kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Ðề tài: THÔNG THIÊN HỌC VIỆT NAM - LỊCH SỬ VÀ KỶ NIỆM TRƯỚC NĂM 1975

  1. #1
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    338

    Mặc định THÔNG THIÊN HỌC VIỆT NAM - LỊCH SỬ VÀ KỶ NIỆM TRƯỚC NĂM 1975

    Last edited by ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU; 14-10-2011 at 08:52 AM.

  2. #2
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    338

    Mặc định

    THÔNG-THIÊN-HỌC LÀ GÌ?

    Thông-Thiên-Học thâm nhập vào Việt-nam từ năm 1923, và bắt đầu phổ biến vào năm 1928, tới nay 42 năm đã trôi qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa biết Thông-Thiên-Học là gì? Cứ đinh ninh là một Tôn-giáo mới và hỏi nó có giải thoát cho con người được không?
    Vậy tôi xin giải đáp 3 nghi vấn.
    1. Thông-Thiên-Học là gì?
    2. Có phải là một Tôn-giáo mới không?
    3. Có giải thoát cho con người được không?

    I. THÔNG-THIÊN-HỌC LÀ GÌ?

    Thông-Thiên-Học vốn dịch chữ Théosophie của pháp mà chữ Théosophie của pháp lại do chữ Hi-Lạp mà ra.
    Chiết tự chữ Théosophie thì:
    Théos: Dieu: Thượng-Ðế
    Sophia: Sagesse: Minh-Triết.
    Théosophia: Sagesse de Dieu ou Sagesse divine
    Minh-Triết của Thượng-Ðế hay là Minh-Triết Thiêng-Liêng.
    AI ÐẶT RA DANH TỪ THÉOSOPHIA? _ KHÔNG AI BIẾT CẢ.
    AI DÙNG DANH TỪ THÉOSOPHIA ÐẦU TIÊN?
    Con người dùng danh từ Théosophia đầu tiên là nhà Ðại Hiền Triết Hi-Lạp tên Ammonius, tục gọi là Saccas hay Ammonius Saccas ( Cuối thế kỷ thứ hai Tây lịch kỷ nguyên). Ngài dạy tại trường Alexandrie ( Ai-Cập) và sáng lập ra phái Tân Triết học Platon. Ba vị cao đồ của Ngài là: Plotin. Longin, và Origene.
    Nhưng mãi tới thế kỷ thứ 13, danh từ Théosophia mới được thông dụng ở Tây phương, chớ không phải bà Blavatsky đặt ra chữ Théosophia.

    DANH TỪ MINH TRIẾT THIÊNG LIÊNG ÐÃ CÓ TỪ NGÀN XƯA
    Tuy nhiên danh từ Minh Triết Thiêng-liêng đã có từ ngàn xưa bên Ấn-độ.
    Trong những kinh Ưu-bà-ni-sa-đà và Phệ Ðà (Upanishads et Védas) người ta thường gặp danh từ Brahma Vidya.
    Chiết tự ra thì:
    Brahma : Dieu : Thượng-Ðế.
    Vidya: Sagesse : Minh-Triết.
    Brahma Vidya : Sagesse de Dieu ou Sagesse divine.
    Brahma Vidya là Minh Triết của Ðức Thượng-Ðế hay là Minh-Triết Thiêng-Liêng.
    Tới đây chắc chắn quí bạn đã thấy mặc dầu danh từ Théosophia của Hi-Lạp đồng nghĩa với Brahma Vidya của Ấn-Ðộ song nó sanh ra sau lâu lắm, sau cả chục ngàn năm. Bao nhiêu đây cũng đủ chứng minh rằng: Chơn lý vẫn một và vị đặt ra danh từ Théosophia đã đắc đạo. Danh từ Thésophia dịch ra tiếng Việt là Thông-thiên-học là một sự miễn cưỡng, mặc dầu Thông-thiên-học có nghĩa là thông suốt lẽ trời.
    Gọi nó là Ðạo, đúng hơn.

    MINH-TRIẾT THIÊNG-LIÊNG LÀ GÌ?
    Nói cho đúng Minh-Triết Thiêng-Liêng là một trạng thái của Ngôi thứ nhì của Thượng-Ðế. Ðem dùng ở trần thế, nó có nghĩa là pháp môn của các Ðấng Thiêng-Liêng cao cã đã dự phần vào việc sanh hóa Thái Dương Hệ nầy dùng để đào tạo những vị phụ tá Thiên-cơ, những Ðấng Cứu-Thế mà tùy theo cấp bực người đời gọi là Thánh-nhơn, Hiền-Triết, là Tiên là Phật là Bồ Tát, là Giáo-chủ vân vân.
    Các Ngài truyền dạy lại các tín-đồ đã được chọn lựa vì hội đủ những điều kiện, trước nhứt là hạnh kiểm, do Luật Trời đã qui định, cho tới chừng nào mấy vị đệ tử nầy đắc đạo thành chánh quả như các Ngài vậy. Rồi cứ tiếp tục như thế từ hồi Thái-Dương-Hệ mới sanh ra cho tới ngày nay và mai sau nữa. Mối đạo không bao giờ dứt.

    II. THÔNG-THIÊN-HỌC CÓ PHẢI LÀ TÔN-GIÁO MỚI KHÔNG?

    Không_ Thông-Thiên-Học không phải là tôn-giáo mới như nhiều người đã lầm tưởng, nó không có một vị Giáo-chủ, không có những tín điều, không có những cách lễ bái, thờ phượng như các Tôn-giáo.
    Nó có trước thuở khai thiên tịch-địa, vì nó là trạng thái cố hữu của Thượng-Ðế và Thái-Dương-Hệ nầy do Ðức-Thượng-Ðế sanh ra. Nó là Chơn-Lý Tuyệt-Ðối, cội rễ của Tôn-giáo, các Khoa-học và các Triết-học dưới trần.

    THÔNG-THIÊN-HỌC DẠY CÁI CHI?
    Thông-Thiên-Học dạy 3 điều đại khái sau đây :
    Một là : Lý do sanh hóa một Thái-Dương-Hệ.
    Hai là : Bản tánh Thiêng-Liêng của con người.
    Ba là : Sự tương quan giữa con người và vũ-trụ.

    A. LÝ DO SANH HÓA THÁI-DƯƠNG-HỆ
    Thái-dương-Hệ của chúng ta sanh ra đây chỉ có một mục đích mà thôi, là đưa các loài vật, trước nhất là con người , lên tới bực siêu-phàm, toàn-năng , toàn thiện; được 5 lần điểm đạo, người mình gọi là Chơn-tiên. Chơn-tiên không còn cái chi học hỏi và kinh-nghiệm trên dãy Ðịa-cầu nầy nữa. Ngài đã hoàn toàn thoát khỏi vòng nghiệp quả Luân-hồi của Trần-thế.

    SỰ TIẾN HÓA CỦA CON NGƯỜI
    Sự tiến hóa của con người từ bực thường nhơn cho tới địa vị siêu-phàm đòi hỏi một thời gian rất dài và rất lâu, từ năm, sáu trăm triệu năm sắp lên và cũng có thể tới cả ngàn triệu năm nếu con người bê tha không lo tu tỉnh.
    Con người phải lo học hỏi và kinh nghiệm những Luật-Trời hành động trong 5 cõi, bắt dưới kể lên thì như vầy :

    7.)Cõi thứ 7 là cõi Trần hay là Hạ-giới (Plan physique).
    6.)Cõi thứ 6 là cõi Dục-giới hay là cõi Trung-giới (Plan Astral).
    5.)Cõi thứ 5 là cõi Trí-tuệ hay là cõi Thượng-giới cũng gọi là Thiên-Ðường(Plan mental).
    4.)Cõi thứ 4 là cõi Bồ-Ðề (Plan Bouddhique).
    3.)Cõi thứ 3 là cõi Niết-Bàn (Plan Nirvanique ou Nirvana).

    Mà cũng phải con người sanh ra tại quả Ðịa-cầu nầy mà thôi, con người phải qua 6 bầu hành tinh khác thuộc về dãy Ðịa-cầu chúng ta đặng mở mang sự hiểu biết về Luật sanh hóa và tiến hóa của vạn vật trên những thế gian khác nhau.
    Dãy Ðịa-cầu chúng ta gồm 7 bầu hành tinh kể ra sau đây :

    1.)Bầu thứ nhứt A_ không có tên
    2.)Bầu thứ nhì B_ không có tên
    3.)Bầu thứ ba C_ Hỏa-Tinh (Mars)
    4.)Bầu thứ tư D_ Trái đất minh (Terre)
    5.)Bầu thứ năm E_ Thủy-tinh (Mercure)
    6.)Bầu thứ sáu F_ không có tên
    7.)Bầu thứ bảy G_ không có tên

    Trước hết con người sinh ra tại bầu thứ nhứt A đặng học hỏi kinh nghiệm. Hết bầu thứ nhứt A thì qua bầu thứ nhì B rồi mới tới bầu thứ ba C, bầu thứ tư D, bầu thứ năm E, bầu thứ sáu F, và bầu thứ bảy G. Trên mỗi bầu hành tinh đều có những bài học khác nhau. Khi đi giáp một vòng gồm bảy hành tinh thì gọi là trải qua một cuộc Tuần Huờn (Une Ronde).
    Con người phải đi qua 7 lần như vậy, nghĩa là hết 7 cuộc Tuần-Huờn mới có thể thuộc hết những bài phải học hỏi và trở nên một vị Siêu-phàm. Tôi xin lưu ý bạn điều nầy là : Danh từ con người mà tôi dùng đây là ám chỉ linh hồn hay là Chơn nhơn chớ không phải xác thân nầy hữu hình hữu hoại đâu. Khi con người qua ỡ bầu hành tinh nào thì xác thân phải làm bằng chất khí đã cấu tạo ra bầu hành tinh đó, nhờ thế con người mới sống và hoạt động tại bầu đó được.

    LUÂN-HỒI
    Vì thế con người phải đầu thai đi, đầu thai lại không biết mấy muôn lần như vậy. Con người thay hình đổi dạng mãi, có kiếp làm đàn ông, có kiếp làm đàn bà chớ không phải giữ luôn một giống, hoặc nam, hoặc nữ, bỡi vì mỗi kiếp mỗi giống đều có những bài học khác nhau, càng ngày càng khó khăn thêm, cũng như ban đầu ở ban Tiểu học, kế đó ban Trung học rồi mới lên tới bực Ðại-học vậy.

    NHÂN-QUẢ
    Càng ngày càng có nhiều kinh-nghiệm thì con người càng trở nên khôn ngoan hơn trước vì thấy rằng mỗi khi con người chìu theo ý muốn của mình làm sái hoặc làm nghịch với Luật-Trời hay là Luật Công-bình và nhân-ái thì có sự phản động lại làm cho con người phải chịu đau khổ. Con người phải lảnh lấy cái hậu quả không tốt đẹp của những hành động quấy quá của mình.
    Người ta gọi là gieo nhân thì gặt quả. Con người biết luật trời rồi thì nương theo đó mà tiến tới.
    Nói tóm lại luật nhân quả là Luật thăng-bằng của Vũ-Trụ. Nó điều chỉnh công việc làm của chúng ta cho đúng với Luật-trời.

    BÊN KIA CỬA TỬ
    Theo luật tiết-điệu, hết ngày thì tới đêm, hết đêm thì trở lại ngày. Hết lúc làm việc thì tới lúc nghĩ ngơi rồi làm việc lại. Mỗi kiếp sau khi làm xong nhiệm vụ hay là trả quả xong rồi thì con người bỏ xác phàm tục gọi là chết.

    Con người qua cõi Trung-giới ở ít lâu rồi về Thiên-đường nghĩ ngơi một thời gian đặng đồng hóa những điều đã học hỏi và kinh nghiệm hồi còn ở thế gian trước khi xuống trần đầu thai một lần nữa đặng tiếp tục giai đoạn tiến hóa kế tiếp.

    Các nhà đạo đức điều biết rằng : sự chết là một cái cửa mà mọi người phải đi qua đặng tiến lên một bực.

    Kiếp sống con người tại thế gian chỉ là một ngày trong một xâu chuổi ngày, dài vô tận mà thôi, cả thảy điều liên quan mật thiết với nhau.

    Kiếp nầy là kiếp trước và kiếp sau là kết quả của kiếp nầy. Dẫu cho những Thái-dương-hệ trên không gian vô tận cũng thế. Cã thảy điều phải phục tùng Luật-nhân-quả củng như kiếp sống cũa con người vậy.

    B. BẢN TÁNH THIÊNG-LIÊNG CỦA CON NGƯỜI

    Con người vốn là Chơn-thần, một điểm linh quang của Ðức Thượng-đế, vì thế bổn tánh của con người vốn thiêng-liêng.

    C. SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CON NGƯỜI VÀ VŨ-TRỤ

    Muốn giải sự tương quan giữa con người và vũ-trụ thì phải nói về :

    a) Trạng thái 3 ngôi của Thượng-đế và

    b) Những cỏi Trời và những thể của con người dùng đặng tiến hóa.

    BA NGÔI CỦA THƯỢNG-ÐẾ

    Ðức Thượng-đế (Dieu ou Logos Cosmique) hay là Ðức Thái-dương Thương-đế (Logos d’un systeme solaire) cũng phân làm 3 ngôi.
    Muốn giải sự tương quan giữa con người và vũ-trụ thì phải nói về
    1. Ngôi thứ nhứt
    Ấn-giáo gọi là Shilva ( si-hoa)
    Thiên-chúa-giáo gọi là Ðức-chúa-cha(Dieu, le Pere)
    2. Ngôi thứ nhì
    Ấn-giáo gọi là Vishnou ( Quích-nu )
    Thiên-chúa-giáo gọi là Ðức-chúa con ( Dieu, le Fils )
    3. Ngôi thứ ba
    Ấn-giáo gọi là Brahma ( Phạn-vương )
    Thiên-chúa-giáo gọi là Ðức-chúa-thánh-thần (Dieu, le Saint-Esprit)

    TRẠNG THÁI BA NGÔI CỦA THƯỢNG-ÐẾ
    Trạng thái của ngôi thứ nhứt là : Ý-chí (Volonte)
    Trạng thái của ngôi thứ nhì là : Minh-triết, Bác-ái (Sagesse Amour)
    Trạng thái của ngôi thứ ba là : Hoạt-động cũng gọi là Trí-tuệ sanh hóa (Activite ou Intelligence creatrice)
    Ngôi thứ nhì phân chia âm-dương, tinh-thần và vật-chất, sự sống và hình thể.

    BA NGÔI CỦA CON NGƯỜI
    Con người cũng phân làm ba ngôi :
    1) Ngôi thứ nhứt là Chơn-thần Monade.
    2) Ngôi thứ nhì là Chơn-nhơn Soi Superieur Individualite-ego.
    3) Ngôi thứ ba là Phàm-nhơn-personnalite-Soi enferieur.

    BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
    Chơn-nhơn cũng phân làm 3 ngôi :
    1) Ngôi thứ nhứt Atma Ắt-ma.
    2) Ngôi thứ nhì Boud dhi Bồ-đề.
    3) Ngôi thứ ba Manas Trí-tuệ.

    TRẠNG TRÁI CỦA BA NGÔI CỦA CHƠN-NHƠN
    Trạng thái của ngôi thứ nhứt Atma là Ý-chí ---Volonte.

    Trạng thái của ngôi thứ nhì Boudhi là Minh-triết_ Bác-Ái-Sagesse-Amour.

    Trạng thái của ngôi thứ ba là Manas là Hoạt-động ---Activite ou Intelligente creatrice hay là Trí-tuệ sanh hóa.

    NHỮNG CÕI TRỜI VÀ
    NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI DÙNG ÐẶNG TIẾN-HÓA

    Trong chu kỳ nầy con người có 7 thể để học hỏi, kinh-nghiệm và hoạt động trong 5 cõi Trời, bắt dưới kể lên thì như vầy:
    Thể thứ bảy là xác-thân (Corps physique) và

    Thể thứ sáu là cái Phách (Double étherique) để dùng tại cõi Trần bởi vì chúng nó làm bằng chất khí đã cấu tạo ra cõi Trần. Xác-thân để hoạt-động, còn cái phách để thu hút sanh lực prana vô mình để kết hợp các tế bào và nuôi dưỡng các cơ thể.

    Thể thứ năm__Cái Vía__(Corps Astral) để dùng tại cõi Trung-giới hay là Dục giới vì nó làm bằng chất khí của cõi nầy.

    Cái Vía cũng để biểu hiện những ý muốn và tình-cảm.

    Thể thứ tư là Hạ-Trí (Corps mental inferieur).

    Thể thứ ba là Thượng-trí (Corps mental superieur). Hai thể nầy dùng tại cõi Thượng giới hay là cõi Trí-tuệ bởi vì chúng nó làm bằng chất khí của cõi nầy.

    Hạ-trí sanh ra những tư-tưởng hữu hình, nó để học hỏi, phân biện, xét đoán, ghi nhớ, tưởng tượng.
    Thượng-trí để sanh ra những tư-tưởng thanh bai, trừu-tượng, vô hình.
    Người ta gọi nó là Nhân-thể (Corps causal) bởi vì nó chứa đựng những nguyên nhân, ngày sau sanh ra những hậu quả.

    Thể thứ nhì là thể Bồ-Ðề (Corps Bouđhique) cũng gọi là Kim-thân, hay là thể Trực-giác.
    Nó để dùng tại cõi Bồ Ðề bởi vì nó làm bằng chất khí của cõi nầy.

    Thể thứ nhứt là thể của Atma cũng gọi là Tiên-thể hay là Thể Thiêng-liêng (Corps Atmique). Nó để dùng tại cõi Niết-Bàn. Bởi vì nó làm bằng chất khí của cõi nầy.
    Còn hai thể nữa để dùng tại cõi Ðại-Niết-Bàn (Paranirvana) và Tối Ðại-Niết-Bàn (Mahaparanirvana), phải tu hành tới bực Chơn-Tiên mới biết được.

  3. #3
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    338

    Mặc định

    CON NGƯỜI LÀ TIỂU-THIÊN-ÐỊA

    Bởi con người là Chơn-Thần, có đủ quyền năng của Ðức-Thượng-Ðế mặc dầu chưa hoàn toàn khai mở và xử dụng và cũng bởi những thể của con người dùng đều làm bằng chất khí đã cấu tạo ra những cõi của Thái-dương-hệ cho nên các Thánh kinh trên Ðịa-Cầu mới gọi con người là Tiểu-Thiên-Ðịa và đồng công nhận rằng: có sự tương quan giữa con người và Vũ-trụ. Thật đúng như vậy.

    III. THÔNG-THIÊN-HỌC CÓ GIẢI THOÁT CHO CON NGƯỜI ÐƯỢC KHÔNG?

    Các nhà Ðạo học uyên-thâm đều biết rằng có hai con đường đắt đến mục tiêu của Ðức Thái-Dương Thượng-Ðế đã định sẳn cho con người trong Tiểu Vũ-trụ của chúng ta, nhiều kinh sách đã nói bóng dáng về hai con đường nầy.

    CON ÐƯỜNG THỨ NHỨT
    Con đường thứ nhứt đi vòng quanh khu ốc 7 lần như vậy mới tới chót núi, nơi đó có một tòa Thánh-Ðiện ngày đêm chiếu ra muôn Ðạo Kim-Quang.
    Con đường nầy rộng thinh thinh, rất mát mẽ và êm dịu vô cùng. Hai bên tòng bá sum-sê, cỏ hoa tươi tốt phô bày hương sắc để quyến rủ khách lữ hành. Những người hành hương đều dừng chơn lại để thưởng thức những thú vui vô tận. Họ trửng giởn, nô-đùa, hái bông, bắt bướm, nằm dài trên những bải cỏ xanh, thả hồn theo mộng, chớ không thiết tha với sự tiến bộ của họ. Họ thích nghỉ ngơi hơn là bước đi.
    Trong một thời gian mấy trăm triệu năm, trải qua muôn kiếp luân-hồi mà họ chưa đi tới Tòa Thánh-Ðiện ở mút con đường.

    CON ÐƯỜNG THỨ NHÌ
    Con đường thứ nhì rất chật hẹp, gồ-ghề, dốc đứng, đầy những đá lởm chởm bén như lưỡi dao cạo; hai bên thì vực sâu hố thẩm, nếu không khéo bước thì đứt chơn và té lên, té xuống.
    Con đường nầy rất vắng-vẻ, từ thế-hệ nầy qua thế-hệ kia, người ta chỉ thấy vài ba nhóm người hành hương đi lai rai trên những chặng đường trống trơn. Họ cố gắng leo trèo mệt nhọc, nhưng không bao giờ nãn lòng.
    Trong một thời gian sau, lối ba bốn chục kiếp, họ đi tới Tòa Thánh Ðiện trước chúng bạn đồng hành chọn lựa con đường thứ nhứt êm đẹp hơn.
    Hai con đường nầy là hai con đường nào?
    Thông-Thiên-Học dạy rằng:
    Con đường thứ nhứt là con đường Ðời, con đường tấn hóa bình thường của nhơn-loại, tràn ngập những khách hành-hương. Nó dài lắm. Dường như chạy tới tận chơn trời. Ði theo con đường nầy rất dễ dàng nhưng thường bị thất bại.
    Con đường thứ nhì là con đường tắt, dắt dẫn đến cửa Ðiểm-Ðạo, người ta gọi là con đường Ðạo. Ít ai muốn đi theo con đường nầy, vì nó bắt buộc khách lữ hành phải trường trai, khổ hạnh, tu tâm, khắc kỷ, giờ phút nào cũng phải chiến đấu với bản thân cho tới chừng nào được hoàn toàn tự chủ. Cứ cho ra mãi mà không thâu vô, chỉ lo phụng sự mà không đòi hỏi công đức hay cầu xin lợi lộc cho mình.
    Con đường nầy là con đường hy sanh. Bãn ngã thấp hèn, dứt bỏ hạnh phúc phù du, giả tạo, cái mà tất cả người đều quí chuộng, triều mến, đặng bước vào cửa Ðạo.

    TẠI SAO PHẢI BƯỚC VÀO CỬA ÐẠO
    Phải bước vào cửa Ðạo bởi vì trong đó mới có sự dạy dỗ về Cơ Tiến-hóa đúng với sự thật. Người ta giải cho sanh-viên biết lần lần tất cả những sự bí mật của Tạo-công về sự sanh hóa các loài vật trên dãy Ðịa-cầu. Có những phương pháp luyện tập đặng mở mang và xử dụng những quyền-năng còn tiềm tàng trong mình. Những quyền-năng nầy biến đổi con người thành ra một vị Tiểu-Thượng-Ðế, toàn năng, toàn thiện, toàn giác để phụ-tá Thiên-cơ, trong một thời gian ngắn ngủi chín, mười ngàn năm, thay vì phải chờ đợi năm, sáu trăm triệu năm như người thường mới phát triển tột bực được. Bước vào cửa Ðạo tức là thâu ngắn con đường hành-hương của mình.

    MUỐN BƯỚC VÀO CỬA ÐẠO
    PHẢI HỘI ÐỦ NHỮNG ÐIỀU KIỆN NÀO
    Muốn bước vào cửa Ðạo, kẻ chí-nguyện phải hội đủ bốn đức tánh đã giải rành rẽ trong hai quyển:
    Dưới Chơn-Thầy (Aux pieds du Maitre) và
    Con đường của người Ðệ-Tử (Le sentier du disciple ấy là:
    1) Ðức tánh thứ nhất: Phân-biện
    2) Ðức tánh thứ nhì: Ðoạn-tuyệt
    3) Ðức tánh thứ ba: Hạnh-kiểm tốt. Ấn-giáo gọi là Shatsampatti (6 tánh tốt)
    4) Ðức tánh thứ tư: Lòng từ-ái. Ấn-giáo gọi là Moumouksha: muốn được giải-thoát.

    ÐIỂM ÐẠO LẦN THỨ NHỨT (1ere Initiation)
    Thí sanh phải phát triển bốn đức tánh nầy tới một mức độ do Luật-Trời qui định mới được điểm đạo lần thứ nhứt.
    Vị đệ-tử được điểm-đạo lần thứ nhứt, Phật-giáo gọi là Sotapanna- Tu-đà-Huờn có nghĩa là nhập-lưu, tiếng pháp là Entre dans le courant. Anh đã vào dòng tiến hóa của những bực siêu-phạm.
    Ấn-giáo gọi anh là Parivrajaka- Người đi ta bà, Vô trú.

    ÐIỂM ÐẠO LẦN THỨ NHÌ (2e Initiation)
    Vị Tu-Ðà-Huờn phải chặt đứt 3 xiềng xích hay là 3 chướng ngại sau nầy mới được điểm-đạo lần thứ nhì
    Chướng ngại thứ nhứt-- Phàm nhơn là ảo ảnh.
    Chướng ngại thứ nhì-- Hoài nghi hay là mơ hồ (không tin có Luân-Hồi Nhân-quả),
    Chướng ngại thứ ba-- Mê-tín Dị-đoan.
    Vị Ðệ-tử được điểm-đạo lần thứ nhì, Phật-giáo gọi là Sakridagamin Tư-đà-hàm hay là Nhứt Lai. Anh chỉ trở lại thế gian một lần nữa mà thôi, bởi vì kiếp sau anh lên tới địa vị La-Hán và được quyền ở lại cõi Bồ-Ðề tu luyện, khỏi xuống trần đầu thai nữa.
    Ấn-giáo gọi anh là Koutichaka, nghĩa là người đã dựng được một túp lều.

    ÐIỂM-ÐẠO LẦN THỨ BA (3e Initiation)
    Giữa hai kỳ điểm-đạo, lần thứ nhì và lần thứ ba không có chướng ngại nào phải dứt bỏ. Tuy nhiên vị Tu-đà-hàm phải lo phát triển những đức tánh đả có càng ngày càng thêm rộng lớn, nhứt là tánh Khiêm-tốn. Phải tận tâm, tận lực giúp đời và sống một đời sống tinh-thần nghĩa là biết mình chẵng những là một với Thượng-Ðế mà cũng còn là một với chúng sanh, từ loài kim thạch, thảo mộc, cầm thú, cho tới con người. Ðúng công phu rồi thì anh được điểm-đạo lần thứ Ba.
    Phật-giáo gọi vị đệ-tử được điểm đạo lần thứ Ba là Anagamin-A-na-hàm--- Bất Lai, nghĩa là anh không trở lại thế gian nữa.
    Nội kiếp nầy anh lên tới địa vị La-Hán khỏi phải tái sanh.
    Ấn-giáo gọi anh là Hamsa Thiên-Hạc. Tục truyền rằng đứng trước một chậu đựng sữa pha nước, con Hạc biết phân-biệt cái nào là sữa, cái nào là nước.

    ÐIỂM-ÐẠO LẦN THỨ TƯ (4e Initiation)
    Vị A-na-hàm phải chặt đứt hai chướng ngại sau nầy mới được điểm-đạo lần thứ tư,
    4 Chướng ngại thứ tư Dục tình do giác quan sanh ra hay là Dục vọng Hồng-trần.
    5 Chướng ngại thứ năm Oán-ghét, thù hận.
    Mới nghe qua thì ta lấy làm lạ lắm. Tu hành tới bực nầy rồi mà còn oán ghét, giận hờn, đắm mê sắc dục ư ? Nhưng vật-chất có quyền-năng quyến rủ lạ thường, nếu ơ hờ thì sẽ sa vào cạm bẩy. Phải đề phòng từ chút mới được.
    Vị đệ-tử được 4 lần điểm-đạo, Phật-giáo gọi là Arhat La-Hán có nghĩa là Ðại-Ðức Tôn-giả.

    ÐIỂM-ÐẠO LẦN THỨ NĂM (5e Initiation)
    Vị La-Hán mới đi có phân nữa Ðường-Ðạo Ngài còn phải lo chặt đứt 5 chướng ngại chót là:
    Chướng ngại thứ sáu Muốn sống trong cõi hữu hình.
    Chướng ngại thứ bảy Muốn sống trong cõi vô hình.
    Chướng ngại thứ tám Kiêu-căng.
    Chướng ngại thứ chín Tâm trí còn xao động.
    Chướng ngại thứ mười Vô-minh.
    Mười chướng ngại nầy Phật-Giáo gọi là Samyo Jana. Phá tan bức màn vô-minh rồi vị La-Hán trở nên hoàn toàn sáng suốt. Ngài không còn cái chi học hỏi trong dãy địa-cầu nầy nữa.
    Ngài được 5 lần Ðiểm-Ðạo làm một vị Siêu-phàm. Phật-giáo gọi Ngài là A-sơ-ca (Aseka). Aseka có nghĩa là không còn làm đệ-tử nữa.
    Ấn-giáo gọi là Jivanmoukta, nghĩa là Linh-hồn đã được giải-thoát.
    Bực trung vị Tu-đà-hườn phải đầu thai 7 kiếp mới lên tới bực La-Hán và vị La-Hán cũng phải tu luyện trong 7 kiếp nữa mới làm được một vị Chơn-Tiên. Tất cả là mười bốn kiếp, song thời gian nầy có thể thâu ngắn lại.
    Ở đây, tôi chỉ nói một cách tổng quát mà thôi, còn nhiều chi tiết khác nữa, phải vào cữa Ðạo rồi mới hiểu. Tuy nhiên muốn làm sáng tỏ vấn đề tôi cũng phải nói vài lời về câu chuyện:
    Ðiểm-đạo là gì?
    Ðiểm-đạo tại đâu?
    Ai điểm-đạo?

    ÐIỂM-ÐẠO LÀ GÌ?
    Ðiểm đạo là chỉ máy huyền-vi, nói một cách bóng dáng là giao chìa khóa mở cửa cõi Trời. Ðiểm-đạo cũng có nghĩa là khởi đầu một cuộc đời mới trong đó Phàm-nhơn lần lần trở nên phản ảnh của Chơn-nhơn và Chơn-nhơn bắt đầu vận dụng những quyền-năng của Chơn-thần.
    Sau mỗi kỳ Ðiểm-đạo tâm thức đều mở rộng hơn trước rất nhiều, vị đệ-tử thành một người mới.

    ÐIỂM-ÐẠO TẠI ÐÂU?
    Ðiểm-đạo lần thứ nhứt tại cõi Trung-giới.
    Ðiểm-đạo lần thứ nhì tại cõi Hạ-Thiên gồm 4 cảnh thấp của cõi Thượng-giới hay là cõi Trí-Tuệ.
    Ðiểm-đạo lần thứ ba tại cõi Thượng-Thiên gồm 3 cảnh cao của Thượng-giới hay là cõi Trí-Tuệ.
    Ðiểm-đạo lần thứ tư tại cõi Bồ-đề.
    Ðiểm-đạo lần thứ năm tại cõi Niết-Bàn.
    Ðiểm-đạo lần thứ sáu, thứ bảy, thứ tám ở mấy thế giới khác ngoài Ðịa-cầu của chúng ta.

    AI ÐIỂM-ÐẠO?
    Tại quả địa-cầu của chúng ta chỉ có một Ðấng Chí-Tôn được phép Ðiểm-đạo mà thôi, ấy là Ðức Ngọc-Ðế. Ngài là vua của quả Ðịa-Cầu nầy và chủ tể của Quần-Tiên-Hội. Ngài thay mặt cho Ðức Thái-Dương Thượng-Ðế đặng cai trị và coi sóc sự sanh hóa và sự tiến hóa của các loài vật cho đúng với cơ-Trời.
    Hào quang của các Ngài bao trùm quả Ðịa-cầu, không có một con kiến nào chết hay là một sự bất công nào xảy ra mà Ngài không hay biết. Nhưng Ngài để cho Luật Nhân-Quả định đoạt.
    Ngài là Ðấng Duy Nhứt Chí-Tôn cầm quyền Ðiểm-đạo. Không có sự ưng thuận của Ngài, không một ai được thâu nhận vào Quần-Tiên-Hội. Nhưng trong hai kỳ điểm-đạo đầu tiên, lần thứ nhứt và lần thứ nhì, luôn luôn Ngài cậy Ðức Bồ-Tát hay là một vị Ðế-quân thay mặt Ngài, nhơn danh Ngài đặng Ðiểm-đạo.

    BẢY ÐƯỜNG TIẾN HÓA TRƯỚC MẶT CHƠN-TIÊN
    Sự tiến hóa chấm dứt ở 5 lần Ðiểm đạo hay sao? Không. Trước mặt Chơn-Tiên có 7 đường tiến hóa khác nhau. Ngài được quyền chọn lựa con đường nào hạp với Ngài.
    1) Hoặc Nhập Niết Bàn ở vào một trạng thái thiêng-liêng gọi là mặc áo Sam-bô-ga-cai-da (Sambhogakaya) không biết là cái chi vì có nhiều nghĩa.
    2) Hoặc Nhập vào Niết-Bàn rồi vài tỷ năm sau làm một vị Avatar hay là Hiện thân của Ðức Thượng-Ðế trong một Vủ-trụ khác, người ta gọi là mặc áo Ðạt-ma-Cai-da (Dharmakaya). Phải chăng Phật-giáo gọi là Pháp-Thân.
    3) Hoặc Vào hàng những vị Nirmanakaya (Niệt-ma-na-Cai-da) sanh ra thần-lực để cho Quần Tiên Hội dùng đặng độ đời.
    4) Hoặc Dự vào việc thành lập dãy Hành-Tinh thứ năm để sau thay thế cho dãy Ðịa-Cầu chúng ta là dãy Hành-Tinh thứ tư.
    5) Hoặc Vào Hàng các vị Ðại-Thiên-Thần.
    6) Hoặc Giữ xác phàm ở lại Trần lãnh một nhiệm vụ trong Quần-Tiên-Hội đặng coi sóc sự tiến hóa của các loài vật.
    7) Hoặc Vào Bộ Tham-Mưu của Ðức Thái-Dương-Thượng-Ðế đem chỉ dụ của Ngài khắp các dãy Hành-Tinh.

    CHƠN-TIÊN NHỮNG VỊ Ở LẠI CỎI TRẦN
    Những vị ở lại cõi Trần một mặt thì lo thi hành nhiệm-vụ của mình, một mặt thì lo tu luyện thêm.
    Khi được 6 lần điểm đạo thì làm một vị Ðế-Quân (Chohan) cai quản một cung, hoặc lãnh một nhiệm-vụ khác.

    Ðược 7 lần điểm-đạo thì làm.
    a) Hoặc một vị Bàn-Cổ (Manou) coi sóc sự sanh hóa một giống dân.
    b) Hoặc một vị Bồ-Tát (Bodhisatva) lo giáo hóa một giống dân và lập những tôn-giáo mới.
    c) Hoặc một vị Văn-Minh Ðại-Ðế (Maha Chalam) coi sóc sự văn-minh tiến bộ (hoặc lảnh một nhiệm-vụ mới).

    Ðược 8 lần điểm-đạo thì làm một vị Phật.
    a) Hoặc Ðộc-Giác-Phật (Pratyeka Bouddha)
    b) Hoặc Phật-Ðạo-Ðức.

    Ðược 9 lần Ðiểm Ðạo thì làm một vị Ngọc-Ðế cai quản một bầu Hành-Tinh, vân vân.
    Càng ngày càng lên cao, rồi tới một ngày kia, không biết mấy tỷ năm nữa, mỗi vị Chơn-Tiên sẽ thành một vị Thái-Dương Thượng-Ðế và sẽ chọn lựa trên không gian vô tận một chỗ riêng biệt đặng sanh hóa một Thái-Dương-Hệ giống như Thái-Dương-Hệ của chúng ta vậy

    TẠI SAO KHOA MINH-TRIẾT
    THIÊNG-LIÊNG ÐEM RA PHỔ BIẾN.

    Từ ngàn xưa, các vị Huấn sư dạy khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng cũng gọi là Thông-Thiên-Học hay là Huyền-bí Học, một cách kín đáo trong các tu viện ở Trung-Hoa, Ấn-Ðộ, Tây-Tạng, Ba-Tư, Ai-Cập, Hi-Lạp. Nó là Khoa-Mật hay là Khoa-Bí-Truyền (Enseignement ésoterique) của các Tôn-Giáo lớn. Nhưng Thiên-đình sai hai vị Ðệ Tử là Bà Blavatsky và Ðại-Tá Olcott lập Hội Thông-Thiên-Học tại Nhiêu-Do (New York) ngày 17 tháng 11 năm 1875 dặng phổ biến vài chương đầu của khoa Minh-Triết Thiêng-Liêng thuộc về Hạ bí Pháp (Mysteres mineurs) vì 3 lý do sau đây:

    LÝ DO THỨ NHỨT

    Phải mau thức tỉnh quần chúng đặng cho ai nấy đều biết bản tánh Thiêng-Liêng của mình hầu quay về đường ngay nẻo thẳng, biết thương yêu nhau, vùa giúp nhau và cùng nắm tay nhau đặng bước lên đài giác.

    Bởi vì bắt đầu từ thế kỷ thứ 19 tới nay, thiên hạ quá say mê những sự phát minh kỳ diệu của khoa học vật chất vô-thần cho nên không tin có Trời, Phật, Thánh, Thần, Luân-Hồi, Nhân-Quả. Cứ đinh ninh rằng con người là xác thân nầy, thác rồi thì tiêu tan ra tro bụi chớ không có linh-hồn đi đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia và phải lãnh lấy hậu quả những việc không hay của mình đã làm. Vì thế mà nuôi mãi tánh ích-kỹ chia rẻ, càng ngày càng thêm rộng lớn. Tranh nhau vì miếng ăn, lấn nhau vì đất ở, đánh nhau vì chỗ đứng, giết nhau vì nơi ngồi. Dựa vào sức mạnh của cơ khí gây ra những chiến-tranh giặc giả, bắt những kẻ yếu đuối cô thế làm tôi mọi đặng phục vụ những quyền lợi của cá nhận. Cang thường đảo ngược, đạo đức suy đồi, con sống nghịch-luân ầm-ầm nổi dậy, tà khí xông đến sao Ngưu-Ðẫu làm cho Trời giận đất hờn.

    Nếu không cứu vản tình thế cho kịp thì hai châu Âu-Mỹ sẽ bị lửa Trời thiêu đốt cũng như 80,000 năm trước châu Át-Lăng-Tích bị nhận chìm xuống đáy biển Ðại-Tây-Dương. Luật Nhân-Quả không dung tha những ai đã làm nghịch với Thiên-ý. Lưới Trời tuy thưa lắm song không ai lọt khỏi được.

    LÝ DO THỨ NHÌ
    Năm 1975 một kỷ nguyên mới, Kỷ nguyên Huyền-bí Học hay là kỷ nguyên Tinh-thần sẽ mở màn, phải chuẩn bị ít nhứt là một thế-kỷ trước. Tưởng phải nói trắng ra là Thiên-Ðình đã sắp sẳn một chương trình ghi trước những công việc phải thực hành trong một thời kỳ 10,000 năm và mỗi thế-kỷ đều có sự thay đổi mới cho hạp với cơ-Trời và giúp nhân loại tiến lên một bực.

    LÝ DO THỨ BA
    Lối 6 hay 700 năm nữa, một giống dân mới, giống dân chánh thứ sáu (sixieme Race mère) sẽ ra đời. Giống dân nầy sẽ mở Bồ-đề-tâm hay là Trực giác.

    Vì thế phải gấp rút vén lên một gốc màn vô-minh, đem ánh sáng chơn-lý dọi khắp hang cùng ngỏ hẻm đặng cứu vớt quần sanh còn đương chìm đắm nơi bến-mê sông khổ.

    Hội Thông-Thiên-Học đã thành công trong sứ mạng thiêng-liêng của nó. Từ năm 1875 tới nay năm 1970, còn năm năm nữa, năm 1975 thì đúng một thế kỷ, Thông-Thiên-Học đã giúp cho hàng triệu người bắt đầu tự biết mình. Họ sửa đổi cách sanh sống hàng ngày lần lần ra tốt đẹp, tình thương mở rộng và hướng về đường tinh thần nhiều hơn trước mặc dầu họ chưa xin gia nhập vào Hội Thông-Thiên-Học.

    SỰ KHẢO CỨU THÔNG-THIÊN-HỌC ÐEM LẠI CHO QUÍ BẠN NHIỀU ÐIỀU HỬU ÍCH.

    Sự hảo cứu Thông-Thiên-Học đem lại cho quí bạn nhiều điều hửu ích, đại khái như sau đây:

    Một là: Biết được Cơ Trời là Luật Tiến-Hóa.
    Hai là: Thật con người là Chơn-Thần, bản tánh vốn thiêng-liêng.
    Ba là: Sanh ra cỏi Trần, con người có nhiệm-vụ mở khai Tâm-Trí cho điều hòa đặng tiến mau đến mục tiêu đã định sẳn cho con người trong Thái-Dương-Hệ nầy tức là làm một vị siêu-phàm.
    Bốn là: Xác thân; ý muốn, tư tưởng không phải thật là con người. Chúng nó là những khí cụ của con người dùng đặng học hỏi, kinh nghiệm và Phụng-Sự.
    Năm là: Có những phương pháp tinh luyện chúng nó, làm chủ chúng nó, thay vì đồng hóa với chúng nó sai khiến như bấy lâu nay.
    Rồi lần lần xử dụng được những quyền năng còn tiềm tàng trong mình, như Thần-nhãn, Thiên-nhãn, Tiên-nhãn và Phật-nhãn đặng quan sát những cõi Trời.
    Sáu là: Về phương diện tuyệt đối, tất cả các giống dân tộc trên địa cầu, dầu cho sắc da khác nhau, đen hay đỏ, vàng hay trắng cũng vậy, đều là anh em bởi vì cả thảy đồng là con Ðức Thượng-Ðế.
    Bảy là: Hiểu được ý nghĩa của các Thánh Kinh và biết rằng các Tôn-Giáo lớn đều do Ðức-Bồ-Tát lập ra. Chúng nó trình bày Chơn-Lý một cách khác nhau tùy theo tánh tình, phong tục và trình độ tiến hóa về phương diện-trí-thức và tinh-thần của dân chúng trong một thời đại. Thế nên chúng nó là anh em vì đồng chung một gốc.
    Tám là: Vài công việc của các Tiểu-Thần.
    Hiểu được 8 điểm đạo đại khái nầy thì quí bạn cầm vận-mạng của quí bạn trong tay. Quí bạn tiến mau hay chậm tùy theo quí bạn cố gắng nhiều hay ít mà thôi. Sự thành công là vấn đề thời gian.

  4. #4
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    338

    Mặc định

    XIN HÃY THÍ NGHIỆM
    Chúng tôi không hề bảo quí bạn hảy tin chắc những giáo lý Thông-Thiên-Học, nhưng chúng tôi nói: quí bạn đả từng quan sát cuộc đời, quí bạn hãy đọc những sách Thông-Thiên-Học rồi quí bạn suy nghĩ coi những giáo-lý Thông-Thiên-Học có đúng với sự thật phần nào chăng?
    Nhưng trước hết tôi xin hiến cho quí bạn ba sự thí nghiệm sau đây:

    I
    Quí bạn hãy ngồi yên lặng, đừng suy nghĩ chi hết trong hai phút thôi, chưa đầy một phút sau quí bạn đã nghe trong lòng có tiếng nhắc nhở quí bạn làm việc nầy, việc kia, năm, sáu chuyện không ăn nhập vào nhau. Vậy thì Tiếng nói đó của ai? chắc chắn nó không phải là của quí bạn, bởi vì quí bạn không tưởng nhớ cái chi cã. Mà nó cũng, không phải là tiếng nói của ngoại nhơn, bởi vì nó ở trong lòng quí bạn mà.Tiếng nói đó là tiếng nói của cái Trí của quí bạn Mà tại sao cái Trí làm như vậy? ấy tại cái Trí tánh rất lao chao, nó tưởng cái nầy rồi bắt qua cái kia, liền liền không ngớt. Nay quí bạn không tưởng chi hết tức là bắt nó định lại một chỗ, nó đâu có chịu ở yên, nó phải tìm lối thoát ra bằng cách dục quí bạn nhớ lại quá khứ.
    Có thí nghiệm nầy quí bạn mới biết quí bạn không phải là cái Trí và nhờ đó quí bạn mới hiểu muốn thành công trong sự Tham-Thiền thì trước hết phải tập định Trí. Chưa làm chủ được cái Trí thì không khi nào Tham-Thiền mà có hiệu quả tốt đẹp.

    II
    SỰ THÍ NGHIỆM THỨ NHÌ
    Sự thí nghiệm thứ nhì là: Những làn sóng-rung động truyền nhiễm và sự thí nghiệm thứ ba là Ðào luyện tánh nết.
    Tôi xin chép lại những lời của Bà A. Besant dạy về 2 điểm đó như say đây.

    NHỮNG LÀN SÓNG RUNG-ÐỘNG TRUYỀN-NHIỄM
    Chư huynh hãy nhớ lại những kinh nghiệm của mình. Chư huynh gặp một người vui vẻ sung-sướng chư huyn liền nói: Khi người nầy bước vào thật giống như một tia sáng mặt trời chiếu rạng. Một người khác đến gần chư huynh, mang theo mình một đám mây u-uất buồn chán. Tất cả chúng ta đều phát buồn và chán nản. Tại sao vậy? Tất cả những điều nầy đều có một lý do. Sự vui hay sự buồn đều hay lây, chúng tăng tiến giống như một mầm bệnh hay một sức khỏe cường tráng. Tất cả những gì khiến cho vật chất rung động thì đều có tính cách hay lây vì những sự rung-động của vật-chất vẫn được tái diển và làm nổi dậy những cảm xúc tương tự nơi khác.
    Ðây là một thí dụ cuối cùng. Chư huynh gặp một người có tánh xấu hay tức giận. Trong trường hợp nầy, chư huynh có bao giờ để ý thấy rằng mình bị lây, chư huynh cũng tức giận, tuy rằng trước đó chư huynh rất thơ thới và đầy thiện chí hay không? Những làn rung động của cái vía của người nầy đả truyền sang chư huynh và khiến chư huynh tức giận nổi cáu.

    TẠI SAO PHẢI LẤY ÂN ÐÁP OÁN
    Vì thế cho nên những vị Ðại-Giáo-Chủ thường khuyên chư huynh lấy ân đáp oán, lấy tình thương yêu mà đáp lại lòng thù-hận. Nếu một con người kia tới chư huynh mà trong lòng rất thù-hận chư huynh, và nếu chư huynh cũng rất thù-hận y, thì những làn sống thù-hận nầy vì giống nhau nên trợ sức cho nhau và trở nên mảnh liệt tàn bạo. Sự tức giận khêu gợi sự tức giận, lòng thù-hận nầy sanh lòng thù-hận, hai người sẽ cải lộn với nhau và có thể trở thành những kẻ thù địch đời đời. Bởi thế cho nên mỗi vị Ðại Giáo-Chủ khuyên ta rằng: Các con đừng đem cái ác mà trả lại cho cái ác, các con hãy đem cái lành mà đáp lại cái ác Ðức-Phật có nói Lấy oán trả oán thì oán không dứt, lấy ơn trả oán thì oán mới tiêu. Ðức Chúa Ki-Tô dạy chư huynh phải chúc phước lành cho những kẻ oán ghét chư huynh.
    Ấy đó thánh huấn của các vị Ðại Minh-Triết, Giáo-chủ nhân loại ban ra vốn có lý do khoa học. Vừa mới đây một người có tánh hoài nghi nói với tôi rằng: Tại sao tôi lại lấy ân đáp oán. Như vậy thật là phi lý. Tôi không bàn cải với y trên quan điểm Ðạo đức. Tôi chỉ trình bày cho y thấy cái kết quả cụ thể, khiến cho y chú ý đến những làn rung động của sự tức giận và những làn rung-động đối lập phát sinh tự lòng thương yêu; tôi cắt nghĩa cho y rõ vì làm sao những làn sóng yêu thương dập tắt được những làn sóng thù hận, tránh được những sự cải vả và mang lại niềm hòa khí. Lúc đó y trả lời rằng: Ơi bây giờ Bà nói đúng lý, tôi mới hiểu rõ tại sao tôi phải dĩ ơn báo oán.
    Vậy phải nhớ điều nầy, chư huynh có thể tự ý mình mở mang những cảm tình tốt đẹp, thanh cao và do đó mà giúp những kẻ khác chiến thắng được những cảm tình xấu xa thấp hèn của họ. Chư huynh có thể trở thành một nguồn ân huệ, làm cho người tức giận nguôi ngoai, người quạu quọ dịu giọng, chư huynh ban rải xung quanh mình sự hài lòng an phận, nhiều hạnh phúc, nỗi vui mừng bằng cách tuân theo định-luật thiên nhiên vửng vàng và không bị vi phản. Trước khi chấm dứt đề tài nầy, tôi phải nói cho chư huynh biết cái trách nhiệm của chư huynh đối với kẻ khác. Không những một mối cảm xúc tốt lành làm nổi dậy nơi chư huynh một làn rung-động của thanh khí mà nó còn lan ra chung quanh và cảm đến cái vía của kẻ khác. Mối cảm xúc xấu xa cũng tác động như vậy. Vậy thì không phải tự chủ ở bề ngoài mà thôi dằn xuống, không ngó, không nhìn một cách giận dữ, không ăn nói quạu quọ, không phát sanh một cử chỉ đe dọa, cũng chưa đủ đâu, chư huynh phải trừ tận gốc rể cái tánh giận dữ hảy còn tiềm tàng mặc dầu không thấy được. Do những dục vọng, những sự đấm mê của chư huynh, chư huynh nhiểm xã hội và ngay lúc đó chư huynh phải chịu trách nhiệm về cái ảnh hưởng mà chư huynh ban rải ra. (Trích trong quyễn Ðời Sống Huyền bí của Con Người trương 38 39-40.)

    III
    SỰ THÍ NGHIỆM THỨ BA
    TẬP RÈN TÁNH NẾT
    Theo một định-luật Thiên-Nhiên, khi trí khôn chú ý vào một đức tính nào thì đức tánh đó sẽ dần dần thành một phần tử của tánh nết mình; về sau đức tánh nầy biểu lộ ra một cách tự động, không khó nhọc chút nào. Vậy một người có thể tự ý mình mà xây dựng tánh nết mình một cách thích đáng chỉ cần phải hành động đúng với luật đó, tuân theo nó và kiên tâm trì chí tùy theo những sự kinh nghiệm đòi hỏi.
    Ðây là phương pháp phải theo. Chư huynh hảy tìm hiểu tánh nết mình, và chư huynh hảy ngưng lại ở một nhược điểm của mình như thiếu thành thực, hèn nhát, hay nóng giận, hoặc một tật xấu hay là một thói xấu tệ hại nào đó. Khi chư huynh thấy rằng mình thường sa ngã trước tật xấu xa đó, thí dụ nếu một người làm trái ý chư huynh thì chư huynh nổi giận, nếu chư huynh phải đương đầu với một sự nguy hiểm, thì chư huynh tỏ ra hèn nhát, nếu gặp sự khó khăn thì chư huynh lại nói dối để thoát thân; chư huynh hảy dẹp tất cả mọi việc ấy qua một bên và đừng nghĩ đến chúng nữa. Chư huynh hãy nhấn mạnh vào cái tánh tốt đối lập là đừng bao giờ nghĩ đến tật xấu nữa. Mỗi khi cái Trí trụ vào một nhược điểm nào thì nhược điểm đó sẽ tăng trưởng, vì tư tưởng đã thêm sức cho nó; nó còn mãi; thay vì biến mất đi. Dẫu chư huynh chỉ hối tiếc thôi thì sinh lực của tư tưởng cũng khiến cho nhược điểm hóa ra mạnh mẽ; sự hối tiếc của chư huynh tăng cường cho nhược điểm và làm cho nó bám chặt vào tánh nết mình. Hãy để nó ở lại phía sau. Ðừng bao giờ chư huynh để cho Trí mình ngưng lại nơi đó cả, dù chỉ trong một lát thôi, nhưng chư huynh hãy nghĩ đến tánh tốt đối lập lại. Chỉ thình lình nghĩ đến tánh tốt thì không đủ đâu. Mỗi sáng khi ngủ dậy, trước khi đi ra ngoài và xen lẫn với người đời, chư huynh hãy định trí trong năm ba phút vào tánh tốt mà chư huynh muốn xây dựng, tùy theo cái sức chú ý của mình.

    TẬP TÁNH KIÊN NHẨN
    Mỗi sáng chư huynh hãy làm như vậy một cách kiên nhẫn, đừng nghỉ một ngày nào cả; nếu không thì hình tư tưởng mà chư huynh muốn có sẽ tan ra và hườn lại chất Thượng thanh khí (1. Thượng thanh khí là chất khí làm cỏi Trí tuệ hay là Thượng giới) như trước. Rồi mỗi ngày, một cách tự nhiên, chư huynh lại phạm vào cái lỗi mà chư huynh đang tìm cách sửa chửa; chư huynh đừng lo chi điều đó, chư huynh cứ tiếp tục định trí mỗi buổi sáng chư huynh hãy tập trung tư tưởng vào tánh tốt mà chư huynh muốn có. Thí dụ chư huynh đang tìm cách hoạch đắc tánh kiên nhẫn, buỗi sáng chư huynh nghĩ đến tánh đó, nếu có ai làm cho chư huynh bực mình, chư huynh sẽ đáp lại một cách quạu quọ, nhưng khi đang trả lời, chư huynh bổng nghĩ rằng: Ôi, tôi muốn được kiên nhẫn biết bao. Ðiều nầy không quan hệ gì cả. Khi nào chư huynh đả tham-thiền về tánh kiên-nhẫn được bốn năm ngày, thì ngay khi lời nói tức giận tự miệng chư huynh sắp thốt ra, chư huynh tự nhủ: Tôi muốn kiên nhẫn. Chư huynh cứ tiếp tục một cách bền chí, và chẳng bao lâu, cái tư tưởng kiên-nhẫn, sẽ hiện ra trước khi câu trả lời sắc bén được thốt ra. Cứ bền chí mà tiếp tục như thế đi, kết quả sẽ thu thập được nhanh hay chậm là tùy theo sự chú ý của chư huynh, tùy theo quyền lực của tư-tưởng chư huynh, nhưng chẳng sớm thì muộn tánh hay tức giận sẽ biến mất và sẽ có tánh kiên-nhẫn thay thế vào. Chư huynh sẽ nhận thấy rằng chư huynh tự động lấy sự kiên-nhẫn mà đáp lại, sự khiêu khích, lấy sự dịu dàng mà đáp lại sự tức giận. Chư huynh đã xây dựng nơi mình tánh tốt mong muốn. Chư huynh có thể tham thiền nhiều cách, chư huynh tùy theo sự khéo léo của mình mà tự phát họa cho mình một chương trình. Khi còn trẻ, tôi rất hay tức giận nên một trong những phương-pháp ưa thích của tôi là cố gắng làm tượng trưng cho tánh kiên-nhẫn; trong khi tôi tham-thiền, chư huynh không bao giờ gặp một vị Thánh-Mẫu nào như tôi vậy. Dù ở ngoài giờ tham-thiền ra, tánh tôi như thế nào đi nữa, nhưng trong giờ tham-thiền đó, tôi là một người hoàn toàn triệt để, tuyệt đối kiên-nhẫn. Trong trí, tôi tưởng tượng xung quanh tôi có đủ những hạng người đáng ghét, những người đáng bực mình nhứt mà tôi đã biết; rồi trong trí tưởng tượng tôi phát họa một cách quá đáng những cử chỉ khiêu khích của họ; và cùng một lúc tôi cũng tìm cách tăng tưởng tánh kiên-nhẫn của tôi theo cái đà đó. Tôi tưởng tượng trong trí một tấn bi kịch nhỏ trong đó người ta làm hết cách để chọc giận tôi, tôi trả lời những sự khiêu khích đó như là một Griselda (1. Griselda là người đàn bà gương mẫu về đức kiên nhẫn và vâng lời chìu lụy chồng. Bà là vợ của hẩu tước Saluzzio. Hẩu tước bắt bà làm những công việc khổ sở mệt nhọc, Bà luôn luôn tuân theo không bao giờ than van hay oán trách. Trong cuốn Decameron của Boccacio và cuốn Canterbury Tales của nhà văn hào Chaucer cũng có thuật lại chuyện nầy. Giang sơn dễ ÐỔI- tánh nết khó THAY. Nếu không biết phương pháp rèn luyện thì e cho trọn một đời người cũng chưa tập được một tánh tốt, mà cũng trọn một đời người chưa bỏ được một tánh xấu. Ta nên suy nghĩ về điều nầy cho lắm, kẻo tới già thì đã muộn rồi, không còn ngày giờ đặng sửa đổi nữa. Chớ đợi tới già mới niệm Phật, Thiếu chi mồ trẻ đã qua đời.) kim thời. Sau một thời gian, tôi nhận thấy rằng khi tôi gặp những người đó, họ không còn có thể làm cho tôi nổi giận được nữa. Tôi tự hỏi rằng: Sao trước kia tôi lại cho rằng họ là những người đáng ghét. Một cách vô tâm, nhờ những cố gắng của tôi, tánh kiên-nhẫn đã trở thành một phần tử cố hữu cữa hạnh kiểm tôi rồi. Mỗi người trong chư huynh đều có thể làm như vậy. Chư huynh hãy làm thử coi, vì một kinh nghiệm bé nhỏ do chư huynh làm còn có giá trị bằng một trăm bài diển thuyết được nghe trong sự ngờ vực, không tin là đúng. Vì định luật là bất di bất dịch thì lẽ tự nhiên thế nào chư huynh cũng thành công. Theo lối đó chư huynh có thể hoạch đắc hết tánh tốt này đến tánh tốt nọ, cứ chú ý đến mổi nét đặc biệt cho đến khi chư huynh thấy rằng mình giống với lý tưởng của mình thêm được đôi chút; tuy bây giờ chư huynh hãy còn xa lý tưởng nhưng rồi chư huynh cũng biết rằng mình đang leo lên núi, lý tưởng ở trên đỉnh núi đang chiếu sáng rực rở và vì thế cho nên chư huynh không chịu dừng bước ở chân núi. Tôi không đủ thời giờ để đưa ra những thí dụ khác nữa. (Trích trong quyển Ðời Sống Huyền Bí của Con Người, trương 61 62-63-64).
    Trong quyển Con đường của Người Ðệ-Tử, Bà A. Besant có nói về cách tinh luyện những sự dục vọng thấp hèn của con người. Bà có đưa ra ba thí dụ như:

    1) Sự nóng giận
    2) Tình yêu
    3) Sự tham lam.

    Tưởng quí bạn cũng nên xem qua, nhưng chỉ đọc xuông, chưa phải là đủ. Muốn thí nghiệm phải thực thi những lời của Bà chỉ dạy trong một thời gian, đừng gián đoạn, đặng coi cái kết quả thế nào, rồi sẽ tin. Những sự thí nghiệm nầy không có hại, chúng đem cái lợi ích lại cho quí bạn là quí bạn trau dồi tánh nết ra tốt đẹp làm cho kẻ khác cãm mến mà quí bạn chỉ tốn công, mỗi ngày chừng chín mười phút thôi, chớ không tiêu hao tiền bạc chi cả.

    NHỮNG SÁCH THÔNG-THIÊN-HỌC NÊN XEM

    Muốn khảo cứu Thông-Thiên-Học, bạn hãy lựa chọn những sách sau đây tùy theo sở thích của quí bạn.

    A_ VỀ PHƯƠNG DIỆN TỔNG-QUÁT NHỮNG SÁCH CHỬ PHÁP

    Muốn hiểu sự thành lập Hội Thông-Thiên-Học Quốc-Tế-Histoire authentique de la Societe Théosophique-Olcott (3 volumes)

    ÐẠI CƯƠNG

    1.—Cle de la Theosophie—H.P. Blavatsky
    2.—La Sagesse antique—Annie Besant
    3.—Lois fondamentales de la Theosophie—Annie Besant.
    4.—La vie occulte de l’homme. ----
    5.—Le secret de la vie. ----
    6. – Karma Réincarnation ----
    7.—Precis de Theosophie. Leadbeater.
    8. Evolution occulte de l’humanite. Jinarajadasa- trước kia quyển nầy đề tên là Principes de la Theosophie rồi sau không biết vì lẽ nào đổi lại là Evolution occulte de l’humanite.
    9.—En son nom --
    10.—Vous --- Arundale.

    B- BÊN KIA CỬA TỬ

    1.-L’autre côte de la mort. Leadbeater
    2.—Le Plan astral ---
    3.-Le monde céleste
    C- LUYỆN TẬP DÔ GA
    1.—Introduction au Yoga A. Besant
    2.—Le Pouvoir de la pensee. ---

    D-HỌC CÁCH THAM-THIỀN
    1. La Méditation à l’usage des commencants Wedgwood.

    Ð MUỐN BIẾT HÓA HỌC HUYỀN BÍ
    1.—La Chimie occulte. A. Besant et Leadbeater

    E CÁC TÔN-GIÁO ÐỐI CHIẾU VỚI NHAU
    1.—Precis universel de religion et de morale. A. Besant.
    2.—Les grandes religions pratiquees dans l’Inde.
    3.—Bhagavad Gita. A. Besant.
    4.—Neuf Upanishads.

    F-HUYỀN BÍ HỌC TRONG THIÊN-NHIÊN
    1.—L’occultisme dans le nature. 2 tomes—Leadbeater
    2.-Le côte cache des choses. 2 tomes-- ----

    G-LUYỆN TẬP TÁNH TÌNH ÐẶNG BƯỚC VÀO CỬA ÐẠO
    1.—Aux Pieds du Maitre
    2.—La voix du Silence
    3.—La Lumiere sur le Sentier
    4.—Commentaires sur Aux Pieds du Maitre.
    5.—Commentaires sur la Voix du silence,
    6.—Commentaires sur la Lumiere sur le Sentier.
    7.—Vers le Temple. A.Besant.
    8.—Le sentier du disciole. A. Besant.
    9.—Les Maitres et le Sentier. Leadbeater.
    10.—Le serviteur. Lazenby.

    H-MUỐN BIẾT THẦN NHÃN LÀ GÌ?
    1.—De la Clirvoyance. Leadbeater
    2.—La science de la voyance. G. Hodson.

    I- MUỐN HIỂU NHIỀU VỀ 4 THỂ PHÁCH, VÍA, HẠ-TRÍ, THƯỢNG-TRÍ VÀ THÁI-DƯƠNG-HỆ

    5 Quyển của A E. Powel
    1.- Le double étherique
    2.—Le corps astral.
    3.—Le corps mental
    4.—Le corps causal.
    5.—Le systeme solaire.
    Quí bạn giỏi Anh văn xin đọc những quyển nầy viết bằng Anh văn bản chánh. Những quyển chữ Pháp là bản dịch.

    II. NHỮNG SÁCH VIỆT-VĂN
    ( SÁCH DỊCH)
    1.Trước thềm Thánh-Ðiện. (Vers le Temple) A. Besant
    2.Con đường của Người Ðệ-Tử (Le Sentier du disciple). A. Besant
    3.Ðời sống Huyền Bí của Con Người (La vie occulte de l’homme)
    4. Bí quyết của nhơn sanh (le secret de la Vie)
    5. Vài điều khó khăn của đời sống nội tâm (Quelques difficltes de la vie interieure)
    6. Quyền năng tư tưởng (le pouvoir de la pensee)---A. Besant
    7.Thông-Thiên-Học khái lược. (Une esquisse de la Théosophie) Leadbeater.
    8. Chơn nhơn và phàm nhơn (L’Ego et la Personnalite)
    9. Chơn-Sư và Thánh-Ðạo. (Les Maitres et le Sentier) Leadbeater
    10. Nhơn danh Sư-Phụ (En son nom) Jinarajadasa.
    11. Hoa và Vườn (Fleurs et Jardins) -----
    12. Dưới Chơn Thầy.
    13. Tiếng nói vô thinh (La voix du silence)
    14. Ánh sáng trên đường Ðạo (La Lumiere sur le Sentier)
    15. Những lời vàng ngọc (Trích dịch những diễn văn của Ðức Sri-Ram)
    16. Tư tưởng dành cho kẻ chí nguyện (Thoughts for aspirants) Sri-Ram
    17. Tiên mắc Ðọa (Dieux en exil) Van der Lew
    18. Ánh Ðạo Phương-Ðông (La Lumiere de l’Asie) Edwin Arnold
    19. Muốn được vào Hàng Ðệ-Tử Chơn Sư. Krishnamurti.
    20. Người Phụng Sự (Le Serviteur). ---Lazenby
    21. Con Ðường đi đến Chơn Tiên
    22. Chơn Sư và Thánh-Thể
    23. Ðức Thầy thâu nhận Ðệ-Tử
    24. Lời dạy của Chơn-Sư

    III. NHỮNG SÁCH VIỆT

    1. Minh Triết Thiêng-Thiêng 5 quyển toát yếu
    Quyển I: Con người là ai? _ Từ đâu đến? _7 cõi của Thái-Dương hệ -
    4 thể: Xác thân, Phách, Vía, và Trí.
    Quyển II: Bên kia của Tử.
    Quyển III: Luân-Hồi
    Quyển IV: Nhân-Quả
    Quyển V: Sự sanh hóa các giống dân trên dãy Ðịa cầu

    2. Con người thác rồi về đâu?
    3. Nhân-Quả
    4. Ðạo Lý thực hành (phương pháp luyện mình đặng làm một vị Thiện nhân) Ðịnh trí-tham thiền và 12 đức tánh.
    5. Nói chuyện với Ma (Chuyện Hồn Ma cô Katie King và nhà Bác-học William Crookes (Chuyện hồn ma 30 thủy thủ Nhựt ở Ma Lai. Chuyện hồn ma ở trường Quốc Học Huế)
    6. Tại sao chúng tôi lập Hội Thông-Thiên-Học Việt-Nam.
    7. Người Thông-Thiên-Học tiến tới cách nào?
    8. Nhân-Quả và Ðời Người
    9. Ðại Tá Olcott và sự Phục hưng của Phật Giáo.
    10. Bí quyết của Tình Huynh Ðệ

    Nói tóm lại Thông-Thiên-Học là Khoa-học Tâm-Hồn, nó tiết lộ cho con người ba điều tối quan trọng như sau đây:
    Một là: Trời có một cái Cơ, Cơ đó là sự tiến hóa
    Hai là: Con người là Chơn Thần, một điểm Linh-Quang của Ðức Thượng-Ðế, sự phát triển của con người sẽ vô cùng tận, vô biên.
    Ba là: Có một con đường vắn tắt dắt dẫn con người đến mục tiêu của Ðức Thái-Dương Thượng-Ðế đã định sẵn cho con người trong Tiểu Vũ-Trụ nầy: Ấy là con Ðường Ðạo.
    Vậy xin cầu những quyển kể ra trên đây giúp ích được quí bạn phần nào trong công việc tìm hiểu lý do sanh hóa con người trên Ðịa-Cầu và tầm kiếm con Ðường Giải-Thoát.

    Lành thay. Lành thay
    Viết xong tại Châu-Ðốc ngày mồng một tháng Tư Năm Canh-Tuất,
    nhằm ngày mồng năm tháng năm 1970 (5 Mai 1970).
    BẠCH LIÊN
    Ví tham ngàn tứ muôn chung
    Con chim bay mãi cũng trong khuôn Trời
    http://www.thongthienhoc.com/sach%20tthlagi.htm

  5. #5

    Mặc định

    Mặc dù TTH không phải là một tôn giáo, nhưng số lượng bài vở cũng như sách của TTH là vô cùng nhiều và rất hữu ích cho các anh em tu đạo nghiên cứu thêm, đề nghị anh Love Tâmlinh xem xét lập hẳn một box riêng cho TTH trong mục Tôn giáo để tiện đăng bài cho ACE trong TGVH nghiên cứu và học tập.

  6. #6

    Mặc định

    Đệ trích một đoạn trong 5 Bức Huấn Thư - Bức thư thư thứ 5 của Đức Cha ( Đức Phật Di Lạc theo tín ngưỡng của người theo Đạo Phật, Cha theo tín ngưỡng Thiên Chúa Giáo)

    ....
    "Đầu thế kỷ 19 Ta lại nhờ hai vị Đại Tiên (Morya – Kuthumi) xuống mở Hội Thông Thiên Học để giúp cho nhân loại thế giới phát triển Vô Vi bằng khoa Siêu hình Tâm linh. Đến nay Ta đích thân phân thanh Điển Quang đầu thai xuống Thế làm người, để hợp cùng các chi đạo về một mối theo đúng chu kỳ cho kịp tiến trình vận chuyển của Thiên Cơ".
    ....
    Vậy theo ý Tutam thì mở mục Thông Thiên Học như vậy là hợp lý.

  7. #7

    Mặc định

    Đệ trích một đoạn trong 5 Bức Huấn Thư - Bức thư thư thứ 5 của Đức Cha ( Đức Phật Di Lạc theo tín ngưỡng của người theo Đạo Phật, Cha theo tín ngưỡng Thiên Chúa Giáo)
    .
    .
    .
    bức thư thứ 5 của đức cha là sao???Đức cha đó có liên quan gì tới Phật Di Lặc của đạo Phật vậy???
    mong huynh nói cho đệ được biết...

  8. #8
    Đai Trắng Avatar của crystal08
    Gia nhập
    Aug 2013
    Nơi cư ngụ
    tp.hcm
    Bài gởi
    20

    Mặc định

    tự nhiên sau 1 hồi đọc những tài liệu về thông thiên học, tự nhiên mình có 1 thắc mắc muốn hỏi mọi người là trong thời kì thanh lọc này , tại nước Việt Nam sẽ có khoảng bao nhiêu người vượt qua kì sát hạch?
    chỉ là mình tò mò thôi, nhưng rất muốn biết, ai biết nói cho mình nghe nhé.. cám ơn!...
    SỐNG ĐỂ TRẢI NGHIỆM! :happy:

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 17-06-2013, 07:26 AM
  2. Khoa học bí ẩn - Xem Phong Thủy Đoán Mệnh Nước Việt
    By dc_bac in forum Phong Thủy, Địa lý
    Trả lời: 16
    Bài mới gởi: 19-12-2012, 09:28 AM
  3. TỬ VI NGHIỆM LÝ TOÀN THƯ
    By thaiduong162 in forum Tử Vi
    Trả lời: 16
    Bài mới gởi: 01-10-2011, 08:13 PM
  4. TỐ NỮ KINH 1
    By thaiduong162 in forum Y, Dược Thuật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 25-04-2011, 09:12 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •