kết quả từ 1 tới 7 trên 7

Ðề tài: Cho em hỏi?

  1. #1

    Mặc định Cho em hỏi?

    Em có nghe nói có một bài kinh tên là "Vô Tự Chân Kinh" với câu mở đầu là "Trước khi sinh ra, ta là ai? Khi sinh ra rồi, ai là ta?..." mà đi tìm mãi không tìm được đầy đủ cả bản.
    Vì vậy, mạo muội lên đây mong các sư huynh, sư tỷ giúp đỡ. Nếu ai có bản kinh này (cũng không biết có phải đúng tên hay không?) thì làm ơn, làm phước chia sẻ cho em với. Em xin cảm ơn rất nhiều.

    mail của em là: adgate1102@gmail.com

  2. #2
    Lục Đẳng Avatar của batquantrai
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    6,518

    Mặc định

    Bạn ơi! cái này mình thấy nó sao sao ấy, đã gọi là kinh vô tự , thì sao lại có chử " trước khi sinh ra và sau khi sinh ra " là sao bạn , nhờ bạn giải thích cho mình hiểu với nhé, cám ơn bạn trước nhiều.
    Như tảng đá kiên cố
    Không gió nào lay động
    Cũng vậy , giữa khen chê
    Người trí không giao động .
    :big_grin: :big_grin:

  3. #3

    Mặc định

    cái này mình nghe quen quen..hok biết gặp ở đâu mà gọi là "vô tự" thì làm gì có chữ nhỉ.
    @batquantrai: câu này hồi trước mình đọc kinh thấy trong kinh có ghi thì mình hiểu giống như là câu phật nói ra để chỉ ra sự vô minh và mê lầm của chúng sanh.
    Long Hoa con thuyền cứu rỗi
    Người ăn năn sám hối mau tri
    Long Hoa con thuyền đại bi
    Người ăn năn sám hối mau đi
    Long Hoa con thuyền biết đi
    Người ăn năn sám hối ráng trì
    Trần ôi ngày ngắn quá đi..
    Trần ôi đêm dài mau đi tìm người....

  4. #4

    Mặc định

    cái này giống như trong phim chưởng áh ! hình như là Vô tự thiên thư của anh nào đó... tự dưng bữa kia hắn để nước thấm vào nguyên xấp giấy trắng thì ô hay ! bí kiếp võ công hiện ra trên đó ! hihihih
    Còn mấy câu trước khi sinh ra ta là ai, và sau khi sinh ra rồi ai là ta ? thì giống như một dạng công án thiền ! vị thiền sinh nhận dc công án thiền từ vị sư phụ và công án ấy theo anh như hình với bóng. chẻ củi, gánh nước, nấu cơm, giặt đồ, thiềh hành, tụng kinh, quét chùa vẫn là công án ấy ! cho đến khi anh ngộ ra, hét lớn lên : ơ-ri-ka thì là anh đã ngộ được rồi ! như thầy bảo với trò, ông hãy nói cho tôi nghe một tiếng mà trước khi cha mẹ ông sinh ra ông ? ... người đệ tử ôm ấp, và quán chiếu công án bí hiểm ấy miên mật... đến khi anh cuốc đất, lưỡi cuốc va vào miếng gạch phát lên âm thanh... thì anh ngộ ra dc ! Công án thì tùy vào căn cơ của mỗi người học trò mà vị thiền sư ra một công án khác nhau, và công án là để quán chiếu chứ ko thể đem ra phân tích, giải thích theo tri kiến của mình được... như khi Thế Tôn cầm hoa sen mỉm cười thì thầy ca diếp mỉm cười lại nhìn Phật... và đạo Phật đã truyền lại như thế !
    kính xin quý Thầy, quý Sư cô tổ chức cầu siêu cho cụ bà Trần Thị Xuân hưởng dương 87t để thể hiện sự bác ái, từ bi vô lượng của Phật giáo

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Nghinh Phong Xem Bài Gởi
    Em có nghe nói có một bài kinh tên là "Vô Tự Chân Kinh" với câu mở đầu là "Trước khi sinh ra, ta là ai? Khi sinh ra rồi, ai là ta?..." mà đi tìm mãi không tìm được đầy đủ cả bản.
    Vì vậy, mạo muội lên đây mong các sư huynh, sư tỷ giúp đỡ. Nếu ai có bản kinh này (cũng không biết có phải đúng tên hay không?) thì làm ơn, làm phước chia sẻ cho em với. Em xin cảm ơn rất nhiều.

    mail của em là: adgate1102@gmail.com
    Từ hồi nào đến giờ tôi chưa nghe qua bài kinh nào có tên là "Vô Tự Chân Kinh". Thế nhưng, tôi đã được đọc một bài viết về ý nghĩa của "Vô Tự Chân Kinh" này, nếu bạn có lòng quan tâm đến vấn đề này tôi xin post lên tặng bạn cũng như là tất cả anh chị em Phật tử ở đây.

    Còn câu: "Trước khi sinh ra, ta là ai? Khi sinh ra rồi, ai là ta?" theo tôi được biết thì đây chính là câu nói đã giúp cho Tổ Bồ Đề Đạt Ma thâm nhập Phật Pháp, và cụ thể hơn là câu này được Ngài Bát Nhã Đa La nói ra khi đến chữa bệnh cho Phụ Hoàng của Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi ấy hãy còn là Tam Hoàng Tử.

    Sau đây là bài viết về Vô Tự Thị Chân Kinh, bài này được viết trên trang quangduc.com, nay tôi xin trích lại để bạn tham khảo:

    "Thi hào Nguyễn Du là một Phật tử mộ đạo, rất siêng năng tụng đọc kinh điển, nhưng cụ đã từng thú nhận là đọc kinh Kim Cương cả ngàn lần mà vẫn không nắm bắt được ý kinh; cho tới khi được nghe bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng cụ mới liễu ngộ rằng “Chân kinh vốn không lời”. Cụ đã viết bốn câu thơ bằng chữ Hán để diễn tả tâm trạng của mình: Ngã độc Kim Cương thiên biến linh

    Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh

    Cập đáo phần kinh Thạch đài hạ

    Chung tri: vô tự thị chân kinh

    Chữ Hán, tôi lõm bõm chưa qua nổi cuốn Tam Tự Kinh, nhưng ráng phỏng dịch như sau:

    Ngàn lần tụng đọc Kim Cương

    Vẫn như mờ ảo khói sương tơ trời

    Trước đài gương, bỗng tỏ ngời

    Là: Chân kinh vốn không lời mà thôi!

    Người bạn đạo của tôi tỏ ý nghi ngờ. Bạn nói, tối nào cũng tụng kinh, tụng rõ ràng, mạch lạc từng tiếng mà nhiều khi còn phải đi tìm sách của các bậc cao minh, giảng giải cho thêm mới tạm hiểu. Nay, nói chân kinh vốn không lời thì biết nương vào đâu mà hiểu đạo? Tôi cũng ….nghi lắm! nhưng vừa khởi niệm nghi bỗng giật mình. Khi nghe điều gì, ta phải tìm hiểu điều đó thế nào rồi mới luận đúng hay sai chứ. Ngay cả sau khi tìm hiểu rồi, cái kết luận cũng chỉ mới căn cứ trên tầm hiểu biết chủ quan thôi, chưa chắc đã là cái kết luận có giá trị. Chúng tôi cùng đồng ý chọn con đường ngắn nhất, là tìm xem cụ Nguyễn Du nghe được bài kệ nào của Lục Tổ Huệ Năng mà tìm ra chân lý ấy. Kệ của Lục Tổ như vầy:

    Nhân liễu thử tâm nhân tự độ

    Linh sơn chỉ tại nhữ tâm đầu

    Minh kính diệc phi đài

    Bồ đề bổn vô thụ.

    Tìm được bài kệ, đọc lên, bạn nhìn tôi, chờ đợi. Tôi lại vò đầu bứt tai, tận dụng cái vốn …. Tam Tự Kinh mà dịch như sau:

    Người tự tại khi tâm sáng tỏ

    Thì Linh Sơn ngay ở tâm này

    Gương kia sáng chẳng vì đài

    Bồ Đề vốn chẳng là cây bao giờ.

    Có lẽ tôi dịch lơ mơ quá nên bạn phản đối ngay:

    - Bồ Đề mà không là cây thì là gì?

    A, câu này thì tôi trả lời được, tại bạn chưa ôn bài đó thôi. Khi Lục Tổ nói “Bồ đề bổn vô thụ” là ý nhắc về bản chất huyễn hóa của vạn hữu, chỉ do duyên hợp mà thành. Nhìn cây Bồ đề xanh tươi cành lá, đó là sau khi hạt đã nẩy mầm, chồi lên mặt đất, tiếp nhận mưa, nắng, gió v…v… tăng trưởng với thời gian mà ta thấy “cái gọi là cây Bồ đề.” Nhưng nếu tách rời hạt nhỏ li ti kia với đất, cát, mưa, nắng …..sẽ chẳng bao giờ có cái gọi là cây Bồ đề cả. Vậy thì, bản chất chân thực của mỗi sự vật là gì? Nó sẽ chẳng là gì, nếu không do nhiều duyên hợp mà thành. Ngay như tấm thân tứ đại của chúng ta đây, cái mà, đối với chúng ta là quan trọng lắm lắm, cũng chỉ là huyễn giả. Thân ta có, là do đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Tách rời đất (chất cứng như xương, móng….), nước (chất lỏng như máu, mồ hôi …..), gió (chất hơi như hơi thở), lửa (chất nóng như nhiệt độ), sẽ chẳng còn gì để gọi là thân ta nữa. Bạn lại hỏi tôi một câu thật bất ngờ, nhưng rất hay:

    - Cái gì nhận ra sự huyễn giả đó?

    Câu hỏi quyện vào tiếng reo vui của ấm nước vừa sôi. Tôi lặng lẽ nhìn bạn trịnh trọng mở tủ, bưng ra bộ tách có đủ cả chén tống, chén quân. Tôi biết bạn có bộ tách quý này do cụ thân sinh để lại, nhưng chưa từng được bạn mang ra đãi. Hôm nay sao đặc biệt thế? Dù cố tình làm ra vẻ thản nhiên nhưng bạn biết, tôi đang theo dõi bạn từng cử chỉ. Mở hộp trà thơm, nhón một dúm trà nhỏ bỏ vào chén tống. Nước sôi rót vào vừa ngập trà, bạn cầm lên, tráng nhẹ rồi đổ bỏ nước nhất. Lần rót nước nhì, bạn cũng cầm lên, tráng nhẹ rồi đặt tách xuống khay. Trong khi chờ trà ngấm, bạn dùng nước nóng tráng hai cái chén quân; xong, bạn đặt một chén trước tôi, chén kia trước bạn. Rồi, rất từ tốn, bạn chắt nước đã ngấm trà từ chén tống ra chén quân, tức là cái chén nhỏ như hạt mít !

    Tôi cố nín cười, nhưng tới đây thì hết chịu nổi. Ngờ đâu, bạn cũng giả nghiêm suốt thời gian biểu diễn. Chúng tôi cùng cười thoải mái. Bạn thú nhận:

    - Chỉ loáng thoáng thấy bố lui cui pha trà như vầy nhưng không thực sự chú ý; Thôi, thì cứ tưởng tượng như chúng ta đang ngồi trong trà thất, uống trà, chờ hoa nở.

    Tôi chỉ vào cái chén nhỏ xíu:

    - Uống bao nhiêu chén này mới đã khát?

    Bạn trả lời đầy ý nhị:

    - Tâm khát chừng nào, chén đầy chừng nấy.

    Hôm nay bạn nói chuyện như một thi sĩ. Đúng là muôn sự do tâm, nhưng tâm khởi lên từ mọi loại cảm thọ buồn, vui, thương, ghét, thiện, ác ..v..v.. dựa trên những đối tượng luôn biến hoại đổi thay của căn và trần, là những đối tượng không có bản chất thật. Vậy tâm nào mới chính là tâm? Những tâm ấy thay đổi luôn luôn, theo từng trạng huống. Và nếu chúng không phải thực là tâm thì CÁI GÌ đang nhận ra những diễn biến luân lưu thành hoại đó? CÁI GÌ nhìn rõ mặt mũi từ tâm buồn sang tâm vui, từ tâm thương sang tâm ghét, từ tâm thiện sang tâm ác??? “Cái gì đó” chính là CÁI NHẬN BIẾT MỌI HIỆN TƯỢNG MÀ KHÔNG QUA MỘT LĂNG KÍNH PHÂN BIỆT NÀO. Cái nhận biết này, bởi không từ một niệm nào mà ra nên nó không sinh cũng chẳng diệt theo hiện tượng. Nó như tấm gương trong suốt, phản ảnh trung thực những gì tới nó, trung thực tới mức như hai mà một, nhưng lại không hề bị đồng hóa với vật mà nó phản ảnh. Khi ghi nhận điều tốt, nó chẳng trở nên tốt, khi đối diện điều xấu, nó cũng chẳng trở thành xấu. Nó hiện hữu tự nhiên như giòng nước ngầm, ai đào tới sẽ gặp; không ai đào, nước vẫn chảy, như chưa từng đầu ghềnh, chưa từng cuối bãi. Cái nhận biết này là Tâm Chân Thật thường hằng vô thỉ vô chung; đó chính là Tâm Phật, là Phật Tánh. Khai được nguồn tâm này là hiển lộ Chân Như, là giải thoát khỏi ràng buộc vô minh, là bừng sáng Trí Tuệ; khi ấy, thiền tông diễn tả bằng hình ảnh “Thõng tay vào chợ”; nghĩa là, ngay giữa chốn xôn xao nhất cũng chẳng làm tâm kia lay động. Đạt được tới đây, hành giả đã là “người vô sự”, an nhiên tự tại, đối cảnh chẳng sanh tâm thì ngàn trang kinh cũng đồng với tâm trong suốt, làm gì còn văn tự, còn lý giải ngược xuôi nữa.

    Chặng đường tu tập này, người đủ căn cơ, trí tuệ, nếu quyết tâm có thể ngộ. Ngược lại, người trí kém, cần rất nhiều kiên trì, cố gắng, mới mong tâm kia không bị chôn vùi dưới lớp vô minh. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng tôi biết thế, nên hằng nhắc nhở, sách tấn nhau chớ biếng lười.

    Những chén trà hạt mít thong thả vơi dần qua câu chuyện “Đế Thích tán hoa” thường được kể để minh chứng “Vô tự thị chân kinh”; mà muốn liễu ngộ “chân kinh vốn không lời” hành giả phải đạt tới bản tâm chân thật. Ngài Tu Bồ Đề là một, trong những đại đệ tử của Phật, một hôm lặng lẽ ngồi thiền dưới chân núi. Mây rất xanh, nắng rất ấm, suối róc rách ven đồi, chim líu lo ca hát, ngài cứ an tịnh kiết già. Dáng ngồi thật thẳng trên phiến đá bằng, như nét chấm phá của bức tranh “Tung Hoành” tuyệt kỷ. Ngài ngồi lâu, rất lâu, không biết bao lâu, thì bỗng hoa trời rơi xuống như mưa. Phút chốc, cả không gian thơm ngát hương hoa như ôm trọn nhà sư khắc khổ, ngồi thiền đẹp như tranh vẽ. Ngài Tu Bồ Đề xả thiền và khẽ hỏi:

    - Ai tán hoa đó?

    Trên thinh không có tiếng đáp:

    - Tôi là Đế Thích đây.

    - Vì lẽ gì Đế Thích tán hoa?

    - Vì ngài thuyết pháp hay quá!

    - Ta ngồi lặng yên, có thuyết gì đâu?

    - Ngài không thuyết, tôi không nghe, đó là pháp vi diệu.

    Thì ra, biết nghe bằng “Tánh-Nghe”, mới nghe được “Lời-Không-Lời”, và thể hiện được Sự-Im-Lặng-Hùng-Tráng của Chân Kinh."

    Hết.

  6. #6

    Mặc định

    "Trước khi sinh ra, ta là ai? Khi sinh ra rồi, ai là ta?Nhắm mắt mông lung lại là ai?"

  7. #7

    Mặc định

    Các bạn thiện hữu trí thức thân mến!
    Xin trích đoạn phần duyên khởi trong Kinh BÁCH DỤ (được dịch giả THÍCH NỮ NHƯ HUYỀN dựa vào bản tiếng Hán rồi phiên dịch ra văn xuôi tiếng Việt - bản in ghi năm 1958). Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn (một trăm thí dụ) đầy sinh động và súc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lý và giáo pháp.

    (Lời Ngài Ananda) “Chính tôi được nghe: Một thời kia Đức Phật ở trong vườn trúc Thước Phong, thành Vương Xá, cùng với các vị đại Tỳ kheo, Bồ tát, Ma ha tát và Thiên, Long bát bộ, chừng ba vạn sáu nghìn người chung hợp.

    Khi ấy, trong pháp hội có năm trăm vị Phạm chí dị học. Các vị từ nơi toà ngồi của mình đứng dậy bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn! Chúng tôi nghe nói đạo Phật rộng, sâu không đạo nào có thể sánh kịp, nên chúng tôi lại đây muốn hỏi Ngài mấy điều, mong Ngài vui lòng giảng giải cho.”

    Đức Phật đáp: “Hay lắm, các vị cứ việc hỏi.”

    Phạm Chí hỏi: “Con người có hiện hữu hay không?”. Đức Phật đáp: “Cũng ‘có’ và cũng ‘không’.”

    Phạm chí hỏi tiếp: “Như nay thấy có, làm sao Ngài lại nói là không? Như nay không thấy, làm sao Ngài lại nói là có?”. Đức Phật đáp: “Sinh cho là ‘có’, chết cho là ‘không’, nên nói là hoặc có hoặc không.”

    Phạm chí hỏi: “Người ta do đâu mà sống được?”. Đức Phật đáp: “Người ta do ngũ cốc mà sống.”

    Phạm chí hỏi: “Ngũ cốc do đâu mà sinh ra?”. Đức Phật đáp: “Ngũ cốc do nơi tứ đại là ‘đất, nước, gió, lửa’ mà sinh ra.”

    Phạm chí hỏi: “Tứ đại do từ đâu sinh ra?”. Đức Phật đáp: “Tứ đại do từ ‘không’ mà sinh ra.”

    Phạm chí hỏi: “Không do đâu mà sinh ra?”. Đức Phật đáp: “Không do chỗ ‘vô sở hữu’ mà sinh ra.”

    Phạm chí hỏi: “Vô sở hữu từ đâu sinh ra?”. Đức Phật đáp: “Do ‘tự nhiên’ sinh ra.”

    Phạm chí hỏi: “Tự nhiên do từ đâu sinh ra?”. Đức Phật đáp: “Do ‘Niết bàn’ sinh ra.”

    Phạm chí hỏi: “Niết bàn do đâu sinh ra?”. Đức Phật đáp: “Này Phạm chí, sao các vị hỏi điều sâu xa vậy!. Các vị không biết Niết bàn là pháp bất sinh, bất diệt hay sao?”

    Phạm chí lại hỏi: “Bạch Ngài, Phật đã nhập Niết bàn chưa?”. Đức Phật đáp: “Ta chưa nhập Niết bàn.”

    Phạm chí hỏi: “Ngài chưa nhập Niết bàn sao Ngài biết được Niết bàn là an lạc vĩnh viễn?”. Đức Phật nói: “Nay ta hỏi lại các vị, chúng sinh trong thiên hạ khổ hay vui?”

    Phạm chí đáp: “Chúng sinh khổ lắm.” Đức Phật hỏi: “Vậy thế nào là khổ?”

    Phạm chí đáp: “Chúng tôi thấy chúng sinh khi chết đau khổ không thể chịu được nên chúng tôi biết chết là khổ!”. Đức Phật nói: “Nay các vị tuy chưa chết mà cũng biết chết là khổ, thời ta thấy Chư Phật mười phương bất sinh, bất diệt, nên ta biết Niết bàn là an lạc vĩnh viễn.”

    Lúc đó năm trăm vị Phạm chí tâm ý thông suốt, xin thọ ‘ngũ giới’, chứng ngộ quả ‘Tu đà hoàn’, rồi ngồi lại chỗ cũ.

    Đức Phật nói: “Các vị nghe cho kỹ, nay ta sẽ vì các vị mà nói rộng về những thí dụ sau đây.” (vào Kinh Bách Dụ)

    ----------------------------------------------
    Ta là ai?
    Ai là ta nhỉ? Ta là ai?
    Đứng để làm chi giữa chốn này
    Ngang dọc bốn bên trời đất mở
    Tung hoành một cõi biển hồ vây
    Hiến dâng tất cả niềm ngon ngọt
    Đón nhận chừng nào nỗi đắng cay
    Đen bạc cảm thông mầu thế sự
    Nắng mưa dầu dãi đợi gì đây?
    (Y Chu-Nguyễn Long Tiếp)

    Chẳng phải là ta chẳng phải ai!
    Nhân duyên hội tụ đến nơi này
    Tiền thân oán nợ gieo chồng chất
    Hiện kiếp oan thù khắp phủ vây
    Hỷ xả tiêu trừ muôn chướng ngại
    Từ bi đoạn tuyệt vạn sầu cay
    Ta bà trú tạm thi công đức
    Phiền não bồ đề chính tại đây!
    (Cư Sĩ Chánh Tâm - 12/2/2007)

    - "Tại sao ta sinh ra?. Ta sinh ra để không còn phải sinh ra nữa."
    (Tâm Tĩnh Lặng - Thiền Sư Ajahn Chah)

    -------------------------
    Vô Thường - Bất Toại Nguyện - Vô Ngã

    "Đã đến lúc sức tàn lực kiệt
    Trả hết nợ đời trả hết không?
    Hay phải quay lại vay nợ trả
    Biết đến bao giờ trả mới xong?"
    (ADV)

    "Thân ta ở tạm nơi trần thế
    Tâm hướng Tây Phương quyết chí về".
    -------------------------------------------

    Cầu mong Chư Phật, Chư Bồ-Tát từ bi gia hộ cho mọi người.
    Từ Bi- Trí Tuệ - Dũng Lực
    Last edited by AnhDaoVang_2010; 29-06-2010 at 03:52 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •