kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: Những câu chuyện nhân quả

  1. #1

    Mặc định Những câu chuyện nhân quả

    Pháp sư Thích Hải Đào
    Nhà xuất bản Tôn giáo ấn hành năm 2009

    Lời nói đầu
    Xuất xứ của tập sách này là kinh điển của Tây Tạng, do Pháp vương Tấn Mĩ Bành Thố của Tạng truyền Phật giáo truyền giảng, Sách Đạt Cát Thậm Bố phiên dịch ra Trung văn, sau đó Hiệp Hội Ấn Kinh tổ chức tuyển tập 40 mẩu chuyện đặc sắc để in lại. Trong quá trình tuyển chọn, chúng tôi có lược bỏ và thêm bớt một vài câu cho phù hợp với văn phong thời hiện đại.
    Trong lời nói đầu, dịch giả Sách Đạt Cát Thậm Bố giới thiệu: “Kinh này được chuyển dịch từ tiếng Hán sang tiếng Tây Tạng vào triều đại nhà Đường”. Nhưng trong Đại Tạng Kinh Hán truyền tìm chưa ra bản văn bằng chữ Hán. Khi biên tập tra cứu, chúng tôi phát hiện có những câu chuyện giống như Bách Dụ kinh, Tạp Bảo Tạng kinh của Đại Chính tạng. Độc giả nào có hứng thú xin đọc qua để tham khảo.
    Chúng sinh được đề cập đến trong tuyển tập này có thể phân làm hai loại. Loại thứ nhất là những chúng sinh tuy cùng thời với Đức Phật, song lại không có duyên học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật đà, hoặc có học tập và thực hành nhưng chưa được giải thoát. Loại thứ hai là những chúng sinh đã được giải thoát, còn chờ sự thọ ký của đức Như Lai. Ngoài ra, còn có rất nhiều sự tích hành Bồ Tát đạo của những tiền thân Đức Phật trong quá khứ.
    Khi đọc về nghiệp quả của những chúng sinh loại thứ nhất, xin quý vị cần phải hết sức chú ý. Vì sao họ sinh cùng thời với đức Như Lai, lại may mắn được ngài giáo hóa, chỉ rõ nghiệp nhân đời trước, nhưng lại không thể học tạp và thực hành phương pháp giải thoát của Phật đà, cho đến chứng quả giải thoát? Nguyên nhân chủ yếu là gì?
    Nên biết rằng những chúng sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ, trước khi nghiệp xấu ác chưa tiêu trừ thì không có thời gian để học tập và thực hành phương pháp giải thoát của Phật đà, như vậy mới hiểu được nguyên nhân do khiến họ bị rơi vào đường ác, cho đến lúc nào có thể thoát khỏi đường ác, lúc nào có thẻ đạt được giải thoát chứng quả. Sau khi trải qua sự tìm hiểu sâu sắc như thế, tin rằng không cần nói nhiều cũng sẽ biết làm thế nào để không rơi vào đường ác.
    Đối với loại chúng sinh thứ hai, bất luận thân phận như thế nào, gặp thuận cảnh, nghịch cảnh ra sao, đều có cơ hội gặp Đức Phật và nghe pháp, tu hành giải thoát, người đọc nên suy xét xem vì sao họ lại có nhân duyên tốt hoặc xấu như vậy? Nhân tố quan trọng nhất là gì?
    Như vậy, cần phải lưu tâm trong đời quá khứ họ đã từng gây tạo nghiệp duyên gì, hoặc phát khởi nguyện lành gì mà giúp họ sinh ra đời gặp Phật, bất luận thân phận giàu sang hay nghèo hèn, mặc dù nghiệp xấu vẫn chưa hoàn toàn tiêu diệt, vẫn có khả năng được diện kiến đức Thế Tôn, hoặc gần gũi ngài để học tập và thực hành phương pháp giải thoát, hoặc xuất gia sống đời Phạm hạnh, cho đến giải thoát khỏi sinh tử.
    Khi đã hiểu rõ được nhân duyên đời trước của những chúng sinh này, nên khởi sinh tư tưởng: “Kiến hiền, tư tề yên; kiến bất hiền, nhị nội tự tỉnh dã” (Thấy ai hiền đức, nên mong muốn cố gắng cho bằng người; thấy ai chẳng hiền, nên tự suy xét đừng bắt chước theo). Như vậy mới có thể chọn lựa những hành vi đúng đắn, đặc biệt tránh tạo nghiệp nhân phải đọa vào đường xấu.
    Chúng sinh trong đường ác, ngay khi đức Như Lai còn tại thế cũng không có nhân duyên học Phật pháp. Điều này là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với tất cả chúng ta. Ngoài việc tiêu trừ, không tạo thêm nghiệp xấu ác, còn cần phải nỗ lực tích chứa nhiều nghiệp lành, thực hành lục độ (hoặc thập độ – đối với hành giả tu Mật Tông). Như vậy, nếu là do những nhân xấu tạo trong quá khứ thành thục mà phải chịu quả xấu, ta cũng có thể dùng năng lượng tu tập này để đối diện, giữ vững tâm chí, tùy duyên tiêu trừ nghiệp cũ. Và nếu nhân xấu ác quá nhiều, năng lượng tu tập đời này lại chưa được vững chãi, thì ít nhát trong khi lãnh chịu nghiệp xấu đời trước ta cũng không tạo thêm những nghiệp ác mới. Được vậy thì sau này lúc đức Phật khác thị hiện xuống nhân gian, chắc chắn chúng ta sẽ có khả năng được thân người, gặp Phật, nghe pháp và được hóa độ.
    Tuy nhiên, niềm ân hận lớn nhất của người Phật tử thời nay chính là vì lúc Phật tại thế hãy còn trầm luân, sau khi Phật diệt độ mới được thân người, vì quá nhiều nghiệp chướng nên không được thấy kim thân của Như Lai. Dù vậy, cũng xin chớ quên rằng chúng ta vẫn còn may mắn được sống trong ngôi nhà Giáo pháp giải thoát của đức Như Lai, lại có thân người khó được, đầy đủ nhân duyên đọc kinh Bách Nghiệp này, lo gì khong thể noi gương thánh hiền, chí thành phát nguyện, nguyện sau này khi đức Di lặc Thế Tôn thị hiện ra đời sẽ được gần Phật để nghe pháp âm vi diệu, giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
    Như thế thì dù nghiệp xấu gây tạo ở đời trước đã thành thục, nhưng nghiệp lành của sự phát nguyện và năng lượng tu tập cũng không vì thế mà mất đi, và khi nghiệp cũ tiêu diệt cũng chính là lúc nghiệp lành thành thục. Mong sao tất cả các vị hữu duyên đều sẽ là những người đầu tiên của Long Hoa tam hội.
    Soạn giả cẩn chí.



  2. #2

    Mặc định

    TỲ KHEO NI KIM SẮC
    Cô gái xấu xí cúng dường tháp Phật
    Cảm được thân thể màu vàng ròng

    Lúc đức Như Lai ở thành Vương xá, có người phụ nữ gia đình nghèo sinh hạ một em bé gái có 18 tướng xấu. Cha mẹ của em đều hết sức buồn rầu. Cha em nói:
    - Đứa con xấu như vậy, nên lúc trời tối, hãy đem nhận nước cho chết đi.
    Người mẹ đau buồn nói:
    - Chàng không nên nói như vậy, giết người là hành động trời đất không thể dung thứ, huống gì nó lại là con của chúng ta. Ít ra hãy đợi nó lớn lên, có thể tự sinh sống, rồi hãy đuổi nó ra khỏi nhà cũng không muộn.
    Người chống suy nghĩ, đồng ý.
    Từ đó về sau, hai vợ chồng họ giấu kín em trong nhà, không để cho bất kỳ ai thấy mặt. Đến lúc em có thể tự nuôi sống lấy mình, vợ chồng họ bèn đuổi em ra khỏi nhà.
    Em đi lang thang khắp đầu đường cuối xóm, xin ăn khắp nơi, nhưng ngày ngày đều cơm không đủ no, áo không đủ ấm. Em vốn dĩ tướng mạo đã xấu xí, bây giờ lại bị bệnh hủi, quả thật thóng khổ không thể chịu nổi, luôn lăn lóc rên siết bên lề đường.
    Thầy A nan xem thấy tình cảnh thảm thương của em như vậy, bất chợt trong tâm cảm thấy thương xót vô cùng. Không chần chừ, thầy liền bước đến ôn hòa hỏi thăm:
    - Này em bé! Em têm gì? Nhà ở đâu? Sao lại ra nông nỗi thế này?
    Thần trí của em vẫn còn tỉnh táo, bèn cầu xin thầy một cách hết sức bi thương:
    - Kính bạch Tôn giả! Nhất định là do chiêu cảm nghiệp xấu đời trước nên con mới bị tình cảnh như ngày hôm nay. Ngưỡng mong Tôn giả từ bi giúp con tiêu trừ nghiệp xấu này!
    Thầy A nan thương xót an ủi em:
    - Em không nên lo lắng, thầy sẽ giúp em tu thiện, dùng nghiêp lành để tiêu trừ nghiệp xấu.
    Thế là thầy A nan tìm một ít dầu vừng, hương hoa, đưa cho em ròi bảo em mang đến tháp thờ tóc và móng tay của đức Như La để cúng dường...
    Khi ấy, đúng lúc trưởng giả Cấp cô độc cũng vừa đến nơi đó, thấy chuyện như vậy bèn thưa hỏi thầy A nan. Thầy liền kể lại ngọn ngành sự việc cho ông ta nghe. Trưởng giả Cấp cô độc thấy quần áo của em rách nát, lòng từ bi sinh khởi, liền tặng em một bộ áo quần mới.
    Đức Thích ca Mâu ni Như Lai quán xét biết rõ về em bé đáng thương này, bèn đích thân đến nơi tháp. Em bé xấu xí nhìn thấy kim thân đức Như Lai tam môn tịch tĩnh, tướng hảo trang nghiêp, viên mãn nghiêm sức, liên sinh khởi tín tâm cực lớn, thầm nghĩ: “Công đức mình cúng dường tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai đã rất lớn, nếu hôm nay có thể cúng dường kim thân của Ngài, công đức càng không thể nghĩ bàn”. Em suy nghĩ trong giây lát, liê dùng bộ áo quần trưởng giả vừa cho mình để cúng dường đức Thế Tôn. Cúng dường xong, em chắp tay cầu nguyện một cách vui mừng khôn xiết. Ngay lúc đó em qua đời với tâm đầy hoan hỉ.
    Sau khi chết, em được đầu thai vào một gia đình lái buôn giàu có. Lúc vừa chào đời em đã được thân thể hết sức đoan trang trang xinh đẹp, da màu vàng ròng, do đó cha mẹ đặt tên là “Kim Sắc”.
    Năm Kim Sắc vừa tròn 7 tuổi đã sinh khởi niềm tin thanh tịnh vào Phật pháp. Khi được sự đồng ý của cha mẹ, em xuất gia sống đời tỉnh thức theo giáo pháp giải thoát của đức Thế Tôn Thích ca Mâu ni. Sau khi xuất gia, em ngày đêm tinh tấn tu tập, không bao lâ đã dứt hết phiền não, chứng đắc thánh quả A la hán, trở thành một vị A la hán đầy đủ thần thông.
    Sau khi chứng quả, Kim Sắc dùng thần thong quán sát đời trước của mình, biết được nhờ thầy A nan cứu mình thoát khỏi thân người bần tiện với 18 tướng xấu xí, cho nên hết sức cảm kích, ngày nào cũng cung kính cúng dường thầy.
    Chúng tỳ kheo thấy chuyện như vậy bèn đến thưa thỉnh đức Thé Tôn:
    - Kính bạch đức Thế Tôn! A la hán Kim Sắc có nhân duyên gì mà được sinh vào gia đình giàu sang phú quý, toàn thân có màu vàng ròng? Lại vì sao khi tuổi hãy còn nhỏ mà đã có niềm tin thanh tịnh vào giáo pháp giải thoát của đức Như Lai, xuất gia chứng quả? Xin đức Thế Tôn chi dạy cho chúng con được rõ.
    Đức Thế Tôn ôn tồn nói:
    - Các con có còn nhớ cô gái với 18 tướng xấu ở thành Xá vệ trước kia không?
    - Kính bạch đức Thế Tôn! Chúng con còn nhớ! Cô ta thật hết sức xấu xí.
    - Lúc cô gái ấy cùng dường tháp thờ tóc và móng tay của ta, ta đích thân đến thọ nhận. Khi vừa thấy ta, cô gái ấy liên sinh khởi tín tâm và vui mừng cực độ. Ngay trong lúc tràn đầy tín tâm và niềm vui đó, cô qua đời. Do đó, cô chuyển sinh vào gia đình lái buôn giàu sang, vừa ra đời đã có được thân thể màu vàng ròng.
    Các vị tỳ kheo lại cung kính bạch hỏi đức Như Lai:
    - Kính bạch đức Thế Tôn! Thế thì trước đây cô ta từng gây tạo nghiệp xấu gì mà phải chịu quả báo bần tiền, có 18 tướng xấu như vậy?
    Đức Như Lai từ tốn đáp:
    - Đây là do nghiệp lực đời trước của cô ta đã thành thục. Vào thời đức Phật Ca diếp còn tại thế, tuổi thọ con người tới 20.000 tuổi, tại vườn Lộc Dã ở Ấn Độ có người con gái của một thương gia, sinh khởi niềm tin thanh tịnh với đức Phật Ca diếp, cũng xin cha mẹ cho cô được xuất gia sống đời tỉnh thức. Sau khi xuất gia, cô bộc lộ bản tính cứng đầu, cậy tài háo thắng, thường mắng nhiếc người khác là “người hèn”, “người xấu... Sau đó, cả đời tu hành thanh tịnh Phạm hạnh, trước khi lâm chung cô phát nguyện:
    “Cả đời con xuất gia tu hành phạm hạnh, ty chẳng có được thành tựu gì to lớn lắm, song nhờ công đức xuất gia này, hi vọng được an trú trong giáo pháp của đức Thích ca Mâu ni Như Lai, được Phật hoan hỉ, xuất gia tu hành chứng quả A la hán, và nguyện cho ác nghiệp mắng chửi người sẽ không thành thục”.
    Nhưng, nhân quả không hư dối, nghiệp ác mắng chửi người đó thành thục trước, khiến cô trơ thành cô gái bần tiện có 18 tướng xấu. Sau đó, nguyện lành thành thục, được gặp Phật và sinh tâm tín ngưỡng, vui mừng đối với Như Lai, do dó được chuyển sinh thành cô gái có sắc thân màu vàng ròng, cuối cùng được xuất gia chứng quả A la hán. Đây là nhân duyên đời trước của A la hán Kim Sắc”.

  3. #3

    Mặc định

    NĂM TRĂM MỤC ĐỒNG
    Nô đùa chưởi mắng làm mục đồng,
    Nhờ nguyện lức đắc A la hán

    Lúc đức Như Lai ở thành Xá vệ, quốc vương Tát ca cung thỉnh đức Thế Tôn cùng chúng tỳ kheo tại vường của thái tử Kỳ đà cúng dường ba tháng. Quốc vương cúng dường bằng những thực phẩm thượng hạng, như sữa tươi, sữa chua, đề hồ..., lại còn sai 500 mục đồng làm việc giúp các thầy. Sau khi thời hạn cúng dường ba tháng viên mãn, quốc vương cúng dường đức Như Lai tấm y vi diệu vô giá, lại còn cúng dường chúng tăng nhiều đồ nằm, thuốc men.
    Lúc đó, 500 mục đồng không hẹn mà cùng nghĩ: “Nhất định trong đời trước quốc vương đã tu tạo được công đức rất lớn, đời này mới rưo thành vị vua có quyền thế, uy vọng, lại có phước báo như vậy, đời này lại tiếp tục cúng dường Đức Phật và chúng tăng, tích chứa gieo trồng tư lương. Mà những người chúng ta, có lẽ đời trước chẳng gieo trồng nghiệp lành gì, cho nên đời này mới trở thành mục đồng, thật ra cũng nên phát tâm cúng dường chúng tăng mới đúng”.
    Thế là, các em cùng quyết định góp thức ăn, nước uống dể cúng dường lên đức Như Lai và tăng chúng. Sau khi tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng, các em bèn đảnh lễ cung thỉnh đức Như Lai và chúng tăng đến thọ cúng. Đức Như Lai im lặng hoan hỉ nhận lời.
    Trước giờ ngọ, đức Như Lai dẫn chúng tăng đến thọ nhận phẩm vật cúng dường, năm trăm mục đồng đem hết tâm thành kính dâng phẩm vật lên cúng dường đức Thế Tôn và chúng tăng. Sau khi cúng dường viên mãn, 500 mục đồng cùng quỳ xuống cầu pháp với đức Như Lai. Đức Thế Tôn quá sát căn cơ của các em, thuyết giảng những pháp thích hợp, giúp các em trí tuệ kim cang phá tan 20 kiến giải Tát ca da, đắc quả Dự lưu.
    Năm trăm mục đồng sau khi đắc quả liền phát tâm xuất gia sống đời tỉnh thức. Sau khi được sự đồng ý của quốc vương Tát ca, các em liền cầu xin đức Thế Tôn:
    - Kính bạch đức Như Lai tôn quý! Chúng con muốn được xuất gia thọ giới, sống đời phạm hạnh trong giáo pháp giải thoát của Ngài, khẩn thỉnh Ngài từ bi thương xót chấp nhận.
    Đức Như Lai hoan hỉ nhận lời, còn dùng phương tiện gọi “thiện lai tỳ kheo” làm cho tất cả đều được trọn đủ giới thể. Năm trăm mục đồng ngay tức khắc trở thành tỳ kheo thanh tịnh, thân đắp cà sa, tay ôm bình bát, tu trì phạm hạnh. Đức Thế Tôn lại truyền dạy giáo pháp cho họ. Các vị ai cũng tự nỗ lực tinh tấn, chẳng bao lâu phát trừ được phiền não trong Tam giới, chứng đắc quả vị A la hán.
    Sau khi chứng quả, các vị này dùng thần thông quán sát những chúng sinh đầy đủ nhân duyen có thể điều phục và giáo hóa thì chia nhau đi điều phục và giáo hóa trước. Nhưng trong số đó có một mục đồng nữ, dù đã dùng hết mọi phương tiện màvẫn không làm cho em phát khởi niềm tin thanh tịnh đối với Đức Phật. Không còn cách nào khác, các vị đành tìm cách đưa em đến gặp đức Như Lai.
    Em mục đồng nữ vừa nhìn thấy 32 tướng tốt, thân màu vàng ròng của đức Thế Tôn, liền sinh khởi tâm vui mừng khôn xiết, niềm vui này lớn hơn nhiều so với 12 năm thiền duyệt. Em nhìn xung quanh thấy ai cũng có lễ vật cúng dường, mà em chẳng có gì cả, bèn nhìn quanh tìm kiếm, thấy có đóa hoa quả hạ đạt hạp bên đường đẹp quá, em không chần chừ, liền cúi xuống ngắn lấy đóa hoa mang đến cúng dường đức Như Lai, lại còn cung kính lễ bái, cầu xin Ngài ban pháp lành.
    Đức Thế Tôn quán xét thấy thọ mạng của em không còn dài, nên liền thuyết giảng giáo pháp thích hợp với em. Sau khi thọ lãnh giáo pháp giải thoát của Phật đà, mục đồng nữ trở về và không bao lâu thì mắc bệnh qua đời.
    Nhờ nhân duyên em từng phát tâm hoan hỉ với đức Như Lai nên sau khi qua đời được sinh lên cõi trời, trở thành một thiên nữ rất xinh đẹp.
    Thiên giới có quy định là những người sau khi sinh lên thiên giới phải tiến hành ba loại quán sát: Thứ nhất, quán sát đời trước của mình ở trong loài chúng sinh nào? Thứ hai, do nhân duyên như thế nào mà được sinh lên thiên giới? Thứ ba, sau này sẽ chuyển sinh đến nơi nào?
    Vị thiên nữ đó quán sát biết được đời trước của mình là mục đồng nữ trong loài người, nhờ căn lành hoan hỉ cúng dường hoa quả hạ đạt hạp lên đức Như Lai mà được chuyển sinh làm thiên nữ. Cô ta cảm kích ân đức của Thế Tôn vô vàn, muốn đến bái kiến Ngài ngay lập tức. Do đó, cô liền mặc xiêm y vi diệu, đeo vàng bạc châu báu, cầm hoa sen xanh, hoa sen trắng, hoa mạn đà la... từ trên cõi trời hiện đến nơi đức Như Lai đang ngồi.
    Cô chắp tay cung kính cúng dường hoa tươi, sau đó thỉnh cầu đức Thế Tôn ban pháp lành. Lần này đức Như Lai cũng tùy theo căn tính của cô mà thuyết giảng pháp lành tương ứng, giúp cô ta có thể dùng trí tuệ kim cang phá trừ kiến giải tát ca da, chứng đắc quả Dự lưu.
    Sau đó, cô lại cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, nhiễu quanh về bên phải Ngài ba vòng rồi mới trở về thiên giới.
    Lúc đó, có rất nhiều thầy tỳ kheo vẫn còn đang tọa thiền vì tinh tấn phát nguyện tu trì không ngủ nghỉ. Các thầy thấy ánh sáng chiếu rực giữa đêm khuya thanh vắng như vậy, cho rằng có lẽ Đại Phạm thiên, trời Đế thích, hoặc Tứ Đại Thiên vương đến bái kiến đức Thế Tôn. Sáng hôm sau các thầy liền thưa hỏi:
    - Kính bạch đức Thiện Thệ! Tối hôm qua chúng con nhìn thấy ánh sáng chói rực như ban ngày, có phải Đại Phạm thiên, trời Đế thích, hoặc Tứ Đại Thiên vương đã đến hương thất của thầy?
    Đức Như Lai mỉm cười đáp:
    - Tất cả đều không phải. Các con còn nhớ mục đồng nữ hoan hỉ cúng dường hoa quả hạ đạt hạp cho ta không?
    - Bạch dức Thế Tôn! Chúng con còn nhớ!.
    - Vị mục đồng nữ đó phát tâm hoan hỉ cúng dường hoa cho ta, sau khi mạng chung được sinh làm thiên nữ. Vì báo đáp ân đức của ta nên tối qua đặc biệt đến bái kiến Như Lai. Sau khi ta giảng dạy phương pháp giải thoát, cô ấy đã chứng đắc quả thánh, trở về thiên giới rồi.
    Các thầy tỳ kheo liền bạch hỏi đức Như Lai:
    - Kính bạch đức Thiện Thệ! Vì nhân duyên gì vị thiên nữ đó đời này sinh ra làm mục đồng bần cùng, sau đó được chuyển sinh làm thiên nữ khả ái? Nguyện đức Như Lai nói nhân duyên trước sau cho chúng con được rõ.
    Đức Phật nhìn đại chúng một lượt, ôn tồn nói:
    - Đây là do nghiệp lực đời troỷc và nhân duyên đời này tạo thành. Trong Hiền kiếp này, lúc đức Phật Ca diếp còn tại thế, tuổi thọ con người là 20.000 tuổi, có một vị tỳ kheo ni nóng nảy, thường mắng chửi người khác là “đồ chăn bò” với tâm đầy sân hận. Song, trước khi lâm chung, vị tỳ kheo ni ấy lại sinh tâm hổ thẹn vô cùng, liền thành tâm phát nguyện:
    “Cả đời con tu hành Phạm hạnh thanh tịnh trong giáo pháp của Phạt, tuy chẳng thành tựu được gì to lớn, song nguyện khi đức Phật Thích ca Mâu ni ra đời con sẽ được sống trong giáo pháp của Ngài, sinh tâm hoan hỉ, chứng đắc thánh quả, và nguyện cho nghiệp ác mắng chửi người sẽ không thành thục”.
    Đức Như Lai nói tiếp:
    - Tỳ kheo ni ác khẩu đó chính là mục đồng nữ ngày nay, đây là nguyên do của nghiệp ác đời trước đã thành thục. Còn nhân duyên đời này, cô ta cúng dường Như Lai một đóa hoa quả hạ đạt hạp với tâm hết sức hoan hỉ, nên được chuyển sinh làm thiên nữ, đây là quả báo của nhân duyên nghiệp lành đời này.
    Các thầy tỳ kheo lại thưa thỉnh:
    - Kính bạch đức Thế Tôn! Vậy còn 500 người mục đồng kia, nhân duyên gì mà đời này tất cả đều là mục đồng? Lại vì sao sau khi gặp đức Như Lai, tất cả cùng xuất gia chứng quả A la hán? Ngưỡng mong đức Thế Tôn giảng nói, chúng con xin ưa muốn nghe.
    Đức Như Lai từ bi nhìn khắp đại chúng một lượt rồi nói:
    - Cũng trong Hiền kiếp này, khi đức Phật Ca diếp còn tại thế, lúc đó tuổi thọ con người đến 20.000 tuổi, 500 mục đồng này đều là tỳ kheo. Thuở ấy, trong khi nô đùa họ thường chửi mắng người khác là “đồ chăn bò”. Sau đó, lúc sắp lâm chung, họ sinh tâm hối hận và cùng phát nguyện:
    “Tuy ở trong giáo pháp của đức Ca diếp Thế Tôn chúng con chẳng thành tựu và có công đức gì o lớn, chỉ mong đem chút ít công đức trì giới thanh tịnh cả đời này, nguyện vào thời đức Phật Thích ca Mâu ni, sẽ được sống trong giáo pháp của Ngài và xuất gia tu học, sinh tâm hoan hỉ, chứng đắc quả vị A la hán. Cũng mong rằng nghiệp báo của việc ác khẩu mắng chửi sẽ không thành thục”/
    Năm trăm thầy tỳ kheo lúc đó chính là 500 mục đồng ngày nay. Do nghiệp báo nô đùa ác khẩu của họ thành thục, nên đời này phải sinh ra làm mục đồng, lại nhờ nguyện lức phát ra lúc lâm chung cũng thành thục, cho nên dời này có khả năng gặp được đức Như Lai, sinh tâm hoan hỉ, xuất gia sống đời phạm hạnh, chứng đắc quả vị A la hán.



    Còn tiếp...

  4. #4

    Mặc định

    Còn tiếp không vậy bạn?

  5. #5
    12212012
    Guest

    Mặc định

    Bài hay lắm cảm ơn huynh nhiều

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. [Đạo Gia] Bát Tiên Quá Hải - Lã Động Tân
    By huangtaoist in forum Đạo Giáo ( Lão giáo, Khổng giáo, Nho giáo )
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 27-12-2012, 08:45 PM
  2. bat quai
    By kimcheayo in forum Hỏi-Đáp, Tư Vấn
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 21-11-2009, 07:16 PM
  3. Địa chỉ các quán ăn ở Hà Nội
    By wudang in forum Văn hóa Ẩm Thực
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 30-09-2009, 09:23 PM
  4. Quán Mỳ TRI KỶ
    By wudang in forum Cộng đồng Mạng XH,Trò chuyện vui, Spam, Xả stress
    Trả lời: 32
    Bài mới gởi: 20-08-2008, 12:37 PM
  5. Quán âm Diệu Dụng Của Chuông Mật Tông Tây Tạng.
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Mật Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 14-10-2007, 12:15 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •