kết quả từ 1 tới 12 trên 12

Ðề tài: Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương

  1. #1

    Mặc định Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương

    Người 50 năm giải mã chữ của tổ tiên người Việt
    12/04/2011 06:00

    (VTC News) - Ông Xuyền nói: “Đây là chữ Khoa đẩu, chữ của người Việt cổ, của tổ tiên chúng ta. Từng chữ bốc lên như ngọn lửa, nên gọi là Hỏa tự”. Trong tôi trào dâng niềm xúc động, mặc dù, nhìn vào những dòng chữ đó, tôi chả hiểu được điều gì.

    Tôi nhớ mãi cái buổi tại Trung tâm Văn hóa người cao tuổi ở phố Đặng Văn Ngữ (Đống Đa, Hà Nội), vào cuối năm 2007, ông giáo già người Phú Thọ, đã thuyết trình cả buổi trước 40 nhà khoa học, toàn các giáo sư, tiến sĩ, các nhà sử học, ngôn ngữ học, văn học nước nhà. Lúc thì trên máy chiếu, lúc trên bảng đen, ông như thầy giáo của thời xưa cũ, và các nhà khoa học lớn của nước nhà, như những học trò, ngồi nghe ông thuyết giảng về một loại ký tự lạ. Loại ký tự lạ ấy không phải của người ngoài hành tinh, mà chính là của tổ tiên chúng ta!


    Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giảng giải về chữ Việt cổ (Ảnh: nhân vật cung cấp).

    Tôi cũng từng được nghe đâu đó, trong sử sách, truyền thuyết, rằng tổ tiên ta cũng có chữ cổ, rằng thứ chữ ấy có tên Khoa đẩu. Quả thực, tôi rất tò mò về loại chữ này. Tôi đã nhiều lần đến bãi đá cổ Sapa, đôi ba lần đến bãi đá cổ Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La, hiện các hòn đá đã được khai quật, giải phóng cho lòng hồ thủy điện Sơn La), bãi đá cổ ở Xín Mần (Hà Giang) và vinh dự là người đầu tiên được “người rừng” Trần Ngọc Lâm dẫn vào đại ngàn Hoàng Liên Sơn tận mắt bãi đá có hình khắc chưa từng được biết đến. Tuy nhiên, với khả năng hạn hẹp (gần như bằng không về cổ tự), tôi chỉ quan sát cho thỏa trí tò mò. Những hình vẽ loằng ngoằng đó liệu có phải cổ tự không, thú thật, tôi còn chẳng biết.


    Theo các nhà khoa học, trên bãi đá cổ Sapa xuất hiện nhiều chữ Việt cổ.

    Hôm nghe ông thầy giáo về hưu Đỗ Văn Xuyền nói như lên đồng trước đông đảo các nhà khoa học, trong hội trường chật hẹp, về một thứ chữ cổ của người Việt, đã thất truyền, giờ được ông giải mã, không riêng gì tôi, nhiều nhà khoa học vô cùng xúc động. Dù thứ ngôn ngữ và cách giải mã của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền chưa được thừa nhận chính thức, song nó đã khẳng định một điều, rằng đất nước ta, rằng người Việt chúng ta, từ mãi thời Vua Hùng, từ tận thời Đông Sơn mấy ngàn năm trước, đã từng có chữ. Chữ là văn minh, chữ là thịnh vượng. Rằng chúng ta không phải những người “ăn nhờ” văn hóa, “đi mượn” chữ viết của các dân tộc khác. Điều này quan trọng biết bao, ý nghĩa biết bao và bớt đi tủi nhục biết bao.


    Tác giả bên một hòn đá có chữ lạ ở bãi đá cổ Pá Màng (Liệp Tè, Thuận Châu, Sơn La).

    Và ở bãi đá có hình khắc chưa từng được biết đến trong rừng Hoàng Liên Sơn.

    Bẵng đi mấy năm, câu chuyện giải mã chữ Việt cổ, cách đọc chữ Việt cổ của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền cũng chìm vào quên lãng. Không thấy người ta hội thảo, không thấy bàn tán, chẳng thấy khen chê, ủng hộ, cũng chả thấy ai phản bác cái công trình 50 năm trời lặn lội của ông giáo giá kia. Chẳng lẽ công trình tưởng như không có gì lớn bằng, không có gì ý nghĩa bằng kia, là thứ vô tác dụng, là thứ nói ra cho biết rồi tống vào tủ cho mối mọt gặm?

    Ngày giỗ Tổ đến, cả triệu người dân nước Việt nô nức trẩy về đền Hùng, nơi thờ đức tổ Hùng Vương, với 18 chi, không biết bao nhiêu đời vua đã dựng xây, bảo vệ đất Việt suốt 2622 năm ròng (Từ thời Kinh Dương Vương 2879 TCN đến thời Thục Phán thôn tính nước Văn Lang 258 TCN). Tôi cũng hòa vào dòng người mang nỗi niềm xúc động tìm về tổ tiên. Trong lòng trào dâng bao ý nghĩ, bao thắc mắc về một thời khắc lịch sử rất dài mà có nhiều lộn xộn, khó hiểu. Thời đại Hùng Vương như một đám mây mênh mang, linh thiêng, bí ẩn và chưa được giải mã.


    Chữ Việt cổ chỉ còn rải rác xuất hiện trên những đồ vật thời Đông Sơn, trong đó có trống đồng.

    Lang bang với những ý nghĩ ấy, tôi chợt nhớ đến cái buổi hội thảo năm kia, ông giáo già tỉnh lẻ Đỗ Văn Xuyền, bằng công trình tâm huyết với tổ tiên, đã dựng lại cả một thời đại hùng tráng, thịnh vượng chả kém gì các nền văn minh rực rỡ của thế giới cổ đại. Thế là, rồi rời dòng người hối hả lên đền Hùng, tìm gặp ông giáo già Đỗ Văn Xuyền.

    Ngôi nhà khang ở con phố nhỏ phường Tân Dân (Việt Trì), ngay cạnh Công an tỉnh Phú Thọ lúc nào cũng im ỉm khóa, khóa cả cửa kính lẫn cửa sắt. Cạnh đó, có quán nhậu thịt trâu 7 món và cá sông Hồng nổi tiếng của Việt Trì, khách rất đông, ồn ào, náo nhiệt.

    Tôi bấm chuông mấy lần, người đàn bà mới ì ạch ra mở cửa. Bà nhìn tôi với ánh mắt không được thiện cảm. Tôi giới thiệu là nhà báo, bà bảo tôi vào ghế ngồi, rồi bà ngúng nguẩy lên gác.


    Ông Xuyền với bức tranh mà ông mô tả bằng hình ảnh và chữ viết của người Việt cổ.

    Một lát sau, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền từ gác đi xuống. Câu đầu tiên ông nói: “Cậu thông cảm. Bà vợ coi tôi là kẻ vô tích sự, toàn ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Bà ấy sợ các cậu đến, các nhà khoa học đến, lại thổi bùng lên nhiệt huyết trong tôi, rồi tôi lại bỏ nhà, bỏ mặc bà ấy lên đường tìm chữ cổ. Đấy là bà ấy nghĩ thế thôi, chứ niềm đam mê nghiên cứu chữ cổ đã ngấm vào máu của tôi hơn 50 năm nay rồi, cậu có động viên hay không thì tôi cũng vẫn say mê nghiên cứu. Suốt 50 năm trời, tôi tự mày mò, nghiên cứu, có cần ai động viên, ai cho tiền bạc gì đâu”.

    Lúc này, tôi mới hiểu rõ tâm tư bà vợ của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Cũng chả trách bà được. Công sức, tiền bạc, ông không dành cho gia đình, mà phục vụ thiên hạ, làm sao khiến phụ nữ vui cho được.



    Những tài liệu chữ Việt cổ được ông Xuyền bảo quản cẩn thận trong tủ kính.

    Tôi ngồi trò chuyện với ông Xuyền, vợ ông mang đên cốc nước rồi “lên án” chồng: “Ngày nào ông ấy cũng thức đến 12 giờ đêm nghiên với chả cứu. 3 giờ sáng ông ấy đã thức dậy rồi không ngủ nữa, cứ hì hục nghiên cứu chữ nghĩa. Mà cái thứ chữ ông ấy nghiên cứu có bán được đâu, có ăn được đâu. Tôi ở cùng nhà ông ấy, nhưng mấy chục năm nay, có mấy khi thấy mặt ông ấy đâu. Tiền lương hưu của ông ấy có hơn 2 triệu bạc, chả đủ để phô tô tài liệu, chứ đừng nói đến chuyện đi khắp trong Nam ngoài Bắc, lên rừng xuống biển. Có tiền ông ấy cũng đi, không có tiền ông ấy cũng đi, tôi ốm ông ấy cũng không thèm về, chả quan tâm gì đến cái gia đình này cả”.

    Những lời trách cứ của bà vợ, đã nói rõ nhiệt huyết của ông giáo già Đỗ Văn Xuyền. Không bỏ nửa thế kỷ tâm huyết, không hy sinh tất thảy, làm sao ông Xuyền có thể hoàn thành một công trình lớn như vậy, công trình mà hàng trăm nhà khoa học đầu ngành về ngôn ngữ, lịch sử, đã ôm hận xuống suối vàng khi việc nghiên cứu còn dang dở.


    Ông Xuyền dịch Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng sang chữ Việt cổ.

    Nói điều này, không có nghĩa tôi công nhận công trình giải mã, phục hồi chữ Việt cổ của ông thầy giáo Đỗ Văn Xuyền là thành công tuyệt đối (việc này phải ở tầm cỡ quốc gia, quốc tế công nhận đã), nhưng tôi phải công nhận rằng, tâm huyết, trí tuệ của ông với văn hóa quốc gia là đáng trân trọng.

    Để bắt đầu câu chuyện hành trình đi tìm chữ cổ kéo dài hơn 50 năm trời, ông Đỗ Văn Xuyền chọn lọc trong đống tài liệu ngập tủ tủ kính phòng khách và phòng làm việc trên tầng 2 của ông cho tôi xem.

    Tôi lật từng trang tài liệu mà hoa cả mắt, rặt là một thứ chữ lạ, chẳng giống chữ Hán, chẳng giống chữ Nôm, cũng chẳng ra chữ Lào, chữ Thái. Ông Xuyền nói: “Đây là chữ Khoa đẩu, chữ của người Việt cổ, của tổ tiên chúng ta đấy. Từng chữ bốc lên như ngọn lửa, nên gọi là Hỏa tự”. Trong tôi tự dưng trào dâng niềm xúc động, mặc dù, nhìn vào những dòng chữ đó, tôi chả hiểu được điều gì.

    Còn tiếp…

    Phạm Ngọc Dương
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Bí ẩn chữ viết thời Hùng Vương
    14/04/2011 06:00

    (VTC News) - Ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa, phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.




    Để chứng minh thời kỳ Hùng Vương đất nước ta có chữ Viết, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền đã đến hàng trăm đền, đình, miếu để khảo cứu. Càng tìm hiểu, ông càng ngạc nhiên khi thấy khắp đất nước ta, có cả trăm đền, miếu thờ thầy giáo, học trò.

    Ông đã đi khắp các tỉnh, từ Đông Bắc sang Tây Bắc, đi hết miền Trung để mục sở thị các di tích, ghi chép lại, lập bản đồ mạng lưới dạy học thời Vua Hùng, trước khi người Hán sang xâm lược.


    Ông Xuyền (bên trái) trao đổi với các nhà nghiên cứu của Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam. Ảnh nhân vật cung cấp.

    Trong quá trình khảo cứu, tìm tư liệu, ông Xuyền may mắn tiếp cận được những tài liệu mà người Pháp thu thập trong cuộc tổng kiểm kê các di tích, làng xã vào năm 1938. Rồi các công trình như: Thần linh đất Việt, Các nữ thần Việt Nam, Các nữ tướng của Hai Bà Trưng… Ông Xuyền đã tìm thấy cả trăm di tích nói về thầy, trò, lớp học.

    Theo đó, mở đầu của nền giáo dục trước khi Hán xâm lược, là thời Hùng Vương thứ 6 và kết thúc là thời Hai Bà Trưng với thầy Đỗ Nam Tế, cô Tạ Cẩn Nương, thầy Lê Đạo, sư bà chùa Phúc Khánh… Có điều lạ là, vào thời kỳ đó, có rất nhiều cô giáo và học trò nữ, chứng tỏ, thời Hùng Vương, nam nữ rất bình quyền.

    Tại đền thờ Lỗ Công ở thôn Bồng Lai (Từ Liêm), còn một tấm bia cổ ghi rõ: Thầy giáo Lỗ Công dạy học ở Kinh Thành (Văn Lang). Học trò của thầy Lỗ Công là Hoàng Trụ, con của công chúa Mỵ Châu Hoa (con gái Hùng Đinh Vương, Vua Hùng 16). Hoàng Trụ biết chữ, về thôn Bồng Lai mở lớp, dạy học. Do có công với dân làng, nên dân làng lập đền thờ phụng.


    Bản đồ mạng lưới đền, miếu thờ thầy cô, học trò thời Hùng Vương do ông Xuyền lập.

    Sau khi phát hiện hàng trăm thầy, cô, học trò thời Hùng Vương (với ghi chép cụ thể, đầy đủ), thầy giáo Đỗ Văn Xuyền khẳng định rằng, thời Hùng Vương, đất nước ta đã có chữ viết. Nếu không có chữ, chẳng lẽ hệ thống giáo dục của thời kỳ này lại dạy chay?

    Có tài liệu của người Hán viết rằng, năm 178, Sĩ Nhiếp làm Thái thú đất Giao Châu, thấy vùng Giao Châu không có chữ viết, nên đưa chữ Hán vào dạy. Tuy nhiên, lịch sử từ nước ta khẳng định rằng, Sĩ Nhiếp đã đốt sạch tài liệu, sách vở, cấm người dân học chữ Việt, bắt buộc phải học chữ Hán. Hàng ngàn năm Bắc thuộc, chữ Việt mai một rồi biến mất cũng là điều dễ hiểu.


    Chữ cổ trên trống đồng trưng bày ở Đền Hùng.

    Càng tìm hiểu, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền càng tin rằng người Việt từng có chữ viết riêng. Người Lào, người Campuchia, thậm chí các dân tộc thiểu số quanh vùng còn có ngôn ngữ, chữ viết riêng, thì không lẽ gì người Việt lại không có chữ.

    Mang công trình ghi chép hành trình đi tìm các lớp học thời Hùng Vương gặp GS. Hà Văn Tấn để trình bày khát vọng muốn đi tìm chữ Việt cổ, ông Xuyền đã bị ấn tượng mạnh. Khi đó, GS. Hà Văn Tấn đã nằm liệt, không cử động được nữa. GS. Tấn cứ nắm tay ông Xuyền khóc không ngừng. GS. Tấn đã dành cả đời để nghiên cứu chữ Việt cổ, song công trình nghiên cứu còn dang dở thì ông đã nằm liệt, không tiếp tục được nữa.

    Sau này, ông Xuyền tiếp tục gặp GS. Lê Trọng Khánh, người cũng dành gần như cả cuộc đời để nghiên cứu chữ Việt cổ. Khi đó, GS Khánh đã 86 tuổi, mắt mờ, chân yếu. Ông Khánh khóc to lắm, rồi cứ nắm tay ông Xuyền dặn dò, động viên tiếp tục công việc nghiên cứu còn dang dở của ông.


    Chữ cổ trên bãi đá Sapa. Ảnh nhân vật cung cấp.

    Sau khi gặp hai vị giáo sư hàng đầu về chữ cổ, niềm khao khát giải mã chữ Việt cổ của thầy giáo Đỗ Văn Xuyền lại càng mãnh liệt. Nhưng trước hết, để giải mã được chữ Việt cổ, thì phải có trong tay nhiều chữ cổ.

    Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần quy, bối hữu Khoa đẩu”. Nghĩa là, thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu.

    Theo cổ sử Trung Quốc, thời vua Nghiêu (năm 2357 TCN), sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) dâng thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy lịch.


    Ông Xuyền viết chữ Việt cổ cho tác giả xem.

    Trong tài liệu “Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ”, do Viện Văn hóa in năm 1986, GS. Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy - Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Riêng ở Việt Nam, chữ Khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng.

    Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... trước đó là Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Lục Lưu, Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng.

    Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Tiêu biểu là 28 ký tự cổ được phát hiện trên 4 chiếc qua đồng Đông Sơn. Các nhà khoa học cho rằng, những ký tự này là chữ Việt cổ, nhưng chưa giải mã được.

    Hễ nghe thông tin ở đâu phát hiện ký tự lạ, cổ, ông Xuyền lập tức lên đường tìm hiểu, bất kể ở trên rừng hay dưới biển, ở ngoài Bắc hay trong Nam và dù trời mưa nắng hay bão giông.


    Bản thảo chữ cổ do ông Vương Duy Trinh phát hiện.

    Do các chuyến đi đều dài ngày, đi xa, mà tiền lương hưu ít ỏi, nên ông giáo già Đỗ Văn Xuyền đã thực hiện tiết kiệm tối đa. Mỗi chuyến đi, ông đều chuẩn bị võng, bạt, bi đông đựng nước, mì tôm, bánh mì. Tối ông không vào nhà nghỉ mà mắc võng, dựng bạt ngủ ven rừng, bên đường, rồi nhai bánh mì, mì tôm sống cầm hơi. Hàng chục chuyến hành trình vất vả, kéo dài có khi đến cả tháng, nhưng thứ chữ ông thu thập phần lớn chỉ là chữ Chăm, chữ Lào, chữ Thái cổ.

    Đọc tài liệu về ông Phạm Thận Duật, ông Xuyền như bắt được vàng. Phạm Thận Duật là quan triều Nguyễn, từng làm Tri châu ở Tây Bắc, là một nhà văn hóa lớn của dân tộc. Cuối thế kỷ 19, ông tìm thấy chữ Việt cổ. Theo mô tả, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Thứ chữ này khác với chữ Thái cổ, khác chữ Hán.

    Tuy nhiên, công trình nghiên cứu, giải mã chữ Việt cổ của ông Duật còn dang dở, thì bị thực dân Pháp bắt. Ông bị đày đến Tahiti. Ông bị chết trên đường đi và thực dân Pháp ném xác ông xuống biển.

    Cùng thời gian đó, ông Xuyền tiếp cận được các tài liệu liên quan đến ông Vương Duy Trinh, Tổng đốc Thanh Hóa. Năm 1903, ông này đã phát hiện ra một văn bản là một bài thơ viết bằng thứ chữ lạ, vờn lên như ngọn lửa, gọi là hỏa tự. Văn bản chữ lạ này được phiên dịch ra chữ Hán và tựa đề bài thơ đó là “Mời trầu”, có nội dung ca ngợi tình yêu.

    Ông Vương Duy Trinh khẳng định đây là chữ của tổ tiên thời Vua Hùng, vẫn còn được lưu truyền cho hậu thế, nhưng chỉ ở một bộ phận xã hội nhỏ. Ông viết: “Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Hán".

    Nắm được điều đó, ông Xuyền đã chuyển hướng tìm kiếm chữ cổ lên vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Cứ ở đâu có chữ lạ, chữ cổ, chữ không ai biết, không ai đọc được, là ông nghiên cứu, sưu tầm, so sánh.

    Còn tiếp…

    Phạm Ngọc Dương
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  3. #3

    Mặc định

    Chữ Việt cổ - chữ của nền văn minh rực rỡ?
    15/04/2011 06:00

    (VTC News) - Thứ chữ Việt cổ mà ông Xuyền giải mã, thực sự là một thứ chữ của một nền văn minh rực rỡ, loại chữ của một dân tộc mà trí tuệ đã đạt đến một đỉnh cao nhất định.


    Tôi phải công nhận rằng, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền là người quá yêu dân tộc, ông yêu lịch sử đất nước với một kiểu cách có thể nói là… điên rồ. Mấy chục năm trời công sức và không biết bao nhiêu tiền của, ông đã đổ cả vào những chuyến đi, chỉ với khát vọng chứng minh tổ tiên chúng ta từng có chữ viết. Có những lúc, không tìm đâu ra tiền để đi, ông đã cầm cố cả sổ lương hưu của mình.


    Để có tiền đi thực tế, tìm chữ cổ, đã nhiều lần ông Xuyền phải cắm sổ hưu của mình.

    Vậy nên, chẳng có gì lạ, khi có lần, đọc tài liệu của một nhà nghiên cứu nói rằng, thời kỳ Vua Hùng, người Việt chẳng qua là một bộ lạc ăn hang ở lỗ, ông đã giận đến rơi nước mắt. Ông Xuyền tin rằng, một bộ lạc sống trong hang, cởi trần, đóng khố, đàn ông đi săn bắn, đàn bà hái lượm, không thể làm ra được những chiếc trống đồng tinh xảo đến độ con người ngày nay không giải thích nổi. Đó phải là sản phẩm của một nền văn minh rực rỡ, có chữ viết và có một nền tảng khoa học tương đối vững chắc.

    Quá trình tìm hiểu lịch sử tổ tiên, ông Xuyền nhận thấy rằng, thời kỳ Hùng Vương là thời kỳ phát triển rực rỡ, đỉnh cao của người Việt cổ. Trước đó rất xa là nền văn hóa Hòa Bình, nền văn hóa mà học giả Colani (người Pháp) đã phát hiện, tuyên bố là “cái nôi của văn minh nhân loại”. Nền văn hóa này xuất hiện trước Lưỡng Hà, Trung Quốc, Ấn Độ tới cả ngàn năm!


    Bảng so sánh chữ Việt cổ với một số chữ của các dân tộc khác.

    Qua quá trình thu thập, nghiên cứu chữ cổ của người Việt, ông Xuyền nhận thấy, từ thời kỳ xa xưa, cho đến khi người Hán sang xâm lược, người Việt sử dụng nhiều loại chữ, các loại chữ liên tục phát triển, từ hình vẽ sơ khai, đến tượng hình đơn giản, tượng hình phức tạp và cuối cùng là một loại chữ Việt cổ tượng thanh.

    Sau khi sàng lọc, ông Xuyền tập trung vào loại chữ Việt cổ tượng thanh. Theo ông, đây là loại chữ cuối cùng của người Việt cổ. Mặc dù Sĩ Nhiếp ra sức tiêu diệt loại chữ này, song nó vẫn âm ỉ lưu giữ trong dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa.

    Hồi nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng ngàn cuốn sách cổ có ký tự lạ, ông đã tìm lên và ăn dầm ở dề tại Sơn La để tìm hiểu. Mấy nhà nghiên cứu ở Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam kể rằng, ông Xuyền đã khóc rất to khi thông báo với các nhà nghiên cứu ở đây rằng, những tài liệu tìm được ở Sơn La là một kho chữ Việt cổ.


    Người dân vùng dân tộc thiểu số vẫn còn lưu giữ nhiều sách cổ. Trong những cuốn sách cổ này vẫn còn hình bóng chữ Việt thời Hùng Vương.

    Ông Xuyền đã “nhặt” được rất nhiều ký tự rải rác trong những cuốn sách cổ này, mà ông tin chắc đó là chữ cổ của người Việt. Những chữ là này nhìn qua tưởng chữ tượng hình, nhưng thực tế, lại là chữ tượng thanh. Nhiều ký tự trong các cuốn sách dùng để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ. Nhiều dân tộc vùng Tây Bắc đã sử dụng, lưu giữ, bảo tồn loại chữ này suốt hàng ngàn năm Bắc thuộc và kéo dài đến khi xuất hiện chữ quốc ngữ, thậm chí đến nay vẫn sử dụng.

    Nghiên cứu, tổng hợp các con chữ được ông Xuyền cho là sử dụng ở thời kỳ Hùng Vương, ông thấy rằng, bộ chữ này không có dấu, gồm 47 chữ cái. Bộ chữ thỏa mãn được 3 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học quốc tế đề ra. Thứ nhất, bộ chữ ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc. Thứ hai, những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc thể hiện qua các đặc điểm của ký tự đó. Thứ ba, giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ.


    Một số nguyên âm chữ Việt cổ!


    Có một thực tế, loại ký tự đó chỉ ghi âm được một phần nhỏ ngôn ngữ người Việt hiện đang sử dụng. Nó không ghi được âm vực, vì không có dấu (sắc, hỏi, huyền, ngã…). Nếu loại ngôn ngữ tượng thanh này mà không “ghi âm” được âm thanh, thì sẽ không được thừa nhận hoặc việc giải mã thất bại.

    Để chứng minh được khả năng “ghi âm” của những ký tự này, ông Xuyền phải đi khắp Việt Nam để thực hiện các cuộc ghi âm, phỏng vấn. Ngay khi nghe tin trong Tây Ninh có tộc người Tà Mun từ Tây Nguyên chuyển về, họ tự nhận là dân tộc Việt, ông đã vào Tây Ninh tìm hiểu. Ông Xuyền tin rằng, tộc người này đúng là người Việt cổ, vì họ nói bằng thứ tiếng Việt cổ hoàn toàn không có dấu.


    Ông Xuyền viết hai câu thơ bằng chữ Việt cổ.

    Rồi ông vào Quảng Bình, tìm đến dân tộc Chứt. Ông thấy dân tộc này nhuộm răng đen, xăm trán. Họ ăn thịt gà nướng, canh cua đồng nấu măng, phụ nữ đẻ “nằm bếp” như người Kinh thời xưa. Họ tự xưng là người Alak (người Lạc) và tiếng của họ hoàn toàn không có dấu. A cho (chó), A ka (cá), kuan gôi (Con gái), Mơ (mẹ)… Ông Xuyền sử dụng các ký tự Việt cổ có thể ghi lại được toàn bộ ngôn ngữ của dân tộc này.

    Theo một tài liệu của Trung Quốc, thì người gốc Ngô Việt ở Thượng Hải hiện cũng chỉ nói có hai thanh là thanh cao và thanh trầm, tương đối giống với ngôn ngữ người Việt cổ xưa.

    Chẳng nói đâu xa, ngay vùng Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất của Hà Nội, người dân vẫn nói không có dấu. Ông Xuyền đã tìm đến nhiều ngôi làng cổ ở Hà Nội, Phú Thọ, Bắc Ninh, Thái Bình… và phát hiện tại những ngôi làng cổ, ít giao lưu với bên ngoài, người dân vẫn nói bằng thứ ngôn ngữ rất nhẹ, không có thanh. Ông Xuyền cũng đọc được nhiều tài liệu của các nhà ngôn ngữ nước ngoài, nhận xét rằng, thế kỷ 16,17, người Việt Nam nói cứ líu ríu như tiếng chim, chẳng có thanh sắc gì.



    Hàng vạn cổ vật tinh xảo thời Hùng Vương được tìm thấy.


    Từ những phát hiện này, thầy giáo già Đỗ Văn Xuyền tin rằng, ngôn ngữ của người Việt thời Hùng Vương không có thanh, như vậy, phù hợp với các ký tự, chữ viết không có thanh (không có dấu) của người Việt cổ.

    Theo ông Xuyền, chữ tượng thanh là chữ của thời hiện đại, của văn minh, của trí tuệ và nó vượt xa thứ ngôn ngữ tượng hình của Trung Quốc. Theo quan điểm của ông, thứ chữ tượng hình của Trung Quốc là loại chữ lạc hậu, cổ hủ nhất thế giới. Bởi vì, người học phải mất mười năm dùi mài kinh sử, mới nhớ được một lượng chữ nhất định và tất nhiên học cả đời cũng không nhớ hết được mặt chữ. Trong khi đó, với loại chữ tượng thanh của người Việt cổ thời Hùng Vương, chỉ cần chú tâm học 7 đến 10 ngày là có thể viết thành thạo, ghi lại được ngôn ngữ nói.


    Một ông thầy cúng đang dạy chữ Dao cổ ở Bảo Thắng, Lào Cai.

    Theo ông Xuyền, chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ thời hiện tại, vì trong hàng ngàn năm bị triệt hạ, thứ chữ này phải tồn tại một cách lén lút trong các tộc người Việt gốc sống ở vùng sâu, vùng xa. Do không được sử dụng rộng rãi, không được cải tiến cho phù hợp với sự phát triển của ngôn ngữ nói chung, đặc biệt sự phát triển ngôn ngữ ở các vùng đô thị rất mạnh mẽ, do giao lưu văn hóa với bên ngoài, nên thứ chữ này đã trở nên lạc hậu, không sử dụng được nữa.

    Bất cứ thứ chữ nào cũng vậy, đều được cải tiến liên tục cho phù hợp với ngôn ngữ, cuộc sống thay đổi từng ngày, từng giờ. Một thứ chữ nằm im cả ngàn năm, tự dưng lôi ra, ghi âm tiếng nói hiện tại, tất nhiên là khập khiễng. Tuy nhiên, ông Xuyền khẳng định rằng, nếu đặt thứ chữ này vào ngôn ngữ thời xưa, hoặc ở các vùng miền mà người dân vẫn nói giọng cổ, không có dấu, thì nó sẽ phát huy tác dụng một cách gần như tuyệt đối.

    Thứ chữ Việt cổ mà ông Xuyền giải mã, thực sự là một thứ chữ của một nền văn minh rực rỡ, loại chữ của một dân tộc mà trí tuệ đã đạt đến một đỉnh cao nhất định. Đó là trí tuệ của một thời đại có hàng ngàn năm độc lập, xây dựng và phát triển – thời đại các Vua Hùng.

    Còn tiếp…

    Phạm Ngọc Dương
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4
    Nhất Đẳng Avatar của MrLove
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    www.tudienkybi.com
    Bài gởi
    1,871

    Mặc định

    Mong cho thầy Xuyến luôn mạnh khỏe để tiếp tục nghiên cứu và cống hiến cho dân tộc Việt nói riêng và văn minh nhân loại nói chung. Tôi hy vọng ông sẽ sớm xuất bản vài cuốn sách, tài liệu cổ đã được giải mã - dịch.
    Từ Điển Kỳ Bí - Bí mật của Shiva

  5. #5

    Mặc định

    Ta sẽ dần hiểu cội nguồn tâm linh của người Việt. Tại sao nói chúng ta là con Lạc Long Quân, Mẫu Âu Cơ. Trời Cha và Đất Mẹ. Thái Dương Minh Minh Châu Quang Phật Nhật Thiên Tử. Chúng ta sẽ dần hiểu chúng ta là một dân tộc thượng cổ. Đàn anh của nhân loại về mặt tâm linh. Hỏa tự là một kiểu chữ phải bắt nguồn từ Thái Dương Minh Minh Châu Quang Phật Nhật Thiên Tử.

  6. #6

    Mặc định

    Người đọc thông viết thạo chữ Việt cổ!
    16/04/2011 06:00

    (VTC News) - Sau 50 năm nghiên cứu chữ Việt cổ, thời đại Hùng Vương, ông giáo già Đỗ Văn Xuyền giờ đã đọc thông, viết thạo chữ Việt cổ. Ông có thể nói luôn cả tiếng của người Việt cổ xưa. Ông Xuyền nói vui rằng, nếu có phép thần thông quảng đại, hoặc cỗ máy vượt thời gian, đưa ông về thời Đông Sơn, ông có thể dễ dàng giao tiếp với người Việt thời kỳ đó.




    Giờ đây, thầy giáo Đỗ Văn Xuyền, với bút danh Khánh Hoài, vẫn sáng tác thường xuyên. Bản thảo truyện ngắn, công trình nghiên cứu lịch sử, văn hóa của ông xếp thành chồng. Tuy nhiên, không ai đọc được những bản thảo đó ngoài ông, vì chúng được viết bằng chữ… Việt cổ.

    Tôi đưa cuốn sổ cho ông Xuyền, nhờ ông viết mấy chữ tặng tôi. Chẳng cần suy nghĩ, ông cầm bút viết nhanh như viết chữ Quốc ngữ.


    Ông Xuyền viết tặng phóng viên bằng chữ Việt cổ.

    Cho đến lúc này, một số người vẫn coi việc làm của ông là điên rồ, rỗi hơi, bởi dù thứ chữ Việt cổ đó có được khôi phục lại, cũng chẳng ai dùng nữa, vì đã có chữ Quốc ngữ rồi.

    Ông Xuyền thì không nghĩ như vậy. Với ông, chỉ cần trả lời được câu hỏi: Thời kỳ Hùng Vương tổ tiên chúng ta có chữ hay không, đã là một thành công ngoài sức tưởng tượng của ông rồi. Với việc chứng minh thời kỳ đó có chữ viết, ông Xuyền càng tự hào về tổ tiên mình, là những người có trình độ, tri thức cao, chứ không phải là những người tiền sử, đóng khố, ở trần như sử sách vẫn nói.


    Giải mã chữ Việt cổ giúp công tác nghiên cứu lịch sử, khảo cổ thời kỳ Hùng Vương thuận lợi hơn.

    Các nhà khoa học phương Tây đã làm được một việc vĩ đại, đó là giải mã được chữ viết đã thất truyền của người Ai Cập cổ đại. Dù xã hội hiện đại không dùng thứ chữ đó phục vụ cuộc sống, nhưng nó là phương tiện cực kỳ thuận lợi để các nhà khoa học nghiên cứu lịch sử. Có vô vàn những tài liệu bí ẩn thời Ai Cập, mà nếu không giải mã được chữ viết, sẽ bế tắc trong việc nghiên cứu. Nghĩ vậy, nên ông Xuyền đã dày công tìm cách giải mã loại chữ Việt cổ thất truyền này.

    Ông giáo già Đỗ Văn Xuyền bảo rằng, tài năng khảo cổ, lịch sử, nhất là chữ Việt cổ của ông, không thể so với những “núi Thái Sơn” như Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Phạm Thận Duật, Vương Duy Trinh… Thế nhưng, ông lại có may mắn hơn các vị tiền bối, là được tiếp thu những công trình nghiên cứu vĩ đại của người đi trước, vô tình có được nhiều tài liệu quý và may mắn khi tìm ra được phương pháp giải mã loại chữ cổ này.


    Rất nhiều tài liệu cổ còn lưu giữ ở vùng sâu, vùng xa chờ các nhà khoa học giải mã.

    Sau khi sưu tầm đầy đủ ký tự chữ Việt cổ, nắm được giọng nói, ngôn ngữ của người cổ, ông Xuyền nghiên cứu ngôn ngữ, chữ viết tuần tự theo thời gian từ thời hiện đại trở về trước. Ông đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc được một tài liệu cổ, mà nhà truyền giáo Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”.

    Như vậy, rõ ràng một thiếu niên bản xứ đã dạy cho nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha này một loại ngôn ngữ tượng thanh. Ông ta chỉ học có 3 tuần là biết cách đọc các từ, thay vì phải học ít nhất 10 năm như chữ Hán. Ông Xuyền tin rằng, thứ chữ mà người thanh niên đó dạy nhà truyền giáo Bồ Đào Nha là chữ Việt cổ! Điều đó có nghĩa, những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công Latin hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ.





    Những văn bản Quốc ngữ thời kỳ đầu rất khó đọc, nhưng ông Xuyền có thể đọc dễ dàng.


    Ngoài ra, có một tài liệu lưu ở Tòa thánh La Mã. Sau khi chép lại nhiều trang giấy tập viết chữ Quốc ngữ, đoạn cuối, chủ nhân của tập tài liệu viết thế này: “Đây là tài liệu tập chuyển thể từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ (năm 1625 – tài liệu)”.

    Nghĩ theo hướng đó, ông Xuyền lục tìm những tài liệu liên quan đến các nhà truyền giáo, đến chữ Quốc ngữ vào thế kỷ 17, 18.

    Ông Xuyền giở một đống tài liệu phôtô các văn bản chữ Quốc ngữ từ cách nay vài chục năm, cho đến 350 năm trước cho tôi xem. Những văn bản này còn lưu lại rất nhiều trong các thư viện ở Lisbon, Pari, Roma... Tôi quả thực hết sức ngạc nhiên về những văn bản này. Những văn bản từ đầu thế kỷ 20 còn đọc được khá trôi trảy, nhưng ngược đến thế kỷ 19, tương đối khó đọc, và nhiều chữ không đọc nổi. Lần giở các văn bản chữ Quốc ngữ của thế kỷ 17 thì gần như không đọc được. Tôi chỉ có thể đọc được một vài chữ trong một văn bản cả ngàn chữ vào thời kỳ mà chữ Quốc ngữ mới ra đời.


    Giờ đây, ông giáo Xuyền ít sử dụng chữ Quốc ngữ, mà toàn sử dụng chữ Việt cổ vào công việc ghi chép, sáng tác.

    Theo ông Xuyền, vì ông đã nghiên cứu chữ Việt cổ rất lâu rồi, 50 năm nay rồi, và đã hiểu được tương đối, nên khi cầm những văn bản chữ Quốc ngữ thời kỳ đầu, trong khi các nhà khoa học chưa chắc đã đọc được, thì ông đọc vanh vách, không bị vấp bất cứ một chữ nào.

    Điều ngạc nhiên mà ông Xuyền nhận thấy, đó là nhiều ký tự mà các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha sử dụng trong những buổi đầu tương đối giống với chữ Việt cổ. Càng về sau này, qua cả trăm lần cải tiến, thay đổi, những chữ tương đối giống chữ Việt cổ đã dần biến mất và mất hẳn bóng dáng trong các văn bản Quốc ngữ ngày nay.

    Mặc dù, về hình dáng, chữ Việt cổ không còn nét nào giống chữ Quốc ngữ, nhưng lại cùng có cấu trúc ghép vần.

    Theo ông Xuyền, bí quyết để giải mã được chữ Việt cổ, là phải hiểu được ngôn ngữ thời xưa và nắm được quy luật thay đổi vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ “trời” nguyên âm đặt phía trên, từ “đất” nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ “cha, con” nguyên âm đặt phía trước hoặc sau…). Khi đã nắm được quy luật ghép vần, hiểu được ngôn ngữ Việt cổ, thì chỉ cần học chưa đầy 10 ngày, có thể đọc, viết được loại chữ này!


    Con rùa đá có khắc chữ Việt cổ đặt tại miếu Hai Cô. Ảnh nhân vật cung cấp.


    Khi đã giải mã được chữ Việt cổ, ông Xuyền có thể dễ dàng phiên dịch từ chữ Việt cổ sang chữ Quốc ngữ và ngược lại. Chữ Việt cổ không ghi âm được phần lớn ngôn ngữ hiện đại, nhưng khi chuyển ngôn ngữ hiện đại về ngôn ngữ Việt cổ, thì việc dịch diễn ra dễ dàng.

    Từ ngày giải mã được loại chữ mà ông Xuyền khẳng định là chữ Việt cổ, chính quyền, nhân dân Việt Trì đã góp công sức, tiền bạc xây dựng lại ngôi miếu Hai Cô. Các hoành phi, câu đối đều được viết bằng thứ chữ Việt cổ do ông Xuyền thực hiện.

    Mới đây, Trung tâm Văn hóa người cao tuổi Việt Nam đã dâng tặng ngôi miếu một “quy thần” bằng đá, lưng khắc chữ Việt cổ. Rùa đá này biểu thượng cho quy thần mà Hùng Quốc Vương dâng tặng cho Vua Nghiêu vào năm 2357 trước công nguyên.

    Có thể nói, sự tồn tại của chữ Việt cổ là một sự thật, đã được các học giả trong và ngoài nước thừa nhận. Đó là niềm tự hào dân tộc. Việc giải mã được chữ Việt cổ, giúp chúng ta và thế hệ sau sẽ có điều kiện tốt hơn trong việc nghiên cứu lịch sử nước nhà.

    Công trình giải mã chữ Việt cổ của nhà giáo già Đỗ Văn Xuyền đã đúng hướng hay chưa, đã thành công được mức độ nào, cần có rất nhiều sự đầu tư của các nhà khoa học và các cuộc hội thảo mang tầm quốc gia, thậm chí là quốc tế.

    Phạm Ngọc Dương
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  7. #7
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    nhìn giống những ký tự của phế tích dưới biển cả yonagini

    haiz...........................

  8. #8

    Mặc định

    Giống chỗ nào vậy bạn??
    Tiện đây, nếu có ai có tài liệu gì về bộ kí tự hoàn chình của Thầy Xuyến và cách viết chữ Việt Cổ thì post lên cho HV cùng những ai yêu thích tìm hiểu về bộ chữ của Tổ Tiên cùng tham khảo.
    Thân.

  9. #9
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Hưng Vương Xem Bài Gởi
    Giống chỗ nào vậy bạn??
    Tiện đây, nếu có ai có tài liệu gì về bộ kí tự hoàn chình của Thầy Xuyến và cách viết chữ Việt Cổ thì post lên cho HV cùng những ai yêu thích tìm hiểu về bộ chữ của Tổ Tiên cùng tham khảo.
    Thân.
    rất giống đấy !
    haiz...........................

  10. #10

    Mặc định

    Tôi là học sinh cũ của Thầy Xuyền. Thầy Xuyền thực sự là một người Thầy đa tài, tôi tin công trình nghiên cứu của Thầy sẽ thành công.E kính chúc Thầy luôn dồi dào sức khỏe để cống hiến được nhiều hơn nữa cho cuộc đời ! (Học sinh trường Sa Đéc của Thầy!)
    Đã thương thì thương cho trót, đã vót thì vót cho tròn....

  11. #11
    Người bảo vệ Chánh Pháp Avatar của GaDiBo
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Cõi Trần
    Bài gởi
    1,011

    Mặc định

    Tôi cũng mong muốn trong tương lai, tiếng Việt cổ sẽ lấy lại bản sắc và sẽ phát triển, tiếng Việt sẽ hoàn toàn là Tiếng Việt, không cần phải mượn ký tự la-tinh nữa. Một khi người Việt lấy lại bản sắc dân tộc Việt thì đất nước chúng ta sẽ phồn thịnh, trở lại vị thế đi đầu mà trước đây hàng vạn năm tổ tiên ta đã gầy dựng.

    Cảm ơn ông Xuyên rất nhiều!
    Bất cứ cái gì sinh ra, thì cũng sẽ hoại diệt.

  12. #12
    Người bảo vệ Chánh Pháp Avatar của GaDiBo
    Gia nhập
    Dec 2012
    Nơi cư ngụ
    Cõi Trần
    Bài gởi
    1,011

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kiếp mù lòa Xem Bài Gởi
    nhìn giống những ký tự của phế tích dưới biển cả yonagini

    Là Yonaguni bạn à. Với lại khác nhau hẳn thế mà bạn kêu giống, vậy bạn dẫn chứng đi.
    Bất cứ cái gì sinh ra, thì cũng sẽ hoại diệt.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Bí ẩn hạc trắng ở ngôi đền thờ vua An Dương Vương
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 03-09-2011, 10:12 AM
  2. Giải mã bí ẩn giấc mơ của Quốc sư Khuông Việt
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 05-05-2011, 08:08 PM
  3. Tập tục cưới hỏi thời Vua Hùng
    By Bin571 in forum Văn Hóa thời HÙNG VƯƠNG
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 10-04-2011, 01:54 PM
  4. Bí ẩn khu mộ thiêng bên đường
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 30-03-2011, 09:12 AM
  5. Bí ẩn “giếng thần” từ thời Chăm Pa
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 25-01-2011, 11:20 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •