Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 21

Ðề tài: Lược thuật Tòa Thánh Tây Ninh

  1. #1
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định Lược thuật Tòa Thánh Tây Ninh

    Lược thuật Tòa Thánh Tây Ninh
    Biên Soạn : T. L. THIỀN GIANG, MINH TÂM & THANH QUANG

    Mục Lục

    Bức Tâm Thư
    I.- Ngôi Cửu Trùng Đài
    II.- Ngôi Tòa Thánh
    III.- Nội Tâm Tòa Thánh
    IV.- Bát Quái Đài
    V.- Lịch Sử Kiến Trúc Tòa Thánh
    VI.- Các Cơ Quan Trong Nội Ô Tòa Thánh
    VII.- Ngội Hiệp Thiên Đài
    VIII.- Điện Thờ Phật Mẫu - Báo Ân Từ
    IX.- Cơ Quan Phước Thiện


    Bức Tâm Thơ

    KÍNH ĐỌC GIẢ,

    Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay Đạo CAO ĐÀI xuất hiện tại miền Nam nước Việt, ngoài 38 năm.

    Sự hiện diện của nền Tân Tôn giáo nầy đã làm cho thế giới quan tâm không ít...
    Tất cả sự huyền diệu và giáo lý của Đạo CAO ĐÀI đã được tiêu biểu đại cương tại Tòa Thánh Tây Ninh.
    Ngôi Tòa Thánh này có sự kiến trúc kỳ quan, tàng ẩn bao thể pháp vô vi, hữu vi tiêu chuẩn sự mầu nhiệm của nền Đạo CAO ĐÀI.
    Sự qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi nơi Tòa Thánh Tây Ninh có gì làm tiêu biểu?... Mục đích cứu cánh nền Đạo thế nào?... Những cơ quan trong Đạo ra sao?... Và lịch sử xây cất Tòa Thánh, chúng tôi đã lược giải phân minh trong quyển sách nầy...
    Thiết nghĩ, ngoài sự liên quan đến nền Đạo đây cũng là một thắng cảnh như muôn ngàn thắng cảnh trong nước Việt Nam, du khách ai cũng được tự do đến xem và nghiên cứu về sự tích của thắng cảnh đó và rồi cũng có thể diễn thuật lại trên sách, báo.
    Mục đích của chúng tôi là giúp đọc giả bốn phương tìm hiểu thêm thắng cảnh Việt Nam... Nên chúng tôi đã nghiên cứu kỷ những tài liệu quan trọng hầu khảo sát sự kỳ quan mới mẻ nầy... và đã đăng tải trên “Nhật báo Thủ Đô” ngoài một tháng.
    Nay lại có nhiều thơ bốn phương gởi đến cũng như được phần đông tín đồ Cao Đài Giáo khuyến khích chúng tôi in thành sách.
    Trước nguyện vọng quí vị quan tâm, chúng tôi kính cẩn đáp lại bằng sự hoàn thầnh quyển sách nầy.
    Chúng tôi hy vọng sẽ được chỉ giáo thêm những điều khiếm khuyết để lần tái bản sau nầy sẽ hoàn hảo hơn.


    Kính thơ,
    Nhà sách MINH TÂM, ngày 4-2-1963



    LƯỢC THUẬT TÒA THÁNH TÂY NINH
    Biên Soạn : T. L. THIỀN GIANG .MINH TÂM & THANH QUANG
    Nhà sách Minh Tâm Xuất bản và giữ bản quyền -1963-



    TÒA THÁNH TÂY NINH


    TÒA THÁNH TÂY NINH xây cất tại xã Long Thành, quận Phú Khương (huyện Hòa Thành ) thuộc tỉnh Tây Ninh.

    Vì TÒA THÁNH ở tỉnh Tây Ninh, nên quen gọi “TÒA THÁNH TÂY NINH”. Đúng hơn không phải mang tên “Tây Ninh”, mà là “TÒA THÁNH ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ” hay “TÒA THÁNH CAO ĐÀI”.

    ĐƯỜNG VÀO TÒA THÁNH

    Muốn đến Tòa Thánh nầy, du khách phải đi xe đò từ Sàigòn về Tây Ninh, khoảng đường 100 cây số. Đến Tây Ninh, xe đò còn phải về chợ Thương Binh (nguyên chợ nầy là nơi phế binh Cao Đài ở, nên gọi là chợ Thương Binh) độ chừng 5 cây số ngàn, rồi mới đến cửa số 2 của Tòa Thánh.

    Tại sao gọi cửa số 2?

    Vì diện tích nội ô Tòa Thánh độ 1 cây số vuông, chung quanh có hàng rào xi măng, hoặc những con đường phân biệt nội ô và ngoại ô. Cứ cách khoảng đều nhau độ 300 thước, thì có một cửa ra, vào.

    Tính từ cửa số 1, cửa số 2, cửa số 3... cho đến cửa số 12. Danh từ mỗi cửa đặt tên theo số thứ tự. Những cửa nầy vừa kiến trúc hoàn thành được 2: cửa số 1 và cửa số 4 mà thôi.

    Muốn vào nội ô xem Tòa Thánh, du khách phải đi qua cửa số 1 tức cửa chánh Tòa Thánh. Như đã nói trên, cửa nầy vừa được kiến trúc xong. Điều mà du khách quan tâm là thể thức kiến trúc kiểu mới, lạ, chạm trổ hình Rồng và Hoa Sen, sơn phết các màu sắc rực rỡ.

    Trên mỗi cửa nầy đều có hàng chữ “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ” khắc bằng Hán tự hoặc Việt ngữ. Cửa làm phân tam quan rõ rệt: Nam tả; Nữ hữu. Còn chính giữa rộng hơn hai bên, để các cuộc lễ quan khách ra, vào hoặc chạy xe.

    Cửa nào kiến trúc xong như cửa số 1 nầy, đều cũng chia ba nóc phân biệt trên ba lòng cửa tam quan. Nóc giữa cao hơn, có gắn 3 cổ pháp:

    1- Cuốn Xuân Thu của Nho giáo (Đạo Nho) sơn màu đỏ, có khắc Hán tự “Xuân Thu”.
    2- Cây Phất Chủ của Lão giáo (Đạo Tiên) sơn màu xanh.
    3- Bình Bát Du của Phật giáo (Đạo Phật) sơn màu vàng.

    Ba cổ pháp trên đây tượng trưng sự qui tam giáo (Đạo Nho, Đạo Tiên và Đạo Phật) đều đúc bằng xi măng chạm trổ một cách khéo léo.

    Bên tả và bên hữu, trên nóc thấp hơn. Mỗi nóc đều có đúc hình giỏ Hoa Lam là Bửu pháp của vị Long Nữ Đồng Tử.

    Hai cây cột cửa to lớn hai bên có chạm hai câu đối Hán tự:

    “Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục”
    “Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền”


    Ngoài hình rồng hay bông sen, cửa còn có chạm dây và trái Nho trong các khuôn. Sự thật, không phải Hội Thánh chạm rồng để linh động, chạm bông sen để tăng cường sự đẹp đẽ đâu. Trái lại, mỗi mỗi đều ngụ ý sâu xa, du khách trông vào chỉ thấy vẻ đẹp, nào biết đâu những gì bí ẩn.

    Ý NGHĨA HAI CHỮ LONG HOA


    Chạm Rồng Hán tự gọi “LONG”, là một loài thú trong tứ linh (long, Lân, Qui, Phụng) và Bông Sen Hán tự gọi “HOA”, trong Cửu phẩm Liên hoa của Đức Phật.

    Lấy hai chữ LONG và HOA ráp thành: “LONG HOA”, tiêu biểu mục đích cuối cùng của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là độ rỗi nhơn sanh đi đến hội LONG HOA, một cuộc đại hội các đẳng chơn hồn chúng sinh, do Đức THƯỢNG ĐẾ hiện nay tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ điều khiển, phán đoán tội lỗi chúng sanh một cách công bình, gọi là phán đoán Hội LONG HOA.

    Nên cửa chạm hình Rồng và Hoa Sen là ngụ ý làm mục tiêu cứu cánh của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vậy.

    Còn những nhành lá và chùm trái nho là ngụ ý làm tiêu chuẩn cho cả Tín đồ cùng các Chức sắc hành đạo hiểu rằng chi chi cũng lấy nền tảng Nho phong làm căn bản: Liêm, Sĩ, Lễ, Nghĩa v.v..., và còn có nghĩa là tiêu biểu thời kỳ nầy Nho tông chuyển thế (Thánh giáo) nên những nhành lá và chùm nho đó tượng trưng sự xuất hiện đến kết quả của Đạo Nho vậy.

    Trên nóc, ở giữa, còn có ba cái vòng liên đới với nhau, như ta thường thấy vẽ trên sách, báo mỗi khi đề cập đến thể thao. Nhưng đặc biệt ba cái vòng tròn nầy sơn màu khác nhau.

    - Màu vàng, tức màu Phật (tượng trưng Đạo Phật) gọi là Thái Thanh.
    - Màu xanh, tức màu Đạo (tượng trưng Đạo Tiên) gọi là Thượng Thanh.
    - Màu đỏ, tức màu Thánh (tượng trưng Đạo Nho) gọi là Ngọc Thanh.

    Thái thanh, Thượng thanh và Ngọc thanh nầy do câu “Lão quan ứng hóa Tam thanh” mà cũng tượng trưng Tam giáo qui nguyên, hiệp nhứt.

    Ngoài ra, cửa còn phụ hệ những chi tiết như hình chữ VẠN gắn những bức tranh sơn thủy tuyệt vời.

    Hình ảnh cửa còn linh hoạt, chói chan trước mắt.

    Đi vào, du khách thấy liền hai căn nhà nhỏ, đúc tường lợp ngói, nằm song song hai bên lộ. Hai căn nhà nầy để những người có phận sự ở giữ gìn trật tự. Hoặc đánh trống canh giờ.

    Kế đó, du khách thấy ngay một ngôi nhà phía bên tả, nằm phơi bóng tráng lệ, nguy nga trong nắng vàng man mác.

    I- NGÔI CỬU TRÙNG ĐÀI

    Ngôi nhà này là cơ quan trung ương của Hòa Thành Cửu Trùng Đài. Cơ quan nầy có nhiệm vụ truyền bá giáo lý Đại Đạo và phổ độ chúng sanh gọi là cơ quan hành pháp. Nhóm người làm việc nơi đây là những Chức sắc lớn, nhỏ; đẳng cấp phân minh, hiệp lại mạng danh là “Hội Thánh Cửu Trùng Đài”.

    Ngôi Cửu Trùng Đài


    Ngôi Cửu Trùng Đài nầy, nằm song song với ngôi Tòa Thánh, hình thức kiến trúc: nóc bằng, dạng khối chữ nhựt, thật đồ sộ và nguy nga. Ngôi nhà nầy chia ra làm hai từng: dưới và trên là lầu. Toàn than sơn phết nước vôi nhưng đã lam mờ trắng nhạt.

    Du khách lần bước vào xem. Trước ngôi Cửu Trùng Đài có để hai chiếc băng đá dài, dành cho du khách ngồi ngắm ra sân cỏ xanh... xa xa núi Bà Đen soi dáng.

    Nhìn vào ngôi nhà nầy, thấy những bàn ghế thật nhiều để có thứ tự và một dãy tủ đặt dựa vách tường. Trên trần nhà, thân các cây kèo đúc bằng xi măng đều có chạm hình dây, lá và trái nho quấn lấy nhau, sơn màu xanh, điểm những ánh đỏ lung linh.

    Mỹ thuật kiến trúc như thế, hẳn Hội Thánh cũng ngụ ý lấy cây nho tượng trưng nề nếp nho phong căn bản Đạo Đức trên mọi lãnh vực Liêm, Sĩ, Lễ, nghĩa, Khiêm, Cung v.v... Ngoài ra, từng nầy có chia nhiều phòng. Các phòng ấy là những viện làm việc như sau, trực thuộc dưới quyền điều khiển của ba Chánh Phối Sư ba phái:

    1- Phái Ngọc (những chức sắc phái nầy mặc đạo phục, áo mão màu đỏ tức phái Thánh). Dưới ba phẩm chức sắc cao cấp (Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư) thì có một vị Chánh Phối Sư cầm đầu điều khiển. Dưới quyền vị nầy có ba viện:

    a) Hòa Viện là viện để phán xét, răn phạt, hòa giải những chức sắc nhỏ và tín đồ phạm luật pháp răn cấm của Đạo.

    b) Lại Viện là viện dùng để chuyển tiếp giấy tờ, hồ sơ, thơ tín trong việc truyền giáo của những chức sắc phổ độ chúng sanh từ bốn phương gởi về, hoặc vâng lịnh thượng cấp ban hành giấy tờ thuyên bổ chức sắc đi hành đạo v.v...

    c) Lễ Viện là viện lo sắp đặt tế lễ mỗi khi rằm, ba mươi, hoặc lo các vấn đề: quan, hôn, tang, tế.

    Đại diện mấy việc nầy, mỗi viện trên hết có vị Thượng Thống. Dưới quyền điều khiển của vị nầy, gồm có: Phụ thống, Quản văn phòng, Bí thơ và Thơ ký lo các việc giấy tờ; đặc biệt viện nào phận sự riêng viện nấy.

    2- Phái Thượng (những chức sắc phái nầy mặc đạo phục, áo mão màu xanh) tức là phái Tiên.

    Phái nầy, dưới ba phẩm chức sắc cao cấp (Giáo Tông, Chưởng Pháp, Đầu Sư) thì có một vị Chánh Phối Sư cầm đầu điều khiển. Dưới vị nầy cũng có ba viện:

    a) Học Viện là viện dùng để chăm lo sự giáo dục trẻ em trong Tôn giáo, đồng thời cũng là cơ quan huấn luyện các chức sắc nhỏ trong Đạo. Công việc thường xuyên Viện nầy còn là kho chứa dụng cụ văn phòng như giấy, mực v.v... để cung cấp các cơ quan trung ương Tòa Thánh.

    b) Y Viện là viện dùng để lo cung cấp thuốc men cho tín đồ và chức sắc, chức việc hành sự khi bịnh hoạn. Viện nầy còn liên đới trách nhiệm săn sóc trẻ con mồ côi, tế trợ đồng bào khi hoạn nạn ốm đau...

    c) Nông Viện là viện trông nom sự trồng tỉa để cung cấp về trung ương nuôi những người hiến thân trọn đời cho Hội Thánh. Viện nầy còn có nhiệm vụ lo phát triển mọi cơ sở đồn điền, rẫy bái trong các Phận đạo khắp nơi.

    Đại diện mỗi viện có vị Thượng Thống và dưới quyền điều khiển của mỗi vị nầy cũng có Quản văn phòng, Bí thơ v.v...y như phái Ngọc mà lo phận sự riêng biệt.

    3- Phái Thái (những chức sắc phái nầy mặc đạo phục, áo mão màu vàng) tức là phái Phật. Cũng dưới ba phẩm chức sắc cao cấp như đã nói trên, thì có một vị Chánh Phối Sư cầm quyền điều khiển. (Xin đọc giả lưu ý, dù mỗi phái trên phẩm Chánh Phối Sư có ba phẩm cao cấp hơn. Song chỉ có hai phẩm Chưởng Pháp và Đầu Sư là mỗi phái có một vị. Còn riêng về phẩm Giáo Tông chỉ có một người mà thôi).

    Dưới quyền Chánh Phối Sư phái Thái cũng có ba viện:

    a) Hộ Viện là viện chấp chưởng và gìn giữ tiền bạc của Đạo.
    b) Lương Viện là viện lo sự ăn uống cho cả chức sắc, chức việc và tín đồ hành sự trong những cơ quan trung ương.
    c) Công Viện là viện lo tạo tác, tu bổ hoặc kiến trúc các cung thự trong nội ô Tòa Thánh.

    Đại diện mỗi viện nầy cũng có những vị Thượng Thống v.v... nhưhai phái kia vậy.

    Tất cả các việc trực thuộc dưới quyền điều khiển của Chánh Phối Sư mỗi phái là 9 Viện. Nhưng, tại hạ tầng ngôi Cửu Trùng Đài nầy chỉ có 6 viện mà thôi. Còn các viện kia như Y Viện, Nông Viện, Công Viện thì được làm việc nơi khác hoặc xây cất riêng biệt – Như Nông Viện cách Tòa Thánh gần 800 thước.
    Sau khi quan sát và tìm hiểu hạ tầng ngôi Cửu Trùng Đài, du khách có thể lên tầng lầu xem. Trên tầng lầu nầy, chỉ có bốn phòng riêng biệt. Ba phòng dùng để ba Chánh Phối Sư thuộc ba phái làm việc. Còn một phòng để làm văn phòng Đầu Sư.

    Tóm lại, sự làm việc nơi ngôi Cửu Trùng Đài tổ chức có hệ thống đặc biệt.Dù những vị chức sắc, chức việc hay tín đồ, hằng ngày làm việc phải mặc áo dái và quần “bà ba”, toàn màu trắng; chơn đi dép hoặc guốc thôi.

    Rời Cửu Trùng Đài, du khách thấy bóng ngôi Tòa Thánh hiện ra, màu sắc rực rỡ, nhấp nhô muôn vàn thể thức tựa hồ những ánh kim cương...

    Du khách sẽ dừng chơn mơ màng đứng ngắm ngôi Tòa Thánh nằm phơi bóng đồ sộ nguy nga... trập trùng chói lọi sắc màu... Có những nóc cao vút, vượt lên không trung, chơ vơ giữa trời bát ngát...

    Bây giờ, du khách quan sát tỉ mĩ, nghiên cứu từ phương hướng, vị trí và hình thể, rồi sẽ lần lượt tìm hiểu nội dung cả một công trình mỹ thuật vĩ đại, bao hàm những sự bí ẩn, linh thiêng...

    Ngôi Tòa Thánh ở về phía Tây đô thị Sàigòn, đi đường bộ phải mất 105 cây số ngàn. Vị trí, ngôi Tòa Thánh xây cất tại xã Long Thành, quận Phú Khương, tỉnh Tây Ninh, cách tỉnh lộ số 13 độ 150 thước và cách tỉnh lỵ Tây Ninh 4800 thước.

    Last edited by mynhan; 29-10-2018 at 09:09 AM.

  2. #2
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    II- NGÔI TÒA THÁNH

    Tòa Thánh nằm theo hướng Đông Tây. Mặt tiền day về hướng Tây cách “Động Đình Hồ” (Bầu Cà Na) 500 thước.


    Hình thể Tòa Thánh thật đồ sộ, nguy nga. Chiều dài 140 thước, chiều ngang 40 thước, phân làm ba đoạn.

    Đoạn đầu là khuôn diện, day về phía mặt trời lặn. Trên nóc, bên tả có lầu chuông, bên hữu có lầu trống đều cao 36 thước. Gọi là “Bạch Ngọc Chung Đài” và “Lôi Âm Cỏ Đài”.

    Mới trông vào tầng dưới, du khách thấy ngay bốn cây cột đúc hình rồng có quấn hoa sen, sơn màu nâu sậm, chạm trổ khéo léo một cách linh hoạt. Những gạt rồng nhô ra tựa đôi nhánh khô gầy và các hoa sen chạm trổ một cách sắc sảo, tinh vi. Mấy cây cột đúc hình Rồng và Hoa Sen, cũng không ngoài ý nghĩa mục tiêu cứu cánh của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, như chúng tôi đã nói rõ ý nghĩa ở đoạn trước.

    Rồi du khách bước lên 5 thềm gạch mà vào Đền Thánh. Mội bậc thềm nầy cao độ 2 tấc rưởi. 5 bậc ở cửa bước vào cũng có ý nghĩa tượng trưng sự hiệp Ngũ chi, nghĩa là 5 chi đạo: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo. Lên khỏi 5 bậc thềm gạch, du khách nhìn ngay giữa, trên cửa thấy có bàn tay đúc bằng xi măng, sơn màu trắng nắm cán cân, tượng trưng bàn tay Thượng Đế cầm cân công bình đo tội, phước chúng sanh.

    Đưa mắt nhìn bên hữu có một pho tượng đúc bằng xi măng, sơn màu nâu mặc giáp, đầu đội kim khôi, oai phong lẫm liệt: tay cầm đại đao, nhưng vẻ mặt hiền lành, đó là ông Thiện. Nhân vật tượng trưng sự thiện. Trông qua bên tả, du khách cũng thấy một pho tượng đứng song song pho tượng ông Thiện. Pho tượng nầy cũng thân mặc giáp, đầu đội kim khôi, nhưng vẻ mặt hung tợn, nhăn răng trợn mắt, tay cầm búa đưa lên và tay nọ cầm Ngọc ấn Tỷ phù. Ấy là nhân vật tượng trưng sự ác. Hai pho tượng này ngụ ý nghĩa: Thiệc Ác đối chiếu.

    Đời người chỉ có hai con đường ấy, ai cũng phải đi một.

    Muốn tìm hiểu bí ẩn lịch sử của hai pho tượng nầy, du khách hỏi người hướng dẫn xem sẽ được nghe thuật lại mẫu chuyện vô cùng lý thú.


    Nguyên hai pho tượng ông Thiện và ông Ác nầy là do sự tích con vua Tỳ Kheo. Nhà vua nầy, lịch sử Đạo gọi là ông vua thứ 12 thời kỳ Thượng cổ, có sanh trưởng hai người con trai, đặt tên là Tỳ Văn (ông Thiện) và Tỳ Vũ (ông Ác).

    Vua Tỳ Kheo rất mộ đạo đức. Thời kỳ nầy có Đức Nhiên Đăng khai Phật giáo, vua Tỳ Kheo có lập một gnôi chùa để lo tu niệm. Khi nhà vua già, muốn truyền ngôi cho con, nhưng thấy tánh Tỳ Vũ (ông Ác) rất hung tợn, nên vua Tỳ Kheo sợ Tỳ Vũ sẽ gây nhiều tai ác trong xã hội.

    Vì vậy, nhà vua ban chiếu, gạt Tỳ Vũ đi chiêu mộ anh tài, ở nhà, vua Tỳ Kheo mới truyền ngôi cho ông Tỳ Văn (ông Thiện) bởi ông nầy bản chất lương thiện.
    Sau, Tỳ Vũ lo xong phận sự trở về triều bái tung hô, khi dòm lên thì thấy anh mình ngồi trên ngai vàng. Tỳ Vũ bèn nói rằng:

    “Anh hiền làm vua, dân không sợ đâu, hãy để ngôi lại cho tôi. Tôi dữ là dữ với kẻ hung ác, bạo tàn vô nhân đạo kia; chớ tôi không dữ với người đạo đức hiền lương đâu!”.

    Tỳ Văn nghe nói, sợ phải thất ngôn với vua cha, nên mới cầm Ngọc ấn Tỷ phù mà thoát xác đăng Tiên. Tỳ Vũ chạy đuổi bắt anh, nhưng đến nơi thấy thế hết sức hối hận, ăn năn, quyết phủi hết sự đời rồi cũng được thoát xác đăng Tiên.

    Do đó, ngày nay mới còn truyền thuyết “Tu nhứt kiếp, ngộ nhứt thời”.
    Hai pho tượng nầy tiêu biểu sự thiện ác, phản chiếu nhau cho nhân thế soi chung; đồng thời ngụ ý rằng “con người ác mà biết ăn năn hối ngộ một cách chơn thật, diệt hết lòng ham muốn sự đời thì cũng được Thiêng Liên cứu rỗi linh hồn.

    Câu chuyện còn man mác trong tâm hồn, du khách tiếp tục đi xem.

    Liên đới với hai pho tượng ông Thiện và ông Ác là lầu chuông và lầu trống cao vượt lên.

    Bên hữu lầu chuông ngang pho tượng ông Thiện có khắc mấy chữ Nho “Bạch Ngọc Chung Đài”, và bên tả ngang pho tượng ông Ác cũng khắc mấy chữ Nho đề “Lôi Âm Cổ Đài”.


    Đưa mắt nhìn lên trên, du khách thấy xây hình bán nguyệt, gọi là “Bao Lơn Đài” (xây phân nửa hình tròn).

    Trước bề dày của thành bao lơn nầy có đắp tượng hình: Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục tượng trưng sự sinh hoạt thế nhân ý nghĩa: nơi đây là tổ hợp các linh hồn trên cõi thế, dù sinh tiền làm nghề gì cũng vậy, phút cuối cùng phải về đây xem tội phước (vì Tòa Thánh, theo Thánh ngôn dạy là điển hình cho Bạch Ngọc Kinh tại thế).


    Pho tượng Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung

    Ngang bao lơn đài nầy, bên hữu có pho tượng hình Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, thánh danh “Thượng Trung Nhựt” là người có công vĩ đại khai mở nền Đạo. Bên tả là pho tượng hình Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, cũng là vị chức sắc có công to tát với nền Đạo.

    Trên hai pho tượng nầy có hai bó hoa đúc bằng xi măng sơn màu xanh, đỏ sặc sở, thầm chứa chan một niềm thanh thoát tinh vi.


    Pho tượng Nữ Đầu sư
    Lâm Hương Thanh

    - Hai bó hoa nầy tượng trưng theo tích vua U Vương nhà Châu bên Trung Hoa nằm mộng thấy bó hoa trên không rớt xuống trong lúc mặt trời mọc. Nhà vua đem điềm chiêm bao bàn cùng vị quân sự và bảo đoán xem lành, dữ.

    Vị Quân sư đoán rằng:

    - Điềm mộng, mặt trời mọc: là một sự siêu linh, tượng trưng như thần Linh Quang soi sáng cõi thế nhân- hay là mối Đạo Trời sắp mở - để hướng dẫn tinh thần nhân loại.

    Bó hoa: là một niềm tinh vi, cao khiết, linh hoạt khó tả, thể hiện tinh thần vũ trụ và nhân sinh; và đây cũng là Đạo.
    Vậy nước của Bệ Hạ sắp có một mối Đạo khai mở.

    Quả thật, trong ba ngày sau có Đức Phật Thích Ca đến mở Đạo Phật.

    - Lầu chuông và lầu trống, mỗi lầu đều có sáu tầng riêng biệt giống nhau cao vượt lên khoảng thinh không. Chỉ khác hơn là chót vót của lầu chuông, dưới cây thu lôi có đắp hình một cái hồ lô bằng xi măng với cây gậy. Ấy là bửu pháp của Lý Thiết Quả (một vị Tiên trong Bát Tiên). Và ở bên lầu trống trên nóc cao chót vót cũng có đắp hình giỏ Hoa Lam, ấy là bửu pháp của vị Long Nữ (đồng tử của Đức Quan Thế Âm Nam Hải Phổ Đà Sơn).

    Mục đích đắp hai món bửu pháp nầy để tượng trưng cho du khách trông thấy sẽ liên tưởng đến các vị như Lý Thiết Quả trong Bát Tiên và Long Nữ đồng tử là những vị Tiên đang thanh nhàn phiêu diêu, tự tại, vui thú thanh cao; không hề vướng bận.

    Ngoài sự tín ngưỡng liên đới đến nền Đạo có tính cách huyền bí còn ngụ thầm cùng du khách rằng: “Phút thư thả nầy du khách có nghĩ gì đến kiếp sinh hiện tại: mình giam mình trong cảnh khổ chăng?”

    Các bậc thức giả nhận thức những chi tiết nơi Tòa Thánh có thể ý hội được phần nào lạc thú cảnh Tiên sánh với cảnh đời hiện tại.

    Chừ đây! Du khách mới thấy rằng hình ảnh một con người chỉ là một sinh vật linh hoạt, cô đơn đang chơ vơ giữa: Tiên cảnh, trần gian.

    Phút giây chạnh niềm rung cảm trước cảnh nguy nga, tráng lệ sắc màu... du khách mơ màng theo hình ảnh những chi tiết trên hai lầu Bạch Ngọc Chung và Lôi Âm Cổ... mà sinh bao ý nghĩ miên man, mông lung vời vợi trên nóc lầu heo hút...

    Rồi du khách sẽ nhìn đến hình ảnh linh hoạt, phản chiếu sắc màu nằm giữa hai lầu chuông và trống sau bao lơn đài. Đó là Thiên Nhãn (Ocil de Dieu) sơn màu xanh tươi thắm, ngấn sáng, lung linh, sống động, chiếu rực các tia rẽ quạt, một vùng linh hoạt tung ra.

    Hai bên Thiên Nhãn nầy có hai câu đối khắc bằng Hán tự như vầy:

    “HIỆP NHẬP CAO ĐÀI, BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ”
    “THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO, NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA”


    - Là: tựu vào CAO ĐÀI, trăm họ mười phương sùng Chánh lý, Trời khai bí thuyết (Huỳnh Đạo) năm nhành và ba tôn giáo dự Hội LONG HOA.

    Đại để, chúng sanh mười phương qui sùng bái Đạo CAO ĐÀI. Trời khai Đạo gồm năm Chi (tức Ngũ chi Đại đạo là: Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo và Phật đạo) và Tam giáo (Đạo Phật, Đạo Tiên và Đạo Thánh) để dự Hội LONG HOA, mục đích cảnh tỉnh thế nhân hướng về chánh lý tu niệm cho kịp Hội LONG HOA.


    Tượng Đức Phật Di Lạc

    Trên hai câu đối nầy có hai chữ nho, bên hữu là chữ NHÂN, và bên tả là chữ NGHĨA; mục đích tiêu chuẩn nguồn cội nhân sinh thuận thảo; xã hội thanh bình đều do NHÂN, NGHĨA phát huy tự căn bản đạo lý mà ra vậy.

    Trên hai chữ NHÂN và NGHĨA có khắc hai hàng chữ Hán, Việt như vầy: “ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ”.

    Ngay giữa mấy chữ nầy có đắp bộ Cổ pháp: Cuốn Xuân Thu, Cây Phất Chủ và Bình Bát Du tượng trưng sự qui hiệp Tam giáo như chúng tôi đã nói ở đoạn vừa qua.
    Trên hàng chữ nầy có pho tượng ngồi trên lưng cọp, đó là tượng Đức Phật DI LẠC.
    TẠI SAO TƯỢNG HÌNH PHẬT DI LẠC
    NGỒI TRÊN LƯNG CỌP?

    - Vì nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ khai năm Bính Dần (1926) nên tượng hình Ngài ngồi trên lưng cọp để kỷ niệm năm khai đạo. Theo cơ bút Thiêng Liêng giáng dạy thì cứu cánh của Tam Kỳ Phổ Độ nầy là đưa nhơn loại đến Hội LONG HOA, do Đức PHẬT DI LẠC chấp chưởng, nên tượng trưng Đức Ngài ngồi trên lưng cọp trên nóc HIỆP THIÊN ĐÀI (Đài Trời và Người hiệp nhau khi phò cơ chấp bút), để quan sát chấm công điểm đạo vào Bạch Ngọc Kinh mà dự hội.

    Những chi tiết khuôn diện Tòa Thánh, đã xem qua tỉ mĩ và tìm hiểu hẳn du khách cũng nhận thức được rõ mục đích ngụ ý; tiêu biểu đại cương cứu cánh và phương thức thực hiện của nền Đại Đạo CAO ĐÀI.

    Rồi du khách lần bước vào trong, cách thềm độ 2 thước là đến “TỊNH TÂM ĐIỆN”. Chỗ nầy rộng hơn căn nhà, dùng để tín đồ, chức việc và chức sắc ngồi tịnh tâm, dưỡng tĩnh tinh thần trước khi vào chầu lễ.

    Ngay trước mặt, trên vách điện nầy có bức họa hình Tam Thánh:

    1/- Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thánh danh Thanh Sơn Đạo Nhơn;
    2/- Victor Hugo, Thánh danh Nguyệt Tâm Chơn Nhơn;
    3/- Tôn Dật Tiên, Thánh danh Tôn Trung Sơn.

    Ba vị nầy giáng cơ xưng là Tam Thánh ở Bạch Vân Động (Loge Blanche) cõi Thiêng Liêng.

    Họa hình đứng, cầm nghiêng bút ký Thiên Nhơn Đệ Tam Hòa Ước, nghĩa là: ký Hòa ước minh chứng sự thỏa thuận của nhân loại với Trời về sự mở ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Nếu người biết thờ Trời thì Trời sẽ độ lại người, bằng chẳng vậy thì Thiên Nhơn Đệ Tam Hòa Ước ấy minh chứng không thể chối được.

    Hai bên tả hữu “Tịnh Tâm Điện” ấy đều có đường lên lầu hai. Đi hai đường nầy theo từng bậc thang làm bằng đá mài. Lên độ chừng vài chục bậc, du khách đến Hiệp Thiên Đài.

    Chỗ nầy chu vi độ 5 thước dài, 4 thước ngang, có đặt bàn thờ vài vị Chức sắc Hiệp Thiên Đài đã qui đạo. Đặc biệt chỗ nầy dùng để Chức sắc Hiệp Thiên Đài hoặc các Chức sắc lớn Cửu Trùng Đài ngồi tham thiền nhập định hay vọng bàn phò cơ, chấp bút cầu Đức CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ.

    Hai bên tả hữu Hiệp Thiên Đài có hai đường lên lầu. Đó là lầu “Chuông” và lầu “Trống”. Trong lầu chuông có treo cái “Đại Đồng Chung” dùng để đánh lên trong khi cúng, tế.


    Bức họa hình Tam Thánh

    * Tại sao gọi Bạch Ngọc Chung Đài?

    - Vì theo cơ bút Thiêng Liêng dạy là kiến trúc như hình tượng ở Bạch Ngọc Kinh (đạo Phật gọi Niết Bàn) nên mới gọi “Bạch Ngọc Chung Đài” là vậy.

    Bên lầu trống cũng thế, có treo một cái trống thật to, dùng để đánh trong khi cúng tế.

    * Tại sao gọi “Lôi Âm Cổ Đài”?

    - Lôi Âm Cổ Đài là cái Đài có trống sấm. Nhưng hai chữ “Lôi Âm” đây có lẽ theo Lôi Âm Tự, tên một ngôi chùa của Đức Phật Thích Ca ở Tây phương.

    HIỆU LỰC CỦA TIẾNG CHUÔNG VÀ TIẾNG TRỐNG


    Mỗi khi cúng, lễ nếu là lớn thì dộng ba hồi chuông, mỗi hồi 12 chập, mỗi chập 12 dùi. Tính chung 432 dùi.

    Những tiếng chuông ấy ngân nga âm thành vang dội thấu đến Bạch Ngọc Kinh (cõi Thiêng Liêng) và chốn Phong Đô (Địa Ngục) mười cửa ngục, để chư Thần, Thánh, Tiên, Phật biết giờ nhân loại chầu Thượng Đế và các đẳng chơn hồn nơi Địa Ngục nghe thức tỉnh vô minh, hồi tâm hướng thiện mà giải thoát khổ hình.

    Cũng vậy, mỗi lần lễ lớn, đánh trông vang lên đủ ba hồi. Mỗi hồi 12 chập, mỗi chập 12 dùi, tính chung tất cả 432 dùi. Những thanh âm vang tận tầng không thấu cùng địa cảnh báo hiệu giờ chầu Ngọc Đế. Đó là hiệu lực của tiếng chuông và tiếng trống đối với các chơn hồn hay các đấng Thiêng Liêng trong mỗi nền tôn giáo.

    Ngoài ra, tiếng chuông mà ngân nga trổi giọng, tiếng trống mà khởi điểm “Thùng! Thùng!”... dư âm có sức rung cảm mãnh liệt, vang vang tận cõi lòng lữ khách trần gian; cảnh tỉnh được con người hôn mê cõi tục.

    Quan sát hai tầng lầu để chuông và trống của hai đài, du khách có thể theo các nấc thang lên tận chót vót của hai lầu nầy. Đến đây, du khách nhìn xuống mặt đất, cách tầm mắt 36 thước. Sự xa xôi ấy với vẻ tráng lệ nguy nga, sắc màu sặc sỡ linh hoạt của ngôi Tòa Thánh đồ sộ nằm phơi bóng, du khách sẽ cảm tưởng lạc loài trong cõi Thần Tiên...

    Hướng mắt về Sàigòn thì thăm thẳm vời vợi một màu heo hút; nhìn sang phương Bắc du khách thấy núi Bà Đen ẩn hiện, vách đá chênh vênh và đỉnh cao xanh biếc... Xa xa hơn nữa, có vài quả núi soi dáng mập mờ trong màn nắng nhạt lê thê...

    Hình ảnh non xanh phơi mình trong nắng. Từng cánh đồng bát ngát lơ thơ mấy khóm nhà gần xa với bốn phương trời vời vợi, mênh mông...

    Khi bước xuống lầu, nó sẽ vang lại trong tâm hồn du khách, khơi niềm thiết tha luyến mến.
    Last edited by mynhan; 05-07-2011 at 09:28 AM.

  3. #3
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    III- NỘI TÂM TÒA THÁNH


    Xuống lầu, qua khỏi “Tịnh Tâm Điện” du khách thấy liền 3 cái “Ngai” xây trên bậc. Mỗi bậc dày độ 3 tấc làm bằng đá mài, đánh bóng sáng loang loáng...



    3 chiếc Ngai và rắn 7 đầu
    gọi “Thất đầu Xà”

    Ba cái Ngai nầy như ba chiếc cẩm đôn nhỏ, đúc bằng xi măng sơn màu trắng chấm phá màu xanh và màu hồng như hình thức một bông sen vậy.

    Ba cái Ngai nầy được siết liền nhau bởi hình một con rắn khổng lồ, uốn mình quấn lại.

    Con rắn nầy có bảy cái đầu, gọi là “Thất đầu Xà”. Nhưng, chỉ có ba đầu đưa lên phía sau dài giữa của Hộ Pháp ngự mà thôi.

    TẠI SAO BA ĐẦU ẤY ĐƯA LÊN?


    Đó là tượng trưng: Hỉ, Ái, Lạc, tức là ba tình trong thất tình. Bởi, theo Thánh giáo thì người tu phải tự chế ngự để thắng thất tình, chớ không diệt được thì phải nuôi dưỡng Hỉ, Ái, Lạc.

    TẠI SAO CÒN BỐN ĐẦU KIA HẠ XUỐNG
    HAI BÊN TẢ VÀ HỮU CỦA ĐÀI HỘ PHÁP NGỰ?


    - Đó là tượng trưng: Nộ, Ố, Ái, Dục, tức bốn tình trong thất tình. Cũng theo Thánh giáo, người tu phải chế ngự được bốn tình nầy mới có thể thắng khổ được.

    Phía sau ngai Hộ Pháp, có khắc Hán tự, là một chữ “KHÍ” thật to để thờ, tượng trưng bảo tồn sự sống miên trường của vạn loại, bởi ý nghĩa “Khí sanh Quang” châu lưu khắp Càn Khôn Vũ Trụ.

    - Thuở sanh tiền, Đức Hộ Pháp mặc đại phục: bộ giáp, đầu đội kim khôi toàn màu vàng. Trên kim khôi có thể tam sơn (giống như chỉa ba ngạnh) tượng trưng Chưởng quản Tam thiên cõi Tây Phương Cực Lạc. Chơn đia hia trên chót mũi có chữ “PHÁP”. Ngoài giáp thì choàng mão bào. Tay hữu bên Đạo (bên Thượng Phẩm) cầm giáng ma xử (thể hiện sự lấy Đời chế Đạo), nên tả cầm xâu chuổi Bồ Đề (lấy Đạo chế Đời). Ngang lưng cột sợi dây lịnh sắc ngay giữa bụng (thể hiện qui nhứt Bí pháp và Thể pháp).

    Bộ đồ nầy chỉ mặc khi cúng Đại Lễ.

    Còn Tiểu Lễ thì mặc bộ tiểu phục toàn màu vàng (màu Đạo Phật) đầu đội Hỗn Ngươn Mao màu vàng, bề cao một tấc: ngay trước trán có thêu ba Cổ Pháp Tam Giáo (Cuốn Xuân Thu, Cây Phất Chủ và Bình Bát Du), ngay trên ba Cổ Pháp ấy có chữ ‘PHÁP”. Chơn đi giày vô ưu màu trắng, nơi chót mũi có chữ “PHÁP”. Lưng nịt dây lịnh sắc y như Đại Phục.

    Hiện nay chiếc Ngai giữa để trống.

    Chiếc Ngai bên tả của Hộ Pháp, hiện nay mỗi khi chầu lễ Chí Tôn, thì Đức Thượng Sanh ngự.

    Thượng Sanh mặc Đạo Phục toàn máu trắng, ngoài mặc áo lá màu xanh có viền chỉ tuyến bạc, đầu bịt “Thanh Cân” (nghĩa là một bao đảnh xanh), lưng mang dây Thần Thông (nghĩa là một đường lụa đỏ) và nịt dây lịnh sắc y như của Hộ Pháp, song mối dây thả ngay bên tả.

    Nơi lưng giắt Thư Hùng Kiếm, bí pháp tạo thế và chuyển thế; tay hữu cầm Phất Chủ; tay tả nắm xâu chuổi từ bi, bí pháp đem Nhơn Sanh vào cửa Đạo. Chơn đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ “THẾ” (Hán tự). Hoặc mặc bộ tiểu phục bằng hàng trắng, lưng cốt dây lịnh và thả mối y như Đại Phục; đầu đội mão chính giữa có thêu “Thư Hùng Kiếm” và “Phất Chủ”, trên có đề chữ “THẾ”.

    Chiếc Ngai bên hữu hiện nay có đúc pho tượng hình Đức THƯỢNG PHẨM, mặc đại phục toàn màu trắng, ngoài mặc áo lá màu xanh, có viền chỉ kim tuyến bạc, đầu để trần; chơn đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ “ĐẠO”, lưng cũng buộc dây lịnh (y như của HỘ PHÁP) song mối thả bên hữu. Tay cầm cây Long Tu Phiến. Trên đầu Long Tu Phiến, ngay giữa có Cây Phất Chủ, bí pháp đưa các chơn hồn đầy đủ công tu vào Tam thập lục Thiên; tay tả nắm xâu chuổi Từ bi, bí pháp lấy Đạo độ rỗi Nhơn Sanh.

    Dưới chiếc ngai này là năm cấp bậc, dùng để 12 vị THỜI QUÂN (Chức sắc HIỆP THIÊN ĐÀI) đứng chầu lễ CHÍ TÔN.

    Xem xong sự tôn nghiêm và tìm hiểu vài chi tiết huyền bí của các Ngai kia, rồi du khách sẽ hoa mắt lên, khi nhìn trước mặt thấy những cột đúc hình Rồng, sơn đủ sắc màu chói chang rực rỡ. Hai bên vách Tòa Thánh đúc hình Hoa Sen, Gương Sen và Ngó Sen trong những khuôn hình tam giác, giữa có Thiên Nhãn phản chiếu các tia rẽ quạt một cách linh động.

  4. #4
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định



    Khuôn Thiên Nhãn
    chung quanh vách Tòa Thánh

    Ý NGHĨA ĐÚC HÌNH HOA SEN, NGÓ SEN VÀ GƯƠNG SEN CHUNG QUANH THIÊN NHÃN


    - THIÊN NHÃN ở giữa các hoa sen, ngó sen và gương sen, bí pháp tiêu biểu ngôi THÁI CỰC. Dưới Thiên Nhãn là bụi sen. Bụi sen trên, bụi sen dưới gọi là “ÂM DƯƠNG” tức LƯỠNG NGHI. Bốn trái sen hai bên gọi là “TỨ TƯỢNG”, tám lá sen là “BÁT QUÁI”. Mỗi bông sen tượng trưng “NIẾT BÀN” (do chữ Cửu Phẩm Liên Hoa của Đức Phật). Có mười phương Phật và 12 ngó sen tượng trưng “THẬP NHỊ KHAI THIÊN”. Số 12 là số của Trời Đất.



    Hình những bầu trời liên tiếp và cột Rồng

    Như trên đã nói, bông sen là liên hoa, tượng trưng “Niết Bàn”, cõi Phật. (Bởi các đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật trước kia cũng mang xác trần mà không nhiễm trần, lại tìm chơn lý để được đắc Đạo. Còn sen, vật ở gần bùn mà không nhiễm bùn nên tượng trưng là cõi Phật). Có THIÊN NHÃN ở giữa là tiêu biểu đâu đâu cũng có TRỜI soi xét. Đó là bí ẩn của sự đúc hình HOA SEN, GƯƠNG SEN, NGÓ SEN và LÁ SEN chung quanh THIÊN NHÃN vậy.

    Đưa mắt nhìn lên trần nhà, giữa hai hàng cột Rồng, du khách sẽ thấy những khung xây hình bầu Trời liên tiếp chín khuôn.

    Chính giữa mỗi khuôn có chạm Rồng nhô ra sáu đầu rõ rệt và chung quanh sơn màu sanh da trời, phác họa những vầng mây trắng, nỗi lơ thơ cùng cẩn những ngôi sao bằng kính pha ly nhấp nhóa ánh kim cương.

    Ý NGHĨA CHẠM SÁU RỒNG GIỮA CÁC KHUÔN ẤY


    - Vì theo Thánh giáo, thì trong Càn khôn Vũ trụ luôn có 6 rồng bay lượn khắp nơi để thông báo “tin tức” về cõi vô hình. Nên trong bài Ngọc Hoàng Kinh có câu:

    “Thời thừa lục LONG”
    “Du hành bất tức”


    Căn cứ kinh điển và sách Thiên văn, thì 6 RỒNG ấy thuộc quẻ Càn về DƯƠNG, như là:

    - Hào sơ Cửu, tức RỒNG thứ nhứt gọi là TIỀM LONG.
    - Hào cửu Nhị, tức RỒNG thứ hai gọi là HIỆN LONG.
    - Hào cửu Tam, tức RỒNG thứ ba gọi là TỊCH DƯƠNG LONG.
    - Hào cửu Tứ, tức RỒNG thứ tư gọi là HUYỀN LONG.
    - Hào cửu Ngũ, tức RỒNG thứ năm gọi là PHI LONG.
    - Hào thượng Cửu, tức RỒNG thứ sáu gọi là CÀN LONG.

    Ấy là ý nghĩa của sự chạm 6 RỒNG từng bầu trời lồng căn của Tòa Thánh.

    Rồi du khách nhìn thẳng trước mặt, sẽ thấy nền Tòa Thánh là hình tượng của một cái thang có 9 nấc cực to. Mỗi nấc là một bực. Như vậy, đếm đủ 9 bậc gọi là “CỬU TRÙNG ĐÀI”. Lồng căn hai bên các khung nầy, nóc bằng nhôm plafond, nhưng mổi lồng căn đều có đúc khuôn, sơn trắng, chạm hình Lân, Qui, Phụng hiệp với cột Rồng tượng trưng tứ linh hội hiệp.
    Mỗi bậc dưới nền Tòa Thánh nầy dày hơn nhau độ ba tấc, bề ngang 10 thước và bề dài độ 40 thước.

    Trên mặt các bậc nầy lót gạch hoa đủ các màu sắc, du khách tưởng chừng như đi trên muôn ngàn cánh hoa đủ sắc màu. Thỉnh thoảng làn hương phảng phất ngạt ngào, tâm hòn du khách sẽ bàng hoàng một niềm rung cảm đê mê.

    Đi được 4 bậc, du khách sẽ nhìn lên trần nhà. Chính giữa chỗ ấy trổ lên nóc có xây một cái đài hình tròn, cao 24 thước. Đó là “NGHINH PHONG ĐÀI”.

    Trên nóc NGHINH PHONG ĐÀI là một nửa địa cầu, vẽ vài địa hình các châu trên thế giới.



    Nghinh Phong Đài

    Trên nửa địa cầu nầy có con LONG MÃ đang chạy, trên lưng có HÀM ẤN.

  5. #5
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    Ý NGHĨA HÌNH LONG MÃ
    CHẠY TRÊN NÓC NGHINH PHONG ĐÀI


    Ấy là tượgn trưng theo tích xưa, hiện nay LONG MÃ lãnh lịnh Đức CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ mà truyền bá giáo lý Đại Đạo CAO ĐÀI trên khắp địa cầu.

    Bởi cổ truyền từ buổi thiên địa sơ khai đến giờ LONG MÃ chỉ ra đời có một lần vào thời vua Phục Hy bên Trung Hoa, để dâng HÀM ẤN cho người trị dân trong ngươn Thánh Đức. Và hình Long Mã chạy, day mặt lại sau lưng ngụ ý rằng căn bản của Đạo là nguồn gốc của sự phát khởi.

    Nếu phát khởi là Đạo và Đạo mãi còn nguyên thủy thì mới thành Đạo, Đạo phát khởi ư Đông, di chuyển ư Tây, phản hồi ư Đông.


    Giảng đài Tòa Thánh để các Chức sắc
    thuyết đạo sau khi tế lễ

    Vì thế, nên tượng hình Long Mã chạy day mặt lại sau lưng tiêu biểu cho Chức sắc truyền đạo phải nhớ căn bản của Đạo. Như vậy, Đạo mới khỏi sai lạc chơn truyền và trường tồn mãi...

    Hơn nữa, hình Long Mã còn có nghĩa tượng trưng cơ Âm Dương tương hiệp mới phát khởi càn khôn sanh thành vạn loại. Vì Long là Rồng thuộc Dương và Mã là Ngựa thuộc Âm... Âm Dương tương hiệp là cơ sanh hóa của muôn loài vạn vật... trong thế giới vạn hữu nầy...

    Ở bậc giữa, ngay nóc NGHINH PHONG ĐÀI nầy, du khách thấy hai cột Rồng hai bên tả và hữu có xây hai cái Đài hình khuôn ốc. Đó là Giảng Đài, để Chức sắc cao cấp thuyết đạo sau khi tế lễ.

    Kiến trúc Giảng Đài nầy uốn theo hình khuôn ốc có đúc hình Rồng há miệng, 6 chia đưa ra đỡ dưới Giảng Đài, ý nghĩa như sau:

    - Hồi Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức KHỔNG PHU TỬ giáng thế chấn hưng Đạo Nho ở Trung Hoa.

    Khi Ngài truyền đạo đến nước của vua Phò Dư thì bị nhà vua bắt giam hai năm. Khi thả Đức KHỔNG PHU TỬ, vua Phò Dư cấm ngặt không cho đến lần thứ hai.

    Sự ác độc và tàn bạo của vua Phù Dư đối với lương dân làm động lòng Trời. Vì vậy, Trời phạt nước vua Phò Dư phải chịu hạn hán và con cháu quần thần của nhà vua phải bệnh chướng trong ba năm để đền lại tội.

    Lúc ấy, trong nước nhân dân vô cùng thống khổ, đói rách tang thương, bệnh hoạn lan tràn. Vua Phò Dư thấy vậy mới ra lịnh cùng quần thần và dân chúng ăn chay, nằm đất; đặt bàn hương án cầu Trời, khẩn Phật, đặng xin giải tai ách cho nhân dân.

    Trời thấy thế, mới sai Đức Văn Xương Đế Quân giáng trần khuyên vua hồi tâm, hướng thiện, phục hồi chánh đạo để cứu vãn tình thế nhân dân thống khổ.

    Đức Văn Xương Đế Quân mới hạ tần thấy tướng tính vua Phò Dư là Rồng Xanh. Ngài mới hóa thành một con Rồng, miệng phun sáu chia mà cỡi và đạp trên sáu chia ấy, bay đi khắp nước của vua Phò Dư.

    Đức Văn Xương Đế Quân đạp 6 chia trong miệng RỒNG ngụ ý tượng trưng kiềm hãm và chế ngự Lục căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỷ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn, bởi:

    + Mắt vua Phò Dư không ngó điều đạo đức.

    + Miệng vua Phò Dư không nói lời nhân nghĩa.

    + Lưỡi vua Phò Dư khắc bạc, hiểm sâu.

    + Thân vua Phò Dư không hiến cho tôn giáo hay hy sinh vì đạo nghĩa.

    + Ý vua Phò Dư không nhớ đến đạo đức.

    + Tai vua Phò Dư không nghe những điều đạo đức, thiện lương mà làm việc nghĩa.

    Đây là những điều vua Phò Dư làm trái với Đạo Thánh dạy nên Đức Văn Xương Đế Quân giáng trần để cảnh tỉnh vua Phò Dư; đồng thời khắc phục lục căn dấy loạn khiến nhà vua hôn mê điều trần tục, làm thống khổ nhơn sanh.

    Đến trào gặp vua Phò Dư, Đức Văn Xương Đế Quân nói rằng: “Bệ hạ không cần ăn chay, nằm đất mà khẩn cầu chi hết. Muốn nước nhà hết nạn bịnh tật, đói nghèo vất vưỡng, bệ hạ phải rước Đức Khổng Phu Tử về nước mà lập đạo qui y theo, thì tai qua nạn khỏi”.

    Nói xong, Đức Văn Xương và Rồng biến mất. Bấy giờ, vua Phò Dư mới ăn năn hối ngộ, sai người tìm Đức Khổng Phu Tử về nước mà lập bàn hương án thọ giáo. Rồi chính nhà vua truyền bá đạo lý trong nước và khuyên dân chúng phải hết lòng tu hành theo lời Thánh dạy. Nhờ vậy, mà trong nước tai ương và bịnh tật hết dần, nhiểu nhương không còn. Cảnh đời thanh bình an vui trở lại.

    Thuở xưa, Đức Văn Xương Đế Quân đạp trên 6 chia Rồng mà khuyên vua Phò Dư trở lại đường Thánh đức.



    Cửa lên hai bên vách Tòa Thánh
    có hai con “Kim Mao Hẩu”


    Ngày nay, cả nhơn sanh đua chen trên con đường tranh danh, đoạt lợi, khuynh hướng theo văn minh vật chất thực tại; khát vọng những mùi tục lụy phù du, làm xã hội loài người quay cuồng đảo lộn.

    Vì vậy, Đức Chí Tôn không nỡ để nhơn tình lầm lạc để rồi tận diệt một cách vô lý, mới sai Hộ Pháp cùng chư Chức sắc Thiên phong xuống đạp 6 chia ấy mà diệt lục dục đặng kêu gọi nhơn sanh hồi tâm, hướng thiện mà đưa nhau về đường đạo đức để chúng sanh thoát vòng trầm luân, thống khổ, tội lỗi ngục hình.


    Đó là ý nghĩa đúc Rồng há miệng phun 6 chia đỡ dưới Giảng Đài vậy.

    Ngang Giảng Đài nầy, du khách thấy hai bên hông vách Tòa Thánh, mỗi bên đều có 6 cửa ra, vào.

    Các bậc lên của mỗi cửa nầy hình thức kiến trúc như bậc thang lầu, song hai bên có hai con thú giống như con sư tử. Đó là tượng hình hai con Kim Mao Hẩu.

    Đi qua khỏi Giảng Đài hai cửa hông Tòa Thánh, du khách sẽ hoa mắt lên khi nhìn các Ngai trước Bửu điện thờ CHÍ TÔN.

    Bảy chiếc Ngai


    Hình thức những chiếc Ngai nầy sơn mạ vàng, chạm trổ hình Long, Lân, Phụng nhấp nhóa muôn vàn thể thức chói chang lấp lánh...

    Trước những chiếc Ngai nầy, có bức bình phong chạm hình Rồng mạ vàng điểm vài chấm thật linh động... Hai bên bức bình phong và bảy chiếc Ngai ấy có hai hàng lọng tàn để thờ cùng hai hàng lỗ bộ bửu pháp hình tượng như những cổ khí: đao, kiếm, chĩa v.v... ngày xưa vậy.

    Bảy chiếc Ngai nầy theo thứ tự như sau:

    1) Ngai Giáo Tông (Chiếc Ngai dùng để Giáo Tông ngự khi tế lễ Chí Tôn).

    2) Ngai Thái Chưởng Pháp.

    3) Ngai Thượng Chưởng Pháp.

    4) Ngai Ngọc Chưởng Pháp.

    (Ba chiếc Ngai dùng để 3 vị Chưởng Pháp thuộc ba phái Thái, Thượng và Ngọc ngự mỗi khi chầu lễ Chí Tôn).

    5) Ngai Thái Đầu Sư.

    6) Ngai Thượng Đầu Sư.

    7) Ngai Ngọc Đầu Sư.

    (Ba chiếc Ngai dùng để 3 vị Đầu Sư ba phái ngự mỗi khi chầu lễ Chí Tôn).

    Hình thức kiến trúc bảy chiếc Ngai nầy:

    - Thánh giáo Đức CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ giáng cơ ngày 2 thàng 8 năm Bính Dần dạy rằng:

    “KIỆT! (Tên của một vị chức sắc hồi mới khai đạo) con phải giúp thợ trong việc lập Thánh Thất. Thầy giao cho con phải săn sóc, mướn thợ làm bảy cái Ngai: 1 cái trọng hơn cho Giáo Tông, 3 cái cho 3 vị Chưởng Pháp, 3 cái cho 3 vị Đầu Sư, nhứt là cái Ngai của Giáo Tông phải làm cho kỷ lưỡng, chạm trổ tứ linh, nhưng chỗ hai tay dựa phải chạm hai con Rồng, của Chưởng Pháp chạm hai con Phụng, của Đầu Sư chạm hai con Lân.

    Như vậy, thể thức kiến trúc 7 cái Ngai nầy theo Thánh ý của Chí Tôn. Sự linh hoạt thể hiện một cách tuyệt vời, nhìn đến du khách sẽ cảm tưởng chừng như đứng trước trào vua thời cổ kính, xa xưa...


    http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...cthuatTTTN.htm

  6. #6
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    Qua khỏi 7 chiếc Ngai nầy, tức du khách đã qua khỏi 9 bậc của Cửu Trùng Đài.

    Chín bậc ấy kiến trúc theo ý nghĩa Cửu Trùng Thiên hay Cửu Thiên Khai Hóa. Thánh ngôn của Đức CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ giáng cơ dạy rằng: “THẦY có Cửu Trùng Thiên để mà lập vị cho cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật. Phật Mẫu thì có Bát Cảnh Cung để mà ung đúc cho bát hồn vận chuyển”. Đó là ý nghĩa huyền vi của 9 bậc vậy.




    Cung Đạo

    Qua khỏi 9 bậc, du khách đến một bậc nữa là bậc thứ 10. Bậc nầy hẹp hơn các bậc kia, cũng có hai cột Rồng gọi là “Cung Đạo”.

    Trên nóc cũng theo lồng căn của bậc nầy mà đúc hình bầu trời, nhưng những chi tiết khác hẳn các nóc khác. Thay vì hình ảnh những ngôi sao và 6 con rồng trong giữa khung, thì lại tượng bằng tất cả bửu pháp của các vị Đạo Tổ như Đại Ngọc Cơ của Ngọc Hoàng Thượng Đế; Thánh Thơ quyển Xuân Thu của Đức Khổng Phu Tử; cây Phất Chủ của Tiên Giáo v.v... và tượng hình Đức Cao Thượng Phẩm (có thuyết gọi là Đức Hồng Quân Lão Tổ nhưng chúng tôi nghiên cứu kỷ theo tài liệu của Hội Thánh giảng giải và thực tế được vài vị đại chức sắc cho biết thì sai). Ánh hào quang làm bằng kính pha ly, phản chiếu hình rẽ quạt một cách linh động.

    Trông vào những hình ảnh tuyệt vời, hào quang sáng chói, lấp lánh ánh kim cương, du khách tưởng chừng như một cõi vô hình chói chang trước mắt...

    Trước Cung Đạo nầy có bức màn đúc bằng xi măng, dạng chữ “M”. Trên bức màn nầy có tượng hình Giáo chủ Tam giáo (Nho, Đạo, Thích) Tam Trấn và Ngũ Chi Đại Đạo như sau:

    Hình LÃO TỬ - hình THÍCH CA – hình KHỔNG TỬ.

    Đó là ba vị Giáo chủ Tam giáo (Đạo Tiên, Đạo Phật, Đạo Nho).

    Kế hàng dưới:

    Hình QUAN ÂM – hình LÝ THÁI BẠCH – hình QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN.

    Đó là Tam Trấn Oai nghiêm trong nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

    Dưới hình Lý Thái Bạch có:

    Hình Chúa JÉSUS CRHIST – hình KHƯƠNG THÁI CÔNG.

    Kể từ Đức Thích Ca trở xuống đó là Ngũ Chi Đại Đạo. Sự tượng trưng như sau:

    Phật Thích Ca tượng trưng PHẬT ĐẠO.

    Lý Thái Bạch tượng trưng TIÊN ĐẠO.

    Chúa Jésus Crhist tượng trưng THÁNH ĐẠO.

    Khương Thái Công tượng trưng THẦN ĐẠO.

    Và ngôi GiáoTông dưới tượng trưng NHƠN ĐẠO.

    Đó tức là Ngũ Chi Đại Đạo vậy.

    Như đã nói trên, Cung Đạo nầy nằm ở bậc giữa, tức lồng căn giữa của Tòa Thánh. Còn hai lồng căn hai bên tả và hữu, ngang với tấm màn giữa chữ M ấy cũng có hai tấm màn hai bên. Những tấm màn nầy cũng có tượng hình các bậc Tiên Thánh như sau:

    a) Bức màn bên tả đủ các hình Bát Tiên.

    1- Lý Thiết Quả; 2- Hà Tiên Cô; 3- Tào Quốc Cựu; 4- Lâm Thể Hòa; 5- Hàn Tương Tử; 6- Hớn Chung Ly; 7- Lữ Đồng Tân; 8- Trương Quả Lão.

    b) Bức màn bên hữu có đủ hình Thất Thánh.

    1- Vương Tiễn; 2- Na Tra; 3- Vi Hộ; 4- Lý Tịnh; 5- Kim Tra; 6- Lôi Chấn Tử; 7- Mộc Tra.

    Thuở tạo lập Tòa Thánh xong, Đức Hộ Pháp không biết phải để Thất Hiền (7 ông Hiền) hay Thất Thánh, bèn cầu Đức Thái Bạch chỉ giáo.

    Lý Thái Bạch giáng cơ dạy:

    “Đáng lẽ để Thất Hiền: 1- Kế Khan; 2- Nguyễn Tính; 3- Sơn Đào; 4- Hương Lữ; 5- Lưu Linh; 6- Nguyễn Bình; 7- Vương Nhan. Vì khi trời đất chưa mở mang, khí Hư vô còn hỗn độn, kịp kỳ ÂM DƯƠNG đã định khai khán LƯỠNG NGHI: khí nhẹ nổi lên làm TRỜI, khí nặng chìm xuống thành ĐẤT; rồi từ đó mới biến sanh ra trên mặt địa cầu có CHÍ TÔN, PHẬT MẪU; rồi tới 96 ức Nguyên Nhân xuống tại thế. Trong khi bình địa lấy chi mà sống, thì có 7 ông Hiền: Ông đào sông, Ông xây núi, Ông bắt cầu, Ông lấp đường, Ông lập rừng, Ông trồng hoa quả. Bảy ông ấy tạo cơ nghiệp hoàn đồ trên mặt Thế. Nhờ vậy 96 ức Nguyên Nhân xuống mặt Thế mới tồn tại đến ngày nay. Đáng lẽ để 7 Ông Hiền ấy nối đời Bàn Cổ sơ khai, nhưng lâu quá phải để 7 Ông Thánh” (như đã nói trên).

    “Ý nghĩa để Ông Thánh”:

    Bởi vì 7 Ông Thánh đứng trong đời mạt Trụ, hưng Châu. Trong lúc lập bảng Phong Thần, 7 ông nầy đầy đủ công nghiệp tâm đức; vượt khỏi bảng Phong Thần vào trường Phong Thánh; cả nhơn sanh ngày nay gắng làm sao cho đầy đủ công nghiệp tâm đức để vượt khỏi trường Phong Thánh, bước vào địa vị tối cao để chẳng uổng kiếp sanh của chúng ta trong vòng CHÍ TÔN hoằng khai Đại Đạo, mới không hổ mặt với các bậc tiền bối.

    Đó là ý nghĩa tượng hình Thất Thánh trên bức màn bên hữu vậy. (Chúng tôi trịêt để tôn trọng sự tín ngưỡng cơ bút của tôn giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nên giảng giải lược thuật đi đúng tinh thần tài liệu của Hội Thánh, không hề vẽ vời, sửa cãi, thêm bớt...)

    TẠI SAO TRONG “CUNG ĐẠO” THỜ
    NHỮNG BỬU PHÁP VÀ NHẤT LÀ CÂY ĐẠI NGỌC CƠ


    Bởi các tôn giáo ngày trước nhờ XUÂN THU, PHẤT CHỦ, BÁT DU mà Thần, Thánh, Tiên, Phật thông đồng đến cả nhơn loại giáo đạo, tạo đời, dạy điều chánh thiện.

    Đạo CAO ĐÀI ngày hôm nay nhờ ĐẠI NGỌC CƠ Và các ĐẤNG THIÊNG LIÊNG giáng cơ khai sáng nền đạo, truyền khắp năm châu, dìu dắt nhơn sanh trở về con đường chánh thiện. Đó là ý nghĩa sự thờ những bửu pháp vậy.


    Bửu điện thờ Đức Chí Tôn

    Qua khỏi CUNG ĐẠO, du khách sẽ nhìn thấy một bàn thờ có để quả Càn Khôn vẽ “CON MẮT” và tượng hình những con RỒNG sơn màu sắc cũng chói chang, rực rỡ. Hương trầm phảng phất ngạt ngào, làm cho tâm hồn du khách khoan khoái vui tươi...

    Giờ đây, du khách sẽ quan tâm đến phương thức thờ phượng tôn kính nầy... Thật là một nền tôn giáo có thể thức thờ phượng kỳ diệu, huyền bí, ý nghĩa uyên thâm.

    Từ CUNG ĐẠO bước thêm một bực nữa, có một cái đài xây bằng đá mài, hình BÁT GIÁC. Đặc biệt cái đài nầy xây lên 12 bậc.

    Ý NGHĨA 12 BẬC ẤY:

    - 12 bậc nầy tượng trưng cho THẬP NHỊ KHAI THIÊN. Con số 12 là con số riêng của Trời Đất.

  7. #7
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    TẠI SAO GHẾ THỜ PHẢI HÌNH BÁT GIÁC?


    - Ấy là do nơi Âm Dương tương hiệp tức LƯỠNG NGHI; rồi LƯỠNG NGHI sanh TỨ TƯỢNG; TỨ TƯỢNG biến BÁT QUÁI; BÁT QUÁI biến hóa vô cùng mới sanh ra CÀN KHÔN VŨ TRỤ và muôn loài, vạn vật... Lập ĐỀN THỜ hình BÁT QUÁI tượng trưng cơ huyền vi hóa dục, sanh thành vạn loại; đồng thời cũng là nơi qui tựu các đẳng chơn hồn vạn loại vậy.

    Còn những lẽ cao siêu theo bí pháp chơn truyền, chúng tôi không được phép để cập.

    Tại sao thờ QUẢ CÀN KHÔN có vẽ CON MẮT?

    - Ý nghĩa sự thờ phượng nầy phù hợp mọi lãnh vực và tiêu biểu đại cương thể thức nền ĐẠI ĐẠO, chúng tôi xin sơ lược sau đây:

    Thờ QUẢ CÀN KHÔN, ý nghĩa tượng trưng sự thống nhứt các tôn giáo nhơn loại về cùng một mối đạo.

    Bởi vậy, mới có sự qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi v.v...

    Con mắt vẽ trên QUẢ CÀN KHÔN, tức là THIÊN NHÃN.

    Thờ THIÊN NHÃN tượng trưng thờ THƯỢNG ĐẾ.

    - Tại sao vậy?

    - Vì theo Thánh ngôn Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ giáng cơ dạy thì:

    “NHÃN thị chủ TÂM.
    “Lưỡng QUANG chủ TỂ.
    “THẦN thị THIÊN.
    “THIÊN giã, NGÃ dã.

    Nghĩa là:

    “MẮT làm chủ TÂM LINH con người.
    “Hai yến sáng trong mắt là THẦN.
    “THẦN là TRỜI.
    “TRỜI là TA vậy.

    Như vậy, thờ con mắt tượng trưng thờ TRỜI. Vả lại, TRỜI là đấng TẠO HÓA,một bậc vô cùng CHÍ THƯỢNG, sắc sắc, không không... mà lại giáng cơ lập Đạo, chứ không giáng phàm như hai kỳ trước, thì hình thể cũng khó mà biết được.

    Hơn nữa, thờ con mắt lại là mục đích để phổ thông nền Đạo. Vì ai cũng có thể hiểu được theo ý nghĩa trên.

    Cũng có bài Thánh giáo của Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ cắt nghĩa về sự thờ THIÊN NHÃN ấy phù hợp với bí pháp luyện đạo như sau:

    “Thần là khiếm khuyết của cơ MẦU NHIỆM từ ngày Đạo bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy THẦY cho THẦN hiệp TINH KHÍ đặng hiệp đủ TAM BỬU là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

    “Các con nhớ nói vì cớ nào thờ con mắt THẦY cho chư đạo hữu nghe...”


    Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật từ ngày bị bế Đạo, luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song THIÊN ĐÌNH mỗi phen đánh tản THẦN không cho hiệp cùng TINH KHÍ.

    “THẦY đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con đặng đắc ĐẠO. Con hiểu THẦN cư tại NHÃN bố trí cho chư đạo hữu con hiểu rõ. Nguồn cội TIÊN PHẬT do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên các con mỗi phen nói Đạo, hằng nhớ đến danh THẦY”.

    SỰ KIẾN TRÚC QUẢ CÀN KHÔN


    Thể thức kiến trúc quả Càn Khôn theo Thánh giáo của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy ngày 2 tháng 8 năn Bính Dần như sau:

    “BÍNH! (tên của một vị đại Chức sắc buổi khai đạo). Thầy giao cho con làm một trái Càn Khôn; con hiểu nghĩa gì không? – Một trái đất tròn quây, hiểu không? Bề kính tâm là 3 thước; 3 tấc nghe con. Lớn quá! Mà phải vậy mới đặng vì là cơ mầu nhiệm Tạo Hóa trong ấy, mà sơn màu xanh da trời CUNG BẮC ĐẨU và các VÌ TINH TÚ vẽ lên quả Càn Khôn ấy. THẦY kể TAM THẬP LỤC THIÊN, TỨ ĐẠI BỘ CHÂU ở không không trên không khí, tức là không phải TINH TÚ. Tính lại có 3.072 ngôi sao. Con phải biểu vẽ lên đó cho đủ. Con dở sách Thiên văn Tây ra coi mà bắt chước. Tại NGÔI BẮC ĐẨU con phải vẽ 2 bánh lái và SAO BẮC ĐẨU cho rõ ràng. Trên vì sao BẮC ĐẨU vẽ CON MẮT THẦY, hiểu chăng? Đáng lẽ trái đất ấy phải bằng chai, đúc trong một ngọn đèn đốt cho nó thường sáng; ấy là lời cầu nguyện quí báu cho cả nhơn laọi trong Càn Khôn Thế Giái đó, nhưng mà làm chẳng kịp thì tùy tiện.

    TẠI SAO QUẢ CÀN KHÔN ĐỂ TRÊN NÓC BÁT QUÁI?


    Bởi NHỨT KHÍ HƯ VÔ biến thành LƯỠNG NGHI. LƯỠNG NGHI lập ra TỨ TƯỢNG, có TỨ TƯỢNG rồi mới sanh BÁT QUÁI. Vì thế, Quả Càn Khôn pphải để trên nóc BÁT QUÁI.

    Dưới quả Càn Khôn là những khuôn LINH VỊ viết bằng HÁN TỰ, sơn son, thếp vàng, thờ các vì giáo chủ thời Nhị Kỳ Phổ Độ.

    Ngoài ra, phía trước hai bên tả và hữu còn để cặp Hạc đứng trên lưng Qui.

    Hình ảnh đôi Hạc nghiêm trang, ngay cổ cao vút, hai mắt đen huyền, lấp lánh nhỡn quang như mơ màng phiêu diêu cõi Phật, khiến du khách chạnh niềm tư tưởng vu vơ với cõi Trần gió bụi...

    Cũng như đôi Hạc ấy, phía sau quanh quả Càn Khôn có tượng hình những Rồng sơn trắng, tiêu biểu BẠCH DƯƠNG đại hội ở thời kỳ hạ ngươn gần mãn nầy.

    Ngoài ra, phía trước quả Càn Khôn, trên bàn BÁT QUÁI còn đặt những dụng cụ để cúng, tế v.v...

    Dưới Bát Quái Đài, ở nền gạch có một cái hầm sâu thẳm.

    Du khách có thể nương ánh đèn đi thong thả... Cái hầm nầy gọi là “HẦM TÀNG BỬU KHÁNH”.

    Bởi mục đích căn bản của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là qui hiệp các Tôn giáo hiện hữu, thực tiễn Giáo lý làm phương thức thích ứng áp dụng trào lưu tiến hóa của nhơn loại một cách hợp thời mà cảm hóa nhơn loại đặng độ rỗi trên đường thiện lương Thánh Đức...

    Vì vậy, nên mỗi chi tiết hay hệ thống tổ chức trong các cơ quan cũng như sự kiến trúc Tòa Thánh cũng đều phát huy từ căn bản các Tôn giáo xưa nay mà làm hiện thân; ý nghĩa đại cương của mỗi Tôn giáo.

    Ngày xưa, đền thờ nào cũng có Hầm Tàng Bửu Khánh cả. Nước ý thì đền thờ La Mã. Nước Pháp thì có đền thờ Reims.

    Những hầm này dùng để chứa tiền của, ngọc ngà, châu báu của các vị hảo tâm đến viếng đền thờ cúng hiến, đặng phòng khi nhân gian gặp nạn đao binh, đói khổ mới khai ra bố thí tương trợ lúc lâm nguy.

    Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay, đặc biệt quan tâm đến đời sống nhân gian, mục đích cứu khốn, phò nguy, những cơn thống khổ; tương trợ đồng bào trong lúc đau thương... Nên mới xây cất có đủ thể thức làm phương tiện phục vụ sinh tồn nhân loại... Đó là mục đích xây cất “Hầm Tàng Bửu Khánh” vậy.

  8. #8
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    IV- BÁT QUÁI ĐÀI


    Từ miệng “Hầm Tàng Bửu Khánh” du khách nhìn lên quả Càn Khôn và trổ trên nóc... thì thấy có một cái Đài cao 30 thước. Đó là Bát Quái Đài vượt lên vun vút giữa thành không.


    Bát Quái Đài

    Đài nầy kiến trúc hình “Bát giác” xây lên ba tầng: tầng dưới từ nóc lên độ 15 thước, tầng giữa độ 10 thước và tầng chót vót lên độ 5 thước...

    Trên chót vót, dưới cột thu lôi có 3 tượng Phật day mặt về 3 hướng.

    Từ dưới đất, du khách đưa mắt trông lên thấy những pho tượng ấy với thể thức tạc họa rất khéo léo và sơn màu sắc linh hoạt, sống động như ba người thật đứng kề lưng nhau đưa mắt nhìn về hướng xa xôi...

    Những ngày nắng đẹp, không gian bát ngát, nền trời xanh biếc bao la, thì hình ảnh 3 pho tượng ấy chơ vơ, vẻ thẩn thờ như thầm lo lắng xa xôi cái cõi đời hiện tại...

    Ba pho tượng nầy gọi là Tam Thanh: Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh. Ba vị nầy lãnh lịnh Thượng Đế điều khiển ba nguơn:

    - Thượng nguơn là nguơn Thánh Đức hay nguơn vô tội.

    - Trung nguơn là nguơn Tranh Đấu.

    - Hạ nguơn là nguơn Bảo Tồn hay nguơn trở lại thời kỳ Thượng cổ.

    Ba nguơn nầy xoay vần nhau cũng như Đạo có ba thời kỳ: Nhứt kỳ, Nhị kỳ và Tam kỳ Phổ Độ vậy, đúng như câu “Thiên Địa tuần huờn châu nhi phục thỉ”. Trời đất xoay giáp vòng cũng trở lại vị trí đầu tiên.

    Ba vị Phật trên nóc Bát Quái Đài đối với ba nguơn như sau:

    + Người điều khiển Thượng nguơn hay nguơn vô tội là Phật BRAHMA, tức vị Phật day về phía Tây.

    Vị Phật nầy giáng trần trong nguơn Thánh Đức tức là nguơn vô tội, nên đứng trên mình con Huyền Nga bay khắp cả hoàn cầu mà xem cuộc thế.

    Hình ảnh vị Phật này nhìn về phía tịch dương như thầm lo lắng cõi đời sẽ dần xế bóng... mất đi những gì nên thơ, tươi đẹp thuở đầu tiên, cũng như Thượng nguơn hầu mãn, thế nhân sẽ hết đi tâm thần đạo đức vậy...

    + Người điều khiển Trung nguơn tức nguơn Tranh Đấu là vị Phật SIVA, giáng trần trong nguơn Tranh Đấu của nhơn loại. Vị Phật này đứng đạp lên mình con rắn bảy đầu, ấy là diệt thất tình cho nhân thế khỏi bị hôn mê trần ai tục lụy mà đấu tranh, hủy diệt nhau. Vị Phật nầy day mặt về phương Bắc, như cầu khẩn Chí Tôn (Thượng Đế) tế độ chúng sanh thoát vòng trầm luân khổ ải... – Vì Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ngự tại ngôi Bắc Đẩu.

    Hơn nữa, vị Phật nầy còn khẩn cầu Thượng Đế chế giảm tội nhơn sanh và miệng thổi sáo, ý nghĩa dùng thanh âm trầm bỗng, rung động tâm hồn nhân thế hướng theo giọng du dương mà thức tỉnh kiếp phù sanh hồi tâm, hướng thiện, để cuối cùng được trở về cõi Niết Bàn an vị...

    + Vị Phật điều khiển Hạ nguơn tức là nguơn Bảo Tồn, hay nguơn Tái Tạo. Đó là Đức Phật Christna Vichnou, đứng day mặt về hướng Nam. Vị Phật nầy ra đời về nguơn Tái Tạo, là thời kỷ sẽ trở lại Thượng Cổ, nên ông cỡi con Giao Long.

    Khi giải ý nghĩa về Phật Christna Vichnou, Đức Hộ Pháp nói: “Dầu cho những chơn linh nào chết ở chân trời hay góc bể đi nữa, mà đầy đủ công nghiệp, tâm đức thì Phật Christna Vichnou cũng lãnh lịnh Chí Tôn tuần du trên mặt thế mà rước chơn linh ấy về ngay nơi Bạch Ngọc Kinh”.

    Như vậy, lẽ công bình tạo hóa được thể hiện một cách phân minh. Không phải vì cầu khẩn long trọng hay tế lễ khấn vái van xin mà được sự cứu rỗi của Thượng Đế đâu. Đời nhiều người lúc chết, tang gia lại tế lễ khẩn cầu thật là long trọng... Đó chỉ là hình thức phô trương với thế gian,chớ thật ra Thiêng Liêng vẫn công bình thưởng phạt căn cứ theo quá trình sinh trưởng thiện, ác của người qui vị...

    Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày nay, tượng trưng như thế mục đích tiêu biểu sự công bình Tạo Hóa; đồng thời cảnh tỉnh thế gian mê tín dị đoan. Nhiều người lúc sống thì hành động hung ác: giết người, cướp của; không lo làm lành, tế nhân độ vật; mà khi chết tang gia lại tuông của ra làm lễ long trọng, khẩn cầu, van vái v.v... thì ôi! Như đã nói trên – đó chỉ là hình thức phô trương tại thế mà thôi.

    Tóm lại, tượng hình ba ông Phật nơi Bát Quái Đài, ý nghĩa tiêu biểu hệ thống tổ chức nơi cõi vô vi huyền bí với tuần huờn luân chuyển của Trời Đất và thể hiện sự công bình tạo hóa cho nhân thế soi chung...

    Xem xong Bát Quái Đài và tìm hiểu ý nghĩa, du khách sẽ quan tâm đến hình ảnh mỗi cột Rồng trong Tòa Thánh tại sao sơn những màu khác nhau và những đầu Rồng nhô ra đều há miệng.

    - Các đấng Thiêng Liêng giáng cơ chỉ dạy: kiến trúc Tòa Thánh đây, là điển hình Bạch Ngọc Kinh vì thế nên thể hiện đại cương những chi tiết có tính cách huyền vi tương quan thể thức nơi cõi Thiêng Liêng.

    Bởi vậy, cột Tòa Thánh tượng hình Rồng và sơn nhiều màu là bởi nơi Bạch Ngọc Kinh có đủ Thần, Thánh, Tiên, Phật đứng hai bên tả và hữu, mặc áo mão đủ các sắc đứng theo phái mà chầu Ngọc Đế.

    Nhưng xây Tòa Thánh, không lẽ tượng hình Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu Thượng Đế thì sợ thất lễ với các Đấng. Vì mỗi khi tế lễ có những người phàm, công đức tu hành chưa đủ mà đến chầu lễ Thượng Đế ngang bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu lệ Thượng Đế vậy.

  9. #9
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    TẠI SAO TÒA THÁNH CÓ HAI MƯƠI TÁM CỘT RỒNG?


    - Đó là ý nghĩa tượng trưng và thay thế cho “Nhị Thập Bát Tú” tức các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu Thượng Đế nơi Bạch Ngọc Kinh.

    Sự sơn đủ các màu sắc còn có ý nghĩa tượng trưng đủ 3 thời kỳ phổ độ chúng sanh.

    Hồi Nhứt kỳ Phổ Độ: có Thanh Dương đại hội, là một hội để phán đoán công nghiệp tu hành và tâm đức của nhơn sanh một cách công bình do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật điều khiển.

    Nhị kỳ Phổ Độ: có Hồng Dương đại hội, cũng là một cuộc hội các đẳng chơn hồn chúng sanh để căn cứ quá trình Đức sinh hoạt một kiếp mà phán đoán tội lỗi một cách công bình do Di Đà điều khiển.

    Còn Tam kỳ Phổ Độ này là Bạch Dương đại hội, mục đích cũng phán đoán tội lỗi chúng sanh như Nhứt kỳ và Nhị kỳ phổ độ, do Đức Phật Di Lạc điều khiển. Vì vậy tượng Rồng sơn trắng ở Bát Quái Đài dưới quả Càn Khôn, đó là tiêu biểu thời kỳ Bạch Dương đại hội. Còn tượng cột hình Rồng sơn vàng chung quanh Bát Quái Đài là ý nghĩa tượng trưng và thay thế chư Phật chứng Hội Long Hoa (chúng tôi đã giải ý nghĩa hội Long Hoa ở đoạn trước).

  10. #10
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    TẠI SAO TƯỢNG HÌNH CỘT RỒNG HÁ MIỆNG?


    Vì từ trước về Bí pháp để được đắc đạo đều được giữ kín và còn cho rằng “Thiên Cơ Bất Khả Lậu”. Từ ngày Đại Đạo Cao Đài khai mở đến nay thì các Đấng Thiêng Liêng đã giáng cơ bút dạy rõ để cho nhơn loại có thể tu luyện mà tác Tiên tác Phật tại thế nầy.

    Hơn nữa, Đạo nào cũng căn cứ khẩu xuất ngôn mà hình dung đạo đức và sự chơn dã, nên tượng hình cột Rồng há miệng cũng còn là ý nghĩa dùng “Khẩu Phát Ngôn” cảnh tỉnh thế nhân hồi tâm, hướng thiện, bãi bỏ mê tín dị đoan.

    Quan sát nghệ thuật kiến trúc nội dung Tòa Thánh xong và nghe thuật lại ý nghĩa từng chi tiết bao hàm những bí ẩn huyền vi làm cho du khách cảm thấy lâng lâng cõi lòng khi trở bước...

    Ra khỏi mấy lồng căn Tòa Thánh, du khách nhìn lên mái hiên chung quanh Tòa Thánh sẽ thấy có đúc những khuôn hình tròn, đường kính độ ba tấc. Trong khuôn ấy có chạm đôi hạc bay trước ánh mặt trời,ý nghĩa như sau:

    Phác họa hình ảnh nầy theo câu của Đức Thánh: “Lung kê, hữu mể, than hỏa cận; giả hạc vô lương thiên địa khoan”, nghĩa là: con gà ăn no mặc lòng, nhưng nồi nước và bếp lửa sẵn kề; hạc nọ dầu thiếu thức ăn chớ trời đất mênh mông mặc tình thong thả...

    Ấy là tiêu biểu cho thế nhân thức tỉnh. Người đời chớ vì “ăn” mà hôn mê đến đỗi giam mình trong vòng lao lý, sự chết chóc sẵn kề bên cũng không hay.

    Hãy xem kìa hạc nọ ví như kẻ hiền thức thời, hiểu thế dẫu khan hiếm vật thực, song vẫn được tự do, thong thả...

    Hình ảnh đôi hạc vỗ cánh, bay cao trước ánh mặt trời, du khách đang còn nghĩ ngợi vu vơ... Nhưng du khách sẽ để ý những dây nho, trái nho và lá nho quanh hiên Tòa Thánh, ý nghĩa như sau:

    - Cũng như ở đoạn trước, tại cửa đi vào, chúng tôi có thuật đại cương ý nghĩa tượng trưng thời kỳ Nho Tông chuyển thế.

    Song, tại Tòa Thánh, dây nho, trái nho và lá nho lại tượng trưng “Tam Bửu”: Tinh, Khí, Thần như sau:

    Dây nho tượng trưng TINH;

    Rượu nho tượng trưng KHÍ;

    Trái nho tượng trưng THẦN.

    Tinh, Khí, Thần nầy gọi là “TAM BỬU”. Bởi nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mỗi khi cúng tế đều có dâng Tam Bửu là:

    - Hoa tượng trưng TINH;

    - Rượu tượng trưng KHÍ;

    - Trà tượng trưng THẦN.

    Tam Bửu nầy dâng lên Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng để tỏ lòng thành kính. Vả lại, cơ huyền vi đã định: TINH, KHÍ, THẦN là yếu nhiệm sự đắc đạo. Đức Chí Tôn giáng cơ về sự mầu nhiệm ấy như sau:

    “Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH, KHÍ; hiệp đủ TAM BỬU là cơ mầu nhiệm, siêu phàm, nhập thánh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Nguồn cội Tiên, Phật yếu nhiệm là tại đó.

    Vì vậy, phác họa trên hiên chung quanh Tòa Thánh, những dây Nho, trái Nho và lá Nho ý nghĩa Tam Bửu hiệp nhứt, thể hiện sự mầu nhiệm cho kẻ chơn tu siêu phàm, nhập Thánh.

    Ngoài ra, dưới những dây nho nầy chung quanh vách Tòa Thánh có các khuôn hình tam giác trong Thiên Nhãn phản chiếu trên chín chia, dưới bảy chia, ý nghĩa như sau:



    Khuôn Thiên Nhãn chung quanh vách Tòa Thánh


    Khuôn hình tam giác: ba cạnh liền với nhau ấy tượng trưng Tam Giáo (Đạo Nho, Đạo Tiện, Đạo Phật) qui nguyên; Thiên Nhãn giữa tượng trưng Đức Thượng Đế - nguồn cội Tam Giáo – Vì mục đích thực hiện của Tam Giáo là hướng về Đức Thượng Đế tối cao tối trọng trên cõi vô hình. Dầu cho Đạo nào cũng vậy, mục đích của sự Phổ Dộ chúng sanh là để trở về nguồn sanh hóa của mình tức là Trời vậy.

    Chín chia trên tượng trưng Cửu Thiên Khai Hóa nghĩa là 9 tầng trời được Thượng Đế mở rộng rước chúng sanh đầy đủ tâm đức, tu hành. Bảy chia dưới ý nghĩa dìm thất tình nhân loại ấy là kềm hãm đi thất tình, tức bảy tình: mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn của nhơn sanh để bớt sự dục vọng si mê cõi trần tục lụy, mà gắng bước trở về cõi Bồng Lai, Tiên Cảnh.

    Ngoài ra, ý nghĩa khuôn Thiên Nhãn ấy còn là tiêu biểu qui cũ chuẩn thằng của Tôn Giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mục đích tiêu biểu cho chức sắc, chức việc truyền bá Đạo hiểu rằng: Đạo vốn căn bản mực thước, qui cũ, nhứt định không ai được sửa cãi.

    Đến đây, đã thể hiện những điều bí ẩn trong Tòa Thánh Tây Ninh. Nhưng còn vấn đề bí pháp liên quan đến cơ huyền vi chúng tôi không được bàn đến...

    Quan sát xong sự kiến trúc với thể thức kỳ diệu nầy, thấy thể hiện một công trình vĩ đại phi thường, khiến du khách sẽ bâng khuâng muốn tìm hiểu nguyên nhân xây cất Tòa Thánh, tức là lịch sử kiến trúc Tòa Thánh vậy.

  11. #11
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    V- LỊCH SỬ KIẾN TRÚC TÒA THÁNH


    Đây là một thiên sử kiến trúc Tòa Thánh, do Cơ Bút Thiêng Liêng điều khiển, thể hiện những bí ẩn kỳ hoặc sẽ làm cho du khách hồi hộp, khấp khởi tâm hồn khi nghe kể lại...

    Trước năm 1926, nơi xây cất Tòa Thánh hiện tại là một khu rừng cấm hoang vu vắng vả mênh mông... Ngày cũng như đêm, cảnh tịch mịch nầy chỉ nghe vang tiếng cọp kêu, vượn hú, voi gầm; không một tiếng người khua động...

    Thuở ấy, thành phố Tây Ninh chỉ là một khu chợ nhỏ. Từ tỉnh lỵ Tây Ninh vào đây cách năm cây số ngàn. Dọc đường phần nhiều là rừng hoang, thỉnh thoảng chỉ thấy vài túp lều tranh lác đác bên đường.

    Trên con đường rừng hoang nầy, nếu một người, một bóng thì chưa chắc được an toàn bổn mạng... Sự khó khăn ấy nhứt là đối với ác thú... Còn khí hậu rừng thiêng nước độc lại là một điều đáng kể. Ai không hạp, thì bị chói nước, hoặc mắc bệnh sốt rét rừng, dần dà bổn mạng sẽ không còn...

    Cảnh tượng kinh hồn như thế vẫn với thời gian âm thầm đi qua năm, tháng...

    Bỗng một hôm, có một đoàn người tất tả ngược xuôi; băng mình vào đây, tìm vị trí xây cất Tòa Thánh.

    Đoàn người nầy do Đầu Sư Thái Thơ Thanh vâng lịnh Thánh ngôn của Đức Lý Thái Bạch hướng dẫn...

    Bài Thánh ngôn ấy cầu tại chùa Gò Kén ngày 21-2-1927 nhằm ngày 20 tháng 1 năm Đinh Mão như sau:

    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    “ Thái Thơ Thanh, Lão cậy hiền hữu một phen nữa. Mai nầy đi lên đường trên, gọi là đường dây thép, nhắm địa thế dài cho tới ngã Ao Hồ, coi hiền hữu thấy đặng chăng cho biết?

    “Lão đã nói rằng: mỗi sự chi chi đều bày trước mắt nhơn sanh hết, chư hiền hữu đừng sợ ai hết, hễ sợ thì chối quyền Thiêng Liêng thì còn gì Đạo nghe à!...”.

    Bởi trước kia cũng đã đi tìm vị trí nhiều phen, thế mà không được, nên Đức Lý Thái Bạch giảng dạy bài Thánh ngôn trên.

    Nhờ Thiêng Liêng chỉ dạy, nên Đầu Sư Thái Thơ Thanh mới dẫn nhóm người đến đường dây thép mà băng vào rừng cấn nầy nhắm hướng gần Ao Hồ làm vị trí....

    Cách vài ngày sau, Đầu Sư Thái Thơ Thanh cùng một vài người nhất định lấy vị trí hiện hữu, vì nơi đây có nhiều hiện tượng khác thường.

    Khi tìm được trở về cầu cơ Đức Lý Thái Bạch giáng cơ đề ngày 24-12-1927 nhằm ngày 23 tháng 1 năm Đinh Mão dạy rằng:

    “. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Lão khen Thái Thơ Thanh đó đa! Tưởng chư hiền hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy (vị trí xây cất Tòa Thánh hiện giờ) gọi là Thánh địa? Sâu hơn 300 thước như con sông, giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh nhau, nguồn nước ấy chảy trúng ngay đảnh núi (núi Bà Đen) mà gọi là LỤC LONG PHÒ ẤN. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu, một đầu ra giếng mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia. Người Lang Sa (người Pháp – nguyên lúc ấy nước Việt Nam ta bị Pháp đô hộ) chỉ đòi 20.000, nói rồi trả đúng 15 ngàn. Lão dặn thì thành trả 17 ngàn; 18 ngàn thì đặng.

    “Còn xin khai khẩn miếng đất rừng bên kia nữa mới trọn đất nay còn rõ miếng đất chung quanh. Thánh địa ngày sau hóa vàng. Chư hiền hữu biết lo lập ngày sau rất quý báu”. (Chúng tôi xin đọc giả lưu ý: chúng tôi triệt để tôn trọng sự tín ngưỡng cơ bút của Tôn Giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nên Lược thuật đúng tinh thần tài liệu của Hội Thánh không hề vẽ vời, hoặc thêm, bớt...).

    Thế rồi từ ngày bài Thánh ngôn trên dạy, một nhóm người thọ giáo Cao Đài xông vào đây nỗ lực khai thác rừng hoang bứng gốc, đốn cây cất trại và lưu lại đây làm việc...

    Nhiều truyền thuyết rằng sự khổ sở, vất vả của họ không biết bao nhiêu mà kể.

    Buổi Đạo chưa nên hình, những người làm công quả không cơm mà ăn, hằng ngày bữa cháo, bữa rau, thế mà nhờ tinh thần sốt sắng và quyền lực Thiêng Liêng hộ trợ nên họ vẫn mạnh mẽ như thường, mặc dù phải nằm sương, gối tuyết.

    Công lao chịu nhọc khai thác rừng hoang, đấp bồi cuộc đất nầy, người Tần Nhơn (Miên) và một nhóm dân tộc thiểu số tục gọi là Tân Mum cũng là đáng kể. Họ làm lụng vất vả, đói khát thảm thương, hy sinh ngày tháng bỏ việc gia đình...

    Nhờ vậy, chẳng bao lâu vùng đất nầy được hoàn thành và dựng lên túp lều tranh ba gian làm đền thờ tạm.

    Thuở sơ khai, đạo Cao Đài thật linh hiển, huyền diệu vô song. Những người làm công quả khai rừng đào đất rất nhọc nhằn nhưng mỗi khi bịnh hoạn thì có thể cầu cơ (phương pháp cầu cơ nầy, hiện nay Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh còn thực hiện trong việc truyền giáo) chỉ vài thứ lá cây làm thuốc, thế mà giúp được những người công quả qua cơn bịnh hoạn.

    Nhờ hiệu lực bảo trợ linh thiêng ấy, nên sự phá rừng đào đất, xây nền chẳng bao lâu thì được hoàn thành.

    Từ ngày nơi đây dựng lên mái nhà tranh ba gian làm Tòa Thánh tạm, thì những người xa xôi đến viếng, kẻ cúng vài xu, người đôi ba cắc... số tiền nầy Hội Thánh dành dụm lại chờ khi xây cất Tòa Thánh.

    Còn những người lo việc Đạo vẫn dầm sương, dãi nắng; ăn thì cháo rau qua bữa.

    Tháng, ngày... nơi chốn rừng hoang vắng vẻ nầy,bên cội cây già, hoặc trong cảnh rừng tịch mịch âm u, có những tiếng cưa cây, đào đất, hòa với giọng thơ buồn buồn, ai ngâm vọng lại...
    Dù vất vả, hy sinh vì Tôn Giáo...
    Sớm: cháo, rau; chiều: dưa muối qua ngày...
    Mặc thế nhân còn rộn rực chốn trần ai,
    Bao lạc thú, chừ đây vui cửa Đạo!
    Thế cuộc đã chuyển vần xoay máy Tạo:
    Bến trầm luân: điên đảo chốn phồn hoa;
    Kiếp trần gian: sanh, sống, bịnh rồi già!
    Ai ôi! Thấu đời ta đâu mấy chốc!...
    Thân tôi mọi cho sinh tồn vật chất,
    Sống thì buồn đau; thác lại gì đâu?!...
    Đời triền miên trong những nỗi ưu sầu!
    Thôi gắng bước, đường tu toan lập đức...
    Khai Đại Đạo, mê trần nay tỉnh giấc...
    Trở về đây kinh kệ: sớm, chiều vui...
    Ôi! Thế nhân còn lắm cảnh ngậm ngùi!
    Đời bao nã! Chừ đây ôi bao nã!..!..

    (Thơ của T.L. Thiền Giang Phan Văn Tân)

    Thế rồi, thời gian âm thầm trôi qua... Nơi đây sự hoạt động vẫn triền miên mãi mãi...

    Hằng ngày tiếng cưa cây, đẻo cột; tiếng đào đất, xây nền vẫn vang vang như tiếng lòng thời gian chuyển dịch...

    Mãi đến năm 1933 mới khởi công tạo tác Tòa Thánh hiện giờ.

    Sự kiến trúc Tòa Thánh nầy do Đức Chí Tôn và Đức Lý Thái Bạch giáng cơ điều khiển. (hiện nay, theo cơ bút Thiêng Liêng dạythì Đức Lý Thái Bạch là Nhứt Trấn Oai nghiêm kiêm Giáo Tông về phần vô vi của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ).

    Lược đồ, Đức Lý Thái Bạch đã giáng cơ chỉ dạy từ năm 1927 như sau.

    Ngày 28 Février 1927 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    “Thánh thất tạm phải cất ngay miếng đất trống. Còn Hiệp Thiên Đài tạm phải cất trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu lại biểu khai phá đám rừng trước miếng đất ấy. Như vậy, ngay trung tâm rừng cách miếng đất trống chừng 3 tấc rưởi, đóng một cây nọc, đó Hiệp Thiên Đài như vậy. Ngoài Bàu Cà Na (Động Đình Hồ) vô chừng 50m, đóngmột cây nọc ranh phía Ao Hồ trở vô chừng 70m, đóng cây nọc ấy là khuôn viên Tòa Thánh. Lão dặn, từ cây nọc bên phía miếng đất trống phải đo vô Bàu Cà Na 27m. Lang sa nghe à! Từ vuông 27m mỗi góc của đài Bát Quái, bề cao 9m; hình nóc mô lên, chỉ tám góc cho phân minh, trên đầu đài phải để cây đèn màu xanh, kế nữa là Chánh Điện, bề dài 81m, bề ngang 27m. Lão phải vẽ mới đặng. Kế nữa Hiệp Thiên Đài tủ vuông 27m, hai tầng, mỗi tầng 9m, hai bên Hiệp Thiên Đài bên mặt thì có Lôi Âm Cổ Đài, bên tả thì có Bạch Ngọc Chung Đài. Lão phải vẽ mới đặng.

    Hộ Pháp, Thượng Phẩm nội trưa nầy phải cắm một cây viết vào đầu Cơ, lấy một miếng giấy lớn vào Điện phò loan cho Lão vẽ.

    “Bính, Thanh phải cho có mặt còn kỳ dư không cho ai vào Điện hết, nghe à! Phải mua miếng đất Bàu Cà Na làm Động Đình Hồ...”

    (Sở dĩ chúng tôi trích lục và đăng trọn bài Thánh ngôn trên đây là vì triệt để tôn trọng sự tín ngưỡng Cơ Bút của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và đây cũng là một tài liệu hết sức quý báu trong việc xây cất Tòa Thánh Tây Ninh mà biết bao Tín đồ Cao Đài Giáo hiện nay băn khoăn tìm hiểu).

    Thế là sự kiến trúc Tòa Thánh được thực hiện theo căn bản lược đồ do Thiêng Liêng chỉ định.

    Từ năm 1933 khởi công, nhưng đến năm 1945 mới hoàn thành. Vì trong khoảng thời gian từ năm 1941 đến năm 1945 bị gián đoạn...

    Bởi lúc bấy giờ nước nhà bị Pháp trị...

    Hiện nay, mỗi lần nhắc đến thời gian xây cất Tòa Thánh, biết bao nhiêu người trong giới Tín đồ và Chức sắc chứa chan lệ thảm.

    Cơn quốc biến, chẳng những giang san bị nhiều thảm họa, nhân dân thống khổ điêu linh thôi, mà đến nỗi nơi thờ phượng cũng chịu ảnh hưởng chung...

    Khoảng thời gian 1941-1945 người Pháp lấy Tòa Thánh làm nơi xe đậu!...

    Sau những trận đánh, giết hại lê dân, thường cướp giựt của cải và bắt trâu, bò đem về đây giết thịt khao đãi nhau. Làm như thế, người Pháp cố ý phá hoại Đạo Cao Đài , cũng vị sự đe dọa tiêu diệt nền Đạo, mà nhiều người phải băn khoăn lo nghĩ. Trước viễn cảnh đen tối ấy, họ không tìm được giải pháp...

    Do đó, giới tín đồ quá căm tức: một vì Tổ quốc Việt Nam, hai vì bảo vệ nền Đạo, mới lập Quân đội để cứu vãn tình thế. Chớ sự thật, tôn chỉ và mục đích Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ không hề có can dự việc chính trị, dù là vấn đề hết sức nhỏ nhặt.

    Hiện trạng đó còn bắt chúng ta nghĩ rằng sự tín ngưỡng quả thật có hiệu lực tiềm tàng tự bản ngã con người nó âm thầm như không có gì đáng kể... nhưng sức mạnh của nó là sức mạnh bất khả bại. Vì sự tín ngưỡng đã xây dựng bằng nhiều lý tưởng căn bản, chuyển mạch lòng người tạo một đức tin mãnh liệt.

    Xuyên qua thời cuộc để tìm hiểu vài yếu điểm có liên quan đến Đạo Cao Đài, cũng như lịch sử kiến trúc Tòa Thánh; tưởng cũng có thể đáp ứng được nguyện vọng sưu tầm và nghiên cứu của những ai muốn tìm hiểu về Đạo Cao Đài và sự tích Tòa Thánh.

    Đến đây, có lẽ du khách sẽ thắc mắc tại sao Tòa Thánh phải cất tại vị trí hiện hữu và ở nơi tỉnh Tây Ninh?

    Vì cơ huyền bí đã định: Tòa Thánh phải cất tại tỉnh Tây Ninh để gần núi Điện Bà sẽ có liên quan đến những phương pháp tịnh luyện của người tu sau nầy. Đó là bí pháp liên đới đến Hội Long Hoa, chúng tôi không được am tường...

    Có điều chứng tỏ rằng hiện giờ Đạo Cao Đài có thành lập VẠN PHÁP CUNG tại chân Núi Bà... Và xây cất tại vị trí hiện hữu cũng vì Đức Cao Đài Ngọc Đế giáng cơ dạy ngày 20-2-1927nhằm ngày 19-1 năm Bính Dần, như sau:

    “Các con nghe...,

    “Nơi nào Thầy ngự, thì nơi ấy là Thánh địa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Nếu Tòa Thánh xây cất tại:

    “Cẩm Giang thì các con phải chịu khổ về phần ăn uống.

    “Bến Kéo thì địa thế hẹp hòi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    “Suối Vàng thì đặng nhưng phương tiện chở chuyên không tiện, song phong thổ tốt đẹp . . .”

    Như vậy chỉ có vị trí hiện hữu là thích ứng mọi phương tiện.

    Về sự bí pháp vô vi... Đức Chí Tôn dạy nhiều... Nhưng chúng tôi xin trích đại khái như sau:

    “. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    “Các con phải hiệp chung nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng ở tại Tây Ninh nầy mà thôi. Các con đã hiểu Thánh ý Thầy...”

    Khi sửa soạn xây cất Tòa Thánh thì những vị Chức sắc định kiến trúc cho thật đồ sộ và nguy nga...

    Chính Đức Lý Thái Bạch giáng cơ dạy những bậc nền Tòa Thánh phải hơn kém nhau 6 tấc và bề cao 9 thước. Nhưng Đức Chí Tôn không cho, giáng cơ bảo sửa lại 3 tấc mà thôi... Vì sợ tốn hao của nhơn sanh... Trong bài Thánh giáo tại chùa Gò Kén dạy như vầy:

    “Thời kỳ mạt kiếp nầy khiến mới có Tam Kỳ Phổ Độ.Các sự hữu hình phải hủy phá tiêu diệt. Thầy đến chuyển Đạo lập lại vô vi,các con coi thử bên nào chánh lý. Hữu hình phải bị diệt chớ Vô vi chẳng thế nào diệt đặng... Thơ! Thầy đã khiến con đi coi Đế Thiên, Đế Thích đặng xem cho tạng mặt một sự hữu hình nội thế gian ngày nay, ai cũng nhìn nhận cho là tối đại, mà con đã thấy nó còn bền vững đặng chăng”.

    Bài Thánh giáo trên đây thể hiện lòng từ bi, triệt thấu sự khan hiếm phương tiện xây cất của Hội Thánh, đồng thời quan tâm đến đạo đức không phải ở chỗ nguy nga, đồ sộ đâu... đó chỉ là hình thức tiêu biểu, có thể bị thời gian tàn phá như đền Đế Thiên, Đế Thích tại Cambodge vậy. Cương lĩnh của Đạo là ở chỗ vô vi mà thôi.

    Đây là cả một công trình vĩ đại, Thiên khiển Nhơn tạo một sự mới mẽ, tuyệt xảo; bao hàm những bí ẩn vô vi...

    Tóm lại, Tòa Thánh Tây Ninh hoàn thành được là do cơ bút Thiêng Liêng điều khiển... Ngoài ra, sự tạo tác thì kẻ công người của chung họp nhau lo, ngày nay mới thành thể diện Đạo CAO ĐÀI mà muôn đời công khó vẫn còn ghi...

  12. #12
    Nhị Đẳng Avatar của Hư_Không
    Gia nhập
    Jul 2011
    Nơi cư ngụ
    Tịnh Lưu Ly
    Bài gởi
    2,660

    Mặc định

    Năm nào đi lên tây ninh mình cũng đều ghé vào đây cả, nói thật là rất đẹp nhưng nội quy thì nghiêm khắc quá. Với lại có vài điểm mình thấy hơi vô lý một chút.

  13. #13

    Mặc định

    Tôi đã ghé vào, kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” thấy cũng thoải mái
    Ngó :


    Thấy cũng hạp nhãn , đôi khi gặp may có lộc, được ở trong hoặc ngoài Tòa thánh. Một vài cây quý :D

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Copy-Paste Xem Bài Gởi
    Tôi đã ghé vào, kiểu “cưỡi ngựa xem hoa” thấy cũng thoải mái
    Ngó :

    Tám chư vị toát lên tam giáo
    Phật -Tiên-Nho cùng bảo điều lành
    Thích Khổng Lão đã xướng danh
    Quan âm-Thái Bạch- cùng hành Hiệp thiên

    Từ trên xuống Thích ca phật tánh
    Kế tiếp là Thái bạch Tiên gia
    Giê su đại diện Thánh ca
    Khương Thượng thần đạo đủ là ngũ chi

    Từ Thái cực tỏa đi thiên giới
    Chín phương trời phật đợi mười phương
    Thất thập nhị địa công trường
    Thực thi công quả tầm phương Phật Trời

    Thật phước thay nơi nơi hội tụ
    Về Nam phương hiểu dụ kỳ ba
    Nơi đây đại hội Long hoa
    Thành Tiên.đắc Phật hay ra phong thần


    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  15. #15

    Mặc định

    hí,mình kg phãi là tín đồ tòa thanh tay ninh,nhưng mình cũng tìm hiễu về nó ,tào thánh này xây vào ban đêm kg ai biết những nguoi thợ này ỡ đâu kg biết ai vẽ ra,,ayza,đó nói thãt thiện taycòn cái ãnh thờ là do ngominhchieu,,sau này chế tác nhiêu lắm hí,,ẹc ẹc,sĩ tữ hay tữ sĩ ayza
    trần gian là 1 chốn nô đùa ta chơi cho đã 4 mùa về 0'''...0937532387 anhhungdenhatngu

  16. #16
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    VI- CÁC CƠ QUAN TRONG NỘI Ô TÒA THÁNH

    Khi quan sát từng chi tiết trong Tòa Thánh, am hiểu được tường tận sự huyền bí và nghe thuật lịch sử kiến trúc xong, du khách sẽ đi viếng từ cơ quan trong nội ô Tòa Thánh.

    Đi trở về phía sau Tòa Thánh, du khách sẽ thấy một cái tháp hình bát giác cao vượt lên 3 tầng. Mỗi tầng cao lên độ 2 thước và 3 thước.

    Tháp nầy dùng để an vị Chức sắc lớn trong nền Đạo.

    Hội Thánh Cửu Trùng Đài, thì Chức sắc Nam, Nữ phải từ phẩm Đầu sư trở lên. Nhưng đặc biệt có 3 vị Đầu sư phái Nam và một Đàu sư nữ phái cùng ba vị Chưởng pháp, một vị Giáo Tông được cơ bút Chí Tôn ân phong trong buổi khai Đạo mới được xây tháp mà thôi.

    Riêng về Hội Thánh Hiệp Thiên Đài thì Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và 12 vị Thời Quân, Thập nhị Bảo quân cùng các Chức sắc khác như Tiếp lễ Nhạc quân, Hộ đàn Pháp quân thì khi qui vị cũng được xây tháp. Nhưng chỉ một lần thôi. Dù sau nầy có những vị Chức sắc khác kế vị nhưng cũng không được xây cất tháp nữa.

    Mỗi Tháp an vị chức sắc nầy, đều được xây hình bát giác.

    TẠI SAO THÁP PHẢI XÂY HÌNH BÁT GIÁC?

    - Vì khi mỗi Chơn Linh mãn phần nơi cõi thế tức là lúc chết linh hồn phải trở qua: “Ba mươi sáu cõi Thiên Tào, nhập trong Bát Quái mới vào Ngọc Hư”. Nghĩa là linh hồn qua ba mươi sáu cõi Thiên Tào ấy, thì còn phải vào Bát Quái để Thiêng Liêng phán đoán tội lỗi căn cứ theo quá trình sinh hoạt của một kiếp rồi mới được vào ngọc Hư Cung, tức là nơi Chí Tôn ngự, nếu đầy đủ thiện quả, trọn vẹn tâm đức tu hành thì được thăng; còn chưa đầy đủ phải lãnh lịnh trở lại cõi phàm trần. Đạo Phật gọi là “chuyển kiếp luân hồi”.

    Vì vậy, xây Tháp an vị Chức sắc, thể thức kiến trúc phải theo hình Bát Quái Đài, tức là một trong ba Đài: HIỆP THIÊN ĐÀI, CỬU TRÙNG ĐÀI và BÁT QUÁI ĐÀI ở Tòa Thánh tượng trưng cho hình thể Đại Đạo để phổ độ chúng sanh (như chúng tôi đã lược thuật rõ rệt nhiệm vụ của mỗi Đài ở những đoạn trước). Vậy cần nhắc lại nhiệm vụ của Bát Quái Đài để đọc giả có thể am tường thêm về thể thức xây Tháp hình Bát Quái Đài.

    Bát Quái Đài do các Đấng Thiêng Liêng điều khiển, trực tiếp rước các đẳng chơn hồn để phán xét công đức tu hành và tội phước ở thế gian. Sau khi trải qua cuộc phán xét ấy, chơn hồn mới được vào Ngọc Hư Cung, là nơi Thượng Đế ngự mà chầu. Tùy công nghiệp tu hành, sinh hoạt thiện lương của một kiếp mà Thượng Đế định theo phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật hoặc phải luân hồi lại chốn trần gian.


    Vì vậy, nên thể thức Tháp an vị Chức sắc phải kiến trúc theo hình Bát Quái Đài và cũng có mục đích tiêu biểu sự mầu nhiệm Tạo Hóa cõi vô hình để nhân thế soi chung vậy...

    Khi quan sát Tháp phía sau Tòa Thánh, du khách đều thấy sự kiến trúc đều cùng một thể thức. Nhưng những hìn họa trên các Tháp đều theo sự tích khác nhau, tùy theo phẩm vị, hoặc nam, nữ mà phác họa sự tích thích hợp.

    Xem xong các Tháp nầy, du khách sẽ vào hậu Điện Tòa Thánh viếng Đông lang, Tây lang.


    Tháp an vị Đầu Sư

    Đông lang và Tây lang thể thức kiến trúc đều như nhau hai bên tả hữu Tòa Thánh liên đới với nhà Hậu Điện.

    Tuy gọi là Đông lang và Tây lang song bên trong có các phòng làm việc hoặc để Chức sắc, Chức việc hiến thân trọn đời cho Hội Thánh an nghỉ thôi.

    Sự liên đới Đông lang và Tây lang với Hậu Điện cùng Tòa Thánh theo cơ bút thì kiến trúc như hình Long Mã vậy...

    Từ Đông lang, du khách đưa mắt nhìn về hai ngôi nhà đồ sộ nằm ngang vị trí của Đông lang. Đó là Trai đường, nghĩa là nơi dùng để công quả, chức việc và chức sắc làm việc trong các cơ quan của Hội Thánh Cửu Trùng Đài dùng cơm hằng bữa.

    Nơi đây, mỗi ngày có hai bữa cháo cơm cho công quả ăn. Bữa mơi, tiếng trống đổ 11 giờ và một hồi tan sở thì trong các cơ quan Cửu Trùng Đài, chức sắc và nhơn viên lớn, nhỏ... lần lượt đến đây dùng bữa cháo, rau. Bữa chiều khoản độ 5 giờ, cũng sau một hồi trống tan sở, vẫn nhóm người muôn thuở ấy... trở lại đây dùng cơm dưa muối...

    Cảnh kham khổ... nhưng tình vẫn thiết tha... Hiện trạng nầy làm cho du khách buồn miên man nghĩ ngợi... Khi người ta ý thức được cuộc sống chỉ là giả tạm; mùi trần ai đày đọa bao người, nên tuy sống khổ... mà họ vẫn vui tươi vì hiểu biết...

    Nhận thức cảnh tu hành đạm bạc muối dưa... khiến du khách thấy lòng buồn dười dượi mông lung với trường đời lang bạt...

    Khi rời khỏi Đông lang trở lại phía trước Tòa Thánh, du khách sẽ dừng chơn mơ màng đứng ngắm hai thửa rừng hai bên tả, hữu trước Tòa Thánh, gọi là rừng “Thiên Nhiên”...

    Từ mặt tiền Tòa Thánh đi ra độ 30 thước, có cột Phướng hình rồng cao độ 30 thước chơ vơ vòi vọi giữa khung trời bát ngát.



    Khán đài và phía sau là rừng Thiên Nhiên

    Dưới chân cột Phướng rồng có chạm hoa sen và hình bốn con Kim Mao Hẩu. Ý nghĩa rồng với hoa sen tiêu biểu “Hội Long Hoa” là mục đích cứu cánh của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (chúng tôi đã lược thuật đoạn trước...)

    Cách cột Phướng chừng 10 thước có cội cây Bồ Đề, sum suê nhành lá, dưới gốc là tượng hình Đức Phạt Thích Ca ngồi tịnh, sau lưng có con rắn 7 đầu đưa lên...

    Cội cây Bồ Đề và tượng Phật Thích Ca nầy nguyên của Đức Narada Théra, đại diện Phật giáo Cyelan biếu.

    Ý NGHĨA TƯỢNG PHẬT DƯỚI CỘI BỒ ĐỀ


    Thuở xưa, Đức Phật Thích Ca ngồi thiền định dưới cội bồ đề quán thông được chơn tướng của vạn vật chúng sanh, và tầm được bốn phép thiền định sau, mà hiện nay pháp môn thiền định nầy các bậc tu hành còn thực dụng:

    - Một là Ý Thanh Tịnh.

    - Hai là Tịnh Tâm Thủ Nhứt; Chuyển Tâm Bất Dịch.

    - Ba là thấy rõ chơn tướng vạn vật chúng sanh.

    - Bốn là không y thiện; không phụ ác; không khổ, không vui, bình thản, không không.

    Ngày nay, nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ qui tam giáo, hiệp ngũ chi đặc biệt quan tâm đến đời sống nhân gian hiện hữu (đó tức là bậc hạ thừa), còn mục đích cứu cách cũng lấy phương thức luyện tịnh mà tồn dưỡng tinh thần để đến giải thoát kiếp trần khổ hạnh.

    Vì vậy, đúc tượng Phật tịnh dưới cội bồ đề trước Tòa Thánh là mục đích tiêu biểu đại cương thể thức tu tập. Du khách có thể quan sát những chi tiết mà xác định được phần nào về Đạo CAO ĐÀI.

    Sau lưng pho tượng Phật Thích Ca có rắn bảy đầu đưa lên. Bảy đầu đó tượng trưng thất tình: mừng, giận, buồn, vui, thương, ghét, muốn của loài người.

    Ngày xưa Phật giáo, thì tu tập luyện tịnh sao cho chơn ngã được sống ngoài vòng tục lụy, trần ai, nghĩa là diệt dục cho lòng bình thản không không mới giải thoát linh hồn ra ngoài vạn khổ ở đời. Vì thế mà thất tình vẫn còn, nhưng được tập trung duy nhứt theo một chiều hướng về cõi thượng giới hư linh. Nên bảy đầu rắn đưa lên tượng trưng thất tình là ý nghĩa đó...

    Hình ảnh tượng Phật lặng thầm thiền định dưới cội bồ đề ấy... có hiệu lực gợi niềm rung cảm lâng lâng cõi long du khách.

    Từ pho tượng Phật nầy nhìn thẳng phía trước, du khách sẽ thấy hai bên tả hữu có hai khán đài thật to, để quan khách nghỉ mát hoặc trong những ngày lễ lớn để khách thập phương ngồi nghe thuyết đạo.

    Khán đài nầy kiến trúc thật to xây trên 12 bậc cao thấp khác nhau.

    Cửu trùng Thiên


    Ý nghĩa 12 bậc ấy cũng tượng trưng thập nhị khai thiên của Trời.

    Vào khoảng thời gian 1955-1956 có cuộc lễ khánh thành, hai khán đài nầy, người người đông nghẹt.

    Thoảng phút ấy qua rồi, dòng đời đã chìm dần trong ký ức thế nhân... Giờ đây hai khán đài chỉ âm thầm song song bên cạnh rừng cây rợp bóng...

    Chính giữa hai khán đài nầy có kiến trúc một đài nhỏ, hình bát giác gồm 9 bậc cao dần lên gọi là “Cửu Trùng Thiên”.

    Du khách mới xem qua hình ảnh Cửu Trùng Thiên không lớn mấy cũng như một gò đất nhỏ mô lên, trong nắng vàng trập trùng ánh sáng.

    Ý NGHĨA XÂY CỬU TRÙNG THIÊN


    Tam Kỳ Phổ Độ; Đấng Thượng Đế khai nền Đại Đạo gọi là thời kỳ ân xá. Đức Ngài mở cả Cửu Thiên Khai Hóa mà lập Cửu Trùng Đài điển hình tại thế đặng độ rỗi chúng sanh.

    Những người tu công nghiệp đầy đủ sẽ được siêu rỗi qua Cửu Trùng Thiên mà vào Bạch Ngọc Kinh.

    Trái lại, ai tu dang dở, công nghiệp còn thiếu kém, cũng được sự độ rỗi, song luật công bình tạo hóa phải căn cứ công đức tu hành phán đoán công minh và lập vị theo Cửu Thiên Khai Hóa.

    Cũng như tại thế nầy, khi chầu lễ Chí Tôn, những Chức sắc lớn ấy là công quả đầy đủ và Chức sắc nhỏ ấy là những vị còn thiếu công nghiệp tâm đức tu hành, nên phẩm vị khác nhau. Xây Cửu Trùng Thiên nầy để thiêu xác những vị đại Chức sắc (bên Cửu Trùng Đài thì phầm Đầu sư trở lên cũng như bên Hiệp Thiên Đài thì từ phẩm Thập nhị Thời quân trở lên). Những bậc chức sắc nầy đầy đủ công đức tu hành; hiện kiếp cũng như tiền căn (theo cơ bút Thiêng Liêng chỉ dạy) nên lúc chết thân xác được thượng vị lên Cửu Trùng Thiên.

    Đó là tiêu biểu sự giải thoát được kiếp trần ai khổ hạnh của vị ấy đồng thời nhờ công đức tu hành đó mà lập vị thiêng liêng qua khỏi Cử Thiên Khai Hóa. Vì vậy, mới có xây cất Cửu Trùng Thiên.

    Xem qua Cửu Trùng Thiên và nhận thức được ý nghĩa, khi nghe tường thuật. Hẳn du khách thấy rõ kiếp con người sanh trưởng tại thế gian nầy không phải cốt để an hưởng kiếp giả tạm và nhờ sự vinh sang, quyền cao, chức trọng mà lúc qui mãn được Thiêng Liêng độ rỗi đâu. Trái lại, đó chỉ là của trần để lại cho trần... mà linh hồn phải nương nhờ nó để tu dưỡng nên chánh thiện, chánh giác mà lập vị đẳng cấp Thiêng Liêng trên cõi vô hình.

    Đến đây du khách đã tường lãm sự thực dụng của Cửu Trùng Thiên liên đới đến lập vị thiêng liêng.

    Hình ảnh Cửu Trùng Thiêng la đà trên mặt đất trong ánh nắng mơ màng với ý nghĩa luận thuật còn làm du khách nghĩ ngợi vu vơ... Rồi trông về phía trước, du khách thấy liền hai pho tượng; một pho tượng hình người chạy bộ hai tay chấp, đúc bằng xi măng, sơn màu vàng song đã lam mờ phai nhạt...

    Và còn một pho nữa thì tượng hình người cỡi ngựa, tay cầm cương, tay che mắt trông về phía mặt trời lặn – xa xôi – với nhiều sự tin tưởng. Hai pho tượng nầy cũa đúc bằng xi măng, chạm trổ sắc sảo, tuyệt vời...

    Đó là hai pho tượng XA NẶC chạy bộ theo Đức Thích Ca cỡi ngựa tầm Đạo buổi đầu tiên.

    Hình ảnh hai pho tượng nầy thể hiện sự tích tầm đạo của Phật Thích Ca, đồng thời làm tiêu biểu cho thế nhân mục kích và ý thức sự vinh sang, quyền quí ở cõi đời mà ngàn xưa Đức Thích Ca đã nhận thức được...

    Nguyên Phật Thích Ca xưa kia là một vị Thái Tử con vua Tịnh Phạn sinh trưởng tại Ấn Độ.

    Đời Thái Tử sống trong nhung lụa xa hoa, vật chất đủ điều...

    Nếu lấy quyền thì Thái Tử sẽ là vị vua có đủ quyền bính thống trị cả thiên hạ; nếu lấy sự giàu sang phú quí vinh hoa thì đầy đủ biết bao...

    Nhưng Thái Tử sớm đã nhận thức được ý nghĩa kiếp sinh con người chỉ là giả tạm, suốt đời khổ não vẫn triền miên trong ngũ trọc mà phải qua những trạng thái: sanh, lão, bịnh, tử...

    Hiện trạng đau buồn ấy thúc đẩy Thái Tử tìm phương giải khổ chúng sanh...

    Suốt bao năm khổ hạnh tầm đạo, Thái Tử đã tìm được phương pháp giải khổ mà cứu cánh nó là sự giải thoát kiếp luân hồi sanh tử cho chúng sanh; ấy là Đạo Phật vậy...


    Hình Thái Tử cỡi ngựa tầm đạo


    Ngày nay lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Thượng Đế qui nguyên Tam giáo, thực tiễn giáo lý: Phật, Lão, Nho làm phương châm thực dụng, có hiệu lực thích ứng với trào lưu tiến hóa của nhân loại, mục đích thực hiện đời sống thế nhân trên cương lĩnh đạo đức sinh hoạt cho cõi đời được hòa thuận an vui khỏi cảnh chiến tranh tàn khốc, hầu lấy Đạo Phật làm phương giải thoát kiếp sinh.

    Nên tượng hình Phật Thích Ca tiêu biểu đại cương quan điểm thực hiện của tôn chỉ và mục đích nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ; đồng thời cảnh giác thế nhân hướng về đạo đức từ bi, quan tâm kiếp trần hiện tại.

    Hình ảnh hai pho tượng chơ vơ trong ánh nắng, khích lệ tâm hồn du khách bâng khuâng bao niềm, khi trở bước.

    Rời khỏi hai pho tượng nầy, du khách sẽ quay vào Tòa Thánh đề đi con đường Bình Dương Đạo sang viếng các cơ quan.

    Khi cất bước lâng lâng và lắng nghe rừng âm u, gió rít lê thê, du khách sẽ chạnh niềm rung cảm... Đâu đây, trong cảnh rừng rợp bóng có kẻ mơ màng ngồi ngắm Tòa Thánh buông tiếng hát vu vơ...
    Đây: muôn thuở Thánh Tòa phơi bóng đẹp...
    Bên cạnh rừng heo hút gió đê mê...
    Khách trần gian đi đến, lúc đi về...
    Tâm hồn vẫn chập chờn bao dư ảnh...
    Rồi những lúc u hoài lòng có chạnh,
    Nhớ nhung về phong cảnh đẹp nên thơ...
    Ngôi Thánh Tòa trong ánh nằng lững lờ...
    Vang bóng lại tâm hồn niềm thơ mộng.
    Chơi vơi giữa khung trời xanh cao rộng,
    Có hai đài: chuông, trống vút song song.
    Trời quá cao bát ngát, lại mênh mông,
    Mà hình ảnh là đà, e ấp ấy!...
    Trời cao quá, buồn tênh nên thấp lại,
    Đất đìu hiu, nên vượt mấy tầng cao...
    Như cùng nhau liên đới những âm hao...
    Cõi trần thế sầu đau còn lắm lắm!!!
    Đây lấp lánh muôn vàn màu sắc thắm,
    Chói chang niềm rung cảm khách trần gian...
    Để ai còn say đắm cảnh trần hoàn...
    Tỉnh lại giấc mơ màng trong cõi mộng...
    Đây muôn thuở Thánh Tòa còn vang bóng,
    Đây cửa thiền mở rộng đón nhân gian.
    Hỡi ai đời sống lắm đoạn tràng!...
    Giải thoát kiếp lên đàng về tu niệm...
    Mượn kinh kệ vui niềm vui mầu nhiệm,
    Khoác áo chùa liệm kiếp khổ đau...

    . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    (Thơ của T.L. Thiền Giang PHAN VĂN TÂN)
    Nghe tiếng hát miên man niềm buồn bã, khiến lòng người thổn thức mông lung...

    Qua khỏi mặt tiền Tòa Thánh nhìn vào thửa rừng “Thiên Nhiên” phía tả, du khách sẽ trông thấy ngôi nhà nghỉ mát. Ngôi nhà nầy cất trong thửa rừng, dưới những tàn cây xum xuê nhành lá... để du khách viếng Tòa Thánh tạm nghỉ hoặc vào đọc sách nên gọi là “Thơ viện”.

    Ngôi nhà nầy không lớn lắm, những đặc biệt thể thức trang trí xem vẻ khác lạ. Bên ngoài vào, du khách sẽ thấy những tấm bản vẽ hình bộ Cổ Pháp Tam giáo (Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Du).

    Rời nhà nghỉ mát, du khách sẽ thấy bên lề đường phía tả có một ngôi nhà trơ trẻn trong ánh nắng hiu buồn... Đó là ngôi “Nữ Đầu Sư Đường”, tức cung thự của vị Đầu Sư nữ phái, đồng thời cũng là cơ quan trung ương truyền giáo của phái nữ.

    Nơi đây đặc biệt dành riêng cho Chức sắc nữ phái ở tu tập và đặt những cơ quan tổ chức có hệ thống như nam phái mà lo việc phổ độ chúng sanh.


    Nữ Đầu Sư Đường

    Tất cả những hoạt động về truyền giáo đều đặt dưới quyền vị Nữ Đầu Sư, nếu Đầu Sư khuyết thì vị Nữ Chánh Phối Sư điều khiển.

    Ngôi nhà nầy khuôn diện chữ nhựt, có hai tầng: dưới và trên lầu. Hiện nay hệ thống tổ chức truyền giáo của Hội Thánh Cửu Trùng Đài nữ phái các cơ quan đều đặt tại đây.

    Ngày ngày êm đềm qua đi năm, tháng... Nơi đây có những vị tu sĩ nữ phái lớn, nhỏ... sớm, chiều:

    Mượn kinh kệ tiêu dao cửa Phật.

    Bền trầm luân tỉnh giấc mơ màng...

    ... mà phôi pha đi niềm tục lụy trần ai... quên điều trần thế...

    Mỗi chiều, khi tiếng trống điểm giờ tan sở, trước ngôi nhà nầy là biết bao tà áo trắng phơi phới tung bay trong ánh ngày hiu hiu tạnh nắng...

    Dòng đời âm thầm hờ hững qua đi... Tâm hồn họ vẫn trẻ trung trong lạc thú nên thơ mầu nhiệm...

    Nơi đây, bao đêm về trăng mờ khắc khoải. Tiếng thời gian điểm hờ; trống dội vu vơ... họ cất tiếng ngâm thơ gởi niềm rung cảm...
    ... Thế sự: thăng, trầm; ai biết đâu!...
    Thân người một kiếp có là bao?.!...
    Cõi trần: thấp thoáng thoi đưa bóng...
    Cảnh thế: ngùi trông thỏ ác sầu!
    - Lặng lẽ phôi pha niềm tục lụy;
    Âm thầm thêm lắng nỗi thương đau.
    Huyền vi tạo hóa ai ơi thấu!
    - Gởi kiếp phù sinh với đạo mầu.
    (Thơ của T.L. Thiền Giang PHAN VĂN TÂN)
    ... Đêm đêm, thường có thế... Ngày, ngày vẫn vui niềm đạo đức tu thân. Đến đây tìm hiểu, du khách sẽ chạnh lòng kiếp sống vì đâu?

    Rồi dời chơn đăng bước, du khách sẽ thấy liền bên hữu đường Bình Dương Đạo có một ngôi nhà đồ sộ nằm chênh vênh trong lòng khu đất rào.

    Chung quanh ngôi nhà nầy là những tàng cây sữa xum xuê nhành lá, chen lẫn vài cây cổ thụ vút lên cao... Đó là ngôi “Giáo Tông Đường”, tức là dinh thự của vị Giáo Tông.

    Trong nền đạo Cao Đài, Đức Giáo Tông do cơ bút Thiêng Liêng tuyển chọn hay do toàn cả Hội Thánh, Tín đồ và quyền nhơn sanh bầu cử mới được công nhận.

    Quyền hạn Giáo Tông là anh cả nhơn sanh, có quyền thay mặt cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Giáo Chủ Đạo CAO ĐÀI.



    Giáo Tông Đường

    Hiện nay, Giáo Tông Đường nầy là nơi đặt để cơ quan tối cao điều khiển nền Đạo, do Đức Thượng Sanh CAO HOÀI SANG chưởng quản.

    Thượng Sanh đặt văn phòng tại đây là có tính cách tạm. Căn bản Pháp Chánh Truyền Đại Đạo ấn định, thì Thượng Sanh phải có văn phòng riêng cũng như Hộ Pháp thì có Hộ Pháp Đường; Giáo Tông thì có Giáo Tông Đường và Thượng Phẩm thì có Thảo Xá Hiền Cung vậy.

    Có lẽ hiện giờ Hội Thánh chưa đủ phương tiện cất dinh thự văn phòng Đức Thượng Sanh. Nhưng chắc dù sao cũng được thực hiện, vì đây là thể pháp hữu vi liên đới vô vi trong cơ phổ độ tam kỳ của nền Đại Đạo.

    Đối diện với ngôi Giáo Tông Đường, bên tả lề lộ Bình Dương Đạo là Hạnh Đường, tức là ngôi trường để Hội Thánh đào luyện các chức sắc về khả năng phổ độ chúng sanh.

    Những chức sắc vào hàng Lễ Sanh, Giáo Hữu... trước khi hành quyền Giáo Sĩ, phải trải qua một thời gian học tập, thực hiện theo phương thức Đại Đạo phù hợp nhu cầu tiến bộ nhơn loại trên mọi lãnh vực.


    Hạnh Đường

    Ngôi Hạnh Đường này cũng kiến trúc theo thể thức: trên nóc, dưới nền, gọi Lưỡng nghi. Vách dừng bốn bên là Tứ Tượng. Trên nóc hình Bát Quái (bát giác). Thể thức kiến trúc nầy biểu hiện theo căn bản phát huy Trời Đất hóa sanh muôn loài vậy.

    Hình thức ngôi Hạnh Đường nầy cũng khá rộng, vuông vức độ hai chục thước. Bên trong bàn ghế thật nhiều để y như một lớp học. Trên các cột và chung quanh vách có treo những tấm bảng cây độ 4 tấc vuông vẽ bộ Cổ Pháp của Tam giáo (Xuân Thu, Phất Chủ, Bát Du).

    Về bộ Cổ Pháp Tam giáo nầy còn có ý nghĩa tiêu biểu sự qui Tam giáo cho khách bàng quan nhận thức rằng nơi đây nghiên cứu giáo lý Tam giáo, thực tiễn những quan điểm có hiệu nghiệm thực dụng, thích hợp nhu cầu nhân loại trong sự tấn hóa hiện đại mà cải tổ nếp sanh hoạt thế nhân: chân, thiện... đạo đức cao vọng thực hiện đời sống nhân gian trở nên hòa thuận, an vui...

    Kiến trúc ngôi Hạnh Đường nầy hẳn Hội Thánh cũng thể theo tích xưa... Khi xưa, Đức Khổng Phu Tử chu du liệt quốc để truyền bá Đạo Nho. Thấy công việc truyền giáo ấy bất thành Ngài bèn về ngụ tại nơi gọi “Hạnh Đường” để đào luyện đạo đức cho tam thiên đồ đệ (dường như vùng nầy xưa kia có rất nhiều cây hạnh). Về sau trong số đồ đệ của Ngài, chỉ còn có bảy mươi hai người, nên gọi “Thất Thập Nhị Hiền”, truyền bá mối Đạo đến ngày nay...

    Đại cương hai chữ Hạnh Đường nầy có thể nói để tiêu biểu sự đào luyện “đạo hạnh” và khả năng vạch rõ đường lối đạo đức cho người truyền giáo.

    Tóm lại, quan điểm hai chữ Hạnh Duong thể hiện căn bản đào luyện khả năng giáo sĩ Đạo Cao Đài trên phương diện hạnh đức. Vì người truyền giáo phải có đầy đủ hạnh đức vẹn toàn, mới cảm hóa được lòng người khuynh hướng về đạo lý. Đó là phưong thức thực hiện ý nghĩa “HẠNH ĐƯỜNG” vậy


    http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...uatTTTN-VI.htm

  17. #17
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    VII – NGÔI HIỆP THIÊN ĐÀI


    Viếng Hạnh Đường xong, du khách đi bộ chừng 200 thước, bên hữu đường Bình Dương Đạo có một biệt thự đồ sộ nằm song song với ngôi Giáo Tông Đường. Ấy là cơ quan trung ương của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, hay đúng hơn là cơ quan lập pháp và bảo thủ luật pháp chơn truyền Đại Đạo. Không ai qua luật Đạo mà Hiệp Thiên Đài không biết.

    Hội Thánh Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp điều khiển gồm có 3 chi: chi Pháp, chi Đạo và chi Thế. Mỗi chi có nhiệm vụ đặc biệt khác nhau mà liên quan nhau trong việc truyền bá Đạo Cao Đài.

    Bài Thánh ngôn của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ đề ngày 13/02/1927 nhằm ngày 12 tháng giêng năm Đinh Mão phân quyền hạn hiệu lực Hiệp Thiên Đài như sau:

    “Các con! Cả chư môn đệ khá tuân mạng.

    “Hiệp Thiên Đài nầy là nơi Thầy ngự cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo. Hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn (Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ bút dạy Đạo cho chức sắc Hiệp Thiên Đài tại Tòa Thánh).

    “THẦY đã nói Ngũ Chi Đại Đạo bị qui phàm là vì khi trước.

    Hồi nhứt kỳ và nhị kỳ phổ độ THẦY giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo, nên THẦY nhứt định đến chính mình THẦY để dạy dỗ các Con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa.

    “THẦY đã nói sở dụng thiêng liêng: THẦY cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.



    Ngôi Hiệp Thiên Đài

    “Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp chưởng quản, tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm. THẦY lại chọn Thập Nhị Thời Quân chia làm ba:

    1) Phần Hộ Pháp chưởng quyền về Pháp thì:

    HẬU (Ô. Nguyễn Trung Hậu) là Bảo Pháp – bảo là giữ gìn.

    ĐỨC (Ô. Trương Hữu Đức) là Hiến Pháp – hiến là dâng.

    NGHĨA (Ô Trần Duy Nghĩa) là Khai Pháp – khai là mở, bày ra.

    TRÀNG (Ô Trương Văn Tràng) là Tiếp Pháp – lo bảo hộ luật đời và luật đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết.

    2) Thượng Phẩm thì quyền về phần Đạo. Dưới quyền:

    CHƯƠNG là Bảo Đạo.

    TƯƠI là Hiến Đạo.

    ĐÃI (Ô Phạm Tấn Đãi) là Khai Đạo.

    Phẩm Tiếp Đạo (Đức CHÍ TÔN phong sau cho Ô. Cao Đức Trọng tại Thánh thất Nam Vang) lo về Đạo nơi Tịnh Thất đều xem sóc chư môn đệ THẦY, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khắc khổ cho đặng.

    3) Thượng Sanh thì lo về phần đời, chưởng quản chi THẾ, dưới quyền:

    Bảo Thế thì PHƯỚC (Ô. Lê Thiện Phước).

    Hiến Thế: MẠNH (Ô. Nguyễn Văn Mạnh).

    Khai Thế: THÂU.

    Tiếp Thế: VĨNH (những vị chức sắc chúng tôi không ghi họ, vì không thấy làm việc ở Tòa Thánh hiện nay).

    “THẦY khuyên các Con lấy vô tư mà hành Đạo.

    “THẦY lại cho các Con biết trước rằng hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt”.

    Bài Thánh ngôn trên đây, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã phân định quyền hạn và hiệu lực của chức sắc và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Có một điều quan tâm đến là:

    TẠI SAO GỌI HIỆP THIÊN ĐÀI?


    Hiệp Thiên Đài là Đài liên đới với Trời, tương quan trong việc truyền bá Đại Đạo, độ rỗi chúng sanh.

    CHÍ TÔN lập Hiệp Thiên Đài cốt yếu tiêu biểu thể pháp vô vi liên quan cơ hữu hình tại thế, mới có hiệu lực điều khiển việc phổ độ chúng sanh trong nền Đạo.

    Thể pháp vô vi: Pháp Chánh Truyền Đạo Cao Đài giải: Hiệp Thiên Đài đối với có hiệu lực như tinh thần của vạn loại.

    Về thể thức nền Đại Đạo, thì Hiệp Thiên Đài tượng trưng là HỒN.

    Cửu Trùng Đài tượng trưng là XÁC Đạo. Hồn điều khiển Xác, Xác mới thanh cao toàn vẹn. Trái lại, Xác điều khiển Hồn thì Hồn bị sa đọa. Do đó ta nhận thấy được hiệu lực yếu nhiệm của Hiệp Thiên Đài.

    Ngoài ta, Hiệp Thiên Đài còn là linh hồn Đạo cũng như linh hồn vạn loại chúng sinh trong Càn Khôn thế giái, trường tồn bất tiêu bất biệt. Cửu Trùng Đài là thể xác có tiêu tan song phần hồn vẫn trường tồn linh hoạt vậy.

    Khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lập Hiệp Thiên Đài thể hiện cơ vô vi mầu nhiệm chỗ Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế Giái, Thất Thập Nhị Địa Cầu và Thập Điện Diêm Cung mà cầu rỗi cho linh hồn chúng sanh được siêu thăng. Và Hiệp Thiên Đài còn là nơi Tòa ngự của Chí Tôn – Giáo Chủ Đạo Cao Đài – để điều khiển cơ phổ độ tam kỳ nầy.

    Các qui luật Thiên Điầu do Đài nầy truyền ra ban hành. Đó là đại cương hiệu lực vô vi của Hiệp Thiên Đài. Còn về hữu hình thì Hiệp Thiên Đài là cơ quan lập luật pháp Đạo.

    Hành sự cơ quan nầy là một nhóm chức sắc do cơ bút thiêng liêng tuyển phong và ban quyền hành tuyệt đối từ buổi khai đạo. Sự tuyển phong nầy căn cứ nguyên căn tiền kiếp mà định phẩm vị lớn nhỏ khác nhau.

    Mỗi vị chức sắc có quyền hạn quan trọng thi hành theo Tân luật Pháp Chánh Truyền ấn định; nền Đạo nghiêng ngữa hay thịnh hành đó là do nơi Hội Thánh Hiệp Thiên Đài cả. Vì quyền hành tuyệt đối quyết định trong mọi thể thức trong việc phổ độ, truyền bá giáo lý Đại Đạo đều do Hội Thánh Hiệp Thiên Đài ấn định. Bởi thế ma 2htha Hiệp Thiên Đài có một trách nhiệm đặc biệt trong nền Đạo Cao Đài về mặt hữu hình.

    Đến đây, chúng tôi xin lược thuật đại cương hiệu lực của các Đài quan trọng, điển hình cho Bạch Ngọc Kinh (cõi Thiên Đình) điều khiển nền Đạo Cao Đài tại thế.

    HÌNH THỨC ĐẠO CAO ĐÀI GỒM CÓ:


    - BÁT QUÁI ĐÀI do Thiêng Liêng điều khiển, trực tiếp rước các đẳng chơn hồn vào Bạch Ngọc Kinh phán xét tội căn, hoặc tâm đức tu hành mà định vị thiêng liêng. Ngoài ra, Bát Quái Đài còn gián tiếp điều khiển Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài trong việc phổ độ chúng sanh.

    - HIỆP THIÊN ĐÀI do một số Chức sắc đầy đủ công đức tu hành theo Cơ Bút Thiêng Liêng căn cứ tiền kiếp mà tuyển phong, dùng để cầm giềng mối Đạo thay Chí Tôn tại thế hay thay mặt Bát Quái Đài cũng vậy mà trực tiếp điều khiển Cửu Trùng Đài trong việc phổ độ chúng sanh.

    - CỬU TRÙNG ĐÀI do một số Chức sắc tu tập, làm công quả từ khi thọ giáo tức hàng tín đồ, sau thời gian đầy đủ công nghiệp, tâm đức vẹn toàn mới được Hội Thánh nhóm họp công nhận ân phong – Luật Công cử - hoặc cầu cơ do Thiêng Liêng chỉ định. Tùy theo công đức tu hành mà phẩm vị cao, thấp khác nhau, những chức sắc này mạng danh là “Hội Thánh Cửu Trùng Đài”. Hội Thánh nầy có nhiệm vụ truyền bá giáo lý Đại Đạo và phổ độ hoặc cầu rỗi cho chúgn sanh về phần hữu hình, tùng quyền Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, gọi là cơ quan hành pháp thực hiện sự truyền bá đạo đức trong dân gian.

    Đó là thể thức quan trọng của các Đài biểu hiện như thế, hẳn sự nhận thức ai cũng thấy hiệu lực của Hiệp Thiên Đài tại thế nầy.

    Lại nữa, về thể pháp luyện đạo, sự mầu nhiệm của Hiệp Thiên Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ nầy nhằm một trong ba yếu tố: Tinh, Khí, Thần của sự đắc đạo.

    - Cửu Trùng Đài – thể Đạo ví như TINH.

    - Hiệp Thiên Đài – ví như KHÍ.

    - Bát Quái Đài – ví như THẦN.

    Tinh, Khí, Thần là yếu nhiệm sự tu hành đắc đạo.

    Về sự phổ độ chúng sanh, Hiệp Thiên Đài còn có hiệu lực siêu diệt phàm trần.

    Thế hệ ngày nay, nhân loại văn minh cực điểm, khoa học đã phụng sự tiện nghi cho nhân loại mọi lãnh vực một cách nhanh chóng. Như khi muốn liên quan về những tin tức vấn đề gì, thì từ nước này đến nước kia cách nhau bằng vạn cây số chỉ dùng vô tuyến điện thoại liên lạc trong chốc lát.

    Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, muốn liên lạc sự gì về cõi vô hình hoặc hỏi vấn đề gì trong sự truyền giáo, Hội Thánh cgỉ nhờ Hiệp Thiên Đài vọng bàn cầu cơ trong chốc lát sẽ được các Đấng Thiêng Liêng chỉ dạy rành mạch với kết quả khả quan. Đó là sự mầu nhiệm của Đạo Cao Đài.

    Hiệp Thiên Đài, Pháp Chánh Truyền Đại Đạo chú giải còn gọi Cửu Trùng Đài là ĐỜI VÀ Hiệp Thiên Đài là ĐẠO mà nói rằng: Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền, nghĩa là ĐẠO và ĐỜI phải liên quan tương đắc nhau mới trọn cơ dìu dắt nhơn loại trên đường đạo đức thiện chơn.

    Trên đây, đại cương hiệu lực Hiệp Thiên Đài về thể thức hữu vi và vô vi.

    Ngoài ra, trong cơ phổ độ chúng sanh, Hiệp Thiên Đài còn có cơ quan Pháp Chánh liên lạc.

    Sự quan trọng của cơ quan nầy là kiểm soát về hạnh kiểm và hành vi của các chức sắc truyền đạo, mục đích kiện toàn mõi lãnh vực của người tu tập cho được Chân, Thiện hoàn toàn để thực hiện đạo đức cảm hóa lòng người hướng về đạo lý.

    Cơ quan nầy cũng như tòa án ngoài đời, có thẩm quyền can thiệp, nghị án trục xuất hoặc sửa chữa cảnh cáo những vị phạm pháp luật đạo.

    Nhưng từ ngày Bộ Pháp Chánh ngưng hoạt động, trong Đạo Cao Đài thuộc Tòa thánh Tây Ninh đã có xảy ra lắm điều không hay do những cá nhân lẩm lẫn làm tổn thương thanh danh Đạo.

    Trước kia, ở Tòa Thánh cũng như tới các địa phương, mỗi tỉnh đều có văn phòng Bộ Pháp Chánh để trực tiếp kiểm soát những hành vi phạm pháp luật Đạo. Hiện nay thì hoàn toàn không còn.

    Xuyên qua trọng điểm đại cương và tìm hiểu các thể thức hữu vi của Hiệp Thiên Đài, hẳn du khách thấy sự hệ trọng của cơ quan nầy trong sự phổ độ tam kỳ là thế nào.

    Vì thế, nên vừa đến cửa Hiệp Thiên Đài, du khách thấy liền hai câu đối khắc rõ rệt:
    “Hiệp Nhập Cao Đài Bá Tánh Thập Phương Qui Chánh Quả”
    “Thiên Khai Huỳnh Đạo Ngũ Chi Tam Giáo Hội Long Hoa”
    (Ý nghĩa hai câu đối nầy chúng tôi đã lược giải ở đoạn trước).

    Hai câu đối nầy thể hiện hiệu lực khả quan của Hiệp Thiên Đài trong nền Đạo. Ngoài ra, trên của còn có tạc hình bộ Cổ Pháp của Tam giáo: cuốn Xuân Thu, cây Phất Chủ, Bình Bát Du và một cái “Cân” tượng trưng sự công bình giữ gìn luật pháp Đại Đạo.

    Sau khi nhận thức ý nghĩa và hiệu lực Hiệp Thiên Đài, du khách sẽ ngạc nhiên với một nền Đạo có hệ thống tổ chức đặc biệt trong sự phổ độ chúng sanh. Những sự khác biệt nầy càng làm cho nền Đạo có vẻ tôn nghiêm và huyền bí.

    Am tường được ý nghĩa Hiệp Thiên Đài, du khách sẽ chạnh lòng với bao ý nghĩ xa xôi của nền Đạo.

    ... Đường nội ô Tòa Thánh, còn nhiều ngã chạy về nẻo dọc, ngang... Đưa mắt trông chờ du khách sẽ thấy mấy mái nhà san sát bên nhau hoặc lác đác trong những tàn cây rợp bóng.

    Đối diện Hiệp Thiên Đài, bên tả Bình Dương Đạo có những ngôi nhà lợp ngói. Hình thức kiến trúc cũng đồ sộ nhưng có vẻ cổ kính. Những ngôi nhà nầy dùng để chức sắc nữ phái ở và đặt văn phòng cơ quan Tương Trợ. Cơ quan này chuyên lo cung cấp những nhu cầu cần thiết về sự ăn uống hoặc chăm sóc các lễ, tiệc, tang, tế v.v... về sự nấu giúp thực phẩm hoặc trang trí những nghi thức hành lễ thuộc về nữ phái.

    Vì vậy bên trong ngôi nhà nầy không an bày những gì đặc biệt... những ngôi nhà phần nhiều ngăn thành từng phòng để chức sắc nữ phái nghỉ ngơi tụ tập thế thôi.


    Hộ Pháp Đường


    Từ những ngôi nhà nầy đi độ vài trăm thước... du khách sẽ thấy một biệt thư nguy nga...

    Ngôi nhà nầy hình thức kiến trúc: nóc bằng, dạng khối chữ nhựt. Nhưng phân làm hai tầng: dưới và trên là lầu...

    Đây là ngôi Hộ Pháp Đường, tức ngôi nhà của Hộ Pháp.

    http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...atTTTN-VII.htm

  18. #18
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    VIII- ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU - BÁO ÂN TỪ


    Nằm song song ngôi Hộ Pháp Đường là “BÁO ÂN TỪ” hay Điện thờ Phật Mẫu.

    Đây là một ngôi nhà to lớn, hình thức kiến trúc bao hàm cả những ý nghĩa mầu nhiệm liên đới sự hữu hình và vô vi Trời Đất.



    “Báo Ân Từ”
    cũng là “Đền thờ Phật Mẫu” tạm

    Những bí ẩn huyền diệu ấy chúng tôi lần lượt trình bày rõ rệt như sau, để đọc giả nhận thức quan điểm đại cương nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ...

    ... Trước quang cảnh nên thơ... du khách chần chờ lê bước...

    Qua khỏi cột Phướng cao vòi vọi... mặt tiền, du khách sẽ thấy lòng rực rỡ niềm hân hoan trước ngôi Báo Ân Từ phản chiếu muôn màu.

    Đây là một tòa nhà nguy nga, đồ sộ, thể thức kiến trúc dạng khối chữ nhật, phân ra hai tầng: dưới và trên lầu. Trước cửa vào du khách nhìn lên thấy liền một đài gọi là Bạch Ngọc Chung Đài cao vun vút, tức là đài chuông như ở ngôi Tòa Thánh mà chúng tôi đã lược giải qua.

    Có lẽ, ba chữ Báo Ân Từ hay Điện thờ Phật Mẫu, danh từ thể hiện sự khác biệt địa hạt văn chương. Thế nên chúng tôi xin lược giải để đọc giả am hiểu trước khi nhận thức nội dung đền thờ.

    BÁO ÂN TỪ


    - Báo: là đáp lại, đền ơn,, trả nghĩa v.v...

    - Ân: ơn huệ ban cho mình; công ơn đã thọ v.v...

    - Từ: đây có nghĩa “Từ Đường”.

    Nên báo Ân Từ còn là nơi thờ phượng những bậc đại ân, để tỏ lòng hiếu nghĩa những bậc đại ân ấy là những chức sắc lớn có công vĩ đại đối với nền Đạo, như: Đầu Sư Thái Thơ Thanh... Sự tôn thờ nầy còn là biểu thị niềm kính cẩn công ơn những bậc trên, bởi dày công khai mở nền Đại Đạo... (Chúng tôi được am hiểu, vị trí kiến trúc Điện thờ Phật Mẫu Hội Thánh đã chọn nơi khác... Nơi đây chỉ tạm buổi ban đầu thôi. Nhưng hiện nay có lẽ chưa đủ điều kiện nên Hội Thánh chưa thực hiện...)

    ĐỀN THỜ PHẬT MẪU


    Nghĩa là nơi thờ Đức Phật, mẹ sanh cả nhơn loại và vạn vật.

    Vì mỗi vật hữu sanh nơi thế gian nầy đều do cơ Tạo Đoan hóa dục sanh thành. Cơ Tạo Đoan này do sự hợp tác và điều khiển của Đức Phật Mẫu.

    Trên cõi Thiên Đình, thể theo kinh sách, thì tầng Trời thứ chín gọi là “Tạo Hóa Huyền Thiên”, có vị cầm quyền điều khiển cơ Tạo Đoan là “Thiên Hậu”, gọi là “Phật Mẫu Diêu Trì”.

    Người Á đông thường gọi Phật Mẫu là mẹ sanh và tạc tượng để thờ.

    Phật Mẫu lấy “Khí sanh Quang” (fluide de vitalité) mà nuôi dưỡng từ linh hồn đến thể xác của nhơn loại và chúng sanh.

    Thế nên, mỗi vật sanh trưởng cõi phàm nầy đều thọ công ơn của Đức Phật Mẫu Diêu Trì.

    Nay lập Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Phật Mẫu lại cùng Cửu vị Nữ Phật nắm cơ huyền vi độ rỗi các đẳng chơn hồn chúng sanh Càn Khôn Vũ Trụ.

    Vì vậy, lập Điện thờ để chư thiện nam tín nữ tưởng niệm ơn cao đức dày của Phật Mẫu; đồng thời làm tiêu chuẩn cho thế nhân mục kích nguồn cội sanh hóa linh hồn mình mà hướng về đạo đức, sinh hoạt thiện lương cho linh hồn khỏi bị đọa trầm khổ ải...

    Khi nhận thức được ý nghĩa mục đích kiến tạo Điện thờ Phật Mẫu... du khách sẽ lần lượt đi vào nội dung kiến trúc bao trùm những bí ẩn huyền vi liên đới sự phổ độ chúng sanh trong tam kỳ thực hiện nầy...

    Bước vào của Điện thờ du khách thấy muôn vànthể thức nên thơ, sắc màu chói chang trước mắt...

    Đưa mắt nhìn lên bao lơn môi giới giữa lầu và tầng dưới du khách thấy tạc những hình các vị trong Nhị Thập Tứ Hiếu. Thể thức ấy có ý nghĩa tượng trưng sự hiếu thảo là căn bản đạo đức.

    Nay khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cũng lấy sự hiếu thảo làm mục đích để thực hiện đạo lý...

    Hơn nữa, nơi thờ phượng Đấng sanh thành nhơn loại, chúng sanh nên tượng trưng sự hiếu thảo để tiêu biểu căn bản phát huy đạo lý và thể hiện nghĩa cao quí của nhơn loại cho nhân thế soi chung.

    Vào trong Điện thờ, du khách thấy phân làm ba căn rõ rệt: căn giữa rộng hơn hai bên... Các lồng căn cũng thể hiện ý nghĩa huyền vi cõi vô hình.

    Lần lượt quan sát, du khách thấy cả thảy có tám lồng căn. Thể thức ấy tượng trưng “Bát Cảnh Cung” của Phật Mẫu.

    Mỗi lồng căn nhìn lên đều có một khung sơn màu xanh, phác họa hình rồng và ngôi sao như một bức tranh sơn thủy...

    Trên hai hàng cột song song để phân lồng căn giữa, có những tấm bản nhỏ hình quả tim, sơn nền vàng. Mỗi khi lễ, cúng, tế nơi những tấm bản cây nầy thường có cắm những cây cờ màu vàng tượng trưng phái Phật, bởi ý nghĩa câu: “Phái vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ...”.

    Lần lượt vào trong Bửu Điện, du khách sẽ thấy bàn ngoài thờ tượng Phật Thích Ca, và bàn trong là Bửu Điện thờ cốt tượng Phật Mẫu và Cửu vị Nữ Phật cỡi chim loan. Hình ảnh tạc trên bức tranh có cảnh núi non vô cùng linh động... Du khách mơ màng đứng ngắm... Mùi hương trầm thoang thoảng thơm tho làm say sưa khách tục...

    TẠI SAO PHẬT MẪU VÀ CỬU VỊ NỮ PHẬT
    CỠI CHIM LOAN

    Thể theo sự tích ngày xưa, vua Vũ Đế bên Trung Hoa muốn tu hành học đạo nhưng ước ao thấy được Tiên Phật mới chịu gắng chí.

    Vì vậy, mà nhà vua ngày đêm khẩn cầu Trời Phật cho được thấy sự huyền diệu... Phật Mẫu cảm ứng lòng thành, mới cùng Cửu vị Nữ Phật và bốn vị Nhạc Kỷ cỡi chim loan xuống núi độ vua Vũ.

    Vũ Đế thấy Tiên xuất hiện, hào quang chói lòa mới dâng hoa quả tỏ lòng thành kính... Vì thế, nên tượng thờ Phật Mẫu phác họa theo sự tích ấy, mục đích tiêu biểu lòng bác ái của Phật Mẫu đối với những ai thành tâm cầu nguyện.

    Khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Phật Mẫu cùng Cửu vị Nữ Phật cũng xuống trần độ người, nếu nhơn sanh biết thành tâm khẩn nguyện và nương theo đường đạo đức.


    Bửu Điện thờ Phật Mẫu

    QUYỀN LỰC PHẬT MẪU VÀ CỬU VỊ NỮ PHẬT


    Phật Mẫu là Mẹ sanh toàn cả nhơn loại, chưởng quản Tạo Hóa Huyền Thiên. Ai sanh trưởng tại thế gian nầy đều phải nhờ Phật Mẫu định vị sang giàu hoặc cho nhằm cảnh khổ để học khôn cho linh hồn tiến hóa đến ngôi vị Phật. Tất cả vạn vật, nhơn sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ nầy đều thọ ân dưỡng dục về phần hồn của Phật Mẫu... Có sách gọi Phật Mẫu là Kim Mẫu, ấy là gọi tắt. Nguồn cội chữ Kim Mẫu do chữ Kim Bàn Phật Mẫu. Bởi vậy, nên cõi trần Phật Mẫu là Mẹ sanh cả nhơn loại mà nơi Hư Linh Phật Mẫu là Mẹ của cả Thần, Thánh,Tiên, Phật.

    Quyền hạn của Nhứt Nương Nữ Phật:

    - Nơi cõi Tây Phương Cực Lạc có vườn Ngạn Uyển, Nhứt Nương Nữ Phật chưởng quản. Ngài hằng xem sóc các đóa hoa trong vườn mà biết được số kiếp nhơn sanh. Trong vườn Ngạn Uyển có bao nhiêu đóa hoa là bao nhiêu linh hồn người tại thế. Nếu hoa nào xinh tốt, thì linh hồn ấy còn sinh tồn tại thế; hoa nào tàn héo thì linh hồn tại thế sắp qui hồi cựu vị để được phán xét tội căn siêu đọa tùy người lành, dữ...

    Nhị Nương Nữ Phật:

    - Cõi Thượng Giới: tầng Trời thứ hai là nơi Nhị Nương chưởng quản, trực tiếp rước các đẳng chơn hồn người qui vị.

    Tại thế gian nầy, lúc mãn kiếp sinh, linh hồn người phải trở về cõi Hư Linh Thượng Giới. Khi đến tầng Trời thứ hai được Nhị Nương tiếp rước đãi tiệc trường sanh (tiệc Bàn Đào) và đưa linh hồn đến Ngân Kiều vào triều Kim Quang mà yết kiến Ngọc Hư Cung, tức là nơi Thiên Triều phán đoán tội phước chúng sanh...

    Tam Nương Nữ Phật:

    - Kinh sách gọi cảnh đời nầy là bể khổ hay bến trầm luân. Thời gian tượng trưng như dòng nước luân hồi đưa nhân loại bồng bềnh trên cõi tục... Trên mặt sóng thời gian ấy có con thuyền vô hình lênh đênh để chực đưa linh hồn người về cõi Thượng Giới. Con thuyền ấy gọi là “Thuyền Bát Nhã”.

    Chưởng quản cơ huyền vi điều khiển việc rước linh hồn khách tục nầy là Tam Nương Nữ Phật. (Trong tượng hình thờ chung Phật Mẫu Bà cầm Long Tu Phiến).

    Tứ Nương Nữ Phật:

    - Về việc mở kiến thức khiếu linh quang nhân thế trên phương diện học thức và nâng đỡ các linh hồn thêm linh hoạt, linh hiển để học hỏi tại cõi thế nầy hay cõi vô hình đều do Tứ Nương. Vì vậy, nên tượng thờ chung với Phật Mẫu Bà cầm cây Kim Bản... và khi giáng cơ có câu kinh như vầy:

    “Vàng treo nhà, ít học không ưa”.

    Ngũ Nương Nữ Phật:

    - Cõi vô hình có đường về Bạch Ngọc Kinh, Đạo Cao Đài gọi là con đường Thiêng Liêng hằng sống. Nơi đây có xe như ý của Đức Lão Quân (Lão Tử) tiễn đưa các đẳng chơn hồn đầy đủ công đức tu hành đến cõi Xích Tiên để khai Kinh Vô Tự phán đoán quả căn của các chơn linh đắc đạo.

    Dùng huyền diệu Thiêng Liêng điều khiển việc nầy là Ngũ Nương. Bà có giáng cơ cho câu kinh như vầy:

    “Dựa xe Như Ý oai thần tiễn thăng”.

    Lục Nương Nữ Phật:

    - Những linh hồn khi thoát xác phải nương nhờ Phướng Chiêu Diêu (phướng chiêu hồn) mà đến cõi Kim Thiên để vào Đài Huệ Hương tẩy trược linh thể, linh thể mới được lắng nghe tiếng Thiên Thiều mà về cõi Tây Phương Cực Lạc.

    Những sự mầu nhiệm nầy do Lục Nương Nữ Phật điều khiển.

    Thất Nương Nữ Phật:

    - Lập Tam Kỳ Phổ Độ, Thất Nương lãnh trách vụ cõi Thiên Điều đến Âm Quang độ các linh hồn tội lỗi, biết giác ngộ và chỉ chỗ đầu kiếp đặng theo Đạo lần về cựu vị (nhứt là nữ phái). Bởi vậy, tượng thờ chung Phật Mẫu tạc hình Bà cầm Bông Sen khêu đuốc Đạo, trong kinh có câu:

    “Thất Nương khêu đuốc đạo mầu...”.

    Có một bài thơ Thiêng Liêng giảng dạy quyền hạn Thất Nương và nói rằng: “Những chơn hồn nào sanh trong Tam Kỳ Phổ Độ (nghĩa là trong vòng từ ngày Đạo Cao Đài khai mở trở lại đây) thì tiến hóa và thông minh hơn trước nhiều”.

    Điều đó hiện nay chứng tỏ rằng những trẻ em có sự thông minh khác lạ.

    Bát Nương Nữ Phật:

    - Điều khiển cơ huyền vi giáo hóa những linh hồn mê muội trong cõi trần vật chất và độ rỗi các chơn linh tại thế, đồng thời trực tiếp đưa các đẳng chơn hồn vào cõi Phi Tưởng Thiên mà hóa vị, tùy công đức tu hành...

    Cửu Nương Nữ Phật:

    - Cơ huyền vi xây chuyển, thể hữu hình biến dạng, từng địa hạt văn chương, thi phú, cầm kỳ, bá nghệ mỹ thuật siêu việt, triết học uyên thâm đều nhờ sự điều khiển khêu đuốc linh quang (theo Thánh Giáo) cho thế nhân vậy.

    Tóm lại, thờ phượng Phật Mẫu cùng Cửu vị Nữ Phật tượng trưng thể thức tiêu biểu quyền lực điều khiển cơ huyền vi cõi vô hình liên đới việc phổ độ kỳ ba nầy, để nhân loại mục kích mà quan tâm đến kiếp người hiện tại...

    Thế cuộc thăng trầm... Thời gian thấp thoáng... Cơ huyền vi linh hoạt xoay vần... để chuyển đời cải thế... Xem qua thể thức tiêu biểu sự mầu nhiệm thiêng liêng ... có thể làm du khách chạnh lòng nghĩ ngợi thân người trong cõi thế...

    Nơi Bửu Điện thờ nầy, ngoài hình Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và hình vua Vũ Đế dâng hoa quả còn tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm (Cao Quỳnh Cư) ngồi cầm Long Tu Phiến.

    Thể thức ấy bao hàm bí ẩn phép nhiệm mầu, chuyển thần lực Long Tu Phiến mà đưa các linh hồn vào cõi vô hình.

    Những linh hồn nào mãn kiếp sanh do thiên định và tu hành công nghiệp tâm đức đầy đủ thì được Đức Cao Thượng Phẩm chuyển thần lực Long Tu Phiến đưa vào cõi thiêng liêng hằng sống; trái lại những linh hồn thiếu công đức tu hành, hoặc liều mình tự tận, thì Đức Cao Thượng Phẩm chuyển thần lực Long Tu Phiến đua linh hồn ấy vào cõi địa ngục.

    Tóm lại, tượng hình Thượng Phẩm thờ mục đích tiêu biểu của Tam Kỳ Phổ Độ, đồng thời để thế nhân mục kích mà thực hiện sự tu thân hướng thiện, để linh hồn khỏi bị sa đọa vào địa ngục a tỳ.

    Hình ảnh thể thức phượng thờ nơi Bửu Điện còn linh hoạt nhấp nhóa một màu loang loáng trước mắt thể hiện bao niềm huyền bí vô vi,làm du khách bâng khuâng chạnh nghĩ kiếp người lắm nỗi!!!.

    Đang miên man... Tâm hồn chập chờn bao hình ảnh vô vi, thoảng chuông chùa đánh lên vang tiếng... khiến khách tục vời vợi trong lòng...

    Nhìn qua phía hữu Bửu Điện, du khách thấy một bàn thờ có hình một vị chức sắc áo mão nghiêm trang... Đó là bức tượng ảnh của Đầu Sư Thái Thơ Thanh trầm tư trong khuôn kính.

    Nơi đây, dừng chơn đôi phút, du khách sẽ nghe réo rắc tiếng rút ống xin xâm để cầu xin được biết vận mệnh của vài người khách lạ...

    Rồi dời chơn tiếp tục đi xem... qua khỏi Bửu điện thờ Phật Mẫu có một tấm vách tường chắn lối phân đôi, phía sau tức là Hậu điện. Nghĩa là nơi dùng để thết đãi tiệc nước cho khách tha phương đến viếng Đền thờ... Ngoài ra, nơi đây còn đặc điểm vị trí để tổ chức lễ cưới, gã của những chức việc hay hàng tín đồ đã hiến thân trọn đời cho đạo., vì trường hợp xa gia đình, nên mới tạm mượn nơi đây làm lễ đãi tiệc.

    Sau bữa tiệc, đôi tân hôn về tư gia.

    Rời khỏi Hậu điện thờ Phật Mẫu, du khách sẽ thấy ngay bên cạnh có những ngôi nhà dọc, ngang đồ sộ...

    Nơi đây, là vị trí đặc biệt để tu sĩ Nữ phái: đồng nhi, giáo nhi ở. Những người nầy chỉ có phận sự đọc kinh khi cúng tế.

    Đồng nhi, ấy là trẻ em từ 8 tuổi đến 14 tuổi. Còn lớn hơn nhiều vị đã lên chức Giáo nhi. Nghĩa là cao hơn Đồng nhi một phẩm, có quyền dạy dỗ đồng nhi tập dượt kinh kệ thuần thuộc...

    Luật lệ Hội Thánh ấn định, từ Đồng nhi lên chức Giáo nhi phải trải qua cuộc thi đọc kinh. Ai đọc trúng giọng và trúng theo nhịp đờn thì được chấm đậu giáo nhi...

    Phẩm Giáo nhi nầy, nếu hành tròn phận sự năm năm được dự sổ cầu phong Lễ sanh nữ phái. Ấy là một phẩm tước cũng hết sức quan trọng trong nền Đạo Cao Đài.

    Vì vậy, những cuộc thi tuyển Giáo nhi do Hội Thánh tổ chức, muốn được đỗ họ phải học kinh rất nhiều, luyện giọng đọc thật đúng và còn phải có đức hạnh thì mới có đôi chút hy vọng thi đỗ (cấp bằng nầy khó tương đương bằng tiểu học ngoài đời, về phương diện vô vi nó lại có phần giá trị hơn).

    Luật lệ Giáo nhi rất nghiêm khắc. Những người vào hàng phẩm tức là được Hội Thánh công nhận Giáo nhi chính thức mà lập gia đình hoặc không giữ được tiết trinh thì bị loại...

    Dù đường tu lắm nỗi khó khăn... nhưng vẫn có người quyết chí tu hành.

    Hằng năm, sau cuộc thi lệ trong vòng tháng 8 thượng tuần... Thời gian mà nắng vàng man mác khắp nơi... thu về lắng gió hiu buồn... Những vị dự thi nếu chẳng may... định mệnh hững hờ... cũng là nỗi buồn đáng kể của họ...

    Còn những vị thi đậu, có lẽ không gì vui bằng... nên những đêm về, cảnh vật âm thầm lặng lẽ... Nếu tình cờ bước bên đường... có khi nghe tiếng cười mãn nguyện... hay giọng thơ ngâm đầy lạc thú, vang lại vu vơ...

    Mừng nay đường Đạo được trời ban,
    Trần khổ từ đây bớt đoạn tràng!...
    Kinh kệ phôi pha niềm tục lụy;
    Mỏ chuông chạnh tỉnh giấc mơ màng!
    Cảnh chiều thế hệ chênh chênh bóng;
    Cõi mộng vang sầu lúc “nhặt, khoan”...
    Bể thảm... trầm luân cơn sóng dậy:
    Ngùi trông đời lại khổ miên man!
    Tìm hiểu giây phút vui buồn trong cửa Đạo... du khách sẽ chạnh lòng nghĩ ngợi vu vơ trường đời vạn khổ...

    Dư ảnh điển hình thế cuộc còn phảng phất tâm hồn người... Đi vội vài chục bước, du khách sẽ thấy bên lộ Bình Dương đối diện Điện thờ Phật Mẫu có một thửa vườn khá rộng đầy đủ trăm hoa sắc màu tươi thắm. Đó là Bá Huê Viên – vườn đủ trăm hoa – để du khách thưởng ngoạn... Và đây cũng là nơi tiêu khiển của những tu sĩ sau giờ làm việc.

    Bước vào vườn hoa, thấy xây hình một vòng tròn có tám liếp liên tiếp nhau như hình rẽ quạt.

    Đó là thể thức tượng trưng Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng (trong vòng tròn), Tứ Tượng biến Bát Quái (tám liếp hình rẽ quạt) trong cơ huyền vi mầu nhiệm hóa dục sanh thành vạn loại...

    Trong tám liếp như tám cánh rẽ quạt có trồng các thứ hoa thơm kiểng lạ.

    Lê bước chầm chậm, du khách sẽ thấy lòng đê mê với màu sắc chập chờn và say sưa hương vị ngạt ngào...

    Quan sát kỹ, du khách sẽ thấy từng chậu kiểng uốn hình một cách khác. Có chậu uốn hình voi, hình hạt cỡi qui, hình cá hóa rồng v.v... hoặc theo các sự tích xưa... Mỗi mỗi đều thể hiện nghệ thuật tuyệt xảo tạo thành linh động...

    ... Nắng trời man mác... Vườn hoa loang loáng ánh... từng đợt gió nhẹ đưa qua xôn xao nhành lá... Tâm hồn du khách sẽ rung cảm miên man theo muôn vàn màu sắc...

    ... Đây cuối vườn, một bồn sen xây hình bát giác... Từ bồn sen hướng ra cửa, du khách thấy một căn nhà nóc tròn để du khách nghỉ mát...

    Trong căn nhà nầy có xây một hòn non bằng bọt biển (bông đá) điêu khắc những hình ảnh như nhành cây trong bức sơn thủy hoặc vài hình ảnh mường tượng những pho tượng tuyệt vời...

    Rời khỏi căn nhà nầy, rẽ các lối hoa, đi vài chục thước, du khách sẽ thấy một cảnh tượng núi non chớn chở, tạc hình tứ linh: Long, Lân, Qui, Phụng và các vị Thần...

    Đây là một quả núi nhỏ xây bằng những tảng đá chông chênh tạc họa những hình ảnh vô cùng linh động... Xem qua du khách thấy như một bức tranh hình tượng lờ mờ...

    Dưới chưn núi nầy có trồng những cây tòng buông rũ lơ thơ. Bên cạnh là một hồ sen xây hình bát giác.

    Đến đây, những gì đặc biệt của Bá Huê Viên du khách được xem tường tận... Từng luống hoa chạy dài mút mắt với một khung vườn bát ngát sắc màu... đã tàng ẩn bao niềm rung cảm thế nhân. Du khách sẽ bàng hoàng khi trở bước.

    Từ Bá Huê Viên đi vài trăm thước, bên hữu đường Bình Dương Đạo có một ngôi nhà đồ sộ cao cao vòi vọi, nằm phơi bóng trong một khung rào chênh vênh bốn vách... Đó là Nhà Hội Vạn Linh.

    Ngôi nhà nầy kiến trúc dạng khối chữ nhật nhưng chia làm ba nóc và phân làm hai tầng, dưới và trên là lầu...

    Đây là ngôi nhà có thể nói lớn nhứt trong phạm vi Tòa Thánh, với một thể thức đáng kể bề ngang 40 thước, bề dài độ gần 200 thước... Bên trong tầng dưới cũng như trên lầu có chia ra nhiều phòng. Đó là đại cương sự phân biệt. Ngoài ra còn những chỗ làm việc nữa.





    Nhà Hội Vạn Linh
    Trước kia là Nhà Hội Thánh Ngoại giáo

    Ngôi nhà nầy, sự trang trí không gì đặc biệt. Mỗi phòng đều có đặt một cái tủ, cái giường và bàn làm việc... dùng để khách nghỉ ngơi...

    Nguyên ngôi nhà nầy trước kia mạng danh là “Nhà Hội Thánh Ngoại giáo”, nghĩa là cơ quan trung ương truyền giáo ngoại quốc.

    Nhưng từ ngày tạo tác tu bổ thêm trở lại, gọi là “Nhà Hội Vạn Linh”.

    Danh từ nầy cũng thể hiện đại cương. Sự khả quan nền Đạo Cao Đài và đúng nghĩa với quan điểm Đại Đạo.

    Một sự hoạch định của Hội Thánh theo mục đích Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ biểu hiện bằng thể thức thành lập các cơ quan để thực hiện việc phổ độ chúng sanh...

    Tuy Đạo Cao Đài hiện nay, thế giới chưa biết hoàn toàn!... Nhưng trong việc phổ độ chúng sanh cũng thực hành đúng tôn chỉ Đại Đạo.

    Mục đích Đạo Cao Đài là phổ độ khắp cả chúng sanh xây dựng trên cương lĩnh đại đồng đạo đức không phân biệt tôn giáo, chủng tộc hay màu da sắc tóc...

    Vì vậy thế hệ ngày mai, Đạo Cao Đài phải có Hội Vạn Linh cũng như hiện giờ tại Tòa Thánh Tây Ninh mỗi năm có Hội Nhơn Sanh. Mục đích hoạt động của Hội Nhơn Sanh cũng như của Hội Vạn Linh, nghĩa là một cuộc hội họp dự thảo, nghiên cứu hay quyết định phương thức phổ độ chúng sanh... Cuộc hội nầy gồm đủ các giới nhơn sanh trên các nước dự... Ai cũng có quyền phát biểu ý kiến hoặc đưa đề nghị các vấn đề phổ độ chúng sanh của nền Đại Đạo.

    Bởi mục đích Đạo Cao Đài ở hạ thừa là thực hiện phục vụ sinh tồn nhân loại một cảnh sống thương yêu, hòa thuận, hạnh phúc tại thế gian... Vì vậy, mỗi thể thức hoạch định đều nhằm vào sự phục vụ sinh tồn nhân loại, nên liên đới ý thức sanh hoạt từng lớp người.

    Vì thế phải căn cứ nguyện vọng nhân sinh mọi giới mà tìm phương thức thích ứng để phổ độ. Hiện nay, hằng năm Hội Thánh có cuộc Hội Nhơn Sanh để nghiên cứu thêm phương thức truyền giáo hay ấn định sự tu hành cho thích hợp trào lưu tiến hóa nhân loại...

    Vì vậy, nên Hội Thánh mới lập nên Nhà Hội Vạn Linh để làm cơ quan hội họp nhơn sanh trên thế giới ngày mai...

    Có bài Thánh giáo giảng nghĩa cơ phổ độ chúng sanh về huyền vi còn phải: “Vạn Linh hiệp Chí Linh mới hoàn toàn có hiệu lực vận chuyển sự hữu hình, vô vi”, nghĩa là độ rỗi về phần xác và hồn sanh chúng...

    Như vậy, Vạn Linh còn thể hiện sự định vị giá trị việc phổ độ chúng sanh... Cũng như danh từ Phật Thích Ca gọi là THẾ TÔN, tức Vạn Linh tôn kính tại thế nầy...

    Am hiểu đại cương quan điểm thực hiện của Đạo CAO ĐÀI, hẳn ai cũng thấy thể hiện sự công bình Thiêng Liêng đã định, đúng nghĩa với giá trị danh từ: Thiên thượng – Thiên hạ...

    Tân Luật Pháp Chánh Truyền Đạo CAO ĐÀI ấn định: Đại cương sự cầu phong, cầu thăng chức sắc có thể thức công cử bằng luật thăm phiếu. Cả chức sắc đại diện nhơn sanh họp nhau bỏ phiếu. Thí dụ: - Luật công cử chức sắc Cửu Trùng Đài ấn định phẩm Đầu Sư lên Chưởng Pháp.

    - “Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì nhờ ba vị công cử nhau”. Pháp Chánh Truyền chú giải rằng: “Ba vị Đầu Sư muốn lên Chưởng Pháp thì cả ba người phải có mặt nơi Tòa Thánh mà công cử nhau trước mặt Hội Thánh CỬU TRÙNG ĐÀI và HIỆP THIÊN ĐÀI chứng kiến” (Trích Tân Luật Pháp Chánh Truyền, trang 78). Như vậy, chức sắc hàng Giáo Sư truyền Đạo Cao Đài cũng phải có Quyền Vạn Linh công nhận... Ngoại trừ, khi Đức Chí Tôn hay Đức Lý Đại Tiên Giáo Tông vô vi giáng cơ phong thưởng riêng,cá nhân mới khỏi luật lệ ấy.

    Quan điểm nầy thể hiện quyền tự chủ của nhơn loại trên cương vị nhân sinh nhận thức và xác định giá trị. Như vậy, rồi họp nhau đệ trình cầu Thiêng Liêng giáng cơ định lần nữa, và giá trị của Chức sắc Đạo Cao Đài phải hết sức quan trọng... mới có thể bảo vệ được sự trường tồn, nền Đạo khỏi phải bị tư vị và tự lập...

    Tóm lại, lập Nhà Hội Vạn Linh mục đích thực hiện cơ phổ độ chúng sanh bằng những phương thức biểu hiện sự tương quan giữa TRỜI và NGƯỜI – Vô Vi và Hữu Hình – mới có thể bảo vệ sự trường tồn nền Đạo và thực hiện được sựt ấn bộ của loài người là quyền sở hữu của nhơn loại vậy...

    Đưa mắt nhìn bâng quơ, du khách sẽ thấy một ngôi nhà nằm song song bên kia đường Nhà Hội Vạn Linh. Đó là cơ quan Y viện của Hội Thánh trong phạm vi điều khiển của phái Thượng mà chúng tôi đã lược giải trong đoạn đầu... Nơi đây, cũng có phòng khám bệnh và chỗ dưỡng bệnh, hằng ngày thường trực có các Đông Tây Y sĩ lo trị bịnh những tu sĩ hoặc tế độ đồng bào cơn bệnh hoạn...

    Nhận thức và am hiểu thêm những cơ quan trong phạm vi Tòa Thánh, du khách thấy thể hiện một sự khả quan phương châm phục vụ nhân sinh của Đạo Cao Đài xây dựng trên cương lĩnh thực hiện vấn đề tương quan nhau giữa người và con người lúc sinh trưởng trên cõi thế. Nếu xã hội mọi người biết trách vụ liên đới nhau, tương quan nhau trên quan điểm đệ huynh trong tình cốt nhục sinh thành bởi Đấng Tạo Hóa mà thực hành sự thương yêu nhau, tương trợ lẫn nhau, cứu giúp lẫn nhau khi hoạn nạn thì xã hội sẽ được kiện toàn mọi phương diện trong sự phục vụ hạnh phúc nhơn loại...

    Đó là một quan điểm, đường lối, mục đích phục vụ sinh tồn nhơn loại trên cương lĩnh đạo đức thể hiện một sự khả quan của nền Đạo Cao Đài...


    Nguồn:
    Code:
    http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/LuocThuatToaThanhTN/luocthuatTTTN-VIII.htm

  19. #19
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    X – CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN

    Từ Nhà Hội Vạn Linh, đi chừng 300 thước, thì đến cơ quan Phước Thiện nằm bên lộ Cao Thượng Phẩm.

    Đây là cơ quan của Hội Thánh thành lập để thực hiện sự phổ độ chúng sanh trên phương diện tế trợ kẻ nghèo khó, bệnh tật, trẻ con mồ côi và tương trợ mọi phương diện xã hội khi hữu cần...

    Sự đặc biệt của cơ quan nầy, mặc dù thực hiện sự tương trợ cứu giúp đồng bào và các tu sĩ khi bịnh hoạn, tật nguyền, già yếu, nhưng cũng có hệ thống tổ chức căn bản đẳng cấp chức sắc phân minh như Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài.

    Điều thứ 10 Tân Luật Pháp Chánh Truyền Đạo Cao Đài ấn định: “Gầy dựng cơ thể Phước Thiện các nơi và những địa phương là đặng châu cấp cho những kẻ tật nguyền, cô độc”.

    Và kỷ luật thập nhị đẳng cấp Thiêng Liêng của các chức sắc Phước Thiện y như dưới đây:

    1) Minh Đức; 2) Tân Dân; 3) Thính Thiện;

    4) Hành Thiện; 5) Giáo Thiện; 6) Chí Thiện;

    7) Đạo Nhơn; 8) Chơn Nhơn; 9) Hiền Nhơn;

    10) Thánh Nhơn; 11) Tiên Tử; 12) Phật Tử.

    Tùy theo phẩm trật chức sắc mà hành sự thực hiện mục đích đặc biệt tương trợ đồng bào, cứu khốn phò nguy của cơ quan Phước Thiện. Tại cơ quan nầy là trung tâm điểm tổng hợp các hệ thống thực hiện khắp địa phương...

    Cũng như cơ quan truyền giáo của Hội Thánh Cửu Trùng Đài có đặt hệ thống tại các địa phương chuyên lo việc phổ độ nhơn sanh, hướng dẫn con đường thiện lương đạo đức, cơ quan Phước Thiện có đặt các cơ sở khắp địa phương mục đích khuếch trương kỹ nghệ, làm thương mãi hay lo tạo tác thêm cơ quan truyền giáo giúp Hội Thánh Cửu Trùng Đài.

    Vì thế, tại các tỉnh có một vị Đầu Họ đạo phẩm Chí Thiện, đối chức sắc Cửu Trùng Đài là Giáo Hữu địa vị Khâm Châu Đạo vậy. Dưới quyền vị nầy có những chức sắc nhỏ hợp tác chặt chẽ nhau trên quan điểm thực hiện mục đích của Phước Thiện.

    Tại cơ quan trung ương nầy, Phước Thiện cũng có thành lập các văn phòng làm việc và hợp tác cùng Hội Thánh Cửu Trùng Đài lo việc quan, hôn, tang, tế hay tổ chức mọi nơi trong Tòa Thánh mỗi khi có đại lễ v.v...


    Cơ quan Phước Thiện

    Đối với cơ quan Phước Thiện là Cô Nhi Viện, tức Viện chăm nuôi trẻ em mồ côi. Viện nầy được tổ chức chăm sóc trong một ngôi nhà đồ sộ có đầy đủ các phòng cho trẻ em và tỉ số ấu nhi độ hơn 40 em. Bước vào đây, du khách sẽ thấy hơn 40 mái đầu xanh thơ dại... sống bên nhau trong một ngôi nhà to lớn nhờ sự chăm sóc với tấm lòng đạo đức... của vài bà mẹ hiền.

    Nhiều đứa trẻ sơ sinh còn đỏ hỏm thế mà vẫn bị đấng sanh thành bỏ, để viện nầy thừa nhận chăm nuôi!... Ôi! Từng tiếng khóc the thé, từng tiếng cười gượng gạo... biểu hiện trên gương mặt của các em bé sẽ làm du khách ngậm ngùi xúc cảm... nghĩ đến tiền định kiếp người trên cõi thế...

    Đi khỏi viện nầy chừng 100 thước, du khách sẽ đến nhà Dưỡng Lão Đường. Dừng chơn đứng ngắm, du khách sẽ thấy đây là một ngôi nhà cũng khá rộng lớn, bên trong phân làm nhiều phòng ngăn nắp để những người già yếu ở... hằng ngày, Hội Thánh phái những người làm công quả đến chăm sóc...

    Vào đây xem, du khách sẽ thấy cảnh tượng lão, khổ thể hiện một niềm khích lệ thâm tâm...

    Dời chơn, cất bước, du khách sẽ thấy cõi lòng buồn miên man lắm nỗi...

    Từ cửa Dưỡng Lão Đường, trông về bên hữu, du khách cũng thấy ngôi nhà to lớn... Đây là Nhà Nữ phái Phước Thiện. Ngôi nhà nầy là cơ quan trung ương của chức sắc Nữ phái Phước Thiện làm việc...

    Đạo Cao Đài cũng có cả chức sắc Nữ phái và Nam phái đồng quyền hạn nhau và hành sự như nhau... Trừ ra chức sắc Cửu Trùng Đài, thì nữ phái Giáo Tông và Chưởng Pháp không có. Và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, hàng phẩm Thập nhị thời quân cùng Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, thì phái nữ cũng không có. Đây là bí pháp cơ âm dương tương hiệp và huyền bí của Đạo Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ...

    Tìm hiểu đại cương căn bản chức sắc Đạo Cao Đài liên quan các cơ quan trung ương trong việc phổ độ chúng sanh, du khách sẽ thấy sự khác biệt một nền tôn giáo, thể thức phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại và thực hiện sự bình quyền thiêng liêng của hai phái: Nam, Nữ.

    Cách ngôi nhà nữ phái Phước Thiện chừng vài mươi thước,du khách sẽ thấy một gian nhà mái lá bên đường Cao Thượng Phẩm. Đó là Bộ Lễ, nghĩa là cơ quan tập dượt cách thức nghi lễ cho các vị Lễ Sĩ.

    Sự luyện tập nầy cốt chỉ cho thành thuộc điệu bộ, nhịp bước khoan thai theo tiếng trống, giọng đờn để khi cúng tế thực hành mục đích làm tăng vẻ tôn nghiêm, kính cẩn, để tỏ lòng thành kính với các Đấng Thiêng Liêng Trời Phật.

    Hình ảnh các cơ quan còn chơi vơi trước mắt... Bước về hướng chợ Long Hoa, du khách sẽ thấy một ngôi nhà to lớn nằm sừng sững bên đường, đó là “Khách Đình”. Ngôi nhà nầy cũng khá lớn, bên trong có những dụng cụ như Lọng, Tàn để thờ phượng. Đây là nơi để quan tài người qui liễu mà cầu siêu.

    Nguyên thể lệ Đạo Cao Đài xây dựng trên quan điểm đoàn kết. Liên quan nhau giữa con người và con người về mọi phương diện khi sống cũng như lúc chết... Bởi vậy, trong giới tín đồ hay người đời biết hướng về đạo đức, lúc chết thân quyến đi cho Hội Thánh hay thì Hội Thánh sẽ phái Ban Nhà Thuyền, đem thuyền Bát Nhã lại tư gia rước linh cửu về Khách Đình nầy, có người thay mặt Hội Thánh và toàn cả tu sĩ tại Tòa Thánh đến đọc kinh cầu nguyện và lo an táng.

    Last edited by mynhan; 29-10-2018 at 09:15 AM.

  20. #20
    Moderator
    Gia nhập
    May 2008
    Nơi cư ngụ
    Vong Ưu Cốc
    Bài gởi
    1,823

    Mặc định

    TẠI SAO GỌI LÀ KHÁCH ĐÌNH?


    Danh từ nầy bao hàm ý nghĩa: cõi trần giả tạm, con người chỉ là lữ khách qua đường... Lúc qui mãn kiếp nhân sinh, thân người và linh hồn được đến nơi đây dừng chơn lại nghe người thế tục cùng thân nhơn tỏ nỗi đau buồn vĩnh biệt qua câu kinh, tiếng kệ nhiệm mầu... rồi nương sự cầu nguyện mà giác mê hồn tiêu diêu về cõi vô hình...

    ... Những đêm về trong cảnh mông lung, huyền ảo vang tiếng người nhộn nhịp hòa giọng đờn, tiếng nhạc câu kinh trầm bỗng du lăng... Lắng nghe hờ giọng buồn thế tục, du khách sẽ chạnh lòng bao nỗi vu vơ...

    Đối diện Khách Đình nầy là cơ quan Nhà Thuyền, nghĩa là nơi để cho những người hiến thân trọn đời cho Hội Thánh ở làm việc. Bước vào du khách sẽ thấy ngay một chiếc thuyền “Bát Nhã”.

    Hình tượng chiếc nầy là một con rồng, giữa thân có một khuôn hình chữ nhật trên nóc, hai bên là vách.

    Thuyền Bát Nhã


    Hai tấm vách nầy tạc họa những hình ảnh Thiên Nhãn và lư hương, hình rồng hoặc các bông cây... Mới trông vào như một bức tranh điêu khắc, màu sắc linh động...

    Đây, cũng là một sự lạ nhất, cổ kim hy hữu...

    Lập Tam Kỳ Phổ Độ, những sự siêu hình cõi Thượng Giới đều được khái quát tại trần gian. Chiếc thuyền Bát Nhã xưa nay kinh Phật thường gọi, nhưng ít ai được thấy. Hiện nay khai Đại Đạo, được cơ bút thiêng liêng chỉ dạy nên mới thiết kế đúng thể thức.

    Trước thuyền Bát Nhã có những câu đối:

    “Vạn sự viết vô nhục thể thổ sanh hườn tại thổ;

    “Thiên niên tự hữu linh hồn Thiên tứ phản hồi Thiên.

    “Sanh tiền bổn vọng, phú quí công danh kim hà tại;

    “Chơn linh thê sở công hầu cực phẩm bất đương nhiên.

    “Hữu thế sanh nhi tùng tứ khổ,

    “Vô hình tử giã hóa tam đồ...”
    Những câu đối nầy biểu hiện kiếp nhân sinh con người rồi muôn sự để lại cho đời...

    Xem xong thuyền Bát Nhã, du khách sẽ lần lượt vào cơ quan Nhà Thuyền xem. Nơi đây là những người hiến thân trọn đời cho Hội Thánh phục vụ nhơn sanh...

    Mỗi khi, nơi nào có người qui vị, họ sẵn sàng hy sinh sự nhọc nhằn mà đẩy thuyền chở quan tài về Khách Đình rồi đưa đến tận huyệt và chôn cất... Gặp những khi trời mua đường lầy lội, những lúc nắng cháy da, thế mà họ vẫn vui làm việc...

    Dù vất vả như thế, song họ cảm thấy cần phải tranh đấu mà thực hiện sự lập công bồi đức trên đường giải thoát kiếp người... Nhiều khách lạ đến đây, thấy sự hy sinh thế ấy, nếu hiểu lầm cũng mỉa mai: “-Vì tiền!”. Nhưng sự thật họ chỉ hy sinh làm công quả, thế thôi...

    Qua dáng người hiền từ trong bộ đồ đạo tỳ màu đen viền trắng tượng trưng sự để tang mọi người, du khách sẽ cảm động nếp sống âm thầm của kiếp người chỉ lo vun công bồi đức...

    Rời khỏi cơ quan Nhà Thuyền, du khách sẽ hướng về phía Trung Tông Đạo.

    Đây là một cơ quan, có những gian nhà rộng rãi, bên trong chia rất nhiều phòng, đặc biệt để cho những người miền Trung (Việt Nam) ở tu hành.

    Bước vào của tam quan, du khách sẽ thấy những Cổ Pháp: Cuốn Xuân Thu, Cây Phất Chủ, Bình Bát Du mà chúng tôi đã lược giải qua rồi.

    Cơ quan nầy, hiện nay có nhiều vị chức sắc cao cấp, người miền Trung điều khiển... Vào đây, du khách sẽ được tiếp đãi một cách nồng nhiệt... thể hiện một tình cảm đạo đức hoàn toàn.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 4 users browsing this thread. (0 members and 4 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 14-03-2011, 02:46 AM
  2. Quảng Ninh - Phong Thủy Và Chiến Trận Tâm Linh.
    By dienbatn in forum Các bài của DIENBATN
    Trả lời: 26
    Bài mới gởi: 09-11-2010, 10:28 AM
  3. Trả lời: 25
    Bài mới gởi: 11-10-2010, 01:01 PM
  4. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 01-09-2010, 12:24 AM
  5. Giới Thiệu Trang Web Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh
    By nguoi_vui_ve in forum Đạo Cao Đài
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 01-09-2010, 12:23 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •