Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 57

Ðề tài: Mười bốn lý do để chấn hưng phật giáo việt nam

  1. #1

    Mặc định Mười bốn lý do để chấn hưng phật giáo việt nam

    Chưa bao giờ lời kêu gọi của Thái Hư Đại Sư từ thế kỷ trước về “Cách mạng Giáo Lý, cách mạng Giáo chế và Cách mạng Giáo sản” vang vọng thống thiết, phản ánh nhu cầu đổi mới cấp thiết hiện nay của Phật Giáo Việt Nam. Cũng chưa bao giờ hành trạng của Cư sĩ Minh Tâm Lê Đình Thám của thập niên 30’ lại hiện ra chói lọi trong não trạng của những người con Phật Việt Nam một cách thiết tha và dục giả như tình hình hiện nay.

    Mười Bốn Lý Do Tại Sao Phật Giáo Việt Nam cần đổi mới

    1- Tăng ni và cư sĩ trong ngoài nước đã và đang nhiệt liệt ủng hộ nhu cầu đổi mới. Trong cuộc hội thảo lịch sử Phật Giáo Trong Thời Đại Mới: Cơ Hội và Thách Thức năm 2006 tại Việt Nam, đã có rất nhiều tham luận hô hào cần phải canh tân đổi mới phương thức hành đạo và truyền đạo của Phật Giáo Việt Nam mà điển hình là Hòa Thượng Thích Hiển Pháp, trong nước, nhấn mạnh đến việc phác thảo một kế hoạch toàn diện nhằm chấn hưng Phật Giáo trên nền tảng dân tộc. Sa Môn Mãn Giác, ngoài nước nên có một cái nhìn toàn cầu sâu sắc, đã nhìn Phật Giáo trong viễn cảnh của “một liều thuốc giải cho căn bệnh thời đại”.

    Cư sĩ Minh Mẫn trong nước kết luận khẩn thiết trong một bài viết của mình rằng: “Phật Giáo Việt Nam phải can đảm đổi mới và đổi mới một cách toàn diện”. Cư sĩ Hồng Quang ở quốc ngoại thì ‘ước mơ’ thay đổi Hiến chương, hiện đại hóa cơ cấu của giáo hội và Phật Giáo Việt Nam phải triễn khai mạnh mẽ nội dung Nhập Thế của mình. Phần dẫn nhập của tác phẩm “Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới, Tại Sao Phải Chấn Hưng” đã mô tả ước vọng đổi mới Phật Giáo Việt Nam như một cuộc thay da đổi thịt triệt để, một lần hóa thân toàn diện”.

    2- Đạo Phật không bao giờ chấp nhận lòng tin mù quáng và giáo điều cứng nhắc. Nguyên tắc khế lý- khế cơ biến đạo Phật trở thành một dòng sông tâm linh uyển chuyển. Đạo Phật truyền bá đến đâu thu nhận và hội nhập văn hóa bản địa đến đó để làm giàu thêm cho kho tàng triết lý và đời sống tâm linh của người hành trì. Từ ngữ Buddhism là do các nhà nghiên cứu Phật Giáo phương Tây đặt tên, bởi không như các tôn giáo độc thần khác, đạo Phật không có ‘ism’, không có giáo điều ‘muôn đời’. Nhờ thế mà trong lịch sử phát triển, đạo Phật có nhiều tông phái, muôn màu muôn vẽ, bách hoa tề khai, đồng quy nhi thù đồ, tương kính, tương nhượng. Nguyên tắc vô thường phản ảnh cho tinh hoa của triết lý dịch biến Đông Phương. Nếu không luôn luôn đổi mới thì đâu còn vô thường, nếu mất đi nguyên tắc vô thường, thì đạo Phật đâu còn là đạo Phật!

    3- Phật Giáo trong quá trình tiếp cận, an vị rồi xiễn dương trên đất nưóc Việt nam cùng với dân tộc Việt Nam, đã liên tục theo thời đại và lòng dân mà đổi mới để dần dần biến thành một đạo Phật Việt Nam độc đáo, vẫn giữ cốt tuỷ tinh hoa -khế lý- nhưng đồng thời tạo nên những nét đặc thù-khế cơ- không giống với bất cứ đạo Phật ở nước nào khác. Đạo Phật trong lịch sử trưyền bá ở Việt Nam cũng đã nhiều lần đổi mới, thoát xác, thích ứng với từng thời đại.

    4- Trong lịch sử hiện đại, chúng ta đã chứng kiến nổ lực đổi mới của các vị tôn túc từ Nam ra Bắc trong thập niên 30. Không có nổ lực đổi mới để đào tạo tăng tài, thường gọi là “Bảy Ông Trí”, thì Phật giáo Việt Nam đã không tồn tại được trước cuộc xâm lăng văn hóa của chính quyền thực dân bảo hộ và lực lượng tay sai bản điạ, và nhất là đã không có cuộc vận động chống chánh quyền độc tôn vào năm 1963 tại miến Nam, nhằm tranh đấu cho công bằng xã hội và bình đẵng tôn giáo, cũng như nếu không có phong trào Tranh Đấu Miền Trung, chống chiến tranh để nỗ lực mang lại Hoà Bình Dân Tộc, Độc Lập Quốc Gia và Công Bằng Xã Hội, thì Phật Giáo Việt Nam cũng đã héo tàn trong mấy hội nghiên cứu ‘Phật Học’. Sa Môn Mãn Giác đã bảy tỏ trong bài tham luận cho Hội thảo PGTTÐM rằng những nổ lực đổi mới “là sợi chỉ trong suốt quá trình hiện đại hóa. Đó là quyết tâm tạo cơ duyên để phục vụ dân tộc trong ánh sáng đạo pháp và phục vụ đạo pháp trong điều kiện khế hợp của dân tộc”. Những thánh tử đạo, những Phật Tử hy sinh trong các cuộc tranh đấu trong các năm 1963-1966 là những người đã ‘thương nước, thương đạo’. Sa Môn Thích Mãn Giác còn nói rõ hơn: “Nếu không có các vận động đổi mới trên, Phật Giáo đã biến thành hội tương tế của những ông thầy cúng chỉ biết lo ma chay cầu đảo”. Phật giáo có phần tín ngưỡng, tôn giáo nhưng cũng có phần trí tuệ. Phải lấy đoạn kinh Kalama làm nguyên tắc để phát triển phần trí tuệ hầu khỏi bị phần tín ngưỡng, trong đó còn quá nhiều mê tín, khuynh đảo. Còn nếu cứ theo nguyên tắc ‘không biết mà tin’ mù quáng trong tín lý của các tôn giáo Tây phương thì đạo Phật có khác gì mấy tôn giáo độc thần ấy. Gương truyền bá chánh pháp của Phật giáo Tây Tạng có thể cho chúng ta một bài học: hiện nay đồ đệ Đức Đạt Lai Lạt Ma không còn nhắc đến những chuyện huyền bí về việc đầu thai của các Lạt Ma nữa, mà nhấn mạnh đến niềm an lạc mà Phật Giáo có thể đem lại cho người hành trì ở đời này.

    5- Trong thời kỳ quá độ của những năm vừa thống nhất đất nước xong và đang thực hiện Xã hội chủ nghĩa, Phật Giáo Việt Nam bị biến thành một hội Phật Học bên lề xã hội như dưới thời Bảo Đại và Ngô Đình Diệm, và chánh quyền đặt Phật Giáo như một hội đoàn quần chúng dưới sự giám sát của Mặt Trận Tổ Quốc. Có quá nhiều sai lầm và bất cập, tuy nhiên việc thành lập GHPGVN vào năm 1981 từ Nam chí Bắc là một nổ lực đáng ca ngợi trong tinh thần hòa giải dân tộc và thống nhất tổ chức. Tuy nhiên, kể từ khi quốc sách Đổi Mới đi vào hiện thực cuộc sống, và nhất là từ khi Việt Nam hội nhập vào cộng đồng nhân loại, chính chánh quyền cũng đã thấy những bất cập và đã liên tục đổi mới để hiện đại hóa đất nước, thì không có lý do gì GHPGVN lại cưỡng lại nổ lực và xu thế đổi mới đó để kềm giữ Phật giáo trong tình trạng của một hội tương tế mà phần lớn “Phật Sự” chỉ lo ma chay, cầu an và cúng kiến để cầu ‘hồng ân’ của Chư Phật!

    6- Nếu chánh quyền xem Phật Giáo là người đồng hành trong vai trò quan trọng trong việc dựng nước và giữ nước như đã được chứng minh trong lịch sử, nhất là lịch sử chống thực dân và đế quốc, thì Phật giáo phải được đặt ở một vị trí và phải có một trách nhiệm tương xứng, không phải chỉ ‘được’ dùng như một công cụ trong giai đoạn quá độ. Muốn thế, chính giáo hội cũng phải tỏ ra xứng đáng đóng vai ‘đồng hành’, mà trước hết là thành phần lãnh đạo giáo hội Việt Nam phải tỏ ra xứng đáng vai đồng hành, chứ không phải chỉ là những người cầu an, vâng vâng dạ dạ, làm cây kiểng trang trí. Cũng vậy, muốn đóng vai trò đối lập, Giáo Hội PGVNTN cũng phải tỏ ra xứng đáng là thành phần đối lập, không phải hành động chỉ vì động cơ bất mãn cá nhân, hành tung vô đạo, sử dụng ố ngữ và làm công cụ cho các thế lực thần quyền và thế quyền ngoại bang đánh phá tổ quốc để đạt mục đích của riêng phe nhóm mình.

    7- Theo thống kê dân số, hiện nay trong nước có hai phần ba dân số là thanh niên thiếu nữ thuộc thế hệ 7X, 8X và 9X, sinh sau khi chiến tranh chấm dứt. Thế hệ nầy có hơn 15 năm sống trong nền kinh tế thị trường, tiếp xúc với tri thức tiến bộ của nhân loại và cởi lên làn sóng internet để tiếp nhận thông tin toàn cầu trong không gian cyberspace. Thử hỏi có bao nhiêu phần trăm thanh niên thiếu nữ này chấp nhận triết lý và hành động ma chay cầu đảo của các thầy cúng? Nếu không hiện đại hóa, các thanh niên thiếu nữ trong các gia đình Phật giáo hoặc sẽ điền “KHÔNG” vào mục lý lịch tôn giáo, hoặc sống cuồng loạn như thể không có ngày mai, hoặc tệ hơn nữa sa vào âm mưu đổi đạo tập thể của Vatican tại các nước ở thềm lục địa Hoa-Ấn Trường hợp Tin Lành Dega ở cao nguyên và Đồng Tháp là thí dụ điển hình cho mục tiêu cải đạo nầy. Nếu không đổi mới canh tân Giáo hội thì người dân và chính Phật tử nhẹ dạ hay thiếu sức mạnh tâm linh sẽ dễ bị lường gạt bởi các tay đại bịp như Vô Thượng Sư, các ‘thầy nhân điện’ hay thầy nước lã mà khước từ Giáo hội, thậm chí từ bỏ luôn cả Phật giáo. Các giáo hội Phật Giáo Việt Nam ở các nước ngoài cũng có thể bị một số nguy cơ tương tự vì không đủ mặt bằng trí tuệ để đi vào dòng chính của tri thức bản điạ và vì áp lực kinh tế để nuôi sống Chùa. Các thế hệ di dân thứ hai và kế tiếp, suy nghĩ và hành xử như người Tây Phương, “ruột trắng vỏ vàng”, sẽ không tiêu hóa nổi những hình thức mê tín dị đoan tương tự như trong các tôn giáo độc thần Ky Tô, đã bị thế kỷ Khai Sáng xem như tín ngưỡng còn rơi rớt ở thời Trung Cổ đen tối.

    8- Số tín đồ và linh mục/ mục sư các tôn giáo truyền thống Ky Tô ở các nước Tây Phương càng ngày càng giảm sút, số lượng giáo dân đi lễ càng ngày càng thưa thớt; giáo đường phải đem bán và biến thành các cơ sở thương mại. Một số lớn vẫn tin vào Chúa nhưng chỉ thờ Chúa ở trong lòng. Họ phủ nhận một giáo quyền bảo thủ thiếu đạo đức xã hội và bác bỏ thần học lỗi thời do giáo hội rao giảng, nhất là khi thần học này biến thành những đạo đức xã hội như cấm ngừa thai, cầm phá thai, cấm trợ tử…Đạo quân ‘bất khả tri’ (Agnostic) ở Tây Phương càng ngày càng đông đảo, tương phản với thiểu số cuồng tín (fundamentalists). Đối với đa số sinh hoạt tôn giáo như là sinh hoạt văn hoá,

    Đạo Phật là một đạo phát triển nhanh nhất ở MỸ, ÚC và ÂU CHÂU. Nhiều Phật tử hay lấy sự kiện này để tự hào về tôn giáo mình nhưng không chịu tìm hiểu nguyên nhân. Đối với các nước trọng tinh thần duy lý từ thế kỷ khai sáng, hai yếu tố quyến rũ nhất đối với người Tây phương là Thuyết Duyên Khởi, rất gần gũi với tinh thần khoa học và duy lý và đức tính khoan dung và độ lượng khi so sánh với tôn giáo khác. Dù mục tiêu của khoa học và tôn giáo khác nhau, nhưng liệu Phật Giáo có nên tiếp tục duy trì các lòng tin phản khoa học không? Đức Đạt Lai Lạt Ma tuyên bố sẵn sàng xét lại giáo pháp nào đi ngược lại với khoa học. Có lẽ đây là lý do các lạt ma Tây Tạng không còn hăng hái bàn đến các sự kiện đầu thai ‘huyền bí ly kỳ’ của các Lạt Ma nữa. Thầy Nhất Hạnh gần đây đã giải thích những hình thức cúng kiến tổ tiên và luân hồi trong ánh sáng mới, vừa hợp lý và hợp tình và dĩ nhiên là phải khế hợp với triết lý vô ngã của Phật Giáo. Rao giảng một thuyết hữu ngã là tà pháp, không phải là chánh pháp. Linh hồn là ý niệm nhị nguyên của các tôn giáo hữu thần, không phải ý niệm của Phật giáo.

    9- Thái độ khoan dung của Phật Giáo là yếu tố thứ hai thu hút trí thức Tây Phương mạnh nhất. Đạo Phật là đạo hòa bình. Người Tây Phương đã ngán ngẫm những cuộc chiến tranh tôn giáo ở Rwanda, ở vùng Balkan, ở Bắc Ái Nhĩ Lan, ở Trung Đông. Trong suốt lịch sử truyền bá, đạo Phật chưa bao giờ dính vào một cuộc chiến tranh phát khởi vì lý do tôn giáo. Trong vòng vài mươi năm qua, có ít nhất là hai Phật tử được giải Nobel Hoà Bình, Đức Đạt Lai Lạt Ma và lãnh tụ dân chủ Miến Điện, Ang Sung Su Kyi và hai người khác được đề nghị ra tranh giải, Nhất Hạnh và Sulak Sivaraksa. Sa Môn Mãn Giác đã gọi yếu tố này là ‘phương thuốc của thời đại’. Trong khi đó thì thật là ngán ngẫm khi nghe một vị sư lớn tiếng ủng hộ chánh sách chiến tranh của TT Bush vào năm 2003 và một vị sư khác tuyên bố ‘diệt những người ác không tạo nghiệp’. Nói như vậy không phải hiện nay không có nhiều vị sa môn cổ võ cho chiến tranh chống Tamil Tigers ở Skri Lanka, có thể làm tan vỡ hình ảnh Hòa Bình của Phật Giáo.

    10- Sau thế kỷ Khai Sáng, nhân loại đã tạo ra một số giá trị nhân bản như bãi bỏ chế độ nô lệ, mọi người bình đẵng trước pháp luật, tôn trọng nữ quyền, tôn trọng quyền của những người thiểu số, quyền được thoả mãn những nhu cầu căn bản như ăn mặc, nhà ở, giáo dục. Trong giáo đoàn đầu tiên của Đức Phật có sự hiện diện của phụ nữ, người cùng đinh Untouchables, những người phạm pháp. Đồ tể một phút buông dao thành Phật thể hiện sự bình đẵng tuyệt đối của đạo Phật. Ai cũng có Phật Tính. Tuy đây chỉ là giá trị xã hội, nhưng nếu giáo pháp nào đi ngược với giáo pháp bình đẵng của Đức Phật, cần phải được xét lại (như Bát Kỉnh Pháp xem Ni nhẹ hơn Tăng).

    11- Hiện nay những người truyền bá chánh pháp ở Âu Châu phần lớn là cư sĩ hay tu sĩ đã hoàn tục. Nhiều cư sĩ đệ tử của Đức Phật đã ‘giác ngộ’ như Duy Ma Cật ‘giác ngộ’ còn sớm hơn cả một số tăng già. Không có gì chứng tỏ là những vị khoác tăng bào sẽ giác ngộ trước cư sĩ. Trong thời chấn hưng vào các năm 30, nhiều cư sĩ đã đứng trên bục giảng đào tạo tăng tài. Giáo hội cần định chế hoá mối liên hệ giữa tăng và ni, giữa tăng già và cư sĩ để tránh tình trạng “cái ghế một chân”.

    12- Hiện nay người ta đua nhau nói về thời đại toàn cầu hóa và hội nhập, mặc dù rất ít người hiểu rằng đây là thời kỳ mà Việt Nam có nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng là thời kỳ có nhiều cạm bẩy nhất. Vì không có tài liệu nghiên cứu, nhiều người đã ‘hồ hỡi’ khi Việt Nam được nhận làm hội viên WTO nhưng không thấy rằng toàn cầu hóa cũng có nghĩa là thời ‘tư bản hóa’ và nguy hại hơn hết, thời kỳ Ky Tô Hoá. Để có khả năng cung cấp một giá trị tâm linh để chống đối cơn bão tiêu thụ của kinh tế thị trường, trong đó mọi giá trị nhân sinh hay tôn giáo đều bị thay thế bởi nguyên lý ‘tham lam là động cơ của phát triễn’, ‘ai cũng hành động vì tư lợi’, Phật Giáo không thể nào ù lì, vùi đầu trong cát như những con đà điểu. Không có cái nhìn trung đạo về kinh tế, Phật giáo dần dần chỉ còn là tôn giáo hình thức như các tôn giáo độc thần Tây Phương hiện nay trong lòng xã hội Tây Phương. Không nhấn mạnh đến yếu tố từ bi, trí tuệ hay ‘nhập thế’, trước hay sau gì Phật Giáo cũng biến thành một loại tín ngưỡng của người chết (ma chay, cầu đảo) không còn là một triết lý sống sinh động nữa.

    13- Phật giáo phải biết mình đứng chỗ nào trước những tiến bộ khoa học di truyền hay điện tử. Phật tử nên biết phải phản ứng thế nào trước khoa học tạo sinh trung tính (Cloning), về trợ tử để giúp những người bị bệnh trầm kha chết có phẩm cách? Tăng già có nhận vào hàng ngũ của mình những người đồng tính luyến ái, một vấn đề hiện đang chia rẽ các tôn giáo độc thần Tây Phương? Tăng già nghĩ gì về tình dục và nên có thái độ trung đạo nào đối các tăng ni chưa đủ nghiệp lực nên đã phạm giới? Để trả lời những vấn nạn xã hội của thời đại chúng ta, những vấn nạn mà người dân và chính những Phật tử bị bế tắc và cần đến lời khuyên dạy của chư Tăng Ni, Giáo hội phải vận dụng đến lời dạy của Đức Phật như thế nào, phải huy động nguồn vốn tri thức của Cư sĩ chuyên ngành như thế nào?

    14- Cuối cùng phải có cái nhìn vô tướng và tránh bệnh hình thức. Hiện nay ảnh hưởng phong trào ‘xưng danh’ ở trong nước, nhiều tăng ni dùng các danh hiệu như “Thượng Toạ, (Đại Đức) Tiến Sĩ. XYZ”. Đó là chưa kể các chức vụ dài dòng kệch cỡm. Sa Môn XYZ, Tỳ Kheo XZY nghe khiêm cung và nhẹ nhàng hơn. Đi theo vết chân Phật, hành trang thế gian và ngã chấp của tăng ni và cư sĩ càng ít càng tốt. Nói như Khổng Tử, ‘ta đi tìm lễ nhạc, mà chỉ thấy toàn chiêng trống!’. Lễ nhạc nhằm di dưỡng tinh thần. Chuông trống là dụng cụ kiếm ăn của đoàn sơn đông mãi võ.

    Nói tóm lại, sự chọn lựa đã rõ ràng. Thời đại đổi mới, tổ quốc đổi mới, xã hội đổi mới, Phật tử đổi mới, do đó Phật giáo Việt Nam cũng phải đổi mới hay sẽ bị đào thải. Đổi mới mà đúng hướng và bền vững thì gọi là tiến bộ, thì gọi là chấn hưng. Chỉ cần hàng giáo phẩm các giáo hội có ý chí đạo đức (moral will) và sức mạnh trí tuệ trên một nền tảng tâm linh mà thôi.

    Vì tâm thành và trăn trở trong tình trạng khẩn cấp hiện nay, nếu chỗ nào chúng tôi không giữ được ái ngữ, chúng tôi xin thành tâm sám hối.

    Cư sĩ Quán Như
    Last edited by RPe; 27-05-2010 at 02:34 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Thì thời Mạt Pháp là thời mà tăng ni đầy đường, chùa chiền mọc lên như nấm, Phật nói đâu có sai.
    VẠN PHÁP TÙY DUYÊN SANH.

  3. #3

    Mặc định

    Mô Phật, hổng dám có ý kiến ý cò chi cả, Đạo có hưng có thịnh, có mạt có tàn là do cả một tập thể chúng ta số nhiều muốn đi hướng nào, số ít còn lại không cản lại được vì hiện nay đã thấy rõ cái gọi là Mạt Pháp rồi, chúng ta hổng có mần răng chi được đâu?
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thích tùm lum Xem Bài Gởi
    Mô Phật, hổng dám có ý kiến ý cò chi cả, Đạo có hưng có thịnh, có mạt có tàn là do cả một tập thể chúng ta số nhiều muốn đi hướng nào, số ít còn lại không cản lại được vì hiện nay đã thấy rõ cái gọi là Mạt Pháp rồi, chúng ta hổng có mần răng chi được đâu?
    Ừ, hổng mần chi được nên rãnh rãnh lên đây tào lao chờ ngày xuống lỗ thôi chứ già cả như lão có ham hố cũng chẳng mần chi được.
    VẠN PHÁP TÙY DUYÊN SANH.

  5. #5

    Mặc định

    @hoattunhan: :laughing: Bác nói phải

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoattunhan Xem Bài Gởi
    Thì thời Mạt Pháp là thời mà tăng ni đầy đường, chùa chiền mọc lên như nấm, Phật nói đâu có sai.
    nêu dẫn chứng trong kinh phật nào vậy?
    hôm nay khác ngày mai khác

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thích tùm lum Xem Bài Gởi
    chúng ta hổng có mần răng chi được đâu?
    mạc pháp mới có những lời nói vô tâm của chúng sanh như vậy đó ! chúng đi đường chúng ,ta tu đường ta .Nếu mọi người đều có lòng tin thì đạo phật sẽ hưng thịnh ngay tức khắc.
    hôm nay khác ngày mai khác

  8. #8
    Đai Xanh Avatar của MuaLan
    Gia nhập
    Jun 2008
    Nơi cư ngụ
    Viet Nam
    Bài gởi
    169

    Mặc định

    Bài báo vốn rẽ tiền. Ví dụ đoạn này: nhưng liệu Phật Giáo có nên tiếp tục duy trì các lòng tin phản khoa học không?

    Giáo pháp của Phật là vô hình vô tướng vô sắc vô vị. Mà đem khoa học (hữu hình) ra chứng minh cái vô hình không khác nào đem con bò đi kéo xe tăng. :laughing::laughing::icon_rolleyes::icon_rolleyes:

  9. #9

    Mặc định

    chắc Bác hiểu lầm câu đó rồi :D

  10. #10

    Mặc định

    ĐỨC PHẬT THUYẾT KINH PHÁP DIỆT TẬN

    Như thật tôi nghe, một thời Đức Phật ở thành Câu-thi-na. Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ. Thế tôn tĩnh lặng , ngài không nói một lời và hào quang không xuất hiện. Ngài A-nan cung kính đảnh lễ và hỏi:

    “Bạch Thế tôn, từ trước đến nay bất lúc (kỳ khi) nào Thế tôn thuyết pháp, ánh sáng oai nghi của Thế tôn đều tự nhiên xuất hiện, nhưng hôm nay trong đại chúng, không thấy ánh hào quang ấy từ Thế tôn tỏa ra nữa, chắc hẳn có nhân duyên gì, chúng con mong muốn nghe Đức Thế tôn giảng giải.”

    Đức Phật vẫn im lặng không trả lời, cho đến khi A-nan cầu thỉnh đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo A-nan:

    “Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, khi giáo pháp bắt đầu suy yếu, trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất thịnh hành, ma quỷ biến thành sa-môn, xuyên tạc phá hoại giáo pháp của ta. Chúng mặc y phục thế tục , ưa thích y phục đẹp đẽ, cà sa sặc sỡ; uống rượu, ăn thịt; giết hại sinh vật tham đắm mùi vị; không có lòng từ, thường mang sân hận, đố kỵ lẫn nhau.

    “Vào lúc ấy, sẽ có các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán hết sức tôn kính, siêng năng tu đức, được mọi người kính trọng tiếp đãi., họ đều giáo hóa bình đẳng. Những người tu đạo này thường cứu giúp kẻ nghèo, quan tâm người già, cứu giúp người gặp cảnh nghèo cùng khốn ách. khuyến khích mọi người thờ phượng, hộ trì kinh tượng. Họ thường làm công đức, hết lòng từ bi làm lành, không hại kẻ khác. hy sinh giúp đỡ không tự lợi mình , thường nhẫn nhục nhân hòa.

    “Nếu có những người như vậy, thì các tỷ-khưu tà ma đều ganh ghét họ, ma quỷ sẽ nổi ác phỉ báng , xua đuổi trục xuất các vị tỷ-khưu chân chính ra khỏi tăng viện. Sau đó, các tỷ-khưu ác ma này không tu đạo đức , chùa chiền tu viện sẽ bị hoang vắng, cỏ dại mọc đầy. Do không chăm sóc bảo trì, chùa chiền trở thành hoang phế và bị lãng quên, các tỷ-khưu ác ma sẽ chỉ tham lam tài vật tích chứa vô số của cải không chịu buông bỏ, không tu tạo phước đức.

    “Vào lúc đó các ác ma tỷ-khưu sẽ buôn bán nô tỳ để cày ruộng, chặt cây đốt phá núi rừng, sát hại chúng sanh không chút từ tâm. Những nam nô trở thành các tỷ-khưu và nữ tỳ thành tỷ-khưu ni không có đạo đức, dâm loạn dơ bẩn, không cách biệt nam nữ. Chính những người này làm đạo suy yếu phai dần. Những người chạy trốn luật pháp sẽ tìm đến quy y trong đạo của ta, xin làm sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng cuối tháng tuy có tụng giới, nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do lười biếng và phóng dật, không còn ai muốn nghe nữa. Những ác sa-môn này sẽ không muốn tụng toàn văn bản kinh, tóm tắt đoạn đầu và cuối bản kinh theo ý của họ . Chẳng bao lâu, việc tụng tập kinh điển cũng sẽ chấm dứt. Cho dù vẫn còn có người tụng kinh, nhưng họ lại không hiểu câu văn. vẫn khăng khăng cho họ là đúng, tự phụ, kiêu căng mong cầu danh tiế ng , ra vẻ tao nhã để mong cúng dường.

    Khi mạng căn của các ma ác tỷ-khưu này chấm dứt, thần thức của họ liền đọa vào địa ngục A-tỳ. Đã phạm phải 5 tội trọng, nên họ phải tái sinh liên tục chịu khổ trong loài quỷ đói và súc sinh. Họ sẽ nếm những nỗi thống khổ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng. Khi tội h ết, họ sẽ tái sinh ở những vùng biên địa, nơi không có Tam bảo lưu hành.

    “Khi chánh pháp sắp biến mất, phụ nữ sẽ trở nên tinh tấn và thường làm việc công đức. Đàn ông sẽ trở nên lười biếng và sẽ không còn ai giảng pháp . Những vị sa-môn chân chính sẽ bị xem như đất phân và không ai tin ở các vị ấy nữa. Khi chánh pháp sắp suy tàn, chư Thiên sẽ bắt đầu khóc lóc, sông sẽ khô cạn và năm thứ cốc loại không chín (mất mùa, đói kém). Bệnh dịch thường xuyên xảy ra, cướp đi vô số mạng người. Dân chúng phải làm việc cực khổ, quan chức địa phương mưu tính lợi riêng, không thuận theo đạo lý, đều ưa thích rối loạn. Người ác gia tăng nhiều như cát dưới biển, người thiện rất ít, hầu như chỉ có được một hoặc hai người.

    “Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn và mạng sống của con người giảm lại. Bốn mươi tuổi đầu đã bạc . Đàn ông dâm dục, cạn kiệt tinh dịch nên sẽ chết trẻ, thường là trước 60 tuổi. Khi mạng sống của nam giới giảm, thì mạng sống cuả nữ giới tăng đến 70, 80, 90 hoặc đến 100 tuổi.

    «Những dòng sông lớn sẽ dâng cao bất thường không đúng với chu kỳ tự nhiên, nhưng con nguời không để ý hoặc không quan tâm. Khí hậu khắc nghiệt được xem là điều bình thường. Người các chủng tộc lai tạp lẫn nhau không phân quý tiện, chìm đắm, trôi nổi như cá rùa kiếm ăn .

    «Lúc đó các vị Bồ-tát, Bích-chi Phật, A-la-hán bị chúng ma xua đuổi tr ục xuất không còn cùng dự trong chúng hội . Giáo lý Tam thừa vẫn được lưu hành ở vùng hẻo lánh, những người tu tập vẫn tìm thấy sự an lạc và thọ mạng kéo dài. Chư thiên sẽ bảo vệ và mặt trăng sẽ chiếu sáng họ, giáo pháp Tam thừa sẽ có dịp hòa nhập và chính đạo sẽ hưng thịnh. Tuy nhiên, trong năm mươi hai năm , kinh Thủ-lăng-nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi biến mất. Mười hai bộ kinh sau đó sẽ dần dần bị tiêu trầm cho đến khi hoại diệt hoàn toàn và không bao giờ xuất hiện lại nữa. Văn tự kinh điển sau đó hoàn toàn không được biết đến , giới y của sa-môn sẽ tự bị biến thành màu trắng.

    «Khi giáo pháp của ta sắp biến mất, cũng giống như ngọn đèn dầu tỏa sáng lên trong chốc lát trước khi tàn lụi, chánh pháp cũng bừng sáng rồi suy tàn, Từ đó về sau khó nói chắc được điều gì sẽ xảy ra.

    «Thời kỳ này sẽ kéo dài suốt mười triệu năm. Khi Đức Di-lặc sắp thị hiện ở thế gian để thành vị Phật tiếp theo, các cõi nước đều được hoàn toàn an vui. Khí độc sẽ bị tiêu tán, mưa nhiều và đều đặn, n ăm thứ cốc loại tươi tốt , cây cối sum suê cao lớn, và loài người sẽ cao đến tám trượng (hơn 24 mét, ) tuổi thọ trung bình của con người sẽ đến 84.000 năm, chúng sanh được độ khó có thể tính đếm được.»

    Ngài A-nan thưa thỉnh Đức Phật :

    «Bạch Thế tôn, chúng con nên gọi Kinh này là gì, và làm thế nào để phụng trì kinh ấy?»

    Đức Phật bảo :

    «Này A-nan, kinh này gọi là Pháp Diệt Tận. Hãy dạy cho mọi người truyền bá rộng rãi kinh này. Những ai truyền bá kinh nầy, công đức của những người ấy không thể nghĩ bàn, không thể nào tính đếm được.»

    Khi bốn chúng đệ tử nghe nói kinh này rồi, họ đều rất đau lòng và buồn tủi, mỗi người đều phát tâm tu đạo để đạt đến quả vị Thánh tối thượng, họ cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

    HẾT








    * Vài dòng về ý nghĩa chính bài kinh Pháp Diệt Tận:

    Tác Giả: Tulku

    Phật pháp có hơn 84 ngàn pháp môn, kinh sách hàng vạn cuốn. Vì sao lại như vậy ? Vì chúng sanh có 84 ngàn phiền não, mỗi phiền não là một căn bệnh mà Phật phải tuỳ bệnh cho thuốc. Mỗi đơn thuốc hay mỗi bài kinh đều là đối trị một căn bệnh của chúng sanh. Nếu bệnh dứt thì thuốc cũng phải bỏ.

    Đây là một bài kinh hết sức vĩ đại. Vĩ đại ở chỗ nào ? Không một tôn giáo hay đạo giáo nào dám tuyên thuyết rằng kinh sách hay đạo, tôn giáo của mình sẽ bị hoại diệt ngoài Đức Phật. Phật đã chỉ ra chân lý về Vô Ngã, Vô Thường xuyên suốt trong 49 năm giáo hoá chúng sanh. Tôn giáo không phải là chân lý. Nếu coi đạo Phật là một tôn giáo thì tôn giáo ấy cũng phải hoại diệt. Vì sao ? Vì có sự ra đời của tôn giáo thì tất yếu có sự diệt vong của tôn giáo ấy. Nếu coi Đức Phật như một giáo chủ, đạo Phật như một tôn giáo thì tất yếu giáo chủ phải chết và tôn giáo ấy sẽ có lúc thoái trào và diệt vong.

    Bên rừng cây Ta-la, vào những ngày cuối cùng, giờ phút cuối cùng, Phật đã không mệt mỏi để chỉ cho chúng sanh sự thật này. Ví như người cha già trước lúc lâm chung, đã thương xót các con mình do ham chơi, ỷ lại người cha mình là thầy thuốc giỏi mà không chịu uống thuốc. Người Cha từ bi ấy đã nói rằng: '' Cuối cùng bệnh dịch cũng sẽ làn tràn đến đây, cuốn sạch tất cả. Nếu các con không tinh tấn tu tập giải thoát thì các con mãi mãi trôi lăn trong sinh tử. Vòng luân hồi bất tận sẽ cuốn các con vào cái ngày đen tối đó. Ngay tại đây và bây giờ, có Phật ra đời mà các con còn không chịu uống thuốc cho hết bệnh để giải thoát thì còn đợi đến bao giờ ? Hay các con cứ tiếp tục vui chơi trong nhà lửa để chờ đợi cái ngày đen tối đó ! ''

    Trên đây là phân ý nghĩa lớn nhất của kinh này. Đọc kinh Phật, cái khó khăn nhất là nhận ra cái giả lập và giả danh để hiểu thấu đáo ý nghĩa bài kinh. Nếu ta mắc kẹt vào những ngôn từ giả lập và giả danh và cho rằng những hình tượng hay chi tiết ấy là những thực tại khách quan có mặt ngoài ta, là ta đã bị sa vào bẫy sập của ngôn ngữ, của hình tướng hữu vi sinh diệt mất rồi.

    Trong kinh Người Bắt Rắn, Đức Phật đã nói: '' Giáo lý của ta quý vị phải học hỏi thông minh, áp dụng một cách khéo léo thì mới đưa lại lợi lạc cho quý vị. Còn nếu quý vị không khéo léo, không thông minh thì những giáo lý ấy có thể hại quý vị, có thể trở thành những bẫy sập, những ngục tù cho quý vị. Cũng như một người bắt rắn biết dùng nạng đè lên cổ nó, rồi lấy tay nắm vào cổ nó thì nó không làm được gì người đó; còn nếu nắm lấy đuôi của nó thì thế nào nó cũng quay lại mổ người đó chết. ''

    Trong kinh Kim Cương, Phật nói: ‘Giáo lý của ta cũng như chiếc bè để đi qua sông, mình phải có khả năng buông bỏ chiếc bè và đừng có cho chiếc bè là bờ bên kia. Cái gọi là Pháp mà còn phải buông bỏ huống hồ những cái không phải là Pháp’. Pháp thượng vị xả hà huống phi pháp (Pháp đích thật mà còn phải buông bỏ, huống hồ không phải là Pháp đích thật).

    * Không một giáo chủ nào dám ví giáo lý của mình như con rắn, có lúc sẽ cắn chết người học nếu không biết học đạo một cách thông minh. Không một giáo chủ nào khuyên người học vứt bỏ hoàn toàn giáo lý thì mới tới được bến bờ của giác ngộ, của giải thoát, của chân lý. Đây chính là một sự thật vượt ra ngoài khái niệm một tôn giáo, đưa đạo Phật thành một thứ đạo của GIÁC NGỘ, của nhân sinh.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  11. #11

    Mặc định

    Tín ngưỡng trong tim tôi, Phật trong tâm tôi, chùa thì ... gần nhà tôi, bạn hữu Phật Tử có xung quanh tôi, còn về chuyện giáo hội thì xin lỗi ... tôi không cần biết và cũng không thèm biết.
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  12. #12

    Mặc định

    khong thèm biết thì ghi nhớ rằng đừng bao giờ nhục mạ phật giáo nữa nhá !
    hôm nay khác ngày mai khác

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi xạo bá chấy Xem Bài Gởi
    khong thèm biết thì ghi nhớ rằng đừng bao giờ nhục mạ phật giáo nữa nhá !
    Là sao? Ai nhục mạ Đạo Phật vậy huynh ơi.
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  14. #14

    Mặc định

    là thằng nào viết mấy từ bất lương này đây ? không nhục mạ là cái gì ?
    Trích dẫn Nguyên văn bởi thích tùm lum Xem Bài Gởi
    số ít còn lại không cản lại được vì hiện nay đã thấy rõ cái gọi là Mạt Pháp rồi, chúng ta hổng có mần răng chi được đâu?
    hôm nay khác ngày mai khác

  15. #15

    Mặc định

    há há há ...
    Chắc có gì đụng chạm đến ông ba xạo này rồi đây, trước mắt xin các anh chị trong diễn đàn làm chứng dùm, là đầu tiên tôi chân thành xin lỗi ông ba xạo vì đã có thể đụng chạm đến riêng cá nhân ông. Tiếp theo, nếu ông là người có tu tập, là một Phật Tử chân chính, thì ông phải biết từ bi độ lượng là gì, vì khi còn sống trên cái ta bà này Phật cũng đã bị bêu rếu bôi nhọ chưởi mắng nhưng Phật có đáp trả bằng những hành động đó không? Đã là diễn đàn, thì mọi ý kiến đều có hai mặt, ông hay thì ông phản biện lại, ông dở thì ông ngồi đó mà tham khảo mà học hỏi, tôi là gì và ông là gì mà ông gọi người ta là thằng, ai đã làm gì ông mà ông gọi là bất lương. Và cái chính là ông không hiểu gì những lời của tôi viết đâu, vì nếu hiểu người Phật Tử chân chính sẽ đau đáu trong TÂM về hiện trạng của đạo ngày nay, còn ông lại xung thiên lên thì tôi biết ông là ai rồi. Sau khi tôi viết những lời giải trình này, tôi không cần biết ông coi tôi là ai là gì đi nữa, thì tôi vẫn coi ông như một người bạn trên diễn đàn này.
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  16. #16

    Mặc định

    Người chết ông cũng chửi cho khang cái cổ hộng tui tưởng chỉ khùng thui ,bây giờ lại hóa điên luôn ,nguyên bài nhục mạ trước mắt ai mà không biết tiếng việt để đọc mà già còn chói cải rồi sủa tùm lum vậy già không điên là cái chi chi vậy già . Rồi hóa điên thành già điên tùm lum nha già .
    THÂN ÁI
    hôm nay khác ngày mai khác

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi xạo bá chấy Xem Bài Gởi
    nêu dẫn chứng trong kinh phật nào vậy?
    Chịu khó đọc PhậT thuyết kinh Diệt Tận mà 123456789 đã pót kìa.
    VẠN PHÁP TÙY DUYÊN SANH.

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi MuaLan Xem Bài Gởi
    Bài báo vốn rẽ tiền. Ví dụ đoạn này: nhưng liệu Phật Giáo có nên tiếp tục duy trì các lòng tin phản khoa học không?

    Giáo pháp của Phật là vô hình vô tướng vô sắc vô vị. Mà đem khoa học (hữu hình) ra chứng minh cái vô hình không khác nào đem con bò đi kéo xe tăng. :laughing::laughing::icon_rolleyes::icon_rolleyes:
    Lấy con công đem so với con gà rồi nói con gà đẹp hơn, bác nhỉ.
    VẠN PHÁP TÙY DUYÊN SANH.

  19. #19

    Mặc định

    Ông ba xạo à, tui có cọp py được một bài hay lắm, ông ba xạo chịu khó đọc rồi nghiền ngẫm một chút rồi ông mới biết thế nào là ý của tôi nhé, tôi bảo đảm ông mà hổng ngộ là hổng ăn tiền. Ở ngoài đời tôi mà có được một thằng bạn ba xạo như ông là tôi khoái lắm nghen... ha ha ha


    Xin được phép và cảm ơn tác giả Nghiêm Minh Kiên

    Mỗi một ngày trôi qua, bản đồ Phật giáo thế giới lại co lại một chút. Phật giáo đang mất dần chỗ đứng trên ngay chính quê hương của mình. Nào là Thái Lan, Hàn Quốc, Mông Cổ, Nhật Bản... Bản danh sách dường như cứ dài ra thêm hàng ngày. Con số Phật tử bị cải đạo sang Ki-tô giáo, sang Hồi giáo ngày càng nhiều. Là một Phật tử, tôi thấy trái tim mình như thắt lại mỗi khi xem những bản tin đó.

    Tôi mới có duyên biết đến giáo lý của đức Phật được hơn 4 năm nay, nhưng thời gian ngắn ngủi ấy đã đủ cho tôi chuyển hóa được khổ đau của cuộc sống, bứt ra được những lỗi lầm và vươn lên trong cuộc sống.

    Tôi thấy mình thật may mắn bởi được làm đệ tử của Phật, được sống trong hào quang của chân lý mà đức Từ Phụ đã thuyết giảng, và thầm xót xa cho những ai đang bị mê hoặc bởi những niềm tin thần quyền, hoặc sống theo chủ nghĩa duy vật mà không biết gì đến thế giới tâm linh.

    Giáo lý của Phật về luật Nhân Quả, về Luân Hồi, về Ngũ Uẩn, về 12 nhân duyên, về con đường giải thoát Bát Chính Đạo là ánh mặt trời xóa tan bóng tối của si mê, của tà kiến đã giam hãm nhân loại và chúng sinh trong ngục tù của đau khổ.
    Giáo lý của Phật là bài thuốc chữa trị tận gốc các căn bệnh của thân và tâm, giải thoát chúng ta vĩnh viễn khỏi khổ đau. Mỗi lẫn hiểu thêm được một chút chân lý trong kho tàng trí tuệ vĩ đại của đức Phật, trái tim tôi trào dâng những niềm hạnh phúc không thể nào dùng lời diễn tả được.

    Nhưng.......

    Nhìn lại quá trình đến với Phật pháp của bản thân mình, tôi mới thấy đó là một hành trình .... đơn độc. Tất cả bắt đầu từ những cái click chuột trên web. Khi mệt mỏi bởi những thông tin độc hại tràn ngập, tôi vô tình bấm vào một đường link đến Phật pháp, rồi dần dần khám phá ra kho tàng trí tuệ vĩ đại nơi đó. Chẳng có một người thầy nào hướng dẫn cho tôi cả.

    Hàng ngày trên con đường đi làm và đi chơi, tôi bàng quan lướt qua không biết bao nhiêu ngôi chùa, và cũng tự nhận thấy trên đất nước mình thật nhiều chùa. Những gì tôi được học từ nhà trường giúp tôi biết được Việt Nam mình có truyền thống Phật giáo từ mấy ngàn năm nay.

    Trước kia tôi làm nghề hướng dẫn viên du lịch, nên hay phải dẫn khách nước ngoài vào chùa. Đối với tôi, chùa chiền chẳng qua là một nơi tham quan không hơn không kém, vì chùa lưu lại những kiến trúc cổ, và hay được đặt ở những nơi có phong cảnh đẹp.


    Chùa Thầy - một thắng cảnh có nhiều khách viếng thăm, nhưng việc hoằng pháp tại các danh lam cổ tự như thế này còn bỏ ngỏ

    Tôi đã ra vào các ngôi chùa cổ như vậy ở ngoài Bắc không biết bao nhiêu trăm lần, mà chẳng lần nào mang được ra một chút đạo lý gì của nhà Phật. Tôi thỉnh thoảng cũng liếc nhìn thấy đạo lý, nhưng nó được đặt trong những ngăn tủ khóa kín, đôi khi bám đầy bụi và mạng nhện cũng có.

    Với tư cách là một hướng dẫn viên, tôi không thể đưa khách vô tham quan mà bản thân mình chẳng hiểu biết 1 chút gì về chùa chiền cả, vậy nên phải tự mua sách mà đọc. Suốt 5 năm làm nghề hướng dẫn viên du lịch, tôi thấy mình không hề bị giáo lý nhà Phật thuyết phục chút nào, vì những gì tôi đọc cũng chẳng có gì hấp dẫn.

    Bạn bè tôi hiện còn đang làm hướng dẫn viên du lịch cũng thế, họ làm cả chục năm nay rồi, vào chùa không biết mấy ngàn lần rồi, mà chẳng thấy ai có lòng tín ngưỡng đạo Phật cả. Những ngày Rằm hay mùng Một, hàng chục nghìn người đi chùa, ai cũng đến, thắp nhang, khấn vái, cầu xin rồi ra về.
    Nhiều người đi như vậy có khi mấy chục năm rồi, mà cũng chẳng mang về được từ chùa một chút đạo lý nào cả, nhất là ở ngoài Bắc. Những gì tôi thấy từ đạo Phật toàn là hình thái của mê tín.

    Ngẫm lại, tôi mới thấy Việt Nam mình có bao nhiêu chùa như thế, có bao nhiêu vị sư xuất gia như thế, có bao nhiêu người đến chùa ít nhất 2 lần/tháng như thế, mà tại sao ít người hiểu giáo lý Phật như thế??? Nếu tôi không tự học, không tự tìm hiểu thì tôi cũng sẽ giống như hàng triệu người đang đi chùa hiện giờ, chẳng hiểu gì về Phật pháp cả.
    Rồi số phận cho tôi cơ hội sống và công tác tương đối dài tại nước cộng hòa Nam Phi. Quốc gia này có 10% là người da trắng, 5% là người da nâu (gốc Trung Á, và gốc Mã Lai), còn lại là người da đen. Ở đây người ta nói tiếng Anh là chính.

    Sự phát triển của đất nước này làm cho tôi choáng ngợp, bởi nó chẳng khác gì một châu Âu thu nhỏ đặt trong lòng châu Phi. Tôi mang theo 1 đĩa CDRom Phật học trong hành trang của mình. Trong thời gian rảnh hàng ngày, tôi say mê đọc các tác phẩm trong đó, dần dần hiểu được cuộc đời Đức Phật, cuộc đời và hành trạng của các vị Đại Đệ Tử của Phật, cuộc đời và sự nghiệp của các vị Đại Tổ Sư trong các tông phái Phật giáo, giáo lý của đức Phật từ Nguyên Thủy đến Đại Thừa. Từng bước từng bước một tôi tiến sâu vào cung điện nguy nga của Phật Pháp mà say mê, trầm trồ.
    Bạn bè và đối tác làm việc của tôi ở nước ngoài thì hầu hết là người Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Ở nơi đó không có đạo Phật. Tôi chơi với những người đó và cũng tìm thấy nhiều điều thú vị ở hai tôn giáo đó.

    Vì tôi có chút năng khiếu về âm nhạc nên muốn tìm một nơi để tham gia ban nhạc vào cuối tuần cho thư giãn, và tôi đã chọn chơi nhạc trong một nhà thờ Tin Lành. Mỗi tuần chúng tôi tập nhạc 1-2 lần, và chơi nhạc vào tối thứ 7.

    Nhạc của họ có giai điệu rất hay, rất hấp dẫn thanh niên, và ngôn từ rất thánh thiện, ca ngợi chúa Giê-su và Thượng Đế. Thanh niên và sinh viên đi nhà thờ rất nhiều, vì khi cầu nguyện bằng tiếng nhạc đó, họ cũng cảm thấy vui và thư giãn, rồi khi được nghe những lời giảng đạo của các vị linh mục, họ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống, và được khuyến khích dấn thân vào làm những điều tốt lành phục vụ con người và thế giới.

    Nhưng giáo lý của họ thì không bao giờ thuyết phục nổi tôi, vì trong tôi đã có hiểu biết về Nhân Quả, Luân Hồi, Tứ Thánh Đế.. Tôi dấu mình là người Phật giáo, và hòa vào các hoạt động của họ y như 1 người Thiên Chúa giáo thuần thành.
    Mỗi lần họ bảo tôi cầu nguyện cùng trước khi biểu diễn, tôi cũng vào với họ, im lặng, và tôn trọng. Mỗi ngày các tín đồ Thiên Chúa giáo đến nhà thờ như vậy, họ được trang bị bao nhiêu là hiểu biết về giáo lý của họ, và trái tim họ được bơm đầy nhiệt huyết khi ra về.

    Cuộc sống mà tôn giáo đem lại cho họ đầy những niềm vui, cho dù cũng không phải ít người còn bán tín bán nghi vào việc Thượng Đế tạo ra thế giới trong 7 ngày, hay A đam và Ê va là cha mẹ đầu tiên của loài người, nhất là khi khoa học kỹ thuật đã phát triển như ngày nay. Những lúc như thế, tôi cứ ao ước sao Phật giáo mình cũng có thể làm được điều như vậy. Triết lý nhà Phật không giống như giáo lý đầy mâu thuẫn của Thiên Chúa giáo, mà có khả năng giải đáp cặn kẽ mọi vấn đề của vũ trụ và nhân sinh, và chỉ ra cho con người con đường giải thoát khỏi mọi đau khổ trong hiện tại.

    Nếu ai đi chùa cũng hiểu được giáo lý của Phật thì chắc đất nước Việt Nam sẽ là 1 thiên đường ngay trên trái đất này.

    Tôi có chút may mắn là được đào tạo tiếng Anh bài bản nên đối với những giáo lý nhà Phật mà tôi hiểu được thì việc chuyển tải lại bằng tiếng Anh không có gì khó khăn lắm. Trừ những người biết tôi trong nhà thờ, những người bạn da trắng khác của tôi hay cùng tôi nói chuyện về đề tài tâm linh tín ngưỡng.

    Lúc đầu là tôi khơi mào trước, và họ rất ham thích khi được tìm hiểu một truyền thống tâm linh khác. Vì tôi sinh hoạt trong nhà thờ nhiều nên giáo lý cơ bản của họ tôi cũng tương đối hiểu. Có lẽ nhờ đó mà tôi nói chuyện với người Thiên Chúa giáo không vất vả lắm.

    Khi được nghe về Nhân Quả và Luân Hồi, cùng những sự lý giải những điều thắc mắc mà bản thân đối với họ là “chỉ có Chúa mới biết” thông qua cái nhìn của Đạo Phật, họ ngạc nhiên lắm. Từ trước đến nay những chuyện đó họ không thể hiểu nổi tại sao, hỏi cha đạo thì cha cũng chỉ giải thích quanh co, rồi khuyên họ cầu nguyện.

    Nghe tôi nói về đề tài Nhân quả, Luân hồi, thế giới tâm linh, họ hứng thú nhiều lắm, và muốn được biết nhiều hơn nữa. Thế mới thấy giáo lý đạo Phật thật là quý giá!
    Có một thời gian tôi ở trọ trong một gia đình Hồi giáo. Cuộc sống của họ tương đối kỷ cương. Người Hồi giáo sống đoàn kết chặt chẽ với nhau theo từng cộng đồng. Đạo Hồi không có tính tổ chức chặt chẽ như Thiên Chúa giáo, nhưng lại sống quây quần thành từng cộng đồng dưới sự cai quản của các Imăm (tu sĩ Hồi giáo).

    Người Hồi giáo có một đức tin rất mãnh liệt, và tôi thấy việc cầu nguyện của họ dường như còn quan trọng hơn cả việc ăn ngủ. Họ lúc nào cũng sống với thánh Alah của mình, dù cho làm bất kỳ việc gì. Khi nói chuyện với họ như những người bạn, họ rất dễ mến. Nhưng khi nhắc đến các tôn giáo khác, họ tỏ ra rất không thích, và thậm chí hằn học, vì theo họ những kẻ không tin theo Alah đều là những người xấu xa.
    Cộng đồng Hồi giáo thì hoàn toàn do người đàn ông chi phối, người phụ nữ hoàn toàn thụ động, phụ thuộc và rất đáng thương. Sống một thời gian, tôi có một số người bạn Hồi giáo, và họ rất mến tôi. Biết tôi là người theo Phật giáo, họ cũng tò mò hỏi về Phật giáo, và cũng muốn giới thiệu về tôn giáo của họ.

    Nói chuyện với người Hồi giáo thì khó hơn người Thiên Chúa giáo nhiều, vì sự cực đoan trong giáo lý của họ rất dễ gây xung đột với người trái quan điểm. Nhưng tôi cũng chẳng gặp vấn đề nào cả, bởi khi sống với họ, làm cho họ yêu mến rồi thì sự khác biệt cũng không gây ra rắc rối.

    Một người bạn thân của tôi tên là Tahir, anh ta sống rất hiền và thuần thành. Đức tin của anh ta rất mạnh, cũng giống như tất cả những người khác. Nhưng khi nói chuyện với tôi một cách cởi mở, những gì tôi nói về luật nhân quả, về những dấu vết về luân hồi có thể nhận ra được trong cuộc sống xung quanh, và những lý giải về thế giới và nhân sinh theo triết lý Phật giáo v.v. đã làm cho anh ta rúng động thực sự, rồi dẫn tới hoang mang trước niềm tin mãnh liệt vào đấng Alah lâu nay.

    Tuy nhiên tôi không dám đi sâu hơn vì sợ phá vỡ niềm tin thiêng liêng ấy. Tôi nghĩ rằng nếu mình làm lung lay đức tin của một người khác mà không có đủ điều kiện để thay thế cho họ đức tin mới vào Phật pháp thì không phải là một việc hay ho. Giá như người này ở Việt Nam thì chắc chắn sẽ có ngày anh ta quy y Phật. Thế mới thấy một lần nữa rằng giáo pháp của đức Phật thật là quý báu!

    Nhìn lại thời gian chung sống với 2 tôn giáo đó, tôi thấy họ đều rất mạnh. Thiên Chúa giáo thì mạnh ở tính tổ chức, sự khôn khéo, năng động, và khả năng thích ứng nhanh với điều kiện mới. Còn Hồi giáo thì mạnh ở đức tin mãnh liệt và ở bạo lực.
    Nhưng cả 2 sức mạnh đó, nếu đối đầu với sức mạnh trí tuệ của đạo lý nhà Phật thì sẽ đều bị hóa giải. Tôi cho rằng bất kỳ một người đệ tử Phật nào nắm vững đạo lý thì dù sống với tôn giáo nào khác cũng không bị lung lay, vì chẳng giáo lý nào có thể thuyết phục được họ. Trong đêm tối, đèn đuốc là sáng, nhưng dưới ánh sáng mặt trời thì chẳng có đèn đuốc nào được coi là sáng cả.

    Vậy mà...

    Các vị hòa thượng tôn túc đang nghĩ gì khi hàng ngày thấy hàng nghìn Phật tử đang rời bỏ Phật pháp để bước sang tôn giáo khác? Đọc báo chí chúng ta thấy người Hàn Quốc đang hồ hởi đón nhận Tin Lành như thế nào? Rồi tại Mông Cổ, nơi Phật giáo có cả gần một ngàn năm tuổi, hàng ngày hàng trăm con người đang rời bỏ Phật giáo để bước sang Tin Lành, sang Thiên chúa giáo La Mã?
    Rồi ở Thái Lan và Srilanka, bom nổ đạn rơi làm cho những người Phật tử phải hoảng hốt mà chạy trốn khỏi quê hương, để lại đất đai và tương lai cho Hồi giáo nắm giữ.


    Tương lai Phật giáo nằm trong tay thế hệ Phật tử trẻ, nhưng... (Ảnh: TT. Thích Thanh Điện trao quyết định công nhận CLB TTNPT Quán Sứ)

    Rõ ràng sức mạnh của đạo Phật là giáo lý, của Thiên Chúa giáo là tổ chức, của Hồi giáo là bạo lực. Trong khi 2 tôn giáo kia luôn tận dụng triệt để sức mạnh của mình, thì Phật giáo lại chẳng biết dùng tới sức mạnh của giáo lý.


    ... Giáo hội đã có chiến lược gì để hoằng pháp và phát triển phong trào Thanh thiếu niên Phật tử? (Ảnh: CLB TNPT TP. Hồ Chí Minh trong lễ Vu Lan 2008)

    Muốn để giáo lý Phật giáo đến với mọi người, muốn duy trì mạng sống của Phật pháp, con khẩn cầu các vị tôn túc hòa thượng hãy trăn trở với sứ mạng hoằng pháp nhiều hơn nữa. Trong thời đại ngày nay khi cạnh tranh là đạo lý của sự sinh tồn, nếu Phật giáo không biết tận dụng sức mạnh của mình là hoằng pháp, chẳng mấy chốc sẽ đến lượt Việt Nam mình đứng trong danh sách các nước “đã một thời là Phật giáo”.

    Nghiêm Minh Kiên

    Last edited by thích tùm lum; 28-05-2010 at 12:37 PM.
    Thiên Đường Có Lối Không Ai Hỏi
    Địa Ngục Cửa Cài Lắm Khách Thăm

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoattunhan Xem Bài Gởi
    Chịu khó đọc PhậT thuyết kinh Diệt Tận mà 123456789 đã pót kìa.
    bác viết thiếu hai từ tà ma ạ !
    hôm nay khác ngày mai khác

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •