Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 53

Ðề tài: Cần hỏi về điểm đạo !

  1. #1

    Mặc định Cần hỏi về điểm đạo !

    Chào mọi người, tôi đã tham gia thegioivohinh được khoảng vài tháng thấy về tâm linh rất hay nhất là mật tông. Tôi mún được điểm đạo nhưng có vài vấn đề thất mất xin mọi người giải đáp thắt mắc dùm. Tôi đã xem ở VTHB nhưng chưa được rõ lắm !!

    1 - Tôi đang ở nhà trọ ở TP HCM ko có thờ gì, nhưng ở quê tôi là ở vĩnh long, có thờ phật. Ông nội tôi theo đạo cao đài, còn ba thôi theo cả 2 phật giáo và cao đài. Ko biết tôi có thể theo đạo mật tông hay không ?

    2 - Khi được điểm đạo có phải kiêng cữ như đồ ăn thức uống hay .... gì gì ko

    3 - Còn nếu đã có vợ hoặc chưa vợ thì chuyện trăn gói có được ko.

    Mong được sự chỉ dẫn của mọi người !!

    Cảm ơn tất cả gia đình TGVH !!

  2. #2

    Mặc định

    1. Mật Tông là một nhánh không thể tách rời của Phật Giáo, bạn cứ tùy duyên mà đến và tu tập cho tinh tấn thôi.

    2. Ăn chay vẫn là số 1, nếu là Phật Tử thì việc kiêng chắc cũng hổng tuyệt đối được đâu, nhưng nói chung kiên được tới đâu hay tới đó.

    3. Chúng ta là phàm phu tục tử, là Phật Tử thôi, còn vướng nhiều việc hồng trần lắm, mà chuyện vợ chồng thì đã lên đến hàng Đạo rùi (đạo vợ chồng), nếu có ..ấy..ấy.. thì chắc cũng hổng sao ... hì hì.
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  3. #3

    Mặc định

    Nhân tiện có mấy Huynh trên này về Mật Tông, mình có mấy théc méc như sau:
    - Mật Tông nghe nói là có rất nhiều, nên hình như chúng ta hay dùng là Mật Tông Phật Giáo, phải không ạ? Vì mình nghe nói là Mật Tông thì hình như là các tôn giáo khác cũng có (nghe nói là dòng tu kín gì đó của Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo cũng là Mật Tông). Ngoài ra, nghe nói là Mật Tông Phật Giáo cũng có Nam truyền Bắc truyền khác nhau, rồi hình như là quốc gia khác nhau có tông phái gì đó khác nhau. Như vậy, chỉ riêng tên gọi đã thấy có nhiều thông tin, nhiều kênh rồi.
    - Hình như việc theo Mật Tông Phật Giáo không đơn giản thì phải. Mình cũng nghe nói là khi theo Mật Tông, thì có lẽ có nhiều khó khăn trở ngại hơn Thiền Tông, hay Tịnh Độ Tông, hay là theo Nam Truyền. Nhưng thực tế thế nào thì không rõ. Không biết kinh nghiệm của mấy Huynh Mật Tông có vậy không, chia sẻ để các anh em đang muốn tu học Mật Tông biết trước mà liệu chừng. Vì theo mình nghĩ, căn cơ sẽ dẫn đường đạo cho mình thôi.

  4. #4

    Mặc định

    - hí chĩ cần đọc cai tựa ''Cần hỏi về điểm đạo !""
    khi nào mà nhắ lại 2 con mắt ếch..thấy đựoc mặt trăng tức là đã đưoc dem dao..
    trần gian là 1 chốn nô đùa ta chơi cho đã 4 mùa về 0'''...0937532387 anhhungdenhatngu

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoadao_vnn Xem Bài Gởi
    Nhân tiện có mấy Huynh trên này về Mật Tông, mình có mấy théc méc như sau:
    - Mật Tông nghe nói là có rất nhiều, nên hình như chúng ta hay dùng là Mật Tông Phật Giáo, phải không ạ? Vì mình nghe nói là Mật Tông thì hình như là các tôn giáo khác cũng có (nghe nói là dòng tu kín gì đó của Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo cũng là Mật Tông). Ngoài ra, nghe nói là Mật Tông Phật Giáo cũng có Nam truyền Bắc truyền khác nhau, rồi hình như là quốc gia khác nhau có tông phái gì đó khác nhau. Như vậy, chỉ riêng tên gọi đã thấy có nhiều thông tin, nhiều kênh rồi.
    - Hình như việc theo Mật Tông Phật Giáo không đơn giản thì phải. Mình cũng nghe nói là khi theo Mật Tông, thì có lẽ có nhiều khó khăn trở ngại hơn Thiền Tông, hay Tịnh Độ Tông, hay là theo Nam Truyền. Nhưng thực tế thế nào thì không rõ. Không biết kinh nghiệm của mấy Huynh Mật Tông có vậy không, chia sẻ để các anh em đang muốn tu học Mật Tông biết trước mà liệu chừng. Vì theo mình nghĩ, căn cơ sẽ dẫn đường đạo cho mình thôi.
    Muốn theo Mật Tông Phật giáo là phải đã kinh qua tiểu thừa ( tu tự giải thoát) hay đại thừa ( tu giúp mình và chúng sinh đồng giải thoát). Tóm lại là đã kinh qua hai pháp tịnh độ hay thiền.
    -Dòng Kim Cang thừa ở Nepal là Ningma , nơi tôn thờ đức Liên Hoa Sanh,và vị nầy đưa Mật tông vào Tây Tạng.
    - Các dòng truyền thừa ở Tây Tạng
    - Các dòng truyền thừa ở Trung Mật
    - Các dòng truyền thừa Đông Mật ( Nhật Bản)
    Tuy vậy hiện nay các dòng truyền thừa Mật Tông có sang VN và quán đảnh đại chúng nhắm gieo phước duyên, không hề nhắc cân phải tu theo các pháp nào trước rồi mới tới Mật tộng.
    Ở VN hiện nay có dòng Drukpa VN, đã được nhiều vị ở VN tu học , và nhiều nghi quỹ Việt dịch.
    http://www.drukpavietnam.org
    Last edited by Vân Quang; 22-06-2010 at 06:35 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  6. #6
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,577

    Mặc định

    Chào bạn Jas0302,
    Những gì các huynh, tỉ nói ở trên rất là đúng. Trước nhất, bạn gia đình bạn có cả hai đạo: đạo Phật, và đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài cũng khuyên người ta làm lành, trách ác đó cũng là đạo tốt. Chẳng có gì phải nói cả, tuy nhiên, làm lành, lánh ác thì sẽ tạo ra được thiện nghiệp. Nhưng thiện nghiệp thì sẽ có thể dùng được trong kiếp này, hay những kiếp lai sinh, những nó chưa có thể đủ để giúp cho bạn thoát khỏi luân hồi. Khi bạn tu theo đạo Phật, có những phương của Đức Thế Tôn hướng dẫn cho chúng sanh không những làm lành, lánh ác, mà còn có thể giúp đở cho chúng sanh thoát khỏi luân hồi.

    NN thấy bạn muốn theo Mật Tông để tu học thì là điều tốt lắm, chẳng có gì là phải lo, phải sợ. Tuy nhiên, cái gì thì cũng phải có như các huynh ở trên nói, "căn cơ" hay cái duyên mà bạn đã tạo ra từ những kiếp trước của bạn. Nếu cái duyên không "no tròn" thì cũng khó mà đi được sâu vào Mật Tông lắm.

    Khi nói tới Mật Tông thì ai ai cũng nghỉ là chỉ có tu trì thần chú của chư Phật thì coi như đã là đệ tử của Mật Tông. Nhưng thật sự thì nó không phải như vậy. Vì muốn đi vào Mật Tông "chánh truyền" thì phải có thầy, phải có sự điểm đạo, và những sự hướng dẫn của vị thầy thì mới mong tu tập đúng đường được, bằng không thì có rất nhiều chướng ngại. Khó mà tu tập thành để đạt thành Phật quả vì chúng sanh.

    NN thấy ở VN mình ai ai cũng tưởng chỉ cần trì chú hằng trăm, hàng ngàn biến là coi như là đã tu được Mật Tông rồi, và không cần gì nửa. Nhưng thật ra đó cũng chỉ là được nửa đoạn đường "chuông gai" mà thôi, còn một nửa đoạn đường sau mới thật sự là dẫn mình đến con đường Phật quả. Mật Tông không phải đơn thuần là chỉ có niệm chú là thành Phật đâu, còn nhiều lắm. NN thấy ở VN mình, hành giả tu trì xong rồi, có lực là dùng những chuyện "riêng" cho mình, dùng để chống lại "chướng ngại" hay nói cách khác dùng nói để đi "đấu" xem ai "công lực" cao hơn. NN thấy cái này NN cười quá xá. Mật Tông chân chánh của chư Phật là phải tu tập để đạt thành Phật quả vì chúng sanh. Không bao giờ dùng nó để "đánh nhau" làm lợi ích cho chính bản thân mình. Và Mật Tông chân chánh sẽ giúp đở cho hành giả tu tật để đạt đến những quả vị Bồ Tát Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Bồ Tát, và Phật như không, chứ chẳng phải chơi đâu. Còn nếu vì căn duyên mà không đạt được đến những quả vị Bồ Tát, qủa vị Phật thì ít ra cũng có thể đi vào những cõi giới của chư Phật để mà tu tập tiếp để hoàn toàn rữa sạch những nghiệp quả của chính mình từ hằng hà sa số kiếp. Và Mật Tông chân chánh được truyền từ Ấn Độ qua Tây Tạng cho các Kim Cang Đạo Sư của Tây Tạng thật sự có những phương pháp để giúp đở cho hành giả thành tựu những cấp bật trong Bồ Tát Địa, và quả vi Phật. Vi diệu lắm.

    Còn về ăn chay thì cũng tuỳ theo bạn, và tuỳ theo vị thầy Mật Tông mà mình theo. Thật ra, bên Tây Tạng có 2 dòng chánh rõ rệt. Dòng Hành Giả và dòng Tăng. Chỉ có dòng Gelupa là dòng Tăng mà thôi, còn 3 dòng phái kia điều là dòng Hành Giả. Dòng Tăng không thể có vợ, và theo đúng giáo luật là không được ăn măn, nhưng bây giờ NN cũng thấy có nhiều vị cũng ngã mặn. Còn các dòng Hành Giả thì khỏi nói là họ ăn mặn rồi, không những vậy mà họ còn có gia đình nửa.

    Bên Tây Tạng, nói thật ra thì họ tu tập rất là dũng mảnh hơn VN mình nhiều. Ở bên Tây Tạng hầu như là theo đạo Phật hết. Và họ điều có con tu tập theo các dòng phái. Nếu tất cả mà điều theo dòng Tăng hết thì lấy ai mà nối dòng, nối giỏi, và làm cho dân số của người Tạng được duy trì? Thêm nửa, khi thật sự tu tập và đi vào thế giới Mật Tông của Tây Tạng thì bạn sẽ thấy một điều rất là mà khó mà giải thích được là dòng Hành Giả thấy vậy mà tu tập chứng đắt Phật quả còn nhiều, nhiều hơn bên dòng Tăng nửa đó. Lạ lắm. NN tuy nói là vậy những cũng không phải nói ra như vậy để khuyến khích người ta ngã chay theo mặn. Nhưng bên dòng Hành Giả các vị tu tập có những phương pháp giúp đở cho chúng sanh vỉ phải xã thân. Nếu có người thắc mắc hỏi có thật là ăn mặn mà lại thành Phật được không thì NN thấy thứ nhất là Đức Thế Tôn khi còn tại thế Ngài cũng phải ăn "tịnh nhục" vì sự cúng dường của chúng sanh mà vẫn thành Phật, 64 vị Đại Hành Giả của Phật Giáo Ấn Độ cũng vậy, và sau khi vãng sanh các Ngài điều hoá thành Kim Thân của Phật và không để lại gì cả, và bên dòng Hành Giả thì không khi họ đắt đạo rồi, khi vãng sanh họ hoá thành Kim Thân của Phật, và có những vị họ "Tịnh" cái Kim Thân của Phật vào và họ đi luôn, không để lại nhục thể luôn, và còn nhiều, nhiều điều vi diệu lắm.

    Cho nên, nếu bạn đã từng chay trường thì không nên bỏ, càng chay nhiều thì càng tốt vì bạn không tạo ra nghiệp sát sanh. Còn nếu bạn đang ăn mặn, khi tu Mật Tông bạn phải hỏi thầy bạn. Thầy bạn có phương pháp sẽ giúp cho bạn. Thầy bạn thuộc dòng Hành Giả hay dòng Tăng? Mật Tông nó rất khác với Thiền Tông, Tịnh Độ. Khi bạn có duyên mà được có thầy hướng dẫn, và được đi sâu vào Mật Tông rồi thì bạn sẽ thấy, nó hoàn toàn khác và rất là dũng mảnh đánh phá những mê muội, những nghiệp chướng để dẫn dắt chúng sanh đạt thành Phật quả. Lạ lắm.

    Vài hàng góp vui.

    Thân
    NN
    To You With Love

  7. #7

    Mặc định

    Chào các bạn ! Xin cho mình hỏi , mình đi chùa đả được Sư Bà đặc pháp danh.
    Vậy có cần phải điểm đạo thêm không ạ ? Xin chỉ cho mình biết cảm ơn

  8. #8

    Mặc định

    Cám ơn các bạn Thích Tùm Lum (oops, vui thật), Vân Quang và Nhật Nguyệt đã có những đóng góp rất hay và những lời khuyên hữu ích về Mật Tông Phật Giáo.
    Mình có chút thắc mắc nữa về các dòng pháp Mật Tông Phật Giáo (MTPG), mà các bạn đã nói rất hay, là liệu chúng ta có dòng pháp Mật Tông vẫn truyền tại Việt Nam từ xưa hay không?
    Sở dĩ mình có théc méc này, là vì theo như mình đọc được, thì thực ra MTPG được truyền từ Ấn Độ qua Trung Quốc (sau đó qua Nhật Bản - Đông Mật) và Tây Tạng. Như vậy, hay là có khi cũng có dòng Mật Tông truyền từ Ấn Độ qua Việt Nam (hi hi, biết đâu hên hên cũng có thì sao), hoặc có thể cũng truyền từ TQ qua Việt Nam từ xưa. Vì hiện nay, mình thấy khi nói về MTPG, là ta thường nghĩ ngay đến Tạng Mật, gồm rất nhiều dòng (nghe chóng mặt luôn :-)), mà đang nổi bật hiện nay là hai dòng Drukpa và Drikung Kagyu đang hoằng truyền giáo pháp tại Việt Nam.
    Không biết bạn nào có thông tin gì hay về MTPG Việt Nam không?
    Mình cũng có đọc thông tin trên một số trang web của một số vị cư sĩ hay tăng tu tập Mật Tông, thì thấy họ có những lời khuyên rất là hay về việc chọn phương cách tu tập. Đại ý là trước khi mình chọn một phương cách tu tập (Nam Tông, Thiền, Tịnh Độ hay Mật Tông), thì nên cũng nên dựa trên khả năng của mình, vì Phật đã dạy nhiều tông phái, pháp môn như vậy, tất Ngài có lý do, mà theo mọi người, cho căn cơ khác biệt nhau. Và Tông Phái nào, pháp môn nào cũng chỉ dẫn đến giải thoát mà thôi, không thể sai khác được, vì Phật đã dạy rằng các pháp môn của Ngài chỉ có một kết quả, là Giải Thoát mà thôi.

    Nếu như mình lựa chọn con đường dựa trên những mong muốn, nhưng không phù hợp với căn cơ của mình, thì cũng khó mà đi lâu trên con đường đó, mà sẽ dần chuyển sang con đường phù hợp với căn cơ của mình hơn mà. Cái này là mình đoán nhé, chứ không có dẫn chứng gì đâu.

  9. #9

    Mặc định

    mình xin đóng góp 1 chút thông tin như sau, hy vọng góp phần nào với ACE trên con đường tu tập! Na mô A di đà Phật!

    1. Điều đầu tiên nên biết, là Phật giáo khác ngoại đạo như thế nào. Trên thế giới có nhiều tôn giáo, vậy Phật giáo có gì đặc biệt? Chắc chắn không phải đặc biệt vì nghi lễ cúng dường, cúng hoa, cúng hương, quì đảnh lễ, vân vân. Việc như vậy chưa chắc đã là Phật Pháp. Làm như vậy chưa chắc đã là Phật tử.

    khế kinh có nói, qui y là vì tìm đường giải thoát mà về nương dựa nơi Phật Pháp
    Tăng. Phật Pháp Tăng là Tam bảo, là đối tượng của tâm qui y, có khả năng chở che
    khỏi mọi khổ não. Chở che không chỉ trong một đời, mà cho mọi kiếp về sau và mãi
    mãi. Tam bảo sẽ luôn giúp chúng ta thành tựu mục tiêu cao nhất. Trong cảnh sống
    luân hồi, bất cứ vấn đề nào, khổ đau nào, cũng đều phát xuất từ nghiệp chướng
    phiền não tích lũy trong dòng tâm thức của chúng ta. Vì tích tụ nghiệp chướng
    phiền não trong tâm thức mà tạo quả là những kinh nghiệm khổ đau phải trải qua
    trong cuộc sống.
    Qui y Tam bảo là quay về nương dựa nơi Tam bảo, nhờ đó có thể thoát được nghiệp
    chướng phiền não, thành tựu kết quả tối hậu là cởi thoát toàn diện mọi khổ đau và
    nguyên nhân của khổ đau. Về nương dựa Tam bảo để giải thoát khổ đau là động cơ
    tu hành chính của Phật tử căn cơ thấp.
    Trong khế kinh, Phật dạy nên qui y tại tâm của mình, không qui y nơi nào khác. Ví
    dụ có người trong tâm thức tích lũy ác nghiệp nhiều đời, đời này lại để tâm mình
    tha hồ tham sân si, vậy chắc chắn sẽ phải chịu quả khổ. Còn ngược lại mỗi khi tâm bất thiện nổi lên, nếu biết cố gắng áp dụng biện pháp hoá giải, ác nghiệp sẽ từ từ
    thanh tịnh, trí giác mỗi lúc mỗi thêm khai mở, tâm từ từ thuần hóa, càng lúc càng có
    khuynh hướng tạo nghiệp lành, càng có khả năng hóa giải ác nghiệp, cứ như vậy sẽ
    có lúc thành tựu cái gọi là tận diệt khổ đau, giải thoát luân hồi.
    Khế kinh có nói muốn giải thoát không cần phải rời bỏ nơi này để đến một cõi đặc
    biệt nào khác. Khổ đau có thể tận diệt ngay trong thân tâm này. Thân tâm chúng ta
    đây vốn có đủ mọi tiềm năng để thành tựu nguồn an lạc tối thượng, chỉ cần tìm ra
    đường tu chính xác, phương pháp tu chính xác, rồi nỗ lực tu hành. Phật nói như vầy:
    “Phật đạo, là con đường giải thoát”.
    Con đường giải thoát không có trong các tôn giáo khác. Tôn giáo khác có thể nói
    nếu các anh chị tu như thế này, thiền như thế kia, sẽ được phép thần thông ví dụ như
    bay trên không hay chui trong đất [khinh công, độn thổ], sẽ được thành tựu tâm linh
    thế này hay thế khác. Tôn giáo khác có thể dạy nhiều phương pháp nhập định rất
    hữu hiệu, nhưng không dạy tu để giải thoát khổ đau.
    Phật giáo ngược lại dạy nhiều cách tu để giải thoát khổ đau, thành tựu an lạc tối
    thượng. Ðây không chỉ là lời nói suông, thực sự các anh chị có thể đạt đến kết quả
    ấy. Vọng tưởng và phiền não trong tâm các anh chị chỉ là những hiện tượng sinh
    diệt, khi có, khi không. Nếu chịu khó tu, nếu gặp vị đạo sư đủ khả năng hướng dẫn,
    và nếu chính mình có chí tu học, có căn cơ cao, khi ấy thoát khổ đau đạt an lạc tối
    thượng ngay trong kiếp sống hiện tại này, trong thân tâm này, là điều có thể xảy ra.
    Giá trị của Phật giáo không phải nằm ở chỗ khi nghèo thì cầu Phật độ cho giàu, khi
    bịnh thì cầu Phật độ cho khỏi bịnh, hay khi làm ăn buôn bán thua lỗ thì cầu Phật độ
    cho phát tài. Thật sự mà nói, dù những phép lạ như vậy có thật sự xảy ra đi nữa,
    cũng chẳng có gì đáng nói, Phật giáo cũng không phải vì vậy mà có thể gọi là quí
    giá.

  10. #10

    Mặc định

    2. Ðặc điểm của Ðại thừa
    Ðiểm quan trọng thứ hai là sự khác biệt giữa hai cỗ xe Phật giáo, là cỗ xe Bồ tát và cỗ xe Thanh văn. Hai cỗ xe này còn được gọi là cỗ xe lớn, Ðại thừa, và cỗ xe nhỏ, Tiểu thừa. Vì sao lại nói rằng Ðại thừa thâm diệu hơn? Thật ra Thanh văn thừa là giáo pháp dành để đáp ứng một số nhu cầu của Phật tử, chưa phải là thành tựu cao nhất. Muốn hoàn thành trọn vẹn con đường Phật dạy, là triệt bỏ toàn diện phiền não ô nhiễm, thành tựu chức năng bồ đề, người tu cần theo con đường Ðại thừa, cần hành trì theo phương pháp tu dành cho Bồ tát.
    Nói Tiểu thừa và Ðại thừa, hoàn toàn không có nghĩa là trong Phật Pháp có sự phân chia giáo pháp này xấu kém hơn, giáo pháp kia toàn hảo hơn. Giáo pháp toàn hảo là giáo pháp thích hợp với căn cơ của người tu, nên trong Phật pháp không bao giờ có thể khinh rẻ xem thường bất cứ giáo pháp nào. Thái độ như vậy sai lầm và tai hại.
    Ðức Phật Thích ca mâu ni xuất hiện cõi thế, tu hạnh bồ đề, có nhiều đệ tử thanh văn theo tu học, điển hình là hai ngài Mục kiền liên và Xá lợi phất. Hai vị này tu hạnh thanh văn, đạt quả A-la-hán. Vì sao các vị đại đệ tử gần đức Thế tôn như vậy mà lại không thành tựu vô thượng bồ đề? Lý do Phật thành tựu vô thượng bồ đề, là vì khi còn trong giai đoạn mới tu học, Phật cầu giác ngộ cũng là vì lợi ích chúng sinh mà cầu. Rồi trong giai đoạn còn đang tu học, Phật tích lũy hai bồ công đức phước tuệ để thành Phật, cũng là vì lợi ích của chúng sinh mà tích lũy. Rồi cuối cùng khi Phật thành tựu quả vị Phật, cũng là vì lợi ích của chúng sinh mà thành tựu. Tất cả đều dựa trên căn bản của tâm Bồ đề, vì lợi ích của chúng sinh. Ðến khi thành tựu vô thượng bồ đề, Phật có khả năng buông xả mọi phiền não cùng tập khí của phiền não. Như vậy nhờ buông xả toàn bộ mọi mê lầm phiền não mà Phật thành tựu trí toàn giác, có được khả năng thấy biết tất cả mọi hiện tượng ở mọi nơi, trong mọi lúc.
    Còn các vị A-la-hán như ngài Xá lợi phất hay Mục kiền liên, không thể nói là thành tựu của các ngài ngang với thành tựu của Phật. Các ngài chỉ mới xả bỏ được một phần, nhưng chưa thể xả bỏ toàn bộ chướng ngại áng ngữ trí toàn giác. Có thể nói là các ngài chỉ mới thành tựu được một phần của tâm buông xả, chưa phải là tâm buông xả trọn vẹn. Nói về mức độ giác ngộ, A-la-hán không đầy đủ tánh đức của Phật đà, vì vậy mà gọi là A-la-hán, không gọi là Phật. Các ngài như Xá lợi phất và Mục kiền liên chưa thành tựu được quả vị Phật, mà thành tựu quả A-la-hán.
    Xét theo đó, mục đích cao nhất phải là đạt mọi tánh đức của tâm buông xả rốt ráo và tâm giác ngộ rốt ráo. Ðiều này ai cũng có thể đạt đến nếu noi theo gót chân Phật. Trước tiên phát tâm Bồ đề [là tâm nguyện đạt giác ngộ vì lợi ích chúng sinh], tiếp theo tích lũy hai bồ phước tuệ trong thời gian dài ba thời kỳ vô số, và cuối cùng đạt đến tâm buông xả viên mãn, thành tựu giác ngộ viên mãn. Chỉ có con đường Ðại thừa mới dẫn đến quả vị Phật như vậy. Vì vậy mà nói Ðại thừa vĩ đại hơn.
    Khi mới bắt đầu thuyết Pháp, Phật dạy về Thanh văn thừa cùng nhiều phương pháp tu Giới Ðịnh Tuệ. Phần giáo pháp này là căn bản của con đường giác ngộ giải thoát. Rồi Phật lại dạy phương pháp phát khởi lòng từ bi và tâm Bồ đề, là con đường dành cho những vị bồ tát dũng mãnh, lãnh nhận trách nhiệm mang lợi ích về cho toàn thể chúng sinh. Tuần tự đường tu Phật dạy là như vậy, trước tiên tu theo căn bản Giới Ðịnh Tuệ, rồi phát tâm từ bi cùng với tâm Bồ đề. Mục tiêu cuối cùng Phật muốn đưa chúng ta đến, là vô trú niết bàn. Ở đó, tâm buông xả mọi mê lầm, thành tựu mọi tánh đức. Con đường vị tha này dành cho bồ tát tâm rộng lớn vô ngại, lãnh nhận trách nhiệm giải thoát cho chúng sinh, mang hạnh phúc về cho tất cả. Vì vậy mà gọi Ðại thừa là cỗ xe lớn.
    Có người nói rằng đã theo Ðại thừa không cần phải học phương pháp tu Tiểu thừa, cho rằng Phật tử Ðại thừa chỉ cần phát tâm từ bi là đủ, không cần quan tâm đến Giới Ðịnh Tuệ. Ðiều này hoàn toàn sai. Ðại thừa không phải là con đường song song riêng biệt với Tiểu thừa. Căn bản của Ðại thừa chính là Tiểu thừa. Giáo pháp Tiểu thừa không ra ngoài Ðại thừa. Chỉ khác là thêm vào đó, Ðại thừa đòi hỏi phải phát tâm đại bi và tâm Bồ đề.

  11. #11

    Mặc định

    3. Ðặc điểm của Kim cang thừa
    Trong Ðại thừa còn có hai cỗ xe chính, một là cỗ xe “tu-nhân”, gọi là Ba-la-mật thừa, hay là Hiển tông, hai là cỗ xe “tu-quả”, gọi là Kim cang thừa, hay là Mật tông. Mật tông được xem là thâm diệu hơn Hiển tông.
    Từ mấy thế kỷ qua, người tu theo Mật tông có rất nhiều, nhất là ở Tây tạng. Tuy vậy Mật tông không phải do các Lạt-ma Tây tạng sáng chế ra, mà là một hệ thống tu Phật giáo chánh pháp, được nhiều thế hệ cao tăng đạt đạo giữ gìn và truyền lại trọn vẹn không gián đoạn từ nhiều thế kỷ qua.
    Ngược dòng truyền thừa sẽ gặp những vị thầy cao trọng như các ngài Long thọ1, Nguyệt Xứng2, Thánh thiên3... cùng nhiều vị hiền thánh tại học viện Na-lan-đà danh tiếng. Các vị hiền thánh ở học viện Na-lan-đà phần lớn song tu Hiển Mật. Mật pháp được truyền xuống là truyền từ các vị thầy cao trọng xứ Ấn này, hoàn toàn không phải do các lạt-ma Tây tạng nghĩ ra.
    Vì sao lại nói Mật tông thâm diệu hơn Hiển tông? Chắc chắn không phải vì những phép lạ thần kỳ thường được nhắc đến khi nói về Mật tông. Ví dụ một vài bộ kinh có nói rằng hễ tụng chú Om Mani Padme Hum bao nhiêu lần là sẽ giải thoát một số loại chúng sinh nào đó ra khỏi ác đạo, tái sinh tịnh độ. Tuy nói vậy không sai, nhưng nếu chỉ bấy nhiêu, thật không đủ để kết luận Mật tông thâm diệu hơn Hiển tông. Ðiều quan trọng cần phải hiểu, đó là Mật tông là giáo pháp do chính Phật dạy, bao gồm những phương pháp khác thường nhưng cũng chỉ để hành trì hai sắc thái chính của Phật đạo là phương tiện và trí tuệ.
    Hiển và Mật đều có chung một nội dung hành trì, đó là phương tiện và trí tuệ. Nội dung tuy giống, nhưng phương pháp hành trì lại khác nhau. Hiển tông khi nói song tu phương tiện và trí tuệ, hay song tu phước tuệ, chữ song tu ở đây có nghĩa là tu hành song song, xen kẽ, dùng trí tuệ để tu phương tiện, hay dùng phương tiện để tu trí tuệ, lần lượt tích tụ hai bồ phước và tuệ chứ không phải trong cùng một lúc mà đồng thời tích tụ được cả hai. Mật tông cũng nói "song tu phương tiện và trí tuệ", nhưng ở đây lại là một pháp tu duy nhất, không thực hiện xen kẽ mà cùng lúc tích lũy cả hai bồ phước tuệ. Khi quán về sắc tướng của Phật, hay khi quán tưởng thân Phật trước mắt, hành giả đồng thời quán về tánh Không của thân Phật. Quán tưởng sắc thân nhiệm màu của Phật là phương tiện, nhờ vậy tích tụ được phước. Quán tánh Không của thân Phật là trí tuệ, nhờ vậy tích tụ được tuệ. Phương pháp này giúp hành giả cùng một lúc tích lũy được cả hai bồ phước tuệ, nhờ vậy đủ khả năng mong chóng thành tựu thân Phật và trí Phật. Ðây là lý do chính vì sao lại nói Mật tông thâm diệu hơn Hiển tông.
    Làm thế nào trong cùng một công phu lại có thể song hành phước tuệ? Trước hết cần hiểu về cốt lõi của phương pháp quán tưởng Pháp chủ du già của bốn bộ mật pháp. Quán tưởng Pháp chủ du già phải phát khởi từ nền tảng tánh Không. Ðầu tiên quán về trí tuệ tánh Không, tiếp theo quán thân sanh diệt của mình từ tánh Không khởi hiện thành tướng Phật, nhờ vậy biết thân Phật không có tự tánh, chỉ từ trí tuệ tánh Không hoạt hiện mà thành. Khởi hiện thân Phật, nuôi dưỡng tâm hãnh diện nhiệm màu2, hành giả lúc nào cũng quán về tánh Không của thân Phật đang hiện ra.
    Trí tuệ tánh Không hoạt hiện thành tướng Phật cũng là quả của đường tu. Vì vậy mà nói Mật tông vận dụng quả để tu hành. Lấy kết quả để tu hành sẽ giúp hành giả càng tiến nhanh đến thành tựu.
    Dù vậy, tự mình hiện thành đủ loại thân Phật trong quán tưởng không có nghĩa là đã thành Phật. Chỉ quán tưởng thôi, chưa phải thành Phật thật sự. Ðồng thời cũng đừng nói là mình không thể thành Phật, vì mọi chúng sinh đều có khả năng này, mọi chúng sinh đều thuộc dòng giống Phật. Vì vậy quán tưởng thân Phật để mau chóng tích phước, hiểu và quán về tánh Không để mau chóng tích tuệ. Mật tông là phương pháp tu mau chóng như vậy, nên đặc biệt quí giá.
    Cũng nên tìm hiểu vì sao Mật tông lại gọi là cỗ xe "tu-quả", là Kim cang thừa. Chữ Kim cang có nghĩa là cứng chắc đến độ không thể phá vỡ hay phân đoạn. Tính chất không thể đoạn vỡ biểu hiện cho sự hợp nhất không thể phân chia giữa trí tuệ và phương tiện. Khi tu theo Pháp chủ du già, hành giả tu trí tuệ và phương tiện không phải xen kẽ mà cùng một lúc. Quán về cảnh Phật, như tịnh độ, mạn đà la, là quán về sắc thân của Phật, về tâm hỉ lạc của Phật, về cảnh giới của Phật. Nhờ mang quả về ngay trong giây phút hiện tại, hành giả huân tập mọi tính năng của tâm để mau chóng đạt đến thành quả ấy. Kim cang thừa là đường tu phương tiện trí tuệ không hai, mang quả về đường tu. Vì vậy mà gọi là Kim cang thừa, là cỗ xe "tu-quả".
    Ngày nay Mật tông được phổ biến rộng rãi trên toàn thế giới. Rất nhiều người muốn bước vào Mật tông. Vì vậy chúng ta cần hiểu rõ vì sao Mật tông lại gọi là Kim cang thừa, là cỗ xe “tu-quả”, phải hiểu lý do khiến Mật tông đặc biệt quí giá thâm diệu.

  12. #12

    Mặc định

    4. Ðặc điểm của Mật tông tối thượng du già
    Phương pháp tu trong Kim cang thừa có thể phân thành bốn bộ. Mỗi khi nghe nhắc đến Mật tông tối thượng du già, hay anuttarayagatantra, lập tức đôi mắt người nghe sáng rực lên. Ðó là vì nhiều người lầm rằng tu theo Mật tông tối thượng du già không cần phải giữ giới, có thể tha hồ uống rượu, liên hệ nam nữ vân vân, cho rằng phải vậy mới thật là phương pháp tu thiền tối cao. Ðiều này hoàn toàn sai lầm. Mật tông tối thượng du già không phải như vậy.
    Ðâu là tinh túy của Mật tông tối thượng du già?
    Phật pháp đặc biệt chú trọng đến tính bất nhị của phương tiện và trí tuệ, và hai sắc thái này được hành trì hợp nhất trong Mật tông. Pháp tu hợp nhất này không thấy có trong Hiển tông. Hiển tông tuy kết hợp phương tiện và trí tuệ, nhưng hành trì song song, xen kẽ. Còn trong Mật tông thì hoàn toàn chỉ là một.
    Mật tông thường nói đến nền tảng, đạo và quả. Ðạo là công phu tu hành, quả là thành tựu sẽ đạt tới. Còn nền tảng trong Mật tông, chính là thân người. Thân người có hệ thống khí mạch, khí, và nhiều loại tinh chất được gọi là tinh khí bồ đề (bodhicitta substances).
    Những điều này không phải là tưởng tượng mà thật có trong thân và tâm của chúng ta. Con người sinh ra đã có sẵn một hệ thống khí mạch, bên trong có khí và nhiều tinh chất khác cùng luân chuyển, ví dụ như cái gọi là máu đến từ mẹ và tinh khí đến từ cha.

  13. #13

    Mặc định

    Mật tông nói rằng mỗi loại khí trong cơ thể - tạng ngữ gọi là lung - tương ứng với một tầng tâm thức. Tâm và khí có nhiều tầng thô lậu và vi tế khác nhau. Mỗi loại khí kết hợp với một tầng tâm thức, phát sinh thành hình ảnh ý tưởng trong tâm. Như khi đi ngủ, chúng ta từ từ chìm sâu vào giấc ngủ, tâm thức càng lúc càng trở nên vi tế, phần tâm và khí thô lậu lúc tỉnh dần dần thu về hội tụ ở vùng tim, làm hiển lộ các tầng tâm và khí càng lúc càng vi tế. Vì vậy dần dần chúng ta mất tri giác, bắt đầu nằm mơ vân vân. Khi thức dậy, các luồng khí lại tán khỏi vùng tim, tâm thức càng lúc càng trở nên thô lậu cho đến khi thức giấc. Chúng ta đã từng nhiều lần trải qua những kinh nghiệm như vậy với các tầng tâm khí thô-tế khác nhau.
    Hiển tông và ba bộ mật pháp dưới của Mật tông vận dụng lớp khí và tâm thô lậu để thiền quán tu tập. Chỉ riêng các mật pháp trong Mật tông tối thượng du già là không làm như vậy mà cụ thể thâu nhiếp các tầng tâm và khí thô lậu để làm hiển lộ tầng tâm và khí vi tế nhất. Rồi vận dụng tầng tâm thức vi tế nhất để thiền quán về tánh Không và về thân Phật, nhờ vậy có thể triệt bỏ mọi phiền não thô-tế, cùng với tất cả mọi tập khí phiền não, đồng loạt thành tựu tam thân Phật.
    Phương pháp này chỉ có trong Mật tông tối thượng du già, vì vậy mà nói Mật tông tối thượng du già thâm diệu nhất. Ðó là vì ở đây có cả một hệ thống trình bày về khí, khí mạch, cùng những thành phần luân chuyển trong đó. Khi chạm tới điểm tinh túy nhất của thân kim cang, hành giả thu nhiếp hết những tầng tâm khí thô lậu để hiển lộ phần tâm khí vi tế nhất, lấy đó làm nền tảng thiền quán tánh Không và thiền quán thân Phật.
    Ðọc lại cuộc đời của đức Phật thấy nói Phật đi qua nhiều vùng đất Ấn độ, làm nhiều thiện hạnh để giáo hóa đệ tử căn cơ khác nhau. Ở thành Sarnath có một nơi trên đá còn khắc lại những thiện hạnh Phật đã làm. Trong đó có chỗ ghi lại thần thông Phật thi triển để hóa độ người ngoại đạo đến thách thức Phật. Trên đá khắc hình Phật phóng ra từ trái tim hai đóa sen, trên mỗi đóa sen lại có hình một đức Phật.
    Khế kinh có diễn tả về loại thần thông này, thật không thể nghĩ bàn. Từ tim Phật hiện ra hàng ngàn, hàng triệu, hàng tỉ hóa thân. Có hóa thân của thân Phật, có hóa thân của miệng Phật, có hóa thân của ý Phật, tất cả đồng loại hiện ra đầy ắp không gian vô tận. Ðiều này khế kinh có ghi rõ. Ngoài ra, trong hạnh nguyện vương của Phổ Hiền, có một câu tụng rằng: "trên đầu mỗi sợi tóc có vô lượng cảnh giới Phật", trong mỗi cảnh Phật có hàng triệu Phật đà và quanh mỗi Phật đà là hàng triệu bồ tát". Lấy thân và tâm thô lậu như của chúng ta đây mà nói, điều này chỉ có thể là chuyện hoang đường. Nếu thật sự thân và tâm của Phật cũng thô lậu như thân và tâm chúng ta đang có đây, đừng nói chi ngần ấy Phật và bồ tát, chỉ một vị thôi cũng không thể đặt lên đầu ngọn tóc.

  14. #14

    Mặc định

    Thân và tâm của Phật đang nói đây là phần thân và tâm cực kỳ vi tế, hoàn toàn không bị vật thể áng ngữ, vì vậy hàng triệu đức Phật có thể tụ họp trên đầu một sợi tóc. Ví dụ trên đầu sợi tóc có cái mà mọi người đều muốn xem, vậy tâm của tất cả mọi người đều tụ hội về đầu ngọn tóc ấy. Chỉ có thân và tâm của chúng ta mới có giới hạn. Còn Phật thì tâm là thân và thân là tâm, sắc thân của Phật là khí và tâm vi tế, nên thân tâm Phật có thể tự tại về tụ trên một chấm nhỏ bằng đầu sợi tóc.
    Phật giáo làm sao giải thích được hiện tượng như vậy? Xét theo Mật tông, đây là điều có thể giải thích được, và cũng có thể thành tựu được nếu tu theo phương pháp tu mật. Vì vậy mà nói thần thông của Phật không phải là điều huyền bí đòi hỏi lòng tin mù quáng. Chúng ta có thể tìm hiểu bằng cách nào Phật làm được như vậy, và nếu hành trì đúng cách, chúng ta cũng có thể làm được điều Phật làm. Phật pháp không đòi hỏi lòng tin mù quáng, mà luôn đưa ra phương pháp tu cụ thể cho chúng ta tìm hiểu và thực hành.
    Làm hiển lộ và vận dụng thân tâm vi tế, đó là đặc điểm của Mật tông tối thượng du già. Còn về những lãnh vực khác trên đường tu, như tâm Bồ đề và tánh Không, Mật tông không nói gì khác hơn Hiển tông. Tâm Bồ đề và tánh Không chỉ có một nghĩa, hoàn toàn không có cái gọi là tâm Bồ đề hay tánh Không dành riêng cho Mật tông. Khi bước theo mật pháp, có người cho rằng mình phải thay đổi hình dáng bên ngoài, chẳng hạn phải ăn bận khác đi, hay phải lập gia đình vì tưởng không biết về tình dục sẽ không thể tu theo Mật tông. Nghĩ như vậy là lầm lẫn rất lớn. Cứ thử nhìn vào một trong những mật pháp cao thâm nhất là Guhyasamaja, các vị truyền thừa mật pháp này toàn là những bậc tỷ kheo. Lại có rất những bậc cao tăng như Long thọ, Thánh Thiên hay Nguyệt xứng, đã từng viết bao nhiêu bộ luận lừng danh về tánh Không trong cả Hiển lẫn Mật, là tổ sư truyền thừa rất nhiều mật pháp, các vị đều là tỷ kheo, luôn giữ phạn hạnh sống kiếp độc thân trong cuộc đời hành đạo, không từng một phút giây thị hiện sắc tướng cư sĩ.

  15. #15

    Mặc định

    Một ví dụ điển hình khác là đại sư Tsong Khapa, pháp tu chính của ngài là Guhyasamaja, vua của mật pháp. Ðể vận dụng năng lực của tâm và khí, hiển lộ phần tâm và khí vi tế nhất, các anh chị không cần thay đổi hình tướng bên ngoài, cũng không cần rời bỏ đời sống xuất gia mà lập gia đình. Ðây là điểm cực kỳ quan trọng cần phải hiểu.

  16. #16

    Mặc định

    đang bận quá, xin khất ACE hôm khác post tiếp!

    Na mô A di đà Phật!

  17. #17
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    1,577

    Mặc định

    Huynh Dilactubi nói về Mật Tông rất chính xác, hoàn toàn đúng như vậy. Tu tập theo Mật Tông hoàn toàn không chỉ đơn giản chỉ có trì chú là coi như là xong đâu. Nếu tu tập theo Mật Tông đúng nghĩa của nó thì còn phải đi sâu vô nhiều lắm. Và phương pháp tu tập theo Tsa, Lung, và Tigle, dùng theo những kinh mạch, những luồn chân khí và những giọt tâm, thì bên Tây Tạng cũng có nhiều phương pháp. Mong huynh viết tiếp về quan điểm của Ngài Tsongkhapa về Tối Thương Du Già và Mật Chủ Guhyasamaja, NN thường hay gọi là Tối Thắng Bí Mật Phật. Có phái thì theo Mật Chủ Thắng Lạc Luân Như Lai và phối ngẫu là Kim Cang Du Già Mẫu, v.v....

    NN thấy bên Tây Tạng các đạo sư Kim Cang thường nói rằng tu theo đúng đắn theo Mật Tông Chánh Pháp thì trong một kiếp này sẽ trở thành Phật. NN thấy không biết bao nhiêu vị, rất là nhiều, đã đạt được Hữu Dư Niết Bàn, vô cùng vi diệu. Và các Ngài thường nói rằng tu theo Hiển Tông, và tu tập theo những gì Đức Thế Tôn dạy thì cũng phải đến 3 A Tăng Kỳ kiếp thì mới mong đạt thành Phật. Bên Mật Tông có những Mật Pháp do Đức Liên Hoa Sanh truyền lại cho hậu nhân, mà người thọ nhận cũng phải có duyên và mất đến 8 A Tăng Kỳ kiếp. Rất là kỳ lạ.

    Mong huynh viết tiếp cho những ai muốn biết thêm về Mật Tông có thể lãnh hội thêm.


    Thân
    NN
    Last edited by Nhat_Nguyet; 23-06-2010 at 11:08 PM.
    To You With Love

  18. #18

    Mặc định

    5. Ðặc điểm của mật pháp Kalachakra

    Mật pháp Kalachakra là một phương pháp tu cực kỳ thâm diệu được rất nhiều người trên thế giới biết tiếng. Vì cầu giác ngộ, chúng ta đi theo con đường dẫn đến quả vị Phật. Quan trọng nhất là đừng quá nuông chìu thân xác cha mẹ sinh ra, mà phải trú nơi Tâm của mình, vì Tâm vốn trong sáng, tách lìa ô nhiễm. Ô nhiễm không phải là đặc tính của Tâm, nhờ đó có thể sám hối thanh tịnh tâm thức, dẹp sạch ô nhiễm, thành đạt trí toàn giác. Trí toàn giác này chính là Tâm của Phật. Ai trong chúng ta cũng có thể làm được như vậy, và muốn được như vậy, cần sám hối thanh tịnh tâm thức của mình. Vậy phương pháp thành tựu tâm Phật đã biết rồi. Còn Thân Phật thì sao? Làm cách nào chúng ta có thể thành tựu được thân Phật?
    Xét theo giáo pháp của Mật tông nói chung, chúng ta gọi thân cha mẹ sinh ra là thân của mình, nhưng không thể lấy thân thể thô lậu này để chuyển thành Thân Phật. Phải vận dụng phần tâm và khí vi tế nhất trong cơ thể để thiền quán tánh Không, rồi sám hối thanh tịnh mọi chướng ngại của thân và tâm vi tế để chuyển thành sắc thân trong sáng của Phật Kim cang tát đỏa1 hay của Phật Kim cang trì (Vajrasattva), hay nói cách khác, để chuyển thành thân của Phật. Ðây là phần thân và tâm vi tế nhất, khác với hợp uẩn thân tâm do cha mẹ sinh ra. Phần tâm và khí vi tế nhất quán tưởng tánh Không là Trí Phật, Trí Phật hoạt hiện thân Phật, Thân và Trí của Phật trở thành một hiện tượng duy nhất không thể phân chia, đó là cái gọi là thân tâm của Phật.

  19. #19

    Mặc định

    Kalachakra không những vận dụng thân và tâm vi tế nhất để thiền quán tánh Không, mà còn phải trải qua quá trình thu nhiếp toàn bộ mọi thành phần vật lý. Bao giờ mọi phân tử vật lý đều đã thu nhiếp tiêu trừ, hành giả sẽ thành tựu được thân vô sắc của Phật. Mật pháp Kalachakra không nói đến thân vi tế và khí vi tế khác với thân ngũ uẩn, mà lại dạy phương pháp tiêu trừ thân ngũ uẩn hiện có, để chuyển thân này thành cái gọi là thân vô sắc của Phật.

    Chữ Kalachakra có nghĩa là bánh xe thời gian. Kala là thời gian, còn chakra là bánh xe. Khi giải thích về Kalachakra, cần phải hiểu Kalachakra qua ba điểm chính yếu của pháp tu này, đó là nền tảng, đạo và quả.
    Theo mật pháp này, nền tảng là thân vật lý, khởi sinh từ ba nghiệp phiền não là tham sân si, cùng nhiều loại phiền não khác. Thân chúng sinh là nguyên nhân của khổ đau luân hồi, cho chính mình và cho chúng sinh. Những thành phần vật lý có trong đó, hệ thống khí mạch và các tinh chất luân chuyển trong đó, là nền tảng của pháp Kalachakra. Ðó là căn bản hành trì.
    Ðạo là phương pháp tu. Ðể triệt bỏ khổ não cho mình và cho chúng sinh, hành giả cần thành tựu tâm đại lạc bất động. Bất động có nghĩa là không lay chuyển trong cả ba thời quá khứ hiện tại và vị lai. Ðại lạc bất động trong mật pháp Kalachakra chính là cái nơi khác thường gọi là Tâm Chân như. Tâm đại lạc bất động chính là Tâm Chân như cực kỳ vi tế đang quán chiếu tánh Không. Muốn vận dụng Tâm Chân như vi tế này để quán tánh Không, hành giả phải lần lượt thu nhiếp tiêu trừ thân vật lý của chính mình. Ðiều này không đột ngột xảy ra, mà thành tựu từng phần, nhờ công phu kiên trì tu tập.

  20. #20

    Mặc định

    Lúc đầu, thân vô sắc chỉ là một hiện tượng mơ hồ. Nếu kiên trì, các hợp thể vật lý của xác thân sẽ từ từ thu nhiếp lại. Thân vật lý thu nhiếp đến đâu, thân vô sắc hiển hiện đến đó. Hành giả nhờ trú ở Tâm Chân như, hoạt hiện thành sắc tướng của năm vị Thiền Phật trong năm bộ Phật, cùng mọi thiện thần hung thần trú trong mạn đà la Kalachakra. Ðó là phương cách thành tựu thân vô sắc, thành tựu sắc thân nhiệm màu của Phật.
    Thân vô sắc là từ Tâm Chân như hóa hiện mà thành. Còn chính Tâm Chân như lại là nhân tố thành tựu Trí Phật. Nhờ vậy mà có sự hợp nhất giữa thân và tâm của Phật. Hành giả đạt quả vị Phật với thân vô sắc và tâm đại lạc bất động, đồng thời hoạt hiện thành nhiều vị Phật và thần trong mạn đà la, tất cả không ra khỏi chân tánh của đại lạc và chân như.
    Mật pháp Kalachakra qua ba yếu tố nền tảng, đạo, và quả, giải thích đại khái là như vậy. Ðặc điểm của Kalachakra là thu nhiếp tất cả mọi thành phần vật lý thô lậu để chuyển thành thân vô sắc của Phật đà.
    Trong mật pháp Kalachakra, tâm đại lạc bất động được xem là Tâm của Phật, thành tựu được là nhờ thu nhiếp mọi thành phần vật lý chuyển thành thân vô sắc, và thân vô sắc này chính là Thân của Phật, hoàn toàn bất nhị với Tâm của Phật. Trong các mật pháp khác của Mật tông tối thượng du già, hành giả không làm như vậy mà lại vận dụng phần khí và tâm vi tế nhất để trong cùng một lúc, hoạt hiện thành sắc thân vi tế nhất, là thân của Phật, đồng thời chứng ngộ về tánh Không, là tâm của Phật.
    Vậy giữa Kalachakra và các mật pháp khác trong Mật tông tối thượng du già có sự khác biệt căn bản.
    Ðọc mật kinh Kalachakra sẽ thấy phương pháp thành tựu thân tâm bất nhị của Phật được giải thích mạch lạc rõ ràng, trong khi đó các mật kinh khác như Guhyasamaja không nói rõ về phương pháp tu mà trình bày toàn bằng ẩn nghĩa. Vì vậy Kalachakra được gọi là mật kinh hiển nghĩa, còn các mật kinh khác đều gọi là mật kinh ẩn nghĩa.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •