi nhuận, đầu tóc đen nhánh, nhưng họ đã thoát khỏi sự ràng buộc của ái dục. Không còn tham cầu nơi thế gian, không có chút xíu ý niệm bất bình sân hận, Nếu được như vậy thì mới xứng đáng cho chúng ta gọi là bậc trưởng thượng, là bậc lão túc và đáng được tất cả chúng ta cung kính.

    Lão Bà La Môn nghe nói xong, chẳng biết trả lời lại thế nào đành làm thinh đi ra.

    Thuyết phục một Bà La Môn râu bạc thì tiếng tăm của tôn giả càng lớn, nhưng tôn giáo Bà la Môn càng không thể tha thứ về việc xúc phạm nầy của tôn giả.

    Một ngày nọ, có một vị Bà La Môn khác, rất giỏi biện luận. Vì bất bình về việc tôn giả Ca Chiên Diên đối xử với lão Bà La Môn ngày nọ nên từ xứ Câu Thi Ni La ở phía Bắc xa xôi mà hỏi thăm tìm đến chỗ của Ca Chiên Diên tại thành Ba La Nại. Vừa chạm mặt, ông đã kêu đích danh tôn giả mà hỏi:

    - Ca chiên Diên! Tôi nghe người ta nói Ca Chiên Diên là gốc Bà La Môn mà nay cải giáo làm sa môn, có phải vậy không?

    Tôn giả đáp:

    - Đúng vậy, ông xem tôi đang đắp y cà sa đây.

    Ông Bà La Môn hỏi:

    - Người phản bội tín ngưỡng của mình thì lỗi ít hay nhiều?

    Ca Chiên Diên trả lời đanh thép:

    - Từ cái tín ngưỡng tà chấp kia mà đi theo đạo lý quang minh chánh tín nầy thì không có lỗi gì cả.

    Ông Bà La Môn tức giận nói thêm:

    - Ông chẳng phải là người vô danh tiểu tốt. Ông đã từng nghiên cứu tinh thâm pháp điển Mã Nổ của Bà La Môn chúng ta. Việc ông cải giáo theo Phật thì chưa thể bỏ qua mà còn nghe đồn ông hay giảng thuyết Phật pháp cho các Bà La Môn để rủ rê họ theo mình. Hành động ấy thật là vô lễ.

    Ca Chiên Diên từ tốn đáp lại:

    - Người đã đi qua thì nên chỉ lại cho bạn đồng hành ngày xưa những chỗ lầm lạc. Đó là lời dạy từ bi của Đức phật.

    Ông Bà La Môn yếu thế, nhưng chưa chịu thua bèn hỏi lại:

    - Ca Chiên Diên! Tôi lại hỏi ông điều nầy. Nghe nói Ca Chiên Diên làm sa môn tỳ kheo đã không cung kính trưởng lão Bà La Môn, chẳng những đã không đứng dậy đón tiếp mà cũng chẳng mời ngồi, thử hỏi đã là tỳ kheo sao lại vô lễ như thế?

    Ca Chiên Diên thẳng thắn và chậm rãi đáp:

    - Ông hỏỉ rất đúng. Ca Chiên Diên tôi từ khi quy y với bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Phật Đà, quả thật không cung kính phụng sự trưởng lão Bà La Môn. Điều đó cũng hợp lý thôi. Bởi vì tôi nay đã chứng được thánh quả thì ông đừng đem tuổi tác già trẻ mà đến đây chất vấn. Lễ và pháp không thể lộn xộn được.

    Người Bà La Môn nghe lời biện luận khéo léo của Ca Chiên Diên thì thấy hổ thẹn không nói thêm lời nào. Tôn giả cũng đem chân lý của Thế Tôn ra giáo hóa ông ta và kết quả là ông Bà La Môn quyết định từ bỏ tà chấp và yêu cầu tôn giả giới thiệu để làm đệ tử Phật.

    Tôn giả thật đáng kính trọng vậy!

    Tại Sao Con Người Tranh Chấp?

    Một hôm, Ca Chiên Diên đang ôm bình bát khất thực trên đường thì gặp một đạo sĩ Bà La Môn đi ngược chiều. Ông ta mời tôn giả đứng lại và hỏi:

    - Tôn giả! Hôm nay gặp Ngài ở đây thật là may mắn. Tôi có một vấn đề muốn thỉnh giáo, mong Ngài lấy tư cách khách quan để giải nghĩa dùm tôi.

    Ca Chiên Diên từ tốn đáp lại:

    - Chẳng có chi. Ông nghi hoặc điều gì?

    Đạo sĩ thắc mắc:

    - Tôn giả! Tôi thấy trên thế gian, dòng Sát Đế Lợi thì tranh đấu với Sát Đế Lợi, còn Bà La Môn thì tranh đấu với Bà La môn. Vì lý do gì mà họ cứ tranh đấu mãi như vậy?

    Ca Chiên Diên đáp:

    - Vì tham dục mê hoặc.

    Đạo sĩ lại hỏi:

    - Thưa tôn giả! vậy chớ tỳ kheo các Ngài tranh cãi nhau là do lý do gì?

    - Là do ngã kiến và pháp chấp, tôn giả trả lời.

    Vị đạo sĩ Bà La Môn nhắm mắt lại, đưa tay vò đầu, dường như cố sức suy nghĩ về lời giải đáp của Ca Chiên Diên. Thái độ kỳ quái của ông làm cho dân chúng hai bên đường chú ý. Xưa nay, thấy tỳ kheo nói chuyện với đạo sĩ Bà La Môn đã là chuyện lạ, huống gì vị Bà La Môn này lại hành động lạ lùng như thế.

    Dân chúng hai bên đường có cơ hội thưởng lãm cảnh một tỳ kheo đắp y vàng trang nghiêm tề chỉnh đàm đạo với một đạo sĩ Bà La Môn khổ hạnh râu tóc phủ khắp mình. Họ không biết hai vị nầy trao đổi câu gì, nhưng chỉ thấy vị Bà La Môn đứng nhắm mắt vò đầu lia lịa trông rất khôi hài.

    Đạo sĩ Bà La Môn suy nghĩ một lát thì mở mắt ra và hỏi:

    - Tôn giả! Lời Ngài nói rất công bình hợp lý, song tôi nghĩ rằng trên thế gian nầy không biết có nhân vật nào ly khai được tham dục, ngã kiến và pháp chấp không?

    Ca chiên Diên chẳng chút do dự đáp ngay:

    - Có lão sư của tôi là Đức phật, hiện đang thuyết pháp tại thành Xá Vệ. Ngài là bậc Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài không còn phiền não, tham dục, ngã kiến và pháp chấp. Ngài là bậc đạo sư của ba cõi và là vị thầy của tất cả nhơn thiên.

    Đạo sĩ Bà La Môn rất cảm kích đối vời lời thuyết pháp của Ca Chiên Diên nên ông ta liền yêu cầu tôn giả giới thiệu cho ông ta được quy y theo Phật để làm một đệ tử cư sĩ.

    Dân chúng hai bên đường được một phen mục kích cảnh tôn giả thuyết phục vị đạo sĩ Bà La Môn. Họ rất hoan nghinh và rất nhiều người quỳ tại chỗ đảnh lễ tôn giả như là chúc mừng một thắng lợi lớn vậy. Tuy vậy, tôn giả chẳng lộ vẻ tự đắc mà Ngài khiêm tốn đáp lễ lại mọi người và thản nhiên tiếp tục con đường khất thực của mình.

    Răn Dạy Bọn Thiếu Niên Vô Lễ

    Ca Chiên Diên xuất thân từ gia đình danh gia vọng tộc Bà La Môn và qua lại biện luận với Bà La Môn cũng rất nhiều. Ngày xưa, tôn giả là một nhân vật cao cấp, danh vọng và địa vị trong phái Bà La Môn vì vậy khi Ngài quy y theo Phật đã làm chấn động cả một nền tín ngưỡng oai quyền nhất lúc bấy giờ.

    Các giáo sĩ Bà La Môn công kích đã phá Ca Chiên Diên rất nhiều mà một số Bà La Môn khác vẫn duy trì tình bằng hữu thân thiết với Ngài cũng không ít.

    Một ngày nọ, Tôn giả có dịp trở về cố hương để hoằng dương đạo pháp tại làng Di Hầu thuộc nước A Bàn Đề (Avanti). Trong làng Di Hầu có một Bà La Môn tên là Lỗ Ê Già đối với tôn giả rất cung kính tôn trọng.

    Nhưng một hôm, có đám thiếu niên là con em của Lỗ Ê Già, lên núi chặt củi. Chúng đi ngang qua một hang đá thì thấy Ca Chiên Diên đang tịnh tọa bên trong liền kêu réo ồn ào rồi đem tôn giả ra làm trò đùa với nhau:

    - Hãy lại đây xem chúng bay, có ông sa môn đầu trọc ở đây nè!

    Một đứa nói thêm:

    - Nhìn làm quái gì. Lão đầu trọc ấy chẳng có thú vị gì cả!

    Đám đệ tử của Lỗ Ê Già nhao nhao mỗi người một câu la hét ngoài cửa động. Lúc ấy trong đám đó có một tên can gián rằng:

    - Úy! Các bạn đừng chế nhạo người ấy, ổng là người mà thầy mình tôn kính lắm đó.

    Tuy vậy bọn thiếu niên bướng bỉnh vẫn cười đùa chế nhạo ầm ĩ, thậm chí chúng còn lấy đá chọi vào hang.

    Ca Chiên Diên đang tịnh tọa phải đứng dậy bước ra ngoài răn dạy bọn chúng một phen:

    - Này các chú! Lúc trước các Bà La Môn tu hành đàng hoàng, cấm tuyệt ngũ dục, bây giờ thì Bà La môn cưới vợ đẻ con giống như người thế tục. Xem hành vi của các chú chẳng khác bọn trẻ nít hoang đàng vô lễ, bộ thầy các chú dạy như vậy đó hả?

    Lời nói của Ca Chiên Diên oai nghiêm như sư tử làm bọn thiếu niên nép một bên, miệng chẳng dám hó hé mà lòng thì rất căm hận. Lúc về nhà, chúng bèn mách lại với Lỗ Ê Già và thêu dệt là tôn giả đã mắng chửi Bà La Môn thế nầy, thế nọ.

    Lỗ Ê Già nghe xong, đùng đùng nổi giận nói rằng:

    - Ta đối với Ca Chiên Diên rất tôn kính, mà ông ta trở lại mắng nhiếc chúng ta. Ta phải tìm gặp ông ta để hỏi cho ra lẽ.

    Lỗ Ê Già sát khí đằng đằng tức tốc chạy đến thạch động của tôn giả để làm lớn chuyện, nhưng khi gặp Ca Chiên Diên nghiêm trang, ôn hòa thuật lại những lời của bọn trẻ và lời nói của mình cho ông nghe. Lỗ Ê Già cảm thấy xấu hổ mà cúi đầu chẳng nói nên lời.

    Ca Chiên Diên nhân tiện nói tiếp:

    - Này bạn Lỗ Ê Già! Ông nghe tôi nói đây, tín ngưỡng và tu tập của chúng ta là cốt để giải thoát luân hồi sanh tử và sống an vui tự tại của Niết bàn. Chúng tôi tu hành là để đoạn diệt tất cả mọi phiền não, chặt đứt mọi sợi dây vô hình của tham sân si để cho mình được tự do tự tại. Trăm ngàn lần không thể đem tín ngưỡng và việc tu hành biến thành một thứ nghề làm ăn. Hiện nay trong số các đạo sĩ Bà La Môn làm lễ cúng tế cho người đời, dường như là có ý kinh doanh. Họ lìa gia đình làm Bà La Môn để tu đạo thử hỏi có được mấy người chân chánh? Phần lớn toàn là vì danh văn lợi dưỡng, họ tự mình làm ra vẻ chí thành mà bên trong thật là giả dối. Đã không cứu độ được ai mà mang chiêu bài tôn giáo để thỏa mãn dục vọng riêng của mình thì thật là chuyện đáng buồn. Các Bà La Môn thời nay đều là ngoài tâm cầu pháp, nếu không cầu phước báo nhơn thiên thì cũng đem hiện tượng vũ trụ ra mà giải thích tới lui mà không giải thích được gì cho cuộc sống của chúng ta cả. Thử hỏi có mấy người nhận thức chân thật được cho chính mình? Thầy của tôi là đức Phật là vị đại từ, đại bi và là vị cứu tinh cho các nhà tu đạo đang lẩn quẩn trên đường tôn giáo. Ông là bằng hữu của tôi nên tôi mong rằng ông sẽ bỏ mọi điều tà chấp và đừng nên ham làm thầy thiên hạ mà chuyên tâm tu học để tự giải thoát cho chính mình.

    Lỗ Ê Già nghe xong, lộ vẻ e thẹn mà nói:

    - Tôn giả! Ngài nói rất đúng, giờ đây tôi sẽ nhất tâm y theo lời chỉ giáo của Ngài.

    Quả thật không hổ danh đệ nhất luận nghị, tôn giả Ca Chiên Diên đã dùng lời lẽ sắc bén để bẻ gãy tất cả những tư tưởng lạc hậu của Bà La Môn và làm cho Lỗ Ê Già chỉ còn buông hết các mê vọng tà chấp mà đầu hàng để quy y theo chánh pháp của Đức Phật.

    Luận Về Thuyết Vô Thường!

    Ca Chiên Diên biện tài vô ngại, nghị luận già giặn không ai sánh kịp từ trong tăng đoàn cũng như ngoài xã hội. Danh cao vòi vọi của Ngài không ai lại không biết. Đức Phật rất thích các đệ tử lỗi lạc của mình, nên mỗi khi nghe nói đến tên của tôn giả thì Ngài rất hài lòng khen ngợi.

    Một hôm Đức Phật đến giáo hóa nước A Bàn Đề, cũng chính là quê hương của tôn giả, bèn bảo Ca Chiên Diên thay Ngài mà thuyết giảng đạo lý vô thường cho tứ chúng.

    Ca Chiên Diên đảnh lễ trước Đức Phật, rồi sau mới nói:

    - Các vị đại thiện tri thức! Tất cả mọi sự tụ hội đều có lúc ly tán, có sanh ắt có tử, có thành thì có hoại. Các pháp hữu vi trên thế gian, dù to lớn như sơn hà đại địa cũng không thoát khỏi pháp tắc vô thường. Các vị hãy nhìn xem, mùa xuân trăm hoa đua nở, chỉ một trận gió thu thổi tới liền biến thành lá vàng rơi tơi tả. Còn chúng ta, khi trẻ thì mặt đẹp sắc hồng, đến lúc già nua thì da nhăn, tóc bạc, lưng còm, gối mỏi. Cũng như giọt sương trên cành sẽ tan biến theo bóng đen khi ánh mặt trời vươn lên chiếu ra muôn ngàn tia sáng. Thân bằng quyến thuộc dầu có thương yêu đến đâu đến lúc già chết cũng không ai thay thế được. Khi người nhắm mắt xuôi tay, dầu có khóc than cách mấy cũng không níu được sự vô thường, cũng không làm cho người chết sống lại. Thật vậy, kim ngân tài bảo thì cũng chẳng tồn tại muôn đời, nay có mai không. Ngay cả đến quyền uy danh vọng thì cũng như bọt biển mà thôi bởi vì trên thế gian nầy đâu có vương hầu nào mà không từng bị lật đổ. Triều đại nầy tan thì triều đại mới thay thế. Hiểu rõ lý vô thường thì không bị màu sắc rối ren của thế gian lừa dối. Nầy là thiên nhiên, núi xanh sông biếc. Đó là loài người, mạnh khỏe khôn ngoan. Đây là xã hội với giàu sang sung sướng. Tất cả chỉ là cạm bẫy để hại người vì tự nó đã chứa sẵn tính vô thường giả dối. Vì thế, thưa các vị đại thiện tri thức, chỉ có chân lý nhân quả và nghiệp lực mà mỗi người tạo tác là không hư dối, chân thật. Nhân quả theo nghiệp lực như bóng với hình cho dù con người còn sống hay chết. Chúng ta cần phải nỗ lực khẩn thiết tu tập để phá tan thế giới vô thường và chứng được thánh quả để thoát ra khỏi vòng sanh tử triền miên.

    Lời chỉ dạy của tôn giả, nghĩa lý phân minh làm cảm động tất cả tứ chúng trong hội. Khi thay Phật thuyết pháp thì chỉ có Ca Chiên Diên với biện tài nghị luận đã làm nổi bật chân lý của Đức Thế Tôn và làm cho đạo Phật được ngời sáng muôn đời.

    Thuyết Đạo Lý Phát Tài Cho Kẻ Nghèo

    Sau chuyến hoằng pháp tại nước A Bàn Đề, tôn giả trở về nước Xá Vệ để nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp. Trên đường đi, tôn giả gặp một phụ nữ trong tay cầm một bình nước và đang ngồi khóc thảm thiết bên mé sông. Thấy hành động muốn nhảy xuống sông để tự vận, tôn giả động lòng từ bi đến trước cô ta và hỏi:

    - Này cô! Chuyện gì khiến cô buồn thảm mà ngồi đây khóc lóc vậy?

    Cô gái khóc lớn mà nói:

    - Chẳng việc gì đến ông, nói với ông làm quái gì?

    Tôn giả từ tốn hỏi lại:

    - Này cô! Cứ nói cho tôi nghe, tôi là đệ tử Phật thì tôi có thể giúp cô giải quyết vấn đề được chớ.

    Cô gái bực tức mà nói rằng:

    - Ông mà làm được cái gì. Ông coi trên đời nầy thật không công bằng gì cả. Sự giàu nghèo khác nhau như trời với vực. Như tôi là một kẻ nghèo đói suốt đời khổ sở và cái khổ bần cùng đó đeo đuổi làm cho tôi không còn ham sống nữa.

    Cô gái nói xong, thì lăm le muốn nhảy xuống nước. Ca Chiên Diên vội kéo cô ta lại và từ bi giảng giải:

    - Này cô! Đừng buồn thảm như vậy vì trên đời nầy có biết bao nhiêu người nghèo chớ đâu phải chỉ mình cô. Vả lại, nghèo cũng không hẵn là bất hạnh, là khổ sở. Còn kẻ giàu chưa chắc là hạnh phúc. Cô coi mấy người phú hộ lắm của nhiều tiền kia, hằng ngày cứ bị tham dục, sân hận và si mê quấy rối khổ sở. Càng giàu thì họ càng muốn giàu thêm, có cái nầy thì họ khao khát được thêm cái khác. Mà hễ giàu sang thì có nhiều cơ hội để làm nhiều điều bất thiện, đó là chưa kể hại người để lợi cho mình, giết hại cầm thú để nhậu nhẹt ăn chơi và đối xử tàn nhẫn đối với người nghèo khổ. Tất cả những điều bất thiện nầy sẽ đọa họ vào ba đường khổ kiếp sau. Đó là ngạ quỷ, súc sanh và địa ngục thì cái khổ của họ kiếp sau so với cái khổ của cô ngày nay có sá gì mà cô khóc than.

    Nghe xong thì cô gái vẫn vùng vằng la lối:

    - Ông là sa môn, ông không cần đến tình đời, còn tôi đâu có được. Ông phải biết tôi là đầy tớ cho một nhà phú hộ. Suốt đời làm kẻ tôi đòi, cơm áo không đủ, chẳng có tự do mà gặp chủ nhân hắc ám, tham lam hung dữ, chẳng có chút xíu từ tâm. Chúng tôi làm công chuyện nhà hễ sai một chút là lãnh đòn, nghe chửi. Muốn sống không yên mà muốn chết cũng chẳng được. Nghĩ đến nỗi cùng cực đó đều do kiếp nghèo mà ra, biểu sao tôi không buồn không khổ.

    Tôn giả an ủi:

    - Cô à! Tuy như vậy, cô cũng đừng bi quan. Tôi sẽ chỉ cho cô một cách phát tài và thoát khỏi nghèo khổ.

    Cô ta quẹt nước mắt, tia mắt lóe niềm hy vọng mà hỏi:

    - Cách gì vậy ông?

    Tôn giả giải thích:

    - Ồ! cách nầy rất đơn giản, cô đã bị bần cùng làm khổ thì cô cứ đem cái bần cùng đó bán quách cho người khác đi.

    Cô gái nheo mắt rất đỗi ngạc nhiên la lên:

    - Bần cùng mà bán cho ai? Ông đừng nói giỡn, bần cùng mà đem bán được thì trên cõi đời nầy không còn người nghèo. Có ai mà chịu mua cái nghèo bao giờ?

    Ca Chiên Diên trả lời:

    - Bán cho tôi, tôi chịu mua.

    Cô gái thắc mắc hỏi thêm:

    - Bần cùng có thể bán được mà cũng là ông mua, nhưng ở đời nầy biết cách bán nó ra sao?

    Tôn giả khi thị tiếp:

    - Hãy bố thí. Cô nên biết sự giàu nghèo ở đời đều có nhân duyên. Người nghèo sở dĩ nghèo hoài là vì đời trước không chịu bố thí và tu phước. Người giàu sở dĩ giàu sang sung sướng là vì đời trước họ đã bố thí và tu phước. Vì vậy bố thí, tu phước là cách bán nghèo mua giàu tốt nhất đó.

    Người tỳ nữ nghe xong thì trí tuệ được khai thông vì mãi đến hôm nay cô mới biết cách làm giàu. Nhưng cô lại đau khổ mà nói rằng:

    - Thưa tôn giả! Ngài dạy rất đúng, con đã biết cách để được phát tài. Nhưng con nghèo quá mức không có chút gì cả, ngay cả cái bình nước trong tay con cũng là của chủ nhà. Họ giữ của còn hơn con giữ mạng sống thì Ngài bảo con bố thí cái gì bây giờ?

    Ca Chiên Diên đưa bình bát ra và nói cho cô gái:

    - Bố thí không cần phải là tiền bạc. Thấy người khác bố thí mà mình phát tâm vui vẻ là được. Cô hãy múc nước đổ đầy bát cho tôi, đó là cô đã bố thí rồi!

    Người tỳ nữ liền hiểu rõ ý nghĩa của sự bố thí, liền làm theo lời dạy. Về sau nhờ công đức cúng nước cho tôn giả, cô được sanh lên cõi trời Đạo Lợi.

    Một lần nữa, tôn giả đã đem chánh pháp ra soi sáng cho chúng sinh không kể là người quyền quý hay kẻ bần cùng. Vì vậy gọi Ngài là đệ nhất luận nghị quả thật là danh bất hư truyền.



    Chuyển Ái Tình Thành Giác Ngộ

    Đối với việc hoằng dương đạo pháp thì tôn giả lúc nào cũng tích cực mà không quản nhọc nhằn. Một hôm, Ngài đi giáo hóa tại một nước rất xa xôi có tên là Ba La Lê Viên và được cư trú trong rừng trúc của một vị trưởng giả.

    Trong khi đó thì quốc vương của nước nầy là Văn Đồ Vương đang gặp một biến cố đau đớn. Số là vị đệ nhất vương phi mà nhà vua rất thương yêu chẳng may bạc mệnh. Nhà vua buồn khổ muôn phần, bỏ ăn bỏ uống, không còn tha thiết đến việc triều nghi và ngày nào cũng khóc lóc kêu thương thảm thiết. Người đã chết, dù là bậc quyền thế tôn quý như vua, cũng không thể cải tử hoàn sanh được. Vua Văn Đồ vì quá luyến ái tình cũ, ra lịnh các quan đại thần ướp xác vương phi và quàn trong cung để mỗi ngày nhà vua được đối diện với tử thi mà than thở:

    - Ôi! Cái miệng xinh kia sao không nói chuyện với trẫm? Đôi tay kia sao không ôm trẫm? Vương phi yêu dấu ơi! Sao không chịu mở mắt nhìn trẫm?

    Nỗi bi ai của nhà vua cứ triền miên bất tận như thế, còn các quan đại thần chẳng có cách gì làm cho nhà vua vơi sầu quên thảm được. Nhà vua chỉ hết buồn khi nào vương phi được sống lại mà thôi, nhưng người nào có quyền phép mà làm được chuyện nầy?

    Đang lúc tấn thối lưỡng nan thì các vị đại thần chợt nghĩ đến tôn giả Ca Chiên Diên hiện đang giáo hóa tại đây. Họ hy vọng với oai đức và sức thần thông thì Ngài có thể giúp nhà vua dứt bỏ mối bi ai mà lo chỉnh đốn triều ca.

    Các quan dâng kiến nghị lên vua:

    - Muôn tâu đại vương! Trong nước ta hiện nay có một vị đại đệ tử của Đức Phật đang du hóa. Đó là tôn giả Ca Chiên Diên, một bậc đại thần thông, đại oai đức, trí huệ uyên bác không vấn đề gì không hiểu, ngay cả văn tự Phạm Thiên trên tấm bia cổ mà Ngài cũng biết được. Tôn giả biện tài vô ngại, mỗi khi nói chuyện gương mặt thường nở nụ cười. Xin thỉnh đại vương hãy đến gặp Ngài, chắc chắn sẽ có nhiều lợi ích.

    Nhà vua nghe xong, vội hỏi:

    - Thần thông của người ấy có thể gọi vương phi ta sống dậy không?

    Các đại thần lúng túng, không dám nói sao. May thay trong số ấy có một vị đã từng nghe tôn giả thuyết pháp nên cung kính nói:

    - Muôn tâu đại vương! Làm cho vương phi sống lại được hay không thì chúng thần không dám trả lời chắc. Chuyện ấy chỉ có đến thỉnh giáo tôn giả Ca Chiên Diên mới biết được thôi.

    Vua Văn Đồ chuẩn y lời tấu của các quan liền lập tức ban lệnh đi ngay. Nhà vua ngự xe loan, mang theo nhiều lễ vật đến rừng trúc. Vừa gặp mặt tôn giả, nhà vua liền yêu cầu cứu mạng cho vương phi hồi sinh.

    Ca Chiên Diên bẻ một nhánh cây gần đấy và nói với nhà vua:

    - Này đại vương! Ngài hãy đem nhánh cây nầy về cung mà giữ cho nó xanh tươi hoài chớ đừng khô héo có được không?

    Nhà vua đáp:

    - Điều đó không thể được. Cây đã lìa cội rễ thì làm sao mà sống, mà xanh tươi.

    Bây giờ tôn giả mới thuyết tiếp:

    - Vậy thì phu nhân đã hết nghiệp, thọ mạng đã chấm dứt mà bảo sống trở lại thì chuyện ấy làm sao được?

    Vua Văn Đồ ngay lúc đó liền giác ngộ lý vô thường sinh ly tử biệt của tạo hóa. Tôn giả biết nhà vua đã thâm đạt Phật pháp, bèn thuyết pháp tiếp theo:

    - Này đại vương! Ngài là vua một nước, là người cai trị toàn dân. Toàn thể dân chúng là người của nhà vua chớ chẳng riêng một mình vương phi là của vua đâu. Đại vương nên đem tấm lòng thương một mình vương phi mở rộng ra thương khắp hết mọi người trong thiên hạ. Dùng lòng từ bi thay thế tình yêu riêng tư thì quốc gia mới hưng thịnh và dân chúng sẽ ủng hộ nhà vua mãi mãi.

    Vua Văn Đồ nghe xong thì bừng tỉnh cơn mê và dứt hết mọi buồn thương. Nhà vua đảnh lễ cáo biệt tôn giả, trở về cung an táng cho vương phi, chỉnh đốn lại triều chánh và thương dân như con của chính mình. Từ đó cả nước mừng vui và ai nấy đều cảm kích tài khéo thuyết pháp của tôn gia Ca Chiên Diên.

    Ngày nay khói lửa tràn lan khắp thế giới, chúng ta mong mỏi tinh thần đệ nhất nghị luận của tôn giả Ca Chiên Diên sống lại để thuyết phục các nhà lãnh tụ hiếu chiến để họ hồi tâm nhìn lại cho người dân trên thế giới có cơ hội sống trong thanh bình thịnh vượng.

    Cập nhật cuối (Thứ 6, 16 Tháng 10 2009 19:12)

    Copyright © 2010 ---.
    All Rights Reserved.
    Trích Ánh đạo vàng/ cư sỹ Lê Sỹ Minh Tùng

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •