Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 24

Ðề tài: Kỷ niệm Chiến tranh chống xâm lược Biên Giới VIỆT - TRUNG 17/2/1979

  1. #1

    Mặc định Kỷ niệm Chiến tranh chống xâm lược Biên Giới VIỆT - TRUNG 17/2/1979

    35 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc

    Tháng 1/1979, Việt Nam mở chiến dịch Tây Nam lật đổ chế độ diệt chủng Khmer đỏ thân Trung Quốc tại Campuchia, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố "dạy cho Việt Nam một bài học".


    Quan hệ Việt - Trung bắt đầu rạn nứt năm 1968 khi Việt Nam đồng thời giao hảo với cả Liên Xô và Trung Quốc trong bối cảnh mối quan hệ 2 nước này xuất hiện nhiều xung đột căng thẳng. Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới thăm Bắc Kinh và đạt được thỏa thuận với Trung Quốc. Ba năm sau đó, Việt Nam từ chối tham gia liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc.

    Nhấn vào các mũi tên trên bản đồ để xem chi tiết diễn biến cuộc chiến năm 1979.
    Bắc Kinh đã xem đó như mối đe dọa. Tháng 5/1975, Khmer Đỏ cho quân đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu, thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam, tàn sát hàng nghìn dân thường. Đứng sau viện trợ cho Khmer Đỏ về vũ khí, khí tài cũng như cố vấn quân sự là Trung Quốc. Tranh chấp Trường Sa và Hoàng Sacũng nổi lên rõ hơn khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo.

    Ngày 3/11/1978, Việt - Xô ký hiệp ước hữu nghị 25 năm - chính thức xác nhận Việt Nam đứng về phía Liên Xô. Gần 2 tháng sau, quân đội Việt Nam tổng phản công trên biên giới Tây Nam, đánh sang Campuchia lật đổ chính quyền Khmer Đỏ. Trung Quốc quyết định dừng viện trợ cho Việt Nam.
    Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình khi ấy đã tuyên bố "phải dạy cho Việt Nam một bài học".

    Cuộc chiến 30 ngày

    Rạng sáng 17/ 2/1979, Trung Quốc bất ngờ đưa quân tràn qua biên giới, đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới lãnh thổ Việt Nam từ Pa Nậm Cúm (Lai Châu) đến Pò Hèn (Quảng Ninh) với chiều dài 1.200 km.

    Dù từng tuyên bố về ý định trừng phạt trước đó, cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn bất ngờ với Việt Nam và cả thế giới.

    Theo Niên giám châu Á năm 1980, thời điểm Trung Quốc tấn công, tổng lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại các tỉnh biên giới phía Bắc chỉ có khoảng 50.000 quân

    Lực lượng phòng thủ của Việt Nam tại biên giới phía Bắc
    Lực lượng tinh nhuệ nhất của Việt Nam đóng ở biên giới là quân khu I, II gồm sư đoàn 3 (đóng tại Lạng Sơn) và sư đoàn 316A (đóng tại Sa Pa), sư đoàn 346 ở Cao Bằng, 325B ở Quảng Ninh, 345 ở Lào Cai, 326 ở Phong Thổ, Lai Châu.

    Các lực lượng còn lại gồm bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai, Yên Bái), Hà Tuyên (Hà Giang - Tuyên Quang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
    (Nguồn: Niên giám châu Á năm 1980)

    Trong khi đó, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và 32 sư đoàn bộ binh độc lập; 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn, nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không cùng hàng trăm pháo hạng nặng, hàng nghìn súng cối và dàn hỏa tiễn. Quân Trung Quốc ước lượng có 600.000 người, gấp hơn 10 lần lực lượng tham chiến thực tế của Việt Nam.

    Trên mặt trận Lạng Sơn, các cánh quân lớn của Trung Quốc chia làm nhiều mũi đánh vào Bản Chất (Đình Lập), Chi Ma, Ba Sơn (Lộc Bình), Tân Thanh, Tân Yên (Văn Lãng) và khu vực thị trấn Đồng Đăng (Lạng Sơn). Dù bị bất ngờ song chỉ với lực lượng dân quân địa phương, Việt Nam đã quả cảm chặn đánh, ghìm chân quân Trung Quốc nhiều ngày.

    Những người lính đầu tiên bảo vệ đất nước là bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới. Ảnh tư liệu.
    Ngày 20/2, Trung Quốc tăng cường lực lượng chi viện, mở các đường tấn công mới vào điểm cao nhằm tiến xuống phía nam Đồng Đăng. Quân và dân Lạng Sơn bám trụ trận địa, đánh trả mạnh mẽ các mũi tấn công phía trước, phía sau của địch, buộc quân xâm lược phải co về đối phó và bị đẩy lùi ở nhiều mặt trận.

    Sau 10 ngày chiến đấu không đạt được mục tiêu, ngày 27/2, Trung Quốc tung thêm một quân đoàn nhằm vào thị xã Lạng Sơn dùng chiến thuật biển người hòng xâm chiếm các mục tiêu quan trọng. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt giữa 2 quân đoàn tăng cường của Trung Quốc và lực lượng vũ trang địa phương Việt Nam. Ở điểm cao 417, đoàn An Lão đã đánh bật hàng chục đợt tấn công, loại khỏi vòng chiến đấu trung đoàn 850 của Trung Quốc. Đặc biệt, ở khu vực cầu Khánh Khê trên đường 18, chiến sĩ đoàn Tây Sơn đã kiên cường chặn đứng một sư đoàn quân và một tiểu đoàn xe tăng Trung Quốc.

    Ở hướng Cao Bằng, hai quân đoàn tăng cường của Trung Quốc hình thành hai cánh quân lớn từ phía tây bắc theo đường Thông Nông đánh xuống và từ phía đông bắc qua Thạch An, Quảng Hòa đánh lên nhằm hợp điểm ở thị xã Cao Bằng.

    Cả hai cánh quân đều bị bộ đội địa phương và dân quân Cao Bằng đánh chặn. Cánh quân tây bắc dựa vào sức đột phá của xe tăng bị chặn tại Hòa An. Cánh quân đông bắc cũng bị đánh quyết liệt ở Thạch An và Quy Thuận, bị chặn đứng trên đường số 4. Mũi đánh vào Trà Lĩnh, Phục Hòa gồm 2 sư đoàn nhằm chiếm đèo Mã Phục, Khâu Chia cũng bị lực lượng vũ trang địa phương phản kích xé tan đội hình, bỏ chạy về bên kia biên giới.

    3 ngày đầu, quân Trung Quốc tại Cao Bằng đã bị thiệt hại 4 tiểu đoàn, bị phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và buộc phải đưa lực lượng dự bị vào vòng chiến. Trên trận địa phòng ngự tại đồi Khâu Chia, các lực lượng của Việt Nam đã chặn đứng một sư đoàn Trung Quốc trong 12 ngày, diệt hơn 4.000 lính. Ngày 12/3, quân Trung Quốc tháo chạy.

    Trên tuyến Hoàng Liên Sơn, mờ sáng 17/2, các sư đoàn tuyến 1 của hai quân đoàn Trung Quốc ồ ạt tấn công toàn biên giới Hoàng Liên Sơn từ phía tây bắc đến đông bắc thị xã Lào Cai. Cùng với việc đánh nhiều mũi vào các huyện Bát Xát, Mường Khương, bắn pháo dữ dội vào thị xã, quân Trung Quốc đồng thời bắc cầu qua sông Nậm Thi, cho xe tăng và bộ binh tiến vào thị xã Lao Cai và khu vực Bản Phiệt. Dân quân, tự vệ thị xã cùng các lực lượng vũ trang ở đây đánh trả quyết liệt. Sau 7 ngày, hai quân đoàn Trung Quốc không qua nổi trận địa đánh chặn, phục kích của quân và dân Hoàng Liên Sơn.

    Trên các hướng Lai Châu, Hà Tuyên, Quảng Ninh, cùng một lúc quân Trung Quốc chia các hướng đánh vào nhiều điểm. Hai sư đoàn Trung Quốc tiến công theo đường 10 vào Nậm Cúm, Phong Thổ (Lai Châu) và đụng độ với lực lượng vũ trang địa phương. Qua hơn 20 ngày, quân Trung Quốc vẫn bị chặn ở Phong Thổ.

    Hà Tuyên, một sư đoàn Trung Quốc tấn công vào các đồn chốt biên phòng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của công an vũ trang, dân quân, bộ đội các huyện Đồng Văn, Thanh Thủy, Mèo Vạc và đồng bào các dân tộc. Hơn 1.000 lính Trung Quốc thiệt mạng.

    Tại Quảng Ninh, Trung Quốc dùng hai sư đoàn bộ binh tiến công vào Pò Hèn, Móng Cái, Cao Ba Lanh, huyện Bình Liêu. Trong hai ngày 19 và 20/2, hai trung đoàn Trung Quốc đã bị đánh lui, tháo chạy sát về biên giới.

    Hàng vạn thanh niên Việt Nam mới 18, đôi mươi đã nằm lại nơi biên giới phía Bắc trong cuộc chiến bất ngờ chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Ảnh tư liệu.
    Trung Quốc rút quân

    Ngày 5/3/1979, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Trung Quốc tuyên bố "hoàn thành mục tiêu chiến tranh" và rút quân. Các nhà quan sát lúc đó cho rằng rút lui là hành động rất khó, có thể gây cho Trung Quốc nhiều tổn thất nếu bị quân tinh nhuệ Việt Nam phản công.

    Ngày 7/3, thể hiện thiện chí hòa bình, Việt Nam tuyên bố cho phép Trung Quốc rút quân. 18/3, Trung Quốc hoàn thành việc rút quân.

    Trải qua 30 ngày chiến đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang tại chỗ và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều đánh bại "chiến thuật biển người, thọc sâu phá hoại" của quân Trung Quốc.

    Theo số liệu công bố, trong hành động quân sự mưu toan phá hoại, 62.500 lính Trung Quốc (hơn 1/10 tổng số được huy động) bị hạ, 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn bị tiêu diệt, thiệt hại; 550 xe quân sự trong đó có 220 xe tăng, xe bọc thép (hơn một nửa số tham chiến) bị bắn cháy, 115 đại bác và súng cối hạng nặng bị phá hủy…

    Giới phân tích nhận định, thay vì dạy cho Việt Nam một bài học, Trung Quốc đã học được bài học quân sự đắt giá của chính mình.

    Tuy nhiên, cuộc xâm chiếm của Trung Quốc cũng gây ra những tổn thất nặng nề cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ. Hiện vẫn chưa có số liệu thống nhất về số thương vong từ phía Việt Nam (thông tin này Tòa soạn bổ sung sau khi có thắc mắc của độc giả về số liệu những người dân, chiến sĩ Việt Nam bị thiệt mạng); 400.000 gia súc bị giết và bị cướp; hàng chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản.

    Từ 18/3/1979 đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã không rút hết quân như tuyên bố. Suốt gần 10 năm đó, chiến sự vẫn tiếp diễn, cao điểm nhất là năm 1984-1985. Nhiều đơn vị quân đội của Trung Quốc đã được luân chuyển tới biên giới, biến Việt Nam thành thao trường.

    Việt Nam vì thế buộc phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự lớn dọc biên giới. Tình trạng chiến tranh khiến kinh tế Việt Nam thiệt hại nặng nề.

    Năm 1992, Việt Nam, Trung Quốc bình thường hóa quan hệ. Cuộc chiến biên giới phía bắc, vì nhiều lý do, trong suốt một thời gian dài đã ít được công bố.

    Hoàng Thùy - Nguyễn Hưng
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Nhìn lại chiến tranh biên giới 1979

    17/02/2013 02:30
    Đúng vào ngày này 34 năm trước (17.2.1979), Trung Quốc bất ngờ tung hơn 60 vạn quân nổ súng xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc, nhưng đã phải rút quân sau hơn một tháng gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân và dân ta, chịu nhiều tổn thất nặng nề.

    Tuy vậy cuộc chiến tranh xâm lược này cũng mở màn cho cuộc xung đột vũ trang tại biên giới giữa VN và Trung Quốc (TQ) kéo dài suốt 10 năm sau đó. Theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, với độ lùi về thời gian, việc nhìn nhận lại cuộc chiến tranh này là hoàn toàn cần thiết.

    Thiếu tướng Lê Văn Cương
    Kể từ sau khi VN và TQ bình thường hóa quan hệ (1991), hai bên dường như đều không muốn nhắc lại cuộc chiến này. Từ hơn 30 năm qua, cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc gần như không được nhắc tới. Theo ông tại sao cuộc chiến lại bị rơi vào lãng quên như vậy?

    Để trả lời câu hỏi này có lẽ cần cả một hội thảo khoa học. Tôi chỉ xin lưu ý như sau, vào những năm kỷ niệm chẵn 10, 15... hay gần đây nhất là 30 năm sau cuộc chiến tranh chống TQ xâm lược (2009), báo chí, truyền hình của VN gần như không đưa tin gì về sự kiện này. Đây là một sự thiếu sót lớn trên góc độ Nhà nước. Hơn thế nữa, đó là một sự xúc phạm đến linh hồn của những đồng bào, chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tháng 2.1979 và gần mười năm sau đó. Họ nằm dưới mộ có yên không? Gia đình vợ con bạn bè và những người thân thích của họ sẽ nghĩ gì về chuyện này? Đã có ý kiến cho rằng nhắc đến những chuyện này cũng có nghĩa là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tôi có thể khẳng định rằng nói như vậy là ngụy biện.

    Trong khi chúng ta im lặng thì những dịp đó chúng tôi đã thống kê hệ thống phát thanh, truyền hình báo chí của TQ tung ra trung bình từ 600-800 tin, bài với những cái tít gần như có nội dung giống nhau về cái mà họ gọi là “cuộc chiến tranh đánh trả tự vệ trước VN”. Có thông tin cho rằng hiện tại có tới trên 90% người dân TQ vẫn quan niệm rằng năm 1979 Quân đội VN đã vượt biên giới sang tấn công TQ và bắt buộc TQ phải tự vệ đánh trả. Từ hàng chục năm nay, hệ thống tuyên truyền của TQ đã nhồi nhét vào đầu người dân TQ rằng cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của VN.

    Theo tôi nghĩ, trong tuyên truyền đối nội và đối ngoại, cả ở kênh nhà nước, nhân dân và trên truyền thông, chúng ta phải làm rõ và góp phần làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung 1979. Đồng thời góp phần làm cho hơn 1,3 tỉ người TQ biết được sự thật rằng vào ngày đó hơn 60 vạn quân TQ đã vượt biên giới xâm lược VN. Việc chúng ta im lặng hàng chục năm qua, theo tôi là không đúng. Việc nói ra cũng không liên quan gì chuyện kích động chủ nghĩa dân tộc. Hãy thử so sánh chuyện đó với việc TQ tung ra hàng nghìn bài báo xuyên tạc lịch sử từ hàng chục năm qua.


    Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979

    Với độ lùi về thời gian, theo ông chúng ta có thể rút ra những điều gì từ cuộc chiến tranh này? Những điều đó có ý nghĩa thế nào trong bối cảnh hiện tại ?


    Theo tôi, khoảng thời gian 34 năm đã là khá đủ cho chúng ta nhận thức lại những vấn đề xung quanh cuộc chiến 1979. Thế nhưng đến giờ phút này tôi có cảm giác không phải lúc nào chúng ta cũng có được sự nhận thức thống nhất, nhất quán từ trên xuống dưới.

    Vấn đề thứ nhất, phải xác định rõ về mặt khoa học, cuộc chiến 1979 là cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề phải nhận thức rõ từ cấp cao nhất. Sự nhận thức ấy cũng phải được thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây là chuyện không được phép mơ hồ.

    Không chỉ nhận thức mà Nhà nước có trách nhiệm đưa câu chuyện này vào sách giáo khoa. Thực tế cho thấy phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong 1,4 triệu sinh viên hầu như không biết gì về cuộc chiến tranh này. Nếu để tình trạng này kéo dài, trách nhiệm thuộc về Nhà nước. Chắc chắn chúng ta sẽ không tránh được sự phê phán của thế hệ sau này. Hàng vạn người con ưu tú của chúng ta đã bỏ mình để bảo vệ từng tấc đất biên giới phía bắc của Tổ quốc, tại sao không có một dòng nào nhắc đến họ? Bây giờ đã quá muộn. Nhưng không thể để muộn hơn được. Theo quan điểm của tôi, Nhà nước phải yêu cầu đưa phần này vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Chúng ta không thể mơ hồ được, không thể lờ đi vấn đề lịch sử này được.

    Bệnh viện huyện Trùng Khánh, Cao Bằng bị quân Trung Quốc tàn phá tháng 2.1979 - Ảnh: Tư liệu
    Tôi đã nhiều lần trao đổi với các học giả nước ngoài và họ đã thắc mắc khá nhiều chuyện tại sao sự kiện chiến tranh chống quân TQ xâm lược năm 1979 lại không được nhắc đến trong các giáo trình lịch sử của VN. Tôi đã phải chống chế với lý do rằng người VN muốn quên đi quá khứ và hướng đến tương lai. Nhiều học giả Hàn Quốc, Nhật Bản đã phản bác tôi vì “Lịch sử là lịch sử. Quá khứ là quá khứ. Tương lai là tương lai”. Họ nói rằng: “Chúng tôi biết người VN rất nhân hậu, muốn hòa hiếu với các dân tộc khác. Nhưng điều này không thể thay thế cho trang sử chống ngoại xâm này được”.

    Thứ hai, trong thế giới hiện đại toàn cầu hóa, các quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Không có quốc gia nào hoàn toàn độc lập tuyệt đối. Ngay cả Mỹ nhiều lúc cũng phải nhân nhượng các quốc gia khác. Chúng ta không có quan niệm về độc lập chủ quyền tuyệt đối trong thời đại toàn cầu hóa. Nhưng trong bối cảnh này, phải nhận thức rõ cái gì là trường tồn? Theo tôi có 3 thứ là chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia. Ở đây chúng ta phân biệt chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc nước lớn với lòng yêu nước chân chính, ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Hai cái đó khác nhau. Người VN có truyền thống yêu nước, có tinh thần chống ngoại xâm bất khuất, đó là điều cần được phát huy trong 92 triệu người VN trong và ngoài nước.

    Chủ quyền quốc gia, ý thức dân tộc và lợi ích quốc gia là những cái “dĩ bất biến”, những cái còn lại là “ứng vạn biến”. Những chuyện “16 chữ”, “bốn tốt” trong quan hệ với TQ là “ứng vạn biến”. Bài học từ cuộc chiến chống xâm lược năm 1979 cho thấy nếu không nhận thức được điều này thì rất nguy hiểm.

    Thứ ba, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, tiêu chí để phân biệt người yêu nước hiện nay là anh có bảo vệ lợi ích quốc gia hay không. Trên thế giới này không có bạn bè vĩnh viễn hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia mới là vĩnh viễn. Năm nay chúng ta chuẩn bị tổng kết Nghị quyết T.Ư 8 (7.2003) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Tôi thấy có một quan điểm bây giờ vẫn đúng, đó là: "Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh". Đồng thời, cũng phải có cách nhìn biện chứng về đối tượng và đối tác: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta, cần phải đấu tranh.

    Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng
    Nhìn lại từ câu chuyện của 34 năm trước đến những căng thẳng hiện tại trong vấn đề biển Đông, theo ông có thể hy vọng gì ở tương lai trong quan hệ giữa VN và TQ ?

    Tạo ra lòng tin, sự hữu nghị chân thật giữa hai nước là con đường tất yếu nhưng đòi hỏi thời gian lâu dài và từ cả hai phía. Đây không phải là điều có thể hy vọng có được trong vài ba năm tới đây. Lịch sử mách bảo chúng ta muốn giữ được hòa bình, ổn định, giữ được độc lập tự chủ thì điều quan trọng nhất là giữ được lòng dân. Trên dưới một lòng, có được sự đoàn kết dân tộc thì chắc chắn không có kẻ xâm lược nào dám dại dột động đến chúng ta cả. Lịch sử VN đã cho thấy những lần mất nước đều bắt đầu từ việc chính quyền mất dân. Năm 179 trước CN An Dương Vương để mất nước là do mất dân. Một ông vua đứng đầu quốc gia mà tin vào kẻ thù thì chuyện mất nước là không thể tránh khỏi. Năm 1406, nhà Hồ mất nước cũng vì đã mất dân. Đến mức độ nhà Minh truy bắt cha con Hồ Quý Ly thì chính những người trong nước đã chỉ điểm cho quân Minh. Năm 1788 Lê Chiêu Thống sang cầu viện Mãn Thanh đưa 20 vạn quân sang giày xéo quê cha đất tổ cũng là ông vua đã mất dân. Đó là bài học muôn đời để bảo vệ chủ quyền quốc gia.
    Ng.Phong
    (thực hiện)
    Last edited by Bin571; 14-02-2014 at 11:54 PM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #3

    Mặc định

    Bài học từ cuộc chiến bảo vệ biên giới 1979

    18/02/2013 08:06 (GMT + 7)



    TT - Quân và dân VN ngày 17-2-1979 buộc phải cầm súng một lần nữa, chiến đấu kiên cường trước quân Trung Quốc đông hơn nhiều lần, trên một phòng tuyến biên giới dài gần 600km.


    TS NGUYỄN MẠNH HÀ, viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, nguyên đại tá, chính ủy sư đoàn 308 anh hùng, nhiều năm là viện phó Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng). Những ngày tháng 2 này, ông chia sẻ với Tuổi Trẻ về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc từ ngày 17-2 đến 5-3-1979.
    * Thưa ông, cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra đến nay đã được 34 năm. Ông nói về sự kiện này như thế nào?
    - Cuộc chiến tranh biên giới không chỉ bắt đầu từ ngày 17-2-1979, không chỉ bắt đầu sau câu chuyện “nạn kiều” 1978, cũng không chỉ bắt đầu từ những rạn nứt trong quan hệ Việt - Trung sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ năm 1975, một chiến thắng mà một số nhà sử học trên thế giới đã cho rằng Trung Quốc không mong muốn. Cũng không phải hoàn toàn như vậy mà nó có gốc rễ sâu xa từ những tính toán trong lợi ích chiến lược của cả Liên Xô và Trung Quốc trên phạm vi toàn cầu chứ không chỉ với một nước nhỏ như VN.
    Lịch sử dân tộc ta có tới 17 cuộc chiến tranh chống xâm lược thì chúng ta đã chiến thắng 14, còn ba cuộc kháng chiến dai dẳng, hàng chục, thậm chí hàng trăm năm chúng ta bị nước ngoài đô hộ nhưng rồi dân tộc ta vẫn chiến thắng.

    Có thể trong lịch sử hiện đại, khái niệm biên giới quốc gia không còn được tính bằng các cột mốc nữa mà bằng “biên giới mềm”, “sức mạnh mềm”, bằng sự xuất hiện của hàng hóa, hình ảnh, văn hóa của quốc gia nào đó trên đất nước mình, nhưng tôi vẫn tin là chúng ta sẽ bảo vệ được nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của mình, một khi cả dân tộc kết thành một khối, dưới sự lãnh đạo của Đảng dày dạn kinh nghiệm cả trong chiến tranh và trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
    TS NGUYỄN MẠNH HÀ
    Sai sót lớn là chúng ta đã nhận ra quá muộn bản chất của chế độ Pol Pot. Năm 1977, đồng chí Lê Trọng Tấn được Quân ủy Trung ương cử vào biên giới Tây Nam nghiên cứu tình hình xung đột biên giới với Campuchia trở về, khi trở ra Hà Nội đã bức xúc khẳng định: “Đây không còn là xung đột nữa. Đây là một cuộc chiến tranh biên giới thật sự”. Lúc đó, chúng ta mới tìm hiểu đằng sau Pol Pot là ai. Là rất nhiều cố vấn nước ngoài từng giúp chúng ta trong cuộc kháng chiến trước đó.

    Khi chúng ta tổ chức phản kích, tiến vào giải phóng Phnom Penh ngày 7-1-1979, giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh thì đúng 40 ngày sau, Trung Quốc phát động chiến tranh biên giới, với chiêu bài “dạy cho VN một bài học”. Quân chủ lực VN lúc đó đã tăng cường cho chiến trường Campuchia, Trung Quốc hi vọng VN sẽ gục ngã vì bất ngờ.

    Quân và dân VN bị buộc phải cầm súng một lần nữa, đã chiến đấu kiên cường trước một đội quân đông hơn nhiều lần, trên một phòng tuyến biên giới dài gần 600km, và đã đánh bật được quân Trung Quốc về bên kia biên giới sau khi làm tổn thất đáng kể sinh lực đối phương.

    * Liệu việc bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh có làm chúng ta chịu những thiệt thòi nhất định như những điều kiện đi kèm thường thấy trong các hiệp định mà nước lớn thường áp đặt cho nước nhỏ?

    - Cuộc chiến tranh biên giới chính thức kéo dài chỉ 17 ngày, từ 17-2 đến 5-3-1979. Nhưng những cuộc xung đột còn kéo dài đến tận năm 1988. Trong suốt chín năm, một phần đáng kể nhân tài vật lực của chúng ta đã phải dồn cho biên giới phía Bắc, trong khi Mỹ cấm vận, viện trợ của Liên Xô cắt giảm so với trước và Trung Quốc thì từ bạn thành thù. Có thể nói VN đã hao tốn nhiều sức lực vì cuộc chiến biên giới đó. Nếu căng thẳng tiếp tục kéo dài, VN càng ngày càng bất lợi. Chính vì vậy, năm 1988, khi VN chủ động rút quân chủ lực lùi xa biên giới 40km, tình hình biên giới lắng dịu ngay, và đến năm 1991 thì VN và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ sau cuộc gặp giữa lãnh đạo hai nước ở Thành Đô, Trung Quốc.

    Là một người nghiên cứu lịch sử, nhưng cũng là một người lính, tôi xin nói thẳng là dù bất cứ hoàn cảnh nào thì hòa bình vẫn là quý giá nhất. Chiến tranh biên giới kết thúc thật sự, chúng ta mới có thể tiếp tục sự nghiệp đổi mới, có những chính sách lâu dài và bền vững để phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống nhân dân, để có một vị thế mới trong bản đồ ngoại giao thế giới như hôm nay.

    Nhưng như vậy không có nghĩa là trang sử về chiến tranh biên giới đã khép lại. Lịch sử bản chất là sòng phẳng, khách quan, cái gì đã xảy ra rồi cũng có lúc sẽ được đặt lại trên bàn cân lịch sử để luận định. Chúng ta nhìn lại chiến tranh biên giới, trước hết là để học bài học cho chính mình: cái gì lẽ ra đã có thể tránh được, cái gì cần nhớ để nhắc lại cho thế hệ sau.

    Chúng ta cần có những sự vinh danh và tri ân các liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi mà đằng đẵng đó. Chúng ta cũng cần rút kinh nghiệm xương máu từ thực tế lịch sử của dân tộc mình khi hoạch định đường lối đối ngoại trong một thế giới hiện đại đang thay đổi từng ngày, lợi ích các bên đan xen nhau cực kỳ phức tạp. Cần hiểu rõ bạn - thù và phải đặt quyền lợi của dân tộc lên trước hết và trên hết thì mới có chính sách đúng được.

    THU HÀ thực hiện
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4

    Mặc định

    Ký ức về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 17/2/197914:09 | 14/02/2014

    (PetroTimes) - 35 năm đã trôi kể từ khi xảy ra cuộc chiến tranh bảo vệ biên cương phía Bắc Tổ quốc (1979-1989) nhưng trong ký ức tôi, những đồi hoa sim tím suốt dọc dài biên cương phía Bắc vẫn còn in đậm với những tên đất, tên người và những trận chiến đấu ác liệt ở đó.


    Những chuyến hành quân lên mặt trận
    Ngày 17/2/1979, chiến tranh biên giới Việt - Trung trải dài ở 6 tỉnh Lai Châu, Hoàng Liên Sơn, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Từ các tỉnh phía sau, nguồn nhân lực, vật lực được khẩn trương huy động đáp ứng cho mặt trận. Tôi đã chứng kiến trong tiết trời giá lạnh, hình ảnh người Hà Nội vẫy chào, tiễn những đoàn xe quân sự vượt cầu Long Biên tiến về phía Bắc. Thanh niên, sinh viên khi ấy đều háo hức muốn được lên biên giới, góp sức mình cùng bộ đội bảo vệ biên cương. Và khi có lệnh tổng động viên đầu tháng 3/1979, hàng vạn thanh niên cả nước đã hăng hái lên đường.

    Những cuộc hành quân qua nhiều địa danh trên biên giới, tôi gặp những vùng đất nhuộm tím hoa sim. Một loài hoa dại bạt ngàn từng đi vào thơ ca, vào ký ức học trò. Vậy mà bom đạn chiến tranh đã khiến những đồi hoa sim bị băm nát, xáo trộn cùng đất đỏ. Những cánh hoa tím mong manh bị sạm đen khói súng, tả tơi. Thời bình, người ta có thể thong thả ngắm nhìn vẻ đẹp lãng mạn của đồi sim. Song khi ấy, chiến sự căng thẳng khiến mọi người không còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Các chiến sĩ trinh sát dẫn chúng tôi đi, không ồn ào, không đùa giỡn bởi dưới mặt đất có khá nhiều mìn và những quả đạn chưa nổ. Họ yêu cầu chúng tôi phải đi đúng vào vết chân họ đi trước dẫn đường và sẵn sàng ẩn nấp khi có pháo hoặc đạn cối bắn sang.

    Thời ấy, tôi đang là phóng viên của Chương trình phát thanh QĐND, Đài tiếng nói Việt Nam, làm nhiệm vụ tường thuật chiến đấu tại mặt trận. Ngoài quân tư trang, tôi phải đeo thêm chiếc máy ghi âm R6 cổ lỗ chạy băng cối và 6 pin đại, nặng tới 6 kg.
    Sau dịp tết năm 1980, tôi cùng lên biên giới Lạng Sơn với các nhà văn và nhà báo Thân Như Thơ, Cao Nham, Mai Thế Chính, Nguyễn Văn Nhung, Phạm Thành, Đinh Xuân Dũng. Từ Quân đoàn 14, chúng tôi phân công nhau đi về nhiều hướng của mặt trận. Những trận đánh quy mô nhỏ thỉnh thoảng xảy ra ở những điểm cao dọc đường biên. Các nẻo đường biên giới vắng ngắt, chỉ có các đơn vị quân đội, rất hiếm bóng dân thường.

    Quân ta tiến ra mặt trận (Ảnh: Mạnh Thường)
    Trời mưa phùn rả rích, đường trơn lầy lội. Chúng tôi leo lên một điểm tựa ở dãy núi đá thuộc huyện Văn Lãng. Phân đội súng cối 81 ly có hơn chục chiến sĩ. Hôm ấy đúng vào ngày rằm tháng giêng. Chiếc nồi quân dụng đầy cơm nhưng thức ăn chỉ có thịt muối và mắm kem, không rau. Anh em bảo rằng, miếng thịt muối đã ngâm nước từ tối qua (cho mềm và bớt mặn) nhưng hôm nay thái ra vẫn còn rắn lắm. Tôi bỗng thấy thương anh em quá. Người ta thường ví “Giỗ tết quanh năm không bằng rằm tháng giêng”. Cả nước đang quay quần bên mâm cỗ ngày rằm với đầy đủ món ngon truyền thống thì ở đây, bộ đội phải ăn bữa cơm quá đạm bạc!

    Hôm sau, tôi và anh Mai Thế Chính hành quân từ Văn Lãng về Đồng Đăng (Lạng Sơn). Bữa cơm trưa hôm ấy ở sở chỉ huy Trung đoàn 42 do Trung tá Nguyễn Như Hoạt, Anh hùng LLVT thời đánh Mỹ làm trung đoàn trưởng. Bữa ăn chỉ có cá khô, thịt muối. Anh Hoạt lấy phích nước sôi, rót ra cái bát to và rắc vào đó ít mì chính và vài hạt muối để thay canh. Mấy ngày trước tết, Trung đoàn 42 vừa được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh lên thăm. Tuy đóng ở địa bàn thuận lợi hơn nhiều đơn vị khác nhưng trung đoàn cũng còn rất thiếu thốn.

    Đầu năm 1982, chúng tôi nhận lệnh lên biên giới Cao Bằng. Từ bến xe Bến Nứa (Long Biên), đi xe khách mất nửa ngày mới đến Thái Nguyên; sau đó chúng tôi cuốc bộ 7 km về Bộ tư lệnh Quân khu 1. Chờ 4 ngày nữa mới có xe của Quân đoàn 26 về lấy hàng, chúng tôi theo chiếc xe tải đó lên Hòa An, nơi đóng quân của sở chỉ huy, cách thị xã Cao Bằng gần chục cây số. Từ km số 8, chúng tôi lại cuốc bộ xuyên rừng núi 5 km để vào Bộ tư lệnh. Rồi lại chờ 3 ngày nữa mới có xe của Sư đoàn 311 về họp và đón đi Thạch An, Đông Khê. Thế là mất đứt một tuần lễ chúng tôi mới đến được với bộ đội. Trước đấy vài tháng, vào dịp tết, đồng chí Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ chính trị mới lên thăm bộ đội Quân đoàn 26 (Binh đoàn Pắc Bó), đã làm bài thơ “Điểm tựa” tại Quảng Hòa tặng cán bộ, chiến sĩ. Bài thơ ấy thể hiện được sự cảm thông sâu sắc của lãnh đạo cấp cao đối với bộ đội nơi điểm tựa tiền tiêu, có tác dụng rất lớn, động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ.

    Cao Bằng vốn là tỉnh có nhiều núi đá nên bộ đội sống trên điểm tựa đều thiếu nước. Nước sinh hoạt hàng ngày phải gùi từ suối lên, có chỗ leo qua thang dây và hàng trăm bậc đá. Ngay ở Bộ tư lệnh quân đoàn, bể nước chỉ để dành cho nhu cầu ăn uống, do nhà bếp quản lý, thường khóa chặt. Việc tắm giặt phải dùng nước suối hoặc nhờ nhà dân. Trời mùa xuân ẩm ướt, lại ở hang đá và nhà tranh tạm bợ, ít ai tránh khỏi bệnh ghẻ và hắc lào. Chúng tôi từ thành phố lên điểm tựa được 1 tuần là bị ngay, ngứa gãi suốt ngày đêm. Vì thế, có hôm trên đường hành quân, gặp suối là tất cả trút bỏ tư trang, quần áo, nhảy xuống tắm tiên hàng giờ đồng hồ.

    Những ngày ở đại đội đóng bên dòng sông Bắc Vọng (thuộc huyện Quảng Hòa), cứ cuối buổi chiều là các chiến sĩ lại rủ chúng tôi ra sông tắm. Dòng sông này chỉ rộng chừng 30m, đường phân thủy giữa sông là biên giới Việt - Trung. Bờ bên kia là điểm cao 302, quân Trung Quốc bố trí mấy khẩu cối 82 ly và 60 ly chĩa sang phía ta. Bộ đội ra tắm tiên, không mang theo vũ khí nên quân Trung Quốc cũng không có hành động khiêu khích gì. Một hôm tắm xong, lên bờ mặc quần áo, tôi giật mình thấy 2 con vắt bám vào người…

    Thời gian này không còn những trận đánh lớn xảy ra mà chỉ có những cuộc đụng độ nhỏ trên đường biên. Các đồn biên phòng đã được củng cố và xây dựng lại bằng những căn nhà cấp 4. Nhân dân đã trở lại bản làng cũ, khôi phục sản xuất nông nghiệp. Một vài đơn vị quân đội cũng vỡ đất, trồng mía, làm đường, chăn nuôi tự túc một phần thực phẩm. Các trường học đã hoạt động trở lại. Nhưng hệ thống giao thông thì hầu như bị hư hỏng nặng, nhất là đường lên huyện Bảo Lạc. Cán bộ đi từ xã lên huyện đều cuốc bộ, xuyên rừng, lội suối. Quốc lộ 4 lâu ngày không được tu sửa lại qua cuộc chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, chỉ còn là con đường đá lởm chởm. Hôm chúng tôi đi từ sư đoàn xuống trung đoàn bằng chiếc xe mô tô ba bánh mà thấy khiếp mãi bởi đèo dốc vòng vèo và những cú xóc nảy người, nhiều lúc cảm thấy xe sắp bay xuống vực. Trâu ngựa hai bên đường thấy xe là tung vó, nhảy lên chạy tán loạn.

    Hè năm 1983, chiến sự lại rộ lên ở vùng Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) và Hà Tuyên (Hà Giang). Tôi đến vùng giáp ranh Lào Cai và Lai Châu. Có hôm cùng các chiến sĩ đi tuần tra đường biên, vượt những quả đồi đầy cỏ lau và đá lởm chởm; thỉnh thoảng trượt chân, cả người và ba lô cứ trôi tuồn tuột trên thảm cỏ, gặp tảng đá thì sững lại, đứng đậy đi tiếp. Lối lên các điểm tựa chỉ là vệt mòn nhỏ. Các chiến sĩ luôn nhắc tôi phải đi đúng vết chân các anh, nếu không sẽ đạp phải mìn. Tôi thắc mắc, sao lắm mìn thế thì anh em bảo rằng, để chống thám báo mò lên tập kích.

    Chiến sự ác liệt và dai dẳng nhất diễn ra ở huyện Vị Xuyên (Hà Giang). Những địa danh nổi tiếng lúc đó như Làng Lò, Làng Pinh, Hang Dơi, Thung lũng gọi hồn, đồi Cô Ích, đồi Đài, Cốc Nghè, 4 hầm, ngã ba Thanh Thủy, các điểm cao 772, 685, 211… đã in đậm trong tâm khảm mỗi cán bộ chiến sĩ từng tham gia chiến đấu ở Vị Xuyên. Nhiều chiến sĩ ta đã hy sinh ở chiến trường này. Trận đánh ngày 12/7/1984, mật độ pháo địch dày đặc, bắn như vãi đạn nhiều giờ liền sang trận địa ta, gây tổn thất lớn trên điểm cao 772 khiến hàng trăm cán bộ, chiến sĩ thương vong.

    Tôi chứng kiến Tiểu đoàn 10 pháo binh (Quân khu 2) sau một trận chiến đấu, hầu như bị tê liệt hoàn toàn. Con số thương vong quá nhiều, những khẩu pháo bị phá hủy, nằm chỏng chơ ngay bên đường đi. Vỏ đạn pháo 85 ly bằng đồng sáng lóa, vàng rực như những đống rơm. Những bụi sim mua xơ xác, cháy trụi, phủ một lớp bụi dày. Cả một dãy núi đá bị pháo địch cày xới nhiều lần, trơ ra một màu trắng toát lạnh người. Từ đó, bộ đội ta quen gọi nó là “Lò vôi thế kỷ”.

    Sau thiệt hại nặng ở Vị Xuyên, những nghĩa trang liệt sĩ cứ mở rộng dần ra, tinh thần bộ đội ta có phần nao núng. Các sư đoàn chủ lực chuyển sang hình thức luân phiên chiến đấu. Những đơn vị ở phía sau lên thay thế để các đơn vị đã tham chiến rút về phía sau củng cố lượng lượng. Lúc này công tác động viên tư tưởng cho bộ đội rất khó khăn bởi mặt trận ác liệt Vị Xuyên chỉ cách thị xã Hà Giang vài chục cây số. Cuộc sống sinh hoạt ở thị xã đã mang không khí thanh bình; hàng quán mọc lên, cảnh làm ăn tấp nập; tối đến tiếng nhạc xập xình, đèn màu nhấp nháy. Sự đối lập giữa hy sinh và hưởng thụ chi phối từng ngày đến tâm tư chiến sĩ.

    Cuộc sống của người lính chiến
    Tôi ở với bộ đội đặc công của Quân khu 2 trong một hang đá. Lúc đầu, các chiến sĩ còn hái được ít rau dớn (giống như cây dương xỉ) luộc ăn thay rau. Khi không còn loại rau rừng nào nữa, anh em bắn hạ mấy buồng quả cọ xuống luộc chấm muối ăn cho đỡ xót ruột. Vì mật độ đóng quân dày đặc, chiến đấu liên tục lại ở hầm và núi đá ẩm ướt, ít được tắm giặt nên bộ đội bị ghẻ lở khá nhiều. Quần áo thời đó may bằng loại vải chất lượng kém nên cũng chóng rách hai đầu gối. Có chiến sĩ quay quần mặc phía rách ra đằng sau và nói vui là “ưu tiên phía trước”.

    Cứ một vài tuần anh em mới được luân phiên ra suối Thanh Thủy tắm một lần. Được những hôm đi tắm như thế, anh em ngâm nước suối khá lâu và lấy lá rừng xát vào người chữa ghẻ. Các chị em dân bản đi làm nương về qua suối, gặp bộ đội tắm rất đông và đều trần truồng cả nên ngượng, cứ phải làm thêm, chờ nhá nhem tối mới về nhà được. Vì vậy trong chuyến lên thăm bộ đội ở Vị Xuyên, chị Nguyễn Thị Hằng, lúc đó là Bí thư Trung ương Đoàn đã nói vui với các chiến sĩ rằng: “Tôi chúc các đồng chí khỏe, không ghẻ và tắm phải có quần đùi”.

    Một hôm ở Sở chỉ huy tiền phương Quân khu 2, tôi được Thiếu tướng Phạm Hồng Cư và Thiếu tướng Lê Duy Mật cho biết, sáng sớm mai sẽ có trận pháo kích rất lớn của ta từ Thanh Thủy nã sang điểm cao 1509, cụm phòng thủ lớn của quân Trung Quốc. Trận địa pháo được bố trí ở sân bay Phong Quang (do Pháp làm trước đây đã bỏ hoang). Tôi có nhiệm vụ nấp trong chiếc hầm đơn sơ ở giữa sân bay, cũng là giữa hai làn pháo đấu nhau để tường thuật trận pháo kích ấy. Đêm trăng sáng. Sân bay Phong Quang là một thung lũng có cây rừng lúp xúp, dài khoảng hơn 1km. Những khẩu pháo giả nghi binh bằng ống tre, đường kính 8 cm đã được bố trí. Khi pháo thật ở phía sau bắn thì pháo giả cho nổ bộc phá tạo khói lừa địch. Dự kiến trận đánh khai hỏa vào 5 giờ sáng hôm sau. Nhưng rất tiếc, nửa đêm về sáng, mây mù kéo về dày đặc, đài quan sát không nhìn rõ mục tiêu nên đành hoãn trận đánh ấy..

    Khi tiếng súng ở khu vực Vị Xuyên tạm ngưng, địch tập trung đánh đường giao thông của ta ở núi Bạc, Quản Bạ nhằm cắt đứt tuyến chi viện từ thị xã Hà Giang đi các huyện Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Bất kể loại xe nào chạy qua sườn núi Bạc đều bị pháo Trung Quốc bắn cháy. Vì đoạn đường này nằm sát biên giới lại trơ trọi giữa sườn núi đá cao nên từ bên kia biên giới, lính Trung Quốc nhìn rất rõ. Hàng chục chiếc xe các loại, có cả xe chở khách đã bị bắn cháy, lộn nhào xuống vực. Nếu qua được đoạn đường này thì lại gặp tọa độ thứ hai ở dốc Cổng Trời (từ Quản Bạ sang Yên Minh).

    15 giờ chiều hôm ấy, xe chúng tôi đến núi Bạc, trời còn đang nắng gắt. Chiếc barie chắn đường có một nam dân quân chừng 45 tuổi đeo khẩu K44 đứng gác. Anh yêu cầu xe dừng lại và chờ trời tối mới được đi tiếp. Mặc dù chúng tôi trình bày lý do cần đến mặt trận gấp nhưng thái độ anh rất lạnh lùng, nguyên tắc, giữ đúng kỷ luật chiến trường. Chúng tôi đành phải chấp hành và ngồi trò chuyện với anh để “giết” cái khoảng thời gian dài 3 giờ đồng hồ chờ trời tối. Tên anh dân quân là Tẩn Dìn Phùng, quê ở ngay dưới chân núi Bạc. Xã cử một tổ 4 người thay nhau canh gác ở hai đầu đoạn đường qua núi Bạc, bảo vệ an toàn cho xe cơ giới qua lại đây.

    Khi trời đã nhá nhem tối, anh mở barie cho xe chúng tôi đi. Chiếc xe com măng ca “đít vuông” cũ nát lại chở thêm một phi xăng 200 lít lắc lư, nhảy chồm chồm trên sườn núi đá. Hơi nóng từ núi đá, hơi xăng phả ra khiến bầu không khí ngột ngạt. Chúng tôi cuộn hết bạt hai bên xe lên cho thoáng và cũng để dễ quan sát; nếu có địch phục kích hoặc pháo bắn sang là có thể nhảy thật nhanh sang hai bên đường. Xe xấu, đường xóc nên đêm ấy, khi tới Quản Bạ thì chiếc xe của chúng tôi bị gãy đến nửa số thanh nhíp giảm xóc, không thể đi tiếp được nữa. Từ đấy, chúng tôi chỉ còn cuốc bộ.

    Trưa hôm sau từ tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện Quản Bạ, tôi và nhà văn Đặng Văn Nhưng hành quân về xã Bạch Đích vì ở đó chiến sự đang diễn ra. Trời nắng nóng, chúng tôi phải cắt rừng núi đi theo đường chim bay. Một chiến sĩ người dân tộc Nùng khoác ba lô cùng súng đạn dẫn hai anh em đi. Cậu chiến sĩ quen luồn rừng lội suối từ nhỏ nên không tỏ ra mệt mỏi gì nhưng với hai anh em tôi thì đó là cuộc hành quân rất vất vả. Trèo qua hết dãy núi đá này sang dãy núi đất khác, cứ sau một giờ hỏi lại thì cậu chiến sĩ trẻ đều bảo sắp đến rồi. Cơn khát nước lại là một thử thách.

    Nắng nóng, mang nặng lại trèo núi, băng rừng như vậy mà khát nước là cảm giác tôi chưa gặp bao giờ. Đến một vách đá có cây to và dây leo chằng chịt, tôi sáng mắt lên khi nhìn thấy một dòng nước từ kẽ đá chảy ra. Tôi gỡ ngay ba lô nhờ cậu chiến sĩ cầm giúp và ngắt một tàu lá to để hứng nước. Anh Nhưng nhắc tôi: “Chú mà uống nước rừng này là độc lắm đấy, ngã nước như chơi”. Nhưng vì cơn khát không còn chịu được, tôi vẫn uống. Tôi định ngồi nghỉ một lát nhưng cậu chiến sĩ nói ngay: “Nếu các thủ trưởng mà nghỉ nữa thì tối cũng chưa đến nơi được đâu. Mà ban đêm đi trong rừng càng khó, nhất là phải vượt qua núi”. Nói rồi cậu ta nhận mang giúp tôi chiếc máy ghi âm. Ai nấy mồ hôi nhễ nhại. Nhưng cậu chiến sĩ trẻ cứ coi như không có gì, vừa đi vừa kể chuyện rôm rả bằng giọng lơ lớ.

    Chừng 17 giờ thì chúng tôi vào tới xã Bạch Đích. Nhưng một không khí vắng lặng bao trùm. Đồn biên phòng đã bị tàn phá tan hoang. Phía đầu bản là kho thóc còn đang cháy dở. Có một bác nông dân người Dao đang đi tìm trâu lạc cho chúng tôi biết: bộ đội biên phòng và dân bản rút hết lên dãy núi phía trên kia rồi. Quân Trung Quốc cũng đã rút về bên kia biên giới. Thế là chúng tôi lại quay ra, tìm đường lên dãy núi, nơi có con dốc dài, nối Yên Minh sang Đồng Văn. Cán bộ và chiến sĩ biên phòng đang ở tạm trong những hốc đá. Đêm ấy chúng tôi nghỉ cùng với anh em trên dãy núi ấy.

    Đêm hôm sau chúng tôi đi tiếp sang dãy núi khác, nơi dừng chân tạm của tiểu đoàn bộ đội địa phương huyện Yên Minh. Đồng chí chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện bị thương vào bắp chân hôm trước, do mảnh đạn cối xuyên thủng. Vết thương đang sưng to, lên cơn sốt, chưa kịp chuyển về tuyến sau, nằm rên hừ hừ trên đám lá thông. Lát sau, một đồng chí ở bộ phận quân y đến tiêm cho mũi thuốc giảm đau. Anh có vẻ bức xúc lắm nên khi nói chuyện với chúng tôi, anh bảo: “Tôi là lính chống Mỹ, bao nhiêu năm không sao, bây giờ lại bị thương ở đây. Chờ 2 ngày rồi chưa thấy quân tiếp viện. Chẳng lẽ ngày mai tôi cho anh em rút về tuyến sau”. Rồi anh bảo chúng tôi, mỗi người tự bẻ lấy mấy cành thông, rải ra mà nằm. Đêm ấy chúng tôi ngủ ở trên đỉnh núi, có mấy cây thông ở độ cao gần 2000 mét, đúng là cảnh “màn trời, chiếu đất”.

    Hôm quay trở lại Quản Bạ, chúng tôi cũng đi vào ban đêm, nhờ chiếc xe tải của một đơn vị từ Mèo Vạc về. Xe đi đêm trên núi đá cheo leo hiểm trở nhưng không được bật đèn. Chúng tôi đứng trên thùng xe để tiện quan sát và nhảy xuống đường nếu bị pháo kích hoặc thám báo tấn công. Ba lô để dưới sàn xe, đứng dạng chân chèo, hai tay bám chặt vào thành xe và buồng lái mới chống đỡ được những cú xóc và lắc. Đang căng mắt về phía trước thì bất ngờ chúng tôi thấy hai bóng đen nhảy từ ven đường ra vẫy xe. Anh chiến sĩ lái xe giật mình, ngỡ là thám báo, bật đèn pha sáng rực. Hai người đàn ông đeo ba lô, máy ảnh, đi giày da bám đầy bụi đất xin đi nhờ. Tôi nhận ra đó là anh Vũ Đạt, phóng viên báo QĐND và anh Trần Định, phóng viên báo ảnh TTXVN. Gặp chúng tôi, các anh mừng quá, đi cùng về Ban chỉ huy quân sự huyện Quản Bạ đêm hôm đó.

    Hồi ấy điều kiện thông tin rất khó khăn. Các tin bài viết xong phải đến trung tâm huyện mới gửi được qua đường thư bưu điện về Hà Nội và chậm mất 1 tuần. Tin chiến sự khẩn cấp thì dùng điện thoại từ cấp sư đoàn hoặc bưu điện huyện gọi về cho anh em ở tòa soạn chép lại. Vì thế, tòa soạn muốn chỉ đạo gì cũng không thể liên lạc được ngay.

    Cuối năm 1983, chúng tôi lên Mường Khương (Lào Cai). Cũng con đường độc đạo dẫn lên đến cửa khẩu Pha Long nhưng nếu gặp mưa lũ là tuyến này bị chia cắt hẳn. Dọc con đường đi qua các xã Dìn Chin, Tả Gia Khâu, Tả Ngải Chồ, Tung Trung Phố, quân Trung Quốc đặt mìn hoặc dùng B41 đánh trộm những xe cơ giới qua đây. Dân ở những địa phương này đều là người thiểu số, không biết tiếng phổ thông. Do ít được tiếp xúc với người Kinh nên thấy bộ đội qua đây, họ nhìn với ánh mắt lạ lẫm, ngơ ngác. Giống chó ở vùng này cũng rất đặc biệt, lông xù, to như con sư tử. Cứ có xe ô tô chạy qua bản là chó lao ra sủa inh ỏi, râm ran thành dây chuyền suốt dọc đường. Đêm ở đồn biên phòng Pha Long với tôi là lần đầu tiên được biết đến cái rét thấu xương như thế nào. Mấy anh em ngồi quanh bếp lửa mà phía lưng vẫn lạnh đến run người.

    Tôi nhớ hôm đoàn công tác chúng tôi từ Pha Long trở ra, đang vượt qua một cái ngầm thì xe bị thổi đệm nắp máy, đứng khựng lại. 6 anh em cùng nhảy xuống cố đẩy xe về Ban chỉ huy quân sự huyện Mường Khương. Nhưng tối hôm ấy, mấy anh cán bộ ở đó băn khoăn, yêu cầu chúng tôi phải giấu kín xe chứ nếu biết có xe con ở đây, thế nào phía Trung Quốc cũng bắn pháo tầm xa sang, rất nguy hiểm. Đường miền núi, xe lại xuống cấp, quá “đát” cả nên mỗi lần lên biên giới, chúng tôi phải mượn phụ tùng, linh kiện của các đơn vị chiến đấu để về Hà Nội là chuyện thường xuyên; nhất là mượn bánh xe, đèn pha và xin xăng dầu.

    Tình nghĩa quân dân nơi biên giới
    Những năm tháng sống giữa vùng chiến sự, chúng tôi có nhiều dịp giao lưu với đồng bào các dân tộc thiểu số ở biên cương phía bắc. Bởi đã lâu lắm, sau cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, bà con mới được đón nhiều bộ đội về như thế. Núi rừng bao năm trầm lắng, nay có bộ đội về, không khí sôi động hẳn lên. Những cánh rừng hoang vắng, tưởng như chưa có dấu chân người, giờ đây đã rộn rã, ồn ào bởi những đoàn xe cơ giới các loại kéo lên. Nhiều con đường mòn đã được phá đá mở rộng thành những tuyến giao thông liên hoàn nối các làng bản, xã huyện. Bộ đội giúp dân tăng gia, sản xuất, hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh. Nhiều tập tục lạc hậu được xóa bỏ. Người dân được bộ đội dạy chữ, chữa bệnh, rời nhà từ núi cao xuống thung lũng, hạn chế du canh, du cư.

    Suốt những năm tháng diễn ra cuộc chiến tranh ở biên giới phía bắc, ngoài tấn công quân sự, Trung Quốc còn triệt để lợi dụng chiến tranh tâm lý, vu cáo Việt Nam và xóa nhòa ranh giới giữa kẻ đi xâm lược với người chống xâm lược. Từ các dãy núi cao, Trung Quốc đặt những cụm loa nén công suất lớn, có điểm chúng đặt tới vài chục chiếc loa, hướng sang phía Việt Nam. Hàng ngày, các cụm loa tâm lý chiến này phát 2-4 lần. Mở đầu là bài hát Tình hữu nghị Việt Nam - Trung Hoa của Đỗ Nhuận; tiếp đó là bài nói nói xấu chế độ và các nhà lãnh đạo Việt Nam. Ngoài ra là những bài đánh vào tâm tư, tình cảm của bộ đội ta, sống xa nhà, thiếu thốn, gian khổ…

    Mùa gió bấc, tiếng loa có thể phóng sâu vào phía Việt Nam đến chục cây số. Trước tình huống đó, cán bộ chính trị, tuyên huấn của các đơn vị phải tăng cường bám sát nhân dân, tuyên truyền, giải thích cho bà con không nghe và tin vào những lời lẽ xuyên tạc của địch, đoàn kết cùng bộ đội chống lại kẻ thù, bảo vệ từng tấc đất biên giới. Cục địch vận (Tổng cục chính trị) cũng bố trí những xe lưu động gắn loa, phát đi những băng ghi sẵn nội dung tuyên truyền chống quân Trung Quốc xâm lược. Tuy nhiên, do địa hình rừng núi và công suất loa của ta yếu nên không lấn át được đài địch ra rả suốt ngày.

    Sau cuộc tấn công của quân Trung Quốc, cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở biên giới bị đảo lộn thời gian dài nên gặp nhiều khó khăn. Nhiều gia đình mất hết nhà cửa, tài sản, phải sơ tán về phía sau. Có gia đình bị lính Trung Quốc giết chết gần hết. Tuy nhiên, bà con rất sẵn lòng ủng hộ, tạo điều kiện cho bộ đội chiến đấu. Nhiều gia đình đón bộ đội về ở tạm khi chưa làm kịp lán trại; nhường cả ruộng nương, vườn tược cho bộ đội làm trận địa. Các Hội mẹ chiến sĩ, các đoàn thể thường xuyên đến thăm hỏi, động viên bộ đội sau mỗi trận chiến đấu. Hội phụ nữ tỉnh Hà Giang tiêu biểu nhất trong phong trào này. Tình đoàn kết quân dân ấy đã giúp cho các đơn vị củng cố vững chắc thế trận để chống trả quân xâm lược.


    Nhớ về biên cương phía bắc, tôi lại nhớ những đồi hoa sim tím, những chiến sĩ dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc và nhớ tấm lòng của bà con các dân tộc ở biên giới với tình đoàn kết quân dân.
    Bùi Đức Toàn
    (Nguyên PV báo QĐND)
    Last edited by Bin571; 15-02-2014 at 01:08 AM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #5

    Mặc định

    Trước đây, vì nhiều lý do này khác mà người ta không nhắc nhiều đến cuộc chiến này. Nhưng giờ đây, cần phải đưa nó vào sách giáo khoa lịch sử để con cháu chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan hệ lịch sử với một ông láng giềng Trung Quốc này.

  6. #6

    Mặc định

    Nhận định của một vị tướng về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc 1979
    07:00 | 15/02/2014

    (PetroTimes) - Vẫn tác phong nhanh nhẹn, hồ hởi và lối tư duy sắc sảo, mạch lạc của người chỉ huy chiến đấu năm xưa khi anh kể lại những kỷ niệm sâu sắc trong những tháng năm ở chiến trường. Trưởng thành từ người chiến sĩ ngoài mặt trận rồi sau này trở thành Phó tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, anh là người lính chiến dày dạn kinh nghiệm. Trong những ngày đầu chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ở biên giới phía Bắc, anh giữ cương vị Phó chính ủy trung đoàn. Ông dành cho phóng viên PetroTimes một cuộc trò chuyện rất tâm đắc.



    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm đang tặng hoa cho các cựu chiến binh cao tuổi của Sư đoàn 316
    PV: Thưa anh, là người trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu chống quân Trung Quốc trên biên giới phía Bắc, sau 35 năm nhìn lại, anh có suy nghĩ như thế nào về cuộc chiến ấy?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Trước hết phải nói thế này, tôi có một suy nghĩ khác với nhiều người về cuộc chiến tranh đó. Lâu nay chúng ta quen với tên gọi là Cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung, như vậy không đúng.
    Theo tôi, phải gọi đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc chống Việt Nam. Lý do là hai nước láng giềng, có quan hệ hữu nghị gắn bó từ những năm chúng ta còn kháng chiến chống Pháp. Biên giới lãnh thổ đã được phân định rõ ràng. Vậy mà phía Trung Quốc ngang nhiên đưa hàng chục vạn quân đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Trung Quốc đã dùng sức mạnh áp đảo để chiếm 4 thị xã và hàng chục huyện dọc biên giới của ta trong thời gian gần một tháng. Như vậy rõ ràng phải gọi nó là cuộc chiến tranh xâm lược.

    PV: Khi chiến tranh nổ ra, anh đang đóng quân ở đâu và giữ cương vị gì?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Lúc đó Trung đoàn 148, Sư đoàn 316 chúng tôi đóng ở huyện Than Uyên, Hoàng Liên Sơn (nay là Lai Châu). Tôi là Phó chính ủy trung đoàn. Ngày ấy thông tin liên lạc còn khó khăn nên chiều ngày 18/2 chúng tôi mới nhận được thông báo Trung Quốc đã đánh vào thị xã Lào Cai. Thế là ngay chiều hôm ấy, trung đoàn tôi và Trung đoàn 174 được lệnh khẩn cấp hành quân về Lào Cai để đánh phản kích.

    PV: Tình thế chiến trường lúc đó thế nào, thưa anh?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Ở hướng Lào Cai, quân Trung Quốc không đánh theo hướng trực diện qua cầu Hồ Kiều vào thị xã mà tiến bằng hai hướng Quang Kim, Bát Xát và ngã ba Bản Phiệt xuống. Pháo của địch bắn rất dữ dội để dọn đường cho bộ binh nên sau một ngày chúng đã chiếm được thị xã Lào Cai. Lực lượng địch được huy động đông gấp hàng chục lần phía ta.

    Trước tình hình đó, Trung tướng Vũ Lập - Tư lệnh Quân khu 2 ra lệnh phá một số cây cầu để làm chậm tốc độ tiến công của địch. Đồng thời, Trung đoàn 148 nhận nhiệm vụ phòng ngự để bảo vệ dân, dàn quân từ Cốc San lên tuyến đường đi Sa Pa. Từ 2 thị xã Lào Cai và Cam Đường, hàng vạn người dân hoảng loạn chạy sơ tán về phía sau. Như vậy là bộ đội tiến lên phía trước, còn dân chạy về phía sau, tránh chết chóc. Trước đó chúng ta quen với chiến tranh giải phóng, bây giờ mới thực hiện chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Cảnh tượng lúc đó giống như trong những bộ phim của Nga trong chiến tranh thế giới thứ 2.

    Trung đoàn 148 có tới 80% là chiến sĩ trải qua chiến đấu ở chiến trường chống Mỹ từ phía Nam ra, rất kiên cường, dũng cảm. Đại đội 10 của Tiểu đoàn 6 chiếm giữa điểm cao 608, Trung Quốc dùng một sư đoàn tấn công 7 ngày nhưng không lên nổi. Sau đó họ lấn chiếm được một nửa điểm cao thì tôi tổ chức cho bộ đội đánh giáp lá cà khiến quân địch hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Chính vì thế, Sư đoàn 316 đã đánh thọc sườn, chặn quân Trung Quốc không tiến sâu được nữa.

    Suốt 1 tuần lễ, Trung Quốc dùng hơn một quân đoàn và lực lượng pháo binh rất mạnh để đánh về Cam Đường và Sa Pa nhưng rồi cũng chỉ quanh quẩn ở thị xã Lao Cai. Khi địch vào được Sa Pa thì chúng tôi đã bảo vệ dân rút an toàn về phía sau. Nếu tiến thêm nữa thì Trung Quốc sẽ gặp khó khăn vì Trung đoàn 148 đã chặn đánh chúng ở đèo Khí tượng.
    Bây giờ tôi không muốn nhắc lại chi tiết những trận chiến đấu ác liệt ngày đó nữa. Chỉ biết rằng, cuộc chiến đã để lại những hậu quả nặng nề cho cả hai phía. Sau mấy trận chiến đấu, tôi được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba và được bổ nhiệm thẳng lên làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 148.

    PV: Là cán bộ trực tiếp chỉ huy chiến đấu, anh rút ra những điều gì về cuộc chiến tranh đó?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Đó là những vấn đề tôi vẫn suy nghĩ từ nhiều năm nay. Thứ nhất là chúng tôi bất ngờ trước sự tấn công của Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì quá vội vã. Chỉ 15 ngày sau khi Đặng Tiểu Bình gặp Tổng thống Mỹ Ca-tơ là đánh ta luôn. Trong tư duy của chúng tôi trước đó thì không thể có chuyện Trung Quốc sẽ dùng sức mạnh quân sự để đánh Việt Nam mà vẫn chỉ là những mâu thuẫn trong quan hệ đối ngoại, sẽ được hai nhà nước giải quyết bằng con đường ngoại giao. Vì thế, một số đơn vị đóng quân ở phía Bắc chỉ huấn luyện và tham gia sản xuất. Mà huấn luyện thì cũng vẫn huấn luyện bộ đội theo cách đánh Mỹ.

    Thứ hai là nếu chúng ta xác định rằng Trung Quốc sẽ đánh Việt Nam thì chủ động hơn trong cách đánh phòng ngự. Và với kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm ở chiến trường đánh Mỹ, chắc chắn bộ đội ta sẽ chặn đứng được bước tiến của địch trong những ngày đầu.

    Thứ ba là qua thực tế chiến trường, chúng tôi thấy trình độ tác chiến, kỹ năng chiến đấu của quân Trung Quốc còn kém, lính rất nhát. Bởi bao nhiêu năm quân đội Trung Quốc không đương đầu với cuộc chiến tranh nào nên khi chạm trán với những người lính thiện chiến Việt Nam, lính Trung Quốc rất lúng túng, chỉ dựa vào quân đông và hỏa lực mạnh. Tư tưởng của người lính trên chiến trường có ý nghĩa quyết định thắng bại. Quân đội ta đánh Pháp, đánh Mỹ và vừa đánh thắng bọn Pôn Pốt ở Campuchia hơn một tháng trước đó có tác động đến tư tưởng của quân Trung Quốc. Họ run sợ. Nếu cố tiến sâu nữa thì Trung Quốc sẽ thiệt hại nặng nề hơn.


    Xe tăng Trung Quốc bị bộ đội ta bắn cháy trong cuộc chiến tranh biên giới.
    PV: Với kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường, anh thấy quân Trung Quốc với quân đông, hỏa lực mạnh như thế thì tốc độ tấn công, hiệu suất chiến đấu của họ trên thực tế thế nào?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Tôi cho là tốc độ tấn công của họ quá chậm. Ở các hướng, tính bình quân mỗi ngày họ chỉ tiến được hơn 1 cây số. Bởi họ đã vấp phải sự kháng cự dũng cảm của quân và dân ta. Như ở Lào Cai, một quân đoàn của Trung Quốc mà đánh nhau với một trung đoàn của ta còn mất hàng tuần mới tiến được có mấy cây số. Chính vì thế, khi quân Trung Quốc vào được Sa Pa và Cam Đường thì chúng tôi đã bảo vệ dân rút hết về phía sau rồi.

    Trung Quốc nói tiêu diệt quân chủ lực của ta nhưng không có chuyện đó. Mặc dù lực lượng mạnh như thế nhưng tấn công xâm lược mà không diệt gọn được đại đội nào của ta. Ta lượng sức mình yếu trước kẻ mạnh nên phải bảo toàn lực lượng, có đơn vị vừa đánh vừa rút. Và thực chất là tháng 2/1979, Trung Quốc mới đánh nhau với bộ đội địa phương và dân quân tự vệ ở biên giới của ta thôi. Thế mà họ đã bị thiệt hại nặng nề.

    PV: Anh có nhận xét gì về cuộc tấn công xâm lược ấy của Trung Quốc?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Trung Quốc đã thất bại cả về quân sự, chính trị, ngoại giao; cả về ý nghĩa xã hội, nhân văn. Phát động một cuộc chiến tranh xâm lược như thế, họ muốn gây sức ép buộc ta rút quân khỏi Campuchia và kéo dài việc đàm phán phân định biên giới. Nhưng qua cuộc xâm lược ấy, họ thể hiện sự yếu kém. Cho nên tôi cho rằng, cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đã thua về nhiều mặt chứ chẳng vẻ vang gì như họ vẫn tuyên truyền lâu nay.

    PV: Anh muốn nói gì với thế hệ trẻ hôm nay qua cuộc chiến tranh ấy?

    Trung tướng Nguyễn Hữu Khảm: Tôi muốn thế hệ trẻ hôm nay hiểu rõ sự thật của cuộc chiến tranh xâm lược ấy của Trung Quốc. Từ đó tự hào với truyền thống đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc - truyền thống quý báu của bất kỳ thế hệ nào. Như vậy, vấn đề giáo dục truyền thống phải được chú trọng. Tôi thấy các bảo tàng quân sự của ta không có nội dung phản ánh cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc. Đó là một thiếu sót, cần phải bổ sung ngay. Lịch sử là lịch sử. Thế hệ trẻ cần được hiểu rõ sự thật lịch sử tháng 2/1979!

    PV: Xin cám ơn Trung tướng về cuộc trò chuyện!

    Đức Toàn
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  7. #7

  8. #8

    Mặc định

    Gần đến ngày 17/2 rồi. Ngày mà 35 năm trước các chiến sĩ bộ đội địa phương, dân quân tự vệ, dân chúng các tỉnh phía Bắc đã cảm tử chặn đội quân Trung Quốc đông gấp nhiều lần. Sự dũng cảm của các chiến sĩ và nhân dân đã phá tan âm mưu đánh Việt Nam để cứu chế độ diệt chủng Pôn Pốt tại Campuchia.
    Xin cúi đầu tưởng niệm các liệt sĩ:


  9. #9

    Mặc định

    Last edited by Nhật Nam; 16-02-2014 at 07:30 AM.

  10. #10

    Mặc định

    Chợt nhớ về tổng động viên và những ngày ở chốt. Những anh hùng liệt sĩ thời ấy không được nhắc đến, những bài hát ca ngợi họ cũng không được phát. Cuộc đời quả thực vô thường !

  11. #11

    Mặc định

    Việt Nam: Những hình ảnh sống, chiến đấu hào hùng năm 1979

    My Lan - theo Trí Thức Trẻ | 14/02/2014 08:02



    Chia sẻ:
    (Soha.vn) - Có mặt ở Việt Nam vào những ngày tháng lịch sử năm 1979, nhiếp ảnh gia Thomas Billhardt đã chụp lại những bức ảnh về không khí chiến đấu và sinh hoạt của người dân Việt Nam.


    • Thomas Billhardt, sinh năm 1937, là một nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Đức. Tên tuổi của ông được biết tới nhiều nhất vào những năm 1960, đặc biệt là với những bức ảnh chụp tại Việt Nam và Palestine. Billhardt đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá về nhiếp ảnh tại Đức.


    Nhiếp ảnh gia Thomas Billhardt


    Bắt đầu cộng tác với báo chí ngay sau khi tốt nghiệp ngành điện ảnh, Billhardt đã dần trở thành một cái tên được tin tưởng và kính trọng trong giới nhiếp ảnh gia tự do. Ảnh của ông xuất hiện trên nhiều tờ báo lớn, uy tín thế giới như Time, Spiegel, Stern.... cùng khắp các triển lãm ảnh thế giới, từ Moscow tới New York.
    Billhardt coi mình là một nhiếp ảnh gia thiên về nghệ thuật hơn là chính trị, vì thế mà những bức ảnh của ông luôn chuyển tải được không khí của cuộc sống ở mỗi quốc gia, nơi ông đặt chân tới, theo một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc, vô cùng xúc động.


    Từ năm 1962 - 1985, Thomas Billhardt đã tới Việt Nam 12 lần, tận mắt chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh ở đây và có nhiều bức ảnh chân thực về cuộc sống của người dân miền Bắc Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống Mỹ.

    Dưới đây là một số bức ảnh màu của nhiếp ảnh gia người Đức này về Việt Nam sống và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 đăng tải trên trang Flickr cá nhân của ông:

    Những cô gái đôi mươi, duyên dáng và kiên cường, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc





    "Đoàn quân vội đi, đi về biên giới, cũng từ biên giới về những bầy trẻ nhỏ..."














    Hừng hực khí thế ra trận


    Tập bắn súng ngay trên đường phố
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  12. #12

    Mặc định

    Tác nghiệp giữa vòng vây địch tháng 2/1979

    07:00 | 16/02/2014

    (PetroTimes) - Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc bùng nổ. Không chỉ các phóng viên báo chí có mặt trên toàn tuyến biên giới từ Móng Cái đến Lai Châu mà nhiều văn nghệ sĩ cũng khoác ba lô lên đường. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Mạnh Thường đã sống và chiến đấu bằng chiếc máy ảnh tại Cao Bằng. Tại đây, ông đã ghi lại những hình ảnh về thất bại của quân Trung Quốc. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, chúng tôi xin giới thiệu một đoạn hồi ký của ông về những ngày đầu của cuộc chiến này.



    Vào khoảng 6h sáng ngày 17/2/1979, tôi bỗng nghe nhiều tiếng súng nổ ngày một gần. Tôi vội vàng mang ba lô xách máy ảnh chạy ra đường, thấy bộ đội ta (các đơn vị bộ đội địa phương) đang dùng súng B40, B41 bắn xối xả về phía xe tăng địch.
    Tôi thấy rõ bên nắp tháp pháo các xe tăng giặc đều mang phù hiệu ngôi sao vàng 5 cánh ở giữa có chữ “Bát nhất”. Nhiều chiếc đã bị bắn cháy khói bốc nghi ngút, nhiều tên lính nhảy ra khỏi xe đã bị ngã gục trước làn đạn quân ta, nhưng những chiếc xe đi sau, như những con thiêu thân, theo hàng dọc vẫn lừ lừ tiến lên phía trước. Các chiến sỹ Đoàn 567, bộ đội địa phương đã hiệp đồng chặn đứng bọn xâm lược ngay từ phút đầu.

    Riêng sáng 17/2 tại Bản Sẩy, huyện Hòa An, bộ đội ta đã diệt gọn 31 chiếc xe tăng và bắt sống một chiếc và nhiều tên lính xâm lược bị đền tội, phơi thây trên trận địa. Các chiến sỹ ta càng đánh càng dũng mãnh, như Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Hoan, chiếc xe tăng vừa tiến đến, không có súng chống tăng, anh đã dùng lựu đạn chặn đánh. Anh bị thương nặng nhưng quyết không rời vị trí.


    Một nhóm trong đội thanh niên xung kích ĐHSP Hà Nội 1 trên đường trở về sau chuyến đi biên giới năm 1979 (Ảnh: Mạnh Thường).

    Vừa chụp xong trận địa Bản Sẩy, tôi gặp ngay một đơn vị đang hành quân cấp tốc lên phía trước đánh chặn quân địch từ Thông Nông tràn xuống. Các chiến sỹ cho biết, quân ta đang chặn đứng xe tăng giặc từ Đông Khê, Thất Khê tiến lên thị xã Cao Bằng. Mặc dầu trước mặt quân địch từ Thông Nông đánh xuống, sau lưng bọn chúng theo đường số 4 liều lĩnh đánh lên, nhưng với máu nghề nghiệp và sự hăng say của tuổi trẻ, tôi vội vàng chạy bộ vừa về đến sông Bằng, tôi may mắn gặp các chiến sỹ thuộc Đoàn 46, có hai chiến sỹ bị trọng thương, đã đưa về tuyến sau, còn 4 chiến sỹ Tạ Văn Dũng, Trần Đình Nông, Ngô Đình Việt và Phạm Lợi đã dũng cảm gan dạ với khẩu pháo của mình bắn nát tại chỗ trên đồi Nà Toòng (thị xã Cao Bằng) 6 chiếc xe tăng địch.Hình ảnh những chiếc xe tăng của quân xâm lược bị nát tan trước hỏa lực của quân ta mà tôi ghi được tại trận địa Bản Sẩy và đồi Nà Toòng đã theo tôi suốt cuộc đời. 35 năm trôi qua nhưng những hình ảnh đó chưa bao giờ phai mờ trong ký ức tôi, một ông già nay đã ngót nghét 79 tuổi.

    Trong giờ phút giữa cái sống và cái chết chỉ còn gang tấc, nhìn xung quanh ngoài bộ đội, dân quân, không thấy một phóng viên nào! Phải nói thật lúc đó tôi có phần lo sợ. Sau này tôi mới vỡ lẽ: Bọn giặc đã dùng chiến thuật đánh vu hồi tập hậu. Các chiến hào của ta hướng lên phía Bắc thì chúng đánh úp sau lưng. Bởi chúng nắm khá vững địa hình chiến sự của ta. Điều này thể hiện rõ qua tài liệu của chúng ta thu được và lời khai của tên tù binh Lưu Phi, lính lái xe tăng bị bắt ngày 18/2 tại Hòa An. Vì thế phóng viên ta không sao ra phía trước được.

    Một điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là trên các tuyến đường đến biên giới Việt - Trung, ta chôn mìn chống tăng dọc hai bên đường (đúng vào vị trí 2 bánh xích xe tăng lăn qua) thì xe tăng của chúng một bánh lăn trên ta-luy và một bánh đi giữa lòng đường nên không một chiếc nào bị trúng mìn. Nhưng “vỏ quýt dày đã có móng tay nhọn”, toàn bộ xe tăng của chúng bị diệt là nhờ súng chống tăng của bộ đội ta dũng cảm chống trả quyết liệt.Đến trưa 17/2, ta đã bắn nát toàn bộ xe tăng địch (đội quân đi tiên phong thăm dò lực lượng của ta). Tôi chạy đến một đơn vị súng cao xạ 12,7 li, trên núi Mỏ Muối (thị xã Cao Bằng), thấy quân địch từ dưới chân núi dàn hàng ngang tiến lên: lúc nằm, lúc tiến theo lệnh còi của tên chỉ huy, dù lực lượng ta bắn trả dữ dội, nhiều tên ngã gục la liệt phơi thây ngổn ngang trên sườn núi. Bọn chúng đánh theo kiểu “lấy thịt đè người”.


    Nghệ sĩ nhiếp ảnh Mạnh Thường quay phim ở mặt trận

    Tôi không nhớ mình đã chụp bao nhiêu kiểu và có bao nhiêu xác giặc chết, chỉ biết rằng báo Quân đội Nhân dân số 6356, ra ngày 26/2/1979 đã đăng hai bức ảnh của tôi với chú thích: “Xác quân Trung Quốc bị đền tội”, kèm theo bài thơ bình “Bột phát” của Đại tá Lê Kim:
    Một thằng, một thằng, lại một thằng,
    Thiên triều được mẻ chết nhăn răng,

    Đã xe bọc thép hơn trăm chiếc ,
    Lại lính thiêu thân quá chục ngàn,
    Nhật khiếp: nướng quân hơn cả Mỹ
    Mỹ khen: thí mạng, Pháp không bằng,
    Hán, Tống, Minh, Thanh đều bái phục,
    Đàn em bột phát chết leo thang!”

    17h cùng ngày, trận đánh kết thúc, một lần nữa tôi may mắn gặp hai chiến sỹ công an dã chiến, người địa phương Cao Bằng, dẫn tôi về hậu cứ. Ngày nghỉ đêm đi (bởi lính Trung Quốc đã tràn xuống cầu Tài Hồ Sìn, gần đèo Cao Bắc, giữa Nà Phặc và huyện Ngân Sơn, hậu cứ của tỉnh Cao Bằng lúc bấy giờ). Thức ăn chủ yếu của chúng tôi là lương khô 701 và 702 và một phần sắn sống của đồng bào, ăn cầm cự cho đến ngày 23/2 chúng tôi mới về được Ngân Sơn, cách thị xã Cao Bằng gần 70 km, chúng tôi phải mò mẫm mất hơn 5 ngày đêm đi đường!

    Tại đây, ngày 24/2, tôi gửi 2 cuộn phim đã chụp về cơ quan. Và sáng 27, các báo Nhân dân, Quân đội Nhân dân, TTXVN đồng loạt đăng ảnh và phát telephoto xe tăng của quân Trung Quốc xâm lược bị quân dân Việt Nam bắn cháy và bắt sống, làm nức lòng đồng bào chiến sỹ cả nước và bạn bè quốc tế. Nhiều tờ báo nước ngoài như tờ “Nhân đạo” của Đảng Cộng sản Pháp, tờ Pravda của Liên Xô… đã đăng tải hình ảnh chiến thắng của quân dân Việt Nam.

    Sáng ngày 29/2 tôi cùng Trần Tuấn (TTXVN) lên đường xuống thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng, nơi bọn xâm lược cùng một lúc giết 45 người toàn là đàn bà trẻ con, rồi quẳng xuống giếng nước ăn; đặc biệt trong đó có gia đình anh Nông Văn Tình, cả 6 mẹ con (vợ Nguyễn Thị Hải có bầu 6 tháng) đứa trẻ nhất Nông Thị Thuyên 3 tuổi, đứa lớn nhất Nông Vĩnh Cao 10 tuổi đều bị chúng giết một cách vô cùng dã man: Đứa thì bị chúng mổ bụng, moi gan, người thì bị chúng chặt chân tay, cắt cổ…

    Cách giếng nước, nơi chúng ném xác chết xuống, 100m về phía Đông có con suối Khuấy Khoảng. Thoạt đầu người ta nhìn thấy một bàn chân phụ nữ thòi ra từ bờ suối. Lần theo dấu vết, nhân dân dùng cuốc xẻng đào bới tìm thấy 28 thi thể phụ nữ và trẻ em đã thối rữa (trong đó có 14 trẻ em).

    Ngoài việc giết dân lành, chúng đốt nhà, cướp của, đốt kho thóc, phá chùa chiền, san bằng bệnh viện đa khoa Trùng Khánh, bệnh viện Cao Bằng… Đặc biệt trước thảm bại buộc phải rút quân về nước, ngày 19/3/1979, quân xâm lược Trung Quốc đặt mìn phà sập hang Pắc Bó, một di tích gắn liền với những ngày đầu Bác Hồ, sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước về sống và lãnh đạo cách mạng Việt Nam tại đây.

    Tội ác của lính Trung Quốc không sao kể xiết song chúng đã phải trả giá, hàng trăm xe tăng bị bắn cháy, nhiều vũ khí, đạn dược bị quân dân ta thu giữ và hàng ngàn tên lính phải đền tội.
    Mạnh Thường
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  13. #13

    Mặc định

    Nhìn lại lịch sử để không tái diễn chiến tranh



    Nữ chiến sỹ thông tin Việt Nam ở Lào Cai 1979


    TP - Trao đổi với Tiền Phong về cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, PGS.TS Phạm Xanh, Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, nhận định đây là cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ Quốc.

    Việc nhìn lại lịch sử không phải khơi lại hận thù, mà cũng là cơ hội để cả hai bên nhìn nhận, đánh giá. Coi như đó là một bài học để không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa.

    Chiến tranh biên giới Việt – Trung đã lùi xa 35 năm. Độ lùi thời gian cũng đủ lùi để nhìn nhận rõ hơn về cuộc chiến này. Vậy theo PGS.TS chúng ta phải gọi tên cuộc chiến này sao cho chính xác?

    Với tư cách một nhà sử học, để trả lời câu hỏi này theo tôi phải trả lời ba câu hỏi ở các góc độ: Ai đã phát động cuộc chiến tranh? Quy mô cuộc chiến tranh? Mục đích cuộc chiến tranh?


    Vào ngày 17/2/1979, Trung Quốc đưa tới 600.000-700.000 quân tấn công trên toàn tuyến biên giới của Việt Nam với mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học”. Trải qua 30 ngày chiến đấu ác liệt, các lực lượng vũ trang tại chỗ và đồng bào dân tộc 6 tỉnh biên giới Việt Nam đã dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, lấy ít địch nhiều, đánh bại “chiến thuật biển người, thọc sâu phá hoại” của quân Trung Quốc. Tới ngày 18/3/1979, Trung Quốc đã phải rút quân khỏi Việt Nam.


    Như vậy có thể nói với một nhà sử học không thể nào lẩn tránh, không thể gọi bằng một từ nào khác đó chính là cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Về phía Việt Nam đây là cuộc chiến bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979. Chúng ta có thể gọi đây là chiến thắng chống ngoại xâm như rất nhiều cuộc chiến thắng chống ngoại xâm trong lịch sử của dân tộc.



    PGS.TS Phạm Xanh

    PGS có thể mô tả rõ hơn về không khí của thời điểm xảy ra biến cố lịch sử này?


    Ngày 17/2/1979, tôi đang là giảng viên của khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp. Tôi đã chứng kiến cả nước đứng dậy xung phong để cầm súng bảo vệ Tổ quốc.

    Ngay tại khoa Lịch sử, sinh viên Nguyễn Chiều – vốn là bộ đội từ chiến trường miền Nam trở về học Đại học (sau này là cán bộ giảng dạy của khoa Lịch sử) đã viết lá đơn bằng máu gửi lên trường để xin ra chiến trường đánh quân xâm lược. Hiện nay huyết tâm thư đó đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.


    Tuy nhiên, hiện thiếu vắng các công trình nghiên cứu lịch sử về cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979?


    Đúng như vậy. Sự thiếu vắng này có nhiều nguyên nhân. Mà nguyên nhân trước hết mà các nhà nghiên cứu lịch sử đắn đo mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Trung Quốc và nhân dân Việt Nam. Trước những biến cố cuối những năm 70 thế kỷ XX ấy, mối quan hệ Việt – Trung là hình ảnh rất đẹp.


    Hiện tại, sau một thời gian cắt đứt quan hệ ngoại giao kể từ năm 1979, từ thập niên 90 chúng ta đã nối lại quan hệ này và đã nâng lên thành đối tác chiến lược, toàn diện. Chúng tôi tự đặt câu hỏi việc nghiên cứu sự thật lịch sử này có ảnh hưởng gì đến mối quan hệ truyền thống tốt đẹp đó không?


    Thế nhưng, cho dù là những nguyên nhân như tôi đã chỉ ra thì sự thực lịch sử vẫn là sự thực lịch sử. Cho nên chúng ta không thể né tránh. Nếu bây giờ chúng ta né tránh thì tương lai, con cháu chúng ta sẽ không né tránh. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành tập hợp và giữ gìn tư liệu làm nguyên liệu để nghiên cứu về cuộc chiến này. Hiện nay, cũng có nhiều nhà lịch sử đang âm thầm làm việc này.


    Quan điểm đối ngoại của chúng ta là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Vậy theo PGS, phải ứng xử thế nào với lịch sử, với truyền thống và với những quan hệ thực tại?


    Trước cuộc chiến đó, Việt Nam là một nước có truyền thống hữu nghị anh em với Trung Quốc. Người đã đặt nền móng cho tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai lãnh tụ Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông. Hiện nay, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hợp tác chiến lược, toàn diện. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta được bỏ qua, quay lưng với sự thực lịch sử. Trước sau gì, người Việt Nam chúng ta cũng phải nghĩ đến, viết đến, nghiên cứu đến sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung tháng 2 năm 1979.

    Theo tôi, sự kiện 1979 là một “lát cắt rỉ máu” cứa vào truyền thống bằng hữu hết sức tốt đẹp giữa Việt Nam và Trung Quốc.

    Như người Trung Quốc từng nói, ôn cố tri tân. Việc nhìn lại lịch sử không phải khơi lại hận thù, mà cũng là cơ hội để cả hai bên nhìn nhận, đánh giá. Coi như đó là một bài học để không bao giờ xảy ra chiến tranh nữa.
    Ngạn ngữ có câu “Không có kẻ thù vĩnh viễn”. Trước đây là kẻ thù, bây giờ là bạn. Với sự đắp đổi của thời cuộc, kẻ thù có thể biến thành bạn, và cũng có thể ngược lại. Vì vậy để giữ được mối tình bằng hữu đó chúng ta phải tôn trọng lịch sử, tôn trọng truyền thống và phải nói rõ với thế hệ trẻ vết thương đó trong quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.


    Việc nhìn nhận này không hề ảnh hưởng tới quan hệ hữu nghị, bang giao với các nước trên thế giới . Cũng như đối với Hoa Kỳ và Pháp, trước đây là kẻ thù của chúng ta. Nhưng bây giờ chúng ta đã đặt mối quan hệ đối tác chiến lược với Pháp, đối tác toàn diện với Hoa Kỳ.


    Đó là minh chứng rất rõ cho việc nhìn thẳng vào sự thật lịch sử, nhưng vẫn khép lại quá khứ, hướng tới tương lai. Như vậy hoàn toàn có thể ứng xử với cuộc chiến biên giới Việt – Trung như với cuộc chiến với nước Pháp, nước Mỹ.

    Thế hệ trẻ còn hiểu biết rất ít về cuộc chiến đấu năm 1979. Là một nhà sử học, một nhà giáo theo ông chúng ta phải làm gì để có thể giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống hào hùng của cha ông, đồng thời gìn giữ, phát triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị hiện tại?


    Tôi cho rằng không nên chỉ đưa sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 vào sách giáo khoa các cấp một cách vắn tắt, một vài dòng mà phải là một bài tương xứng, với những bài học lịch sử được rút ra. Hàng năm Trung Quốc đều có các hoạt động kỷ niệm sự kiện này, thậm chí có sự không khách quan, khiến nhân dân Trung Quốc bị hiểu sai. Vậy tại sao chúng ta lại không sòng phẳng với lịch sử?
    Xin cảm ơn PGS.
    Không quay lưng với lịch sử

    Như chúng ta thường nói “núi liền núi, sông liền sông”, hiện nay, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc là quan hệ hợp tác chiến lược, toàn diện. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta quay lưng với sự thực lịch sử. Trước sau gì, người Việt Nam chúng ta cũng phải nghĩ đến, viết đến, nghiên cứu đến sự kiện chiến tranh biên giới Việt – Trung tháng 2 năm 1979.


    PGS.TS Phạm Xanh
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  14. #14

    Mặc định

    Dư luận Trung Quốc nói gì về Chiến tranh 1979?


    Binh lính Trung Quốc cõng đồng đội bị thương rút khỏi trận địa


    TP - Sau 35 năm ngày Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh biên giới, ngày càng có nhiều người Trung Quốc nhận thức được đó là một “cuộc chiến tranh vô nghĩa”, đã diễn ra do những sai lầm của lãnh đạo nước họ thời đó.


    Sau 35 năm ngày Trung Quốc phát động cuộc chiến tranh biên giới mà họ gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ” để đáp trả “những hành động khiêu khích chống Trung Quốc”, “chi viện cuộc kháng chiến của nhân dân Campuchia”...., ngày càng có nhiều người Trung Quốc, nhất là các học giả và những người lính đã từng tham gia cuộc chiến tranh năm ấy nhận thức được đó là một “cuộc chiến tranh vô nghĩa”, đã diễn ra do những sai lầm của lãnh đạo nước họ thời đó.


    Tiền Phong Chủ nhật giới thiệu với bạn đọc một số nhỏ trong rất nhiều ý kiến ấy…

    “Một cuộc chiến tranh gây tranh cãi”

    Dưới tiêu đề “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam - một cuộc chiến tranh gây tranh cãi”, mạng “Tianya.cn” ngày 6/4/2012 đã cho đăng bài của tác giả “Tây Hồ kiếm khách”. Tác giả tự xưng là một cựu binh đã tham gia cuộc chiến tranh 17/2 này viết: “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam là một cuộc chiến có vấn đề nghiêm trọng về cả hoạch định lẫn chỉ huy, cần phải nhìn nhận lại…Cuộc chiến đó thương vong quá
    nhiều.


    Quân đội ta (tức Trung Quốc –ND) không thể hiện được ưu thế về trang bị và chiến thuật; hệ thống hậu cần và tiếp tế hỗn loạn, thiếu sự hiệp đồng giữa bộ binh – xe tăng và mặt đất-trên không, không quân và tên lửa chiến lược không tham chiến; vũ khí nhẹ quân lính sử dụng quá cũ, không thực hiện được áp chế hỏa lực…


    Sĩ quan chỉ huy chiến trường hầu như không biết tác chiến hiệp đồng binh chủng, bộ thống soái cao nhất thì chiến lược hỗn loạn; chiến tranh không đạt được mục đích “trừng phạt Việt Nam, phá hủy tiềm lực và tài nguyên, sát thương quân chủ lực và chiến lược quân sự”, cũng không đạt mục tiêu chiến lược chính trị “làm Việt Nam tan rã, giúp chính phủ mới thân Hoa lên cầm quyền”. Tuy nhiên mục tiêu chính trị quan trọng trong nước là giải quyết vấn đề quyền chỉ huy quân đội thì đã được giải quyết thuận lợi”.
    Tác giả nêu lên “11 vấn đề bên trong cuộc chiến tranh cần được làm sáng tỏ”. Trong đó có một số vấn đề quan trọng sau:


    “1. Về nguyên nhân gây chiến tranh, đến nay vẫn chưa được giải thích công khai, chính thức và khiến người ta tin phục. Thậm chí Trương Thắng, Cục trưởng Cục Tác chiến (con trai nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình) cũng thừa nhận trong hai cuốn sách của ông “Đi ra từ chiến tranh” và “Đặc công cuối cùng náu mình ở Đại lục”: về nguyên nhân của cuộc chiến tranh ấy, ngay Bộ trưởng Quốc phòng khi đó cũng không rõ vì sao ta phải tiến hành”.


    2. Mục đích chiến lược cơ bản không đạt được.


    3. Trang bị tiên tiến xếp xó. Khi đó ta có các trang bị hiện đại máy bay, xe tăng, tên lửa, nhưng do những người chỉ huy không biết tác chiến hiệp đồng nên các trang bị đó thành đồ bỏ. Vốn ra một chiếc máy bay có thể giải quyết được vấn đề phong tỏa, nhưng phải dùng đến cả binh đoàn, đi ngược lại quan niệm giá trị trong chiến tranh.


    4. Tấn công không có bài bản. Vừa khai chiến, bộ đội đã ào ạt kéo vào. Khi tôi (tác giả- ND) ở điểm cao 796, nhìn xa nhìn gần, khắp mặt đất toàn là lính ta. Khi đó tôi đã phẫn nộ nói với Tham mưu trưởng: “Vào trong xóm tìm một đứa trẻ cũng không chỉ huy tồi như thế”. Một quả pháo, một loạt đạn của đối phương cũng quét sạch cả một mảng lớn lính ta.


    5. Hiện tượng tự thương trên chiến trường liên tiếp xảy ra. Để lẩn tránh chiến tranh, một số binh lính sau khi vượt biên đi xâm lược nước người khác đã tự bắn vào chân mình.


    6. Tiêu chuẩn chế độ cho lính bị thương quá lạc hậu. Sau khi bị thương, tôi được cấp 15 tệ, tương đương với thời kháng Nhật. Năm 2010, sau 31 năm, tôi nhận được 300 tệ tiền trợ cấp thương tật, bình quân 30 tệ/năm. Tiền tuất cho lính tử trận chỉ tương đương giá một con lợn: 300 tệ….”.


    “Một cuộc chiến tranh vô nghĩa, kỳ quặc”


    Đó là tiêu đề bài báo của một cựu binh đăng trên báo điện tử Thiết Huyết (Tiexue.net) ngày 18/7/2013. Tác giả viết: “Chiến tranh Triều Tiên chúng ta đạt được lợi ích là kìm chế quân Mỹ ở phía Nam vĩ tuyến 38; Chiến tranh Giải phóng, chúng ta giải phóng được Trung Quốc đại lục. Tôi thực sự không hiểu trong cuộc chiến tranh kỳ quặc năm 1979, rốt cục Trung Quốc đạt được cái gì? Chả được gì cả!”.


    Dưới đầu đề “Nhìn lại “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam””, tác giả Thường Thanh viết trên báo mạng “Botanwang.com” ngày 30/5/2013: “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” có lẽ là cuộc chiến khiến mọi người Trung Quốc hiểu biết sự thật khó mở miệng nhất trong mọi cuộc chiến tranh đối ngoại kể từ năm 1949…
    Ngay khi đó đã có rất nhiều người nghĩ khác (với chính quyền) về giá trị của cuộc chiến tranh ấy. Lúc đầu, khi người ta nhìn thấy trên màn hình tivi hàng ngũ trùng điệp những binh lính Trung Quốc tuổi 18-20 kéo ra tiền tuyến, không khỏi cảm thán. Ít lâu sau lại thấy cảnh hàng vạn ngôi mộ liệt sĩ xếp hàng ngay ngắn trong các nghĩa trang ở biên giới Tây Nam, sự đau xót khó nói thành lời. Nhưng sự kinh dị còn ở phía sau: khi chiến tranh kết thúc chả ai biết, cũng không có cảnh cả nước ăn mừng thắng lợi, chỉ biết nó đã kết thúc rồi…


    Tôi nghĩ, sở dĩ nó kết thúc mà khó mở miệng nói được là vì khó nói rõ ngọn ngành cho quốc dân về tính chất của cuộc chiến tranh đó. Nói trắng ra, cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” thực tế là áp dụng kế “Vây Ngụy cứu Triệu” để giải cứu quân đội Khmer Đỏ đang bị Việt Nam đánh…


    Tính chất của cuộc chiến tranh đó được quyết định bởi tính chất của Khmer Đỏ! Khmer Đỏ là học trò của Đại cách mạng Văn hóa Trung Quốc, nhưng “Xanh hơn cả Xanh”, sự tàn bạo của họ đối với chính dân tộc mình đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử loài người. Họ đã áp dụng một chính sách khủng bố, diệt chủng tàn bạo….
    Theo tính toán khiêm tốn nhất, có khoảng 1,2 đến 3 triệu người CPC bị chết dưới sự cai trị của Khmer Đỏ, chiếm ¼ dân số cả nước; trong đó có 215 ngàn người CPC gốc Hoa và gần như toàn bộ 20 ngàn người CPC gốc Việt.


    Ngày 25/12/1978, theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc đoàn kết cứu nước CPC, quân tình nguyện Việt Nam đã phát động cuộc tiến công chống Khmer Đỏ. Thêm một trong những lý do để Việt Nam tiến công khi đó là để cứu kiều dân nước họ (các tác giả Trung Quốc còn chưa đề cập đến cuộc chiến tranh biên giới tàn bạo mà Khmer Đỏ tiến hành chống Việt Nam ngay từ năm 1975 - TP). Nhân dân CPC khi đó không những không chống trả mà còn dẫn đường cho quân đội Việt Nam.


    Chỉ mất 2 tuần, ngày 7/1/1979, quân đội Việt Nam đã công chiếm Phnom Penh, lật đổ ách thống trị tàn bạo Khmer Đỏ. Điều đó cho thấy rõ ràng chế độ Khmer Đỏ không chiếm được nhân tâm.

    Tôi thực sự không hiểu trong cuộc chiến tranh kỳ quặc năm 1979, rốt cục Trung Quốc đạt được cái gì? Chả được gì cả!”.
    Một cựu binh viết trên báo điện tử thiết huyết

    Sự nhiệt thành của các lễ kỷ niệm ngày quân tình nguyện Việt Nam lật đổ chế độ Khmer Đỏ tổ chức các năm sau đó, đặc biệt là gần đây với sự tham gia của hàng vạn người Campuchia ở Phnom Penh, mà tại đó, các nhà lãnh đạo Campuchia đặc biệt cảm ơn sự giúp đỡ của quân đội Việt Nam để “chấm dứt chương đen tối nhất trong lịch sử đất nước” này cho thấy hiệu quả khách quan của cái mà người Trung Quốc được giải thích là cuộc “xâm lược CPC” của quân đội Việt Nam.


    Những lời cảm tạ Việt Nam của người Campuchia nói lên một cách đầy đủ tính chất của cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam”, cũng khiến chúng ta nghi ngờ về tính chính nghĩa của nó.


    “Một cuộc chiến thảm bại”


    Để tiến hành cuộc chiến tranh 17/2/1979, Trung Quốc đã chuẩn bị kỹ lưỡng, huy động một lực lượng khổng lồ gồm những quân đoàn chủ lực tinh nhuệ, được coi là thiện chiến nhất khi đó. Theo tiết lộ chính thức trên báo chí gần đây thì việc tiến hành cái gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” được quyết định tại Hội nghị Quân ủy Trung ương ngày 7/12/1978 và mệnh lệnh được ban hành vào ngày 8/12.


    Theo Nhân dân Nhật báo, cánh quân phía Quảng Tây do Hứa Thế Hữu gồm các quân đoàn 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149); cánh phía Vân Nam do Dương Đắc Chí chỉ huy gồm các quân đoàn 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50 và lực lượng biên phòng, dân binh với tổng số quân hơn 500 ngàn, số tràn qua biên giới là 202 ngàn.
    Chỉ kéo dài 1 tháng (Trung Quốc tính từ 17/2 đến 16/3/1979), nhưng tổng cộng đã tiêu hao mất 1,06 triệu quả đạn pháo, 23,8 ngàn tấn đạn, 55 triệu viên đạn nhọn, 268 xe quân sự (48 xe tăng) bị phá hủy, hư hỏng; bị chết 8.531 người, bị thương hơn 23.000, bị bắt làm tù binh 238, bình quân mỗi ngày có 1 trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến.


    Thương vong lớn ngoài dự đoán là một trong những nguyên nhân khiến Trung Quốc phải kết thúc sớm cuộc chiến. Trong 2 ngày đầu, Trung Quốc đã mất hơn 4.000 quân, đến mức quân y không kịp trở tay, nhiều người bị thương chết cho mất máu vì không được cấp cứu.


    Theo tài liệu nội bộ của Trung Quốc mới được công bố: bước vào giai đoạn tác chiến giằng co, tỷ lệ thương vong rất cao, thường là 90% đối với các đại đội xung kích, những đại đội này khi rút quân chỉ còn hơn chục người sống sót, mỗi tiểu đội chỉ còn 1-2 người.



    Tổng hợp theo báo chí Trung Quốc
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  15. #15

    Mặc định

    Hình ảnh về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc 1979

    13:00 | 16/02/2014

    (PetroTimes) - Cách đây 35 năm, vào ngày 17/2/1979, Trung Quốc đã đưa hàng chục vạn quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới trên bộ giữa hai nước. Việt Nam đã thực hiện quyền tự vệ chính đáng của mình, tiến hành cuộc chiến đấu ngoan cường bảo vệ biên giới phía Bắc. Dưới đây là một số hình ảnh do các phóng viên chiến trường của ta ghi lại.



    Quân ta tiến ra mặt trận.
    Nhà báo Labe (Pháp) đang phỏng vấn tù binh Trung Quốc bị ta bắt.
    Tù binh Trung Quốc bị 2 nữ chiến sĩ của ta dẫn giải về hậu cứ.
    Tên tù binh Trung Quốc viết lời khai.
    Xe tăng của Trung Quốc bị bắn cháy ở Bản Sậy huyện Hòa An, Cao Bằng.
    Xe tăng Trung Quốc bị ta tiêu diệt ở Bản Sậy
    Chiến sỹ ta đứng trên xác xe tăng Trung Quốc bị bắn nát trên đồi Nà Toong.
    Xe tăng Trung Quốc bị ta bắt sống
    Mạnh Thường
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  16. #16

    Mặc định

    Ký ức đám cưới ngày 17.2.1979 của con trai Tổng bí thư Lê Duẩn

    17/02/2014 06:00

    (TNO) Hôm nay, 17.2.2014, đúng 35 năm ngày mở đầu cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền biên giới phía Bắc, cũng là kỷ niệm 35 năm ngày cưới của tôi.


    Chú rể Lê Kiên Thành và cô dâu Nguyễn Thị Tú Khanh
    trong đám cưới ngày 17.2.1979 - Ảnh tư liệu gia đình


    Năm 1979, tôi 24 tuổi, 7 năm quân ngũ và bắt đầu làm việc tại Viện kỹ thuật không quân.
    Năm 1979, đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ được bốn năm. Có thể lớp trẻ bây giờ khó mà hình dung nổi bối cảnh đất nước lúc đó nhưng tôi cũng không thể nói gì cho đủ nghĩa hơn bằng ba chữ: Rất khó khăn! Hồi đó, bộ đội như chúng tôi được phát mỗi tháng 21 kg gạo nhưng vẫn đói bởi thiếu chất. Hồi đó, mỗi năm, mỗi người dân khó có nổi một bộ quần áo mới. Hồi đó, mẹ tôi làm ở Ban tuyên giáo An Giang, thỉnh thoảng lại phải “cứu viện” chất đạm cho các con, khi thì gửi ít tôm khô, hoặc các loại mắm Nam Bộ. Những đứa con miền Bắc của bà tập quen ăn mắm từ những ngày thiếu mặc, đói ăn đó.


    Đầu năm 1979, khi quyết định sẽ cưới vợ, tôi vào An Giang thăm mẹ. Bà, người phụ nữ nhiều năm xa chồng con, biền biệt chiến trường có vẻ như chưa hề được sống một ngày của thời bình. Bà cho tôi xem những bức ảnh chụp những người dân bị Pol Pot giết hại. Lần đầu tiên, trong đời, tôi nhìn thấy hình ảnh những con người bị giết một cách khủng khiếp và man rợ như thế. Hàng chục, hàng trăm người đều chết cùng một tư thế: Miệng há ra, mắt mở man dại. Mẹ tôi giải thích họ bị đâm bằng những que nhọn từ hậu môn lên đến đỉnh đầu...
    Năm 1979, trước ngày 17.2, những người lính chúng tôi đã được phổ biến về những va chạm lớn trên toàn tuyến biên giới phía Bắc.


    Nói như thế để nhắc lại rằng, ở thời điểm đó, đất nước chúng ta ở vào thời điểm vô cùng khó khăn. Thiếu, đói... chỉ là yếu tố rất nhỏ trong 2 chữ KHÓ KHĂN đó.
    Thế nhưng, cũng sẽ chẳng ai hình dung nổi, khi còn thiếu mặc và đói ăn đó, chúng tôi được giao nhiệm vụ thử nghiệm chế tạo máy bay...


    Ngày 16.2, báo động cấp 1 toàn quân được chuyển xuống cấp 3.

    Sáng thứ bảy,17.2.1979, Trung Quốc tấn công trên toàn tuyến biên giới.


    Tối hôm đó, đám cưới của tôi vẫn diễn ra. Vẫn gần đông đủ những cán bộ cao cấp: Trường Chinh, Tố Hữu, Đại tướng Văn Tiến Dũng... Gọi là đám cưới nhưng thực ra thì cũng là một bữa tiệc nhà có chút rượu, trà thuốc và kẹo. Tôi thoáng thấy sự căng thẳng trên gương mặt của những lãnh đạo đơn vị và quân chủng không quân.


    Cha tôi - Tổng bí thư Lê Duẩn - và các lãnh đạo cao cấp vẫn nói chuyện bình thường, không nhắc gì về những gì đang diễn ra ở biên giới. Đặc biệt, nét mặt cha tôi rất bình thản, không hề để lộ (hoặc có thể không có) cảm giác âu lo hay căng thẳng gì. Cũng có thể nhờ thế, chỉ vài chục phút sau khi bắt đầu hôn lễ, không khí căng thẳng trong nhóm sĩ quan quân đội được giải tỏa, trở lại bình thường. Hôm sau, một người bạn binh ngũ nói với tôi: “Hôm qua thấy đám cưới vẫn diễn ra, thấy mọi việc vẫn bình thường, và đặc biệt, nhìn nét mặt của ông già mày, bọn tao tin Trung Quốc chẳng đánh đến Hà Nội được đâu...”.


    Tôi không bao giờ tưởng tượng rằng mình sẽ có một đám cưới như trong nhiều bộ phim mà mình từng xem thời niên thiếu: Sau đám cưới, chú rể trở về ngay đơn vị...
    Ngay sau ngày cưới, tôi trở về đơn vị và bắt đầu cuộc sống của người lính thời chiến tranh. Thỉnh thoảng chủ nhật vợ tôi đến thăm chồng; khi ra về mắt đỏ hoe, làm tôi thấy thương cảm vô cùng!



    Những người tham gia thiết kế, chế tạo chiếc máy bay Việt Nam đầu tiên TL-1.
    Từ trái qua phải: Lê Kiên Thành, Trần Mạnh Chung, Nguyễn Văn Hải, Bùi Thanh Châu.
    Đây là những ngày bay thử trên sân bay Hoà Lạc - Ảnh tư liệu gia đình
    Lúc đó, nghe nói rằng, chúng ta đã chuẩn bị cho một cuộc chiến bằng không quân để bảo vệ biên giới.
    Thế nhưng, điều đặc biệt là những ngày tháng đó, Hà Nội vẫn bình thường. Bình thường trong một cuộc chiến hết sức không bình thường. Khi tiếng súng đã nổ ra ở biên giới nhưng mấy tháng sau thì kết thúc, người Hà Nội điềm tĩnh pha chút tự hào kín đáo nhìn lại: Trung Quốc đã không thể kéo dài cuộc chiến và không thể đánh đến Hà Nội...


    Cha tôi còn nói: Nếu theo lẽ bình thường, Trung Quốc không nên đánh Việt Nam...


    Nhưng có lẽ người Việt Nam là vậy, một khi điều bất bình thường nhất đã xảy ra, họ bình thản đón nhận.
    Và tới năm 1980, chiếc máy bay đầu tiên do người Việt Nam tự thiết kế và chế tạo mang tên TL-1 đã bay trên bầu trời Tổ quốc. Năm 1981, đứa con trai đầu lòng của tôi ra đời, tôi đặt tên là Lê Kiên Dũng.

    Và cũng là bình thường khi kỷ niệm 35 năm ngày cưới, tôi không thể quên, ngày cưới của mình trùng với ngày nổ ra chiến tranh biên giới. Tất nhiên không nên ôm chặt những chuyện không vui của quá khứ nhưng hãy hiểu quá khứ để nhìn về tương lai một cách chuẩn xác hơn!
    Lê Kiên Thành
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  17. #17

    Mặc định Cầu siêu liệt sĩ bảo vệ biên giới phía bắc

    Cầu siêu liệt sĩ bảo vệ biên giới phía bắc

    13/07/2013 03:15

    Ngày 12.7, nhân dịp kỷ niệm 29 năm chiến dịch MB84, tại nghĩa trang Vị Xuyên (Hà Giang), hơn 200 cựu chiến binh Sư đoàn 356 từ các tỉnh, thành trên cả nước cùng chính quyền, nhân dân địa phương đã tổ chức lễ cầu siêu, tưởng niệm anh linh các liệt sĩ và đồng bào tử nạn vì sự nghiệp đấu tranh bảo vệ biên giới phía bắc.


    Cựu chiến binh Sư đoàn 356 thắp hương tưởng niệm các đồng đội hy sinh trong chiến dịch MB84 - Ảnh: Trường Sơn

    Sư đoàn 356 (tiền thân là Sư đoàn 316B, thành lập ngày 28.12.1974 tại Tân Kỳ, Nghệ An) có nhiệm vụ nghi binh cho Sư đoàn 316 bí mật di chuyển vào chiến trường miền Nam, sau đó cơ động lên bảo vệ biên giới phía bắc, đóng tại H.Bảo Thắng (tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ, nay là tỉnh Lào Cai). Tháng 5.1984, sư đoàn nhận lệnh cơ động sang Vị Xuyên, Hà Giang, phối hợp với các đơn vị thực hiện chiến dịch MB84 vào ngày 12.7.1984.


    Trước đó, trong giai đoạn tháng 4 - 5.1984, Trung Quốc đã mở nhiều chiến dịch, đợt pháo kích lớn, bắn hàng chục nghìn quả đạn pháo, đạn cối vào 6 tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam gồm Hà Tuyên (nay là Tuyên Quang, Hà Giang), Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai, Yên Bái), Lai Châu.


    Trung Quốc sau đó tiếp tục mở chiến dịch đánh chiếm hàng chục điểm cao thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cuối tháng 6.1984, Bộ Tư lệnh mặt trận quyết định tổ chức tiến công lớn để giành lại điểm cao bị chiếm đóng. Ngày 12.7.1984 cùng với các đơn vị bạn, Sư đoàn 356 thực hiện chiến dịch MB84. Theo tư liệu của sư đoàn, trong trận đánh lịch sử này, chỉ trong một ngày đêm đã có hơn 600 cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn hy sinh. Sau đó trong giai đoạn cuối năm 1984 - đầu 1987, ta đã nhiều lần đánh bại các cuộc tiến công của địch, bảo vệ được các điểm cao.


    Ngày 21.12.1988 quân Trung Quốc ngừng bắn pháo vào Vị Xuyên - nơi liên tục bị bắn phá từ 1984. Đến tháng 9.1989 quân Trung Quốc mới hoàn toàn rút khỏi 29 điểm cao đã chiếm giữ. Theo thống kê chưa đầy đủ, Trung Quốc đã bắn vào biên giới Hà Tuyên gần 1,9 triệu quả đạn pháo cối, giai đoạn khốc liệt nhất từ 1984 - 1987, ngày cao nhất hơn 61.000 quả.
    Tr.Sơn
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  18. #18

    Mặc định

    Đội du kích ba lần đánh thắng quân xâm lược (*)

    16/02/2013 14:00

    Vào những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, Tả Ván (thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang) không lúc nào yên ổn. Phía bên kia biên giới người ta luôn khiêu khích, gây chuyện. Và từ năm 1980 tới 1984, đã ba lần Trung Quốc xua quân tràn qua biên giới thuộc địa phận Tả Ván.

    Bắt đầu từ một ước muốn... ẩm thực: được ăn món bột ngô đồ danh tiếng của người H’Mông mà lâu nay mới nghe tên chứ chưa thấy. Nhưng rồi tôi đã được “ăn” một món còn ngon hơn cả mèn mén ở cái bản nhỏ bé ấy.
    Xã bản Tả Ván (gọi theo đơn vị hành chính là xã Tả Ván) thuộc huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Xã có hơn 400 hộ dân với hơn 2.000 nhân khẩu, 99% là người dân tộc H’Mông.



    Cổng trời Quản Bạ - Ảnh: Thanh Thảo

    Vào giữa tháng 7.2012, lần đầu tiên tôi có dịp lên cao nguyên đá Quản Bạ - Đồng Văn thuộc Hà Giang. Và như một tình cờ tất định, tôi đã tới Tả Ván.
    Từ thành phố Hà Giang, sau khi vượt qua cổng trời Quản Bạ nổi tiếng, trên đường đi Yên Minh - Đồng Văn, xe chúng tôi rẽ theo một con đường nhỏ, khoảng 20 km, dẫn về xã Tả Ván, theo lời mời của anh Ly Thanh Hùng - Chủ nhiệm HTX. Về ăn một bữa cơm trưa của người H’Mông. Rất thú vị với lời mời này, tôi nhắc anh Tuấn - Phó chủ nhiệm Liên minh HTX tỉnh Hà Giang: Tuấn nói với Hùng là cho bọn mình ăn một bữa mèn mén “nhà giồng được” nhé! Anh Tuấn gật đầu: Chắc chắn rồi! Vì ở đây, mèn mén là món ăn chưa bán ngoài quán, chưa “thị trường”.


    Cả nhà Ly Thanh Hùng vồn vã đón chúng tôi. Người H’Mông ít nói, nhưng nhìn gương mặt rạng rỡ của họ khi khách “được mời” tới nhà, có thể đọc rõ những tình cảm anh em thật nồng ấm. Hùng từng đi bộ đội, giờ phục viên làm chủ nhiệm HTX. Nhà của Hùng được dùng luôn làm trụ sở hợp tác xã cho... tiện. Chàng trai H’Mông 30 tuổi này có gương mặt thật sáng, mũi cao và thẳng. Theo đúng đề nghị của chúng tôi, vợ chồng Hùng đã đồ sẵn một chõ mèn mén, kèm dưa nương mới hái và một nồi canh ngan (vịt xiêm). Hùng nói, mèn mén phải ăn kèm dưa nương cho mát, còn để “trôi chảy” hơn thì phải có canh, ngon nhất là canh ngan. Dĩ nhiên tôi hiểu, bữa ăn hằng ngày của người H’Mông thường chỉ có mèn mén với dưa nương, làm sao có canh ngan trong “thực đơn” được. Canh ngan là món đặc biệt mà người H’Mông “nhịn miệng đãi khách”, dù yêu cầu tha thiết của chúng tôi chỉ là mèn mén và dưa nương.

    Ông Vàng Xín Dư (phải) - người từng lập kỳ tích ba lần chiến thắng quân xâm lược từ bên kia biên giới
    Tôi đã có một bữa ăn trưa có lẽ là đặc biệt nhất trong đời mình. Bởi ở đây, tôi không chỉ được ăn mèn mén với dưa nương và canh thịt ngan, dù những món ăn này hòa quyện với nhau tạo nên một hương vị thật đậm đà, quyến rũ. Ở nhà Hùng, giữa những chén rượu ngô H’Mông “đặc chủng”, tôi được gặp và hầu chuyện một người đặc biệt: ông bác (bên mẹ, trong nam gọi là cậu) của Ly Thanh Hùng, ông Vàng Xín Dư. Ông Dư nguyên là Phó ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Giang, mới về hưu. Một ông cựu quan chức thì cũng không có gì đặc biệt. Nhưng qua lời giới thiệu của Tuấn và lời kể của Vàng Xín Dư, tôi biết ông từng là người chỉ huy của đội du kích xã Tả Ván, đã lập nên một kỳ tích: ba lần đánh thắng quân xâm lược tràn qua từ bên kia biên giới.


    Tả Ván có 13,5 km đường biên giới với Trung Quốc, là một xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. Ông Dư nói đùa: "Xã tôi chỉ có 2 người “dân tộc thiểu số” - là hai bà chị người Kinh lấy chồng người H’Mông ở Tả Ván, khi họ cùng đi thanh niên xung phong với nhau. Hai bà chị này, một quê Nam Định, một quê Thanh Hóa, nói sõi tiếng H’Mông. Nếu tình cờ gặp họ, anh sẽ nghĩ họ là phụ nữ H’Mông thôi". Rồi ông Dư kể chuyện:
    Vào những năm đầu thập niên 80 thế kỷ trước, Tả Ván không lúc nào yên ổn. Phía bên kia biên giới người ta luôn khiêu khích, gây chuyện. Và từ năm 1980 tới 1984, đã ba lần họ xua quân tràn qua biên giới thuộc địa phận Tả Ván.


    Đường sang đây là độc đạo xuyên núi, Tả Ván lại là xã nhỏ bé nghèo nàn, nên quân xâm lược nghĩ chỉ cần vài ba tiểu đoàn đột kích cùng pháo binh yểm trợ dọn đường là có thể “nuốt trôi” những bản làng heo hút của người H’Mông ở đây. Họ nhầm!


    Đội du kích Tả Ván, chỉ được trang bị súng trường K44, súng kíp và lựu đạn chày, dưới sự chỉ huy của thư ký Ủy ban xã Vàng Xín Dư, đã bình tĩnh đón tiếp những “vị khách không mời” này.
    Người H’Mông là những nhà leo núi bẩm sinh, rất giỏi đánh vận động chiến trên địa hình núi đá hiểm trở. Theo con đường độc đạo dẫn vào bản Tả Ván, quân xâm lược liên tục bị phục kích bởi những “con đại bàng H’Mông” thoắt ẩn thoắt hiện trên những ngọn núi và hẻm núi. Chỉ với vũ khí khá thô sơ, nhưng với sự nhanh nhẹn, thông minh và lòng quả cảm, những du kích Tả Ván đã bình tĩnh đẩy lùi mấy tiểu đoàn quân chính quy Trung Quốc. Và đẩy lùi tới... ba lần. Bên đối phương thiệt hại bao nhiêu không rõ, về phía ta, cả xã chỉ mất... 3 con trâu, do đạn pháo bên kia bắn trúng. Ông Vàng Xín Dư kể: “Thung lũng mình đây bị pháo kích không biết bao nhiêu trận. Có lúc, họ bắn pháo suốt cả ngày, dân phải bồng bế đi sơ tán hết. Cơ cực lắm”.


    Cùng trong năm 1984, vào ngày 12.7, tại mặt trận Vị Xuyên - Hà Giang, quân chính quy Việt Nam đụng độ dữ dội với quân chính quy Trung Quốc. Thanh Thủy - vùng núi hiểm trở dọc biên giới - thành chiến địa, nơi những chiến sĩ của chúng ta phải trần lưng chịu pháo, chống những trận tập kích ác liệt, và hy sinh để giữ từng điểm cao, từng hốc núi. Trong bối cảnh ấy, kỳ tích “ba lần đánh thắng quân xâm lược” của những người du kích H’Mông bản Tả Ván thực sự là một điểm son chói lọi tiêu biểu cho cuộc chiến tranh nhân dân, được tiến hành bởi nhân dân và nhằm bảo vệ nhân dân. Ngay sau lần thứ ba đánh thắng quân xâm lược, quân và dân Tả Ván được nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang”. Riêng ông Vàng Xín Dư được “lên chức”, được giao nhiều trọng trách, cho tới khi về hưu là Phó ban Tổ chức Tỉnh ủy. Ông Dư cười khà khà: “Từ đó mình được đi ô tô”.


    Câu chuyện của ông Vàng Xín Dư đã kéo tôi trở lại Tả Ván chỉ 2 tháng sau. Lần này, tôi đi cùng anh chị em Công đoàn ngành dệt may, cùng anh Lê Quốc Ân - nguyên Chủ tịch Tập đoàn dệt may VN, mang theo những món quà đến với trẻ em 2 xã Tả Ván và Tùng Vài. 800 chiếc áo ấm mới cáu cạnh “nhà giồng được”, cùng nhiều món quà khác được Công đoàn ngành dệt may trao tận tay các học sinh mầm non, tiểu học và trung học cơ sở ở 2 xã này.


    Buổi trưa, theo yêu cầu, tôi được gặp những cựu du kích đã góp phần làm nên “hattrick chiến thắng” của Tả Ván. Họ mộc mạc, kiệm lời như đá núi, nhưng có những nụ cười lành sạch tin cậy như… mèn mén. Mỗi người góp vài câu, kể thêm cho tôi nghe về những trận đánh oai hùng cách đây ngót 30 năm. Khi ấy, họ còn rất trẻ. Bây giờ, người nào cũng có cháu nội cháu ngoại. Các cháu đã có mặt ở sân trường buổi sáng để nhận những tấm áo ấm nghĩa tình. Rồi các cháu sẽ lớn lên, sẽ thành những công dân quả cảm giữ gìn phên giậu của Tổ quốc, như ông nội ông ngoại đã làm. Mỗi tấm áo chống rét, mỗi món quà nhỏ đến với các cháu Tả Ván, Tùng Vài hôm nay chính là sự trao gửi niềm tin của chúng ta vào thế hệ tương lai sẽ bảo vệ từng tấc đất nơi địa đầu Tổ quốc.
    Nhà thơ Thanh Thảo
    (*) Bữa mèn mén ở bản nhỏ - Thanh Niên Xuân 2013
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  19. #19

    Mặc định

    Mười bảy tháng hai

    17/02/2014 03:00

    Tháng 8.1978, nửa năm trước khi diễn ra cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc năm 1979, Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) đã được đón Tổng bí thư Lê Duẩn xuống thăm và làm việc. Bài nói chuyện của Tổng bí thư giàu cảm xúc, với nhiều nội dung đã làm sáng tỏ một điều: Cuộc “gặp gỡ” của súng đạn trên biên giới phía bắc sẽ là điều không thể tránh khỏi.

    Trên thực tế, những hoạt động xâm nhập, bắt cóc, nổ súng… từ phía “bên kia” đã ngày càng dày thêm. Và cũng trên thực tế, “bên này” đã có sự chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Nhưng rồi, Mười bảy tháng hai vẫn nổ ra như một bất ngờ.



    Hoàng Thị Thu Hiền (sinh năm 1976) được chiến sĩ Sư đoàn 346 cứu khỏi vùng chiến sự Hòa An, Cao Bằng, vào ngày 23.2.1979 - Ảnh: Trần Mạnh Thường
    Khó ngờ rằng Trung Quốc lại mở cuộc tiến công quy mô, tàn khốc trên diện rộng hàng trăm ki lô mét toàn tuyến biên giới như vậy, với lực lượng hùng hậu 60 vạn quân thay cho dự báo có thể là các cuộc xung đột cấp chiến thuật trong một không gian hạn chế. Lý thuyết chưa được kiểm chứng cho đến lúc ấy là: không thể có chiến tranh xâm lược từ phía người anh em cùng giai cấp, cùng lý tưởng! Huống hồ đây lại là giữa hai quốc gia là phên dậu của nhau, từng sát cánh trong cuộc chiến tranh trường kỳ và khốc liệt vì độc lập, tự do của dân tộc Việt. Tất cả đã đổ vỡ một sớm một chiều.
    *
    **
    Nguyên nhân thật của việc gây ra cuộc chiến Mười bảy tháng hai chưa từng được công khai. Hãy để cho lịch sử phán xét, dù phải thêm năm, mười hay vài mươi năm nữa. Điều này đâu quan trọng, thực tế ai cũng rõ cả rồi. Vì sự tôn trọng Trung Quốc, và vì quan hệ lâu dài giữa hai nước, người viết bài này từng không chỉ một lần kiến nghị về việc nên chăng có các cuộc luận đàm chính thức và thiện chí về vấn đề này nhằm tạo nên đồng thuận chính trị, coi sự kiện Mười bảy tháng hai như một tai biến lịch sử chấp nhận được cho cả đôi bên như để khép dần quá khứ.
    Trong các quyển sách Chính nghĩa đích hoàn kích (Cuộc đánh trả chính nghĩa) của NXB Chiến Sĩ, Tuyển tập hình ảnh tác chiến đánh trả tự vệ trước Việt Nam do Ban Chính trị hậu cần quân khu Côn Minh ấn hành năm 1984, Hùng sư chấn nam cương của NXB Mỹ thuật Hà Bắc (in lần thứ nhất vào tháng 7.1989)... là những bài viết, hình ảnh xuyên tạc sự thật lịch sử về cuộc chiến Mười bảy tháng hai; vu khống, xúc phạm Việt Nam. Còn theo thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an, trong những dịp cao điểm, nhiều cơ quan truyền thông Trung Quốc đã tung ra hàng trăm tin, bài với những nội dung xảo ngôn, kích động tương tự.
    Trần Ka
    Nhưng hình như có những người, có những luận điểm truyền thông ở nước bạn không muốn thế. Năm 2009, 30 năm sau Mười bảy tháng hai, đầy ắp trên các trang mạng - và cả báo viết - của Trung Quốc là những bài phấn khích cực đoan về cuộc “phản kích tự vệ”.


    Người ta đánh thức cuộc chiến ấy với đầu rơi máu chảy được mô tả, hả hê chuyện tống bom, tống bộc phá giật sập một chiếc hang giết chết hàng trăm người dân Việt Nam vô tội vào đấy lánh nạn. Rồi sau đó, trên các phương tiện truyền thông, lúc ngấm ngầm khi bột phát, người ta nhắc về Mười bảy tháng hai bằng giọng điệu kích động, gây hấn và thậm chí có tờ báo còn “thiết kế” ra cả kịch bản chiến tranh trên bộ và trên biển Đông trong tương lai gần. Ngay cả mối quan hệ một thời “môi hở răng lạnh” (chữ của phía Trung Quốc) với nước láng giềng Việt Nam cũng bị các luận điệu ấy kích bác một cách giễu cợt, ác ý…


    May thay, những điều đó, dù có thể được “bật đèn xanh" lúc này hay lúc khác, cũng không phải là đại diện của dư luận và lương tri Trung Quốc.
    Một nhà ngoại giao kể rằng ông ở Bắc Kinh thời kỳ Mười bảy tháng hai. Có lần đi sửa kính, người thợ già khi biết ông là người Việt liền bảo: “Tôi không hiểu những gì đang xảy ra ở biên giới, nhưng đem con em Trung Quốc đi đánh Việt Nam là không thể được…”, rồi dứt khoát không lấy tiền công.


    Còn câu chuyện dưới đây được kể từ Quý Châu, tỉnh vùng cao Trung Quốc. Một đoàn khảo sát thủy điện đến đấy, ghé vào quán ăn hẻo lánh. Khi biết trong đoàn có một số chuyên gia Việt Nam, chủ quán liền bốc điện thoại gọi đi đâu đó. Rồi giải thích: Ở vùng này hầu như không thấy người Việt, ông trưởng thôn của chúng tôi vẫn mong có dịp gặp họ. Trưởng thôn đến ngay tắp lự (dù ông đi lại không dễ dàng), trong quân phục Giải phóng quân chỉ có chiếc mũ với quân hiệu là mới (chắc lâu không có dịp đặt lên đầu), tay trái chống nạng, tay phải cầm một chai rượu, hỏi: “Xin lỗi, ở đây có ai từng là quân nhân không?”.

    Bạn tôi, người kể lại câu chuyện này đứng lên. Anh chưa kịp cất lời thì trưởng thôn đã lập tức quăng nạng qua một bên, dằn chai rượu lên bàn, hai chân - một giả, một thật - dập mạnh vào nhau, tay phải hắt một đường thẳng lên vành mũ: “Tôi đã từng tham gia chiến tranh “phản kích tự vệ”, xin nhận ở đây lời xin lỗi của tôi”. Ông kể mình mất một chân vì vấp phải mìn, và thôn nhỏ này cũng có sáu, bảy quân nhân tử trận trong cuộc “phản kích tự vệ” ấy. Ở Quảng Tây, tôi có một nhóm bạn là những chiến sĩ công binh Trung Quốc từng sang giúp chúng ta trong kháng chiến. Từ lần đầu tiếp xúc, họ vẫn gọi là “bạn chiến đấu”, đón tiếp chân tình. Ám chỉ đến cuộc chiến Mười bảy tháng hai, có người trong số họ bảo: “Cái gì xấu vứt ở ngoài kia, không cho ngồi vào đây”.


    Những quan điểm tương tự cũng có ở các học giả, chuyên gia và ngay cả giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Có vị từng đánh giá cuộc chiến tranh Mười bảy tháng hai là một sai lầm. Có vị gần đây còn nhìn nhận “công lao xây dựng quan hệ hữu nghị tốt đẹp với các nước láng giềng mấy chục năm qua của chúng ta chừng đã đổ hết xuống sông xuống biển”.
    *
    **
    Quy chiếu từ tuyên bố “Dạy cho Việt Nam một bài học”, có thể khẳng định rằng: Nhìn từ 35 năm sau, cuộc chiến Mười bảy tháng hai thật sự là một sai lầm nghiêm trọng của những người gây ra nó. Còn lý do để có nó - cái gọi là cuộc “phản kích tự vệ” - chắc chắn là một ngụy lý. Người ta lu loa rằng, phải “phản kích tự vệ” vì đã có hàng ngàn cuộc nổ súng, xâm lấn từ phía Việt Nam, điều không hề có thật. Khi ấy, vừa giành được độc lập tự do, đang nỗ lực xây dựng đất nước trước muôn vàn khó khăn thì làm sao mà Việt Nam có thể dư lực mà khiêu khích, gây chiến với một nước mạnh là Trung Quốc.


    Hơn nữa, đấy là quốc gia từng ủng hộ Việt Nam trong hai cuộc chiến chống ngoại xâm thế kỷ 20. Nếu vin vào việc “vì yếu tố Campuchia” thì lịch sử đã cho thấy rõ rồi. Sau khi hỗ trợ lực lượng giải phóng Campuchia xóa tan nạn diệt chủng (cũng chính là mối nguy ở biên giới Tây Nam), Việt Nam đã tôn trọng quyền quản lý đất nước của người Campuchia để đất nước này nay cũng là “người bạn đáng tin cậy của nhân dân Trung Quốc”, như người ta hoan hỉ. Có thể không bắt bẻ những chuyện này làm gì, nhưng đáng quan tâm là: đến nay, bên kia biên giới, đây đó vẫn tồn tại luận điệu “gắp lửa bỏ tay người”, dựng nên những câu chuyện sai sự thật để vừa kích động, vừa gây áp lực.

    Xe tăng Trung Quốc bị Tiểu đoàn 50 (Trung đoàn 567 - Bộ Chỉ huy quân sự Cao Bằng) tiêu diệt tại Nà Tòng, thị xã Cao Bằng - Ảnh: Trần Mạnh Thường
    Chính sách gây áp lực tuyệt đối không thể giúp được gì vào việc xây dựng một quan hệ tốt đẹp theo mong muốn của cả hai bên. Người Á Đông vốn chủ trương thuyết “tiểu nhân - quân tử”; thái độ quân tử ở góc nhìn của thời đại nên là một trong các tiêu chí để xử sự, truyền thông về sự thật lịch sử và cả với những bất đồng.
    Kiên quyết bảo vệ lợi ích của đất nước, của dân tộc, các thế hệ Việt Nam có lúc thể hiện sự thận trọng nhún nhường vì đại cục; nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc để người nghĩ mình ươn sợ. Có câu: “Đành để người ghét, chớ để người khinh”. Huống hồ chúng ta có chính nghĩa ngàn năm lịch sử sau lưng và trăm triệu Lạc Hồng trước mặt chứ, đồng bào.


    TS Vũ Cao Phan
    (Viện Chính trị và Quan hệ quốc tế, Đại học Bình Dương)
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  20. #20

    Mặc định

    Có chiến sĩ đã chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc kể lại. Đơn vị anh bắt được 1 lính Trung Quốc biết tiếng Việt.
    Khi xét hỏi hắn nói:
    - Ngộ rất piết, Việt Nam có nhiều người tài à.
    Thấy tên này có vẻ ý ới, chiến sĩ ta hỏi lại:
    - Có biết chữ không, là ai đấy.
    Tù binh trả lời:
    - Ngộ piết chứ, như Việt Vương Câu Tiễn à.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Chiến tranh biên giới 1979: Lá thư từ Trung Quốc hạch tội Bắc Kinh
    By Bin571 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 18-02-2021, 12:47 PM
  2. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 23-02-2019, 05:34 PM
  3. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 17-02-2019, 11:46 AM
  4. Trả lời: 36
    Bài mới gởi: 28-02-2016, 01:38 PM
  5. Chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 dưới góc nhìn quốc tế
    By Bin571 in forum Lịch sử VN từ năm 1945 đến nay
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 23-08-2011, 02:33 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •