Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 23

Ðề tài: Các võ nhân nổi tiếng ở Bình Định thời Pháp thuộc

  1. #1

    Mặc định Các võ nhân nổi tiếng ở Bình Định thời Pháp thuộc

    Giới thiệu sách



    Xuất bản: Nxb Trẻ, 2001.
    Số trang: 728 trang.

    Họ Quách sinh sống tại Bình Định đã trên 300 năm. Nhà thơ Quách Tấn thuộc thế hệ thứ chín và Quách Giao, con của nhà thơ thuộc thế hệ thứ mười. Sống tại đất Tây Sơn đã nhiều thế hệ nên họ Quách biết được nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương, nhất là về triều đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Nhà thơ Quách Tấn đã có rất nhiều tác phẩm viết về Bình Định. Khi ông mất, con là Quách Giao đã nối tiếp dùng tư liệu của cha mình hoàn tất cuốn sách Võ Nhân Bình Định này.Võ Nhân Bình Định giới thiệu cùng bạn nhiều nhân vật võ của tỉnh Bình Định, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh đến năm 1945.
    Sách gồm có 3 phần:
    Phần I: Giới thiệu khái quát địa lý - Lịch sử tỉnh Bình Định
    Phần II: Võ thuật Bình Định: lược thuật các môn phái võ Bình Định, võ thuật đời Tây Sơn.
    Phần III: Võ nhân Bình Định: giới thiệu những nhân vật võ của tỉnh Bình Định.
    Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn.

    Vài trích dẫn từ cuốn sách :


    1. Hồ Ngạnh

    Hồ Ngạnh tên thật là Hồ Nhu, sinh năm Ất Mão (1891), nguyên quán thôn Háo Nghi, xã Bình An, cư ngụ tại thôn Hòa Bình, xã Bình Thuận, huyện Bình Khê (Tây Sơn), tỉnh Bình Định.
    Con của ông Đốc Năm và bà Nguyễn Thị Quyến. Thuở thiếu thời, Hồ Ngạnh học võ với bà mẹ. Nguyên một hôm khi chạy sang chơi bên hàng xóm, ông bị bọn trẻ bắt nạt. Trong bọn trẻ có một tên con trai của ông Hương Kiểm trong làng, luôn luôn tìm cách hành hạ Hồ Ngạnh. Ban đầu thì nhịn nhục nhưng càng ngày càng lắm chuyện, nên Hồ Ngạnh bèn đánh trả. Con ông Hương Kiểm thua bèn chạy về mách cha. Hương Kiểm bênh con nên xách gậy đi tìm Hồ Ngạnh. Hồ Ngạnh sợ chạy về nhà, gặp mẹ đang giẫy cỏ trước sân. Chưa kịp phân trần cùng mẹ thì Hương Kiểm đã vào đến sân, Hồ Ngạnh vội núp sau lưng mẹ.
    Vừa chạm mặt bà Quyến, Hương Kiểm đã mắng phủ đầu:
    - Này thằng mất dạy, tại sao mày dám đánh con tao. Cha mẹ mày dạy mày như vậy hả?
    Hồ Ngạnh bình tĩnh đáp lại:
    - Tại con ông cứ theo đánh tôi mãi. Tôi đã nhịn nhiều lần, cùng quá nên không nhịn được tôi phải đánh trả, lỗi đâu phải tại tôi.
    Đuối lý, Hương Kiểm nổi quạu:
    - Mày còn lý sự hả? Có giỏi thì đánh với tao coi.
    Vừa nói Hương Kiểm vừa tiến tới giơ gậy định bổ vào đầu Hồ Ngạnh.
    Bà Quyến liền hạ cán cuốc xuống:
    - Khoan đã ông Hương Kiểm. Tại sao ông lớn mà đi ăn hiếp con nít như vậy?
    - Tao chấp cả hai mẹ con mày.
    Ông Hương Kiểm vừa nói vừa vụt vào đầu bà Quyến một gậy. Nhanh như chớp lưỡi cuốc đã bay vào mặt khiến tên Hương Kiểm phải vội thối lui.
    - À con này cũng có nghề đây!
    Hương Kiểm vừa nói vừa vụt liên tiếp hai gậy. Bà Quyến xoay cán cuốc đánh ngược lên một thế. Cắt, cụp, cây gậy trong tay Hương Kiểm bay vù ra đến tận ngõ. Quá hoảng sợ, Hương Kiểm không kịp nhìn lại, ù té chạy thẳng một mạch về nhà.
    Từ đó, Hồ Ngạnh được mẹ luyện tập võ nghệ. Hai mẹ con quanh quẩn trong nhà ít ra đến bên ngoài. Ông Đốc Năm vốn người thuần hậu, có võ học song không lộ ra ngoài, để mặc hai mẹ con chỉ dạy nhau. Lớn lên, Hồ Ngạnh cũng theo học hai vị danh sư là Đội Sĩ và Hồ Khiêm.
    Một hôm, trời vừa sẩm tối thì nhà ông Đốc Năm có một vị khách đến thăm. Đó là một võ sư dạy võ ở kinh đô Huế, họ Hồ, xuất thân là một Tạo sĩ (đậu Tiến sĩ võ) đã từng dạy roi cho lính hộ thành Huế. Sau vì có liên quan đến phong trào Cần Vương nên bị truy nã. Vốn là bạn ông Đốc Năm nên ghé đến nương nhờ ẩn náu. Thôn Thuận Truyền đất rộng người thưa, đồi hoang tiếp núi nên rất thuận tiện làm nơi tỵ nạn.
    Để không lộ tông tích, ban ngày ông Tạo sĩ ở luôn trong nhà, nằm nơi võng trên nhà trên. Khi có người, ông leo lên ẩn náu nơi lẫm thượng. Lẫm thượng là một ngăn gỗ lớn gần sát mái nhà, dùng để chứa lúa và vật dụng quý.
    Để đền ơn cưu mang, ông Tạo sĩ luyện roi cho Hồ Ngạnh. Tục ngữ có câu: "Roi Kinh, quyền Bình Định" để nói đến cái ưu việt của võ nghệ ở Việt Nam. Tại kinh đô, các quân cấm vệ đa số được các võ sư giỏi côn dạy rất kỹ lưỡng. Cho nên các tay giỏi về côn đều được triều đình trưng dụng về làm giáo đầu dạy roi cho quân phòng vệ. Bao nhiêu tinh hoa đều được tập trung về Huế.
    Đêm đêm, Hồ Ngạnh được thầy chỉ dạy về roi. Ban ngày khi cần thiết, thầy trò chiều chiều rủ nhau ra nơi truông vắng luyện tập cùng nhau. Thầy tận tâm truyền dạy, trò nỗ lực học tập, nên chẳng bao lâu Hồ Ngạnh thông thạo hầu hết các đường roi thế đánh của thầy. Càng hiểu biết, Hồ Ngạnh càng luyện tập chuyên cần.
    Vị Tạo sĩ đến cũng âm thầm và ra đi cũng lặng lẽ. Đưa thầy hơn nữa ngày đường, Hồ Ngạnh trở về chuyên tâm rèn luyện. Tuy không phô trương nhưng tiếng đồn Hồ Ngạnh giỏi roi vẫn lan xa. Trong giới võ lâm mọi người thường nhắc đến.
    Một hôm, có một tay võ người Phù Cát nghe tin Hồ Ngạnh giỏi võ bèn tìm đến thử sức.
    Khách đến nhà vừa đúng lúc Hồ Ngạnh tắm nơi giếng nước. Khách hỏi xin một gáo nước lạnh. Hồ Ngạnh ân cần mời vào nhà uống nước trà. Khách làm bộ cầm gáo nước đòi uống nước giếng. Chiều ý khách Hồ Ngạnh cúi xuống lấy gàu múc nước. Chờ có thế, khách nhanh tay cầm gáo đánh vào đầu Hồ Ngạnh. Sẵn dây gàu trên tay, Hồ Ngạnh vung lên đón lấy thân gáo và co chân đá văng ông khách hỗn xược vào bụi chuối cạnh giếng. Tay võ Phù Cát xấu hổ, vùng dậy đi te te một nước. Cũng dùng thế võ này, Hồ Ngạnh đã xử trí dùng khăn lông vắt vai đoạt lấy đao của một võ sĩ khác ban đêm lén vào thử sức.
    Tiếng đồn lại vang xa và lần này Hồ Ngạnh thử sức với đồng đảng Dư Đành.
    Nguyên vùng Tứ Thuận (Thuận Nhứt, Thuận Ninh, Thuận Truyền, Thuận Hạnh) vốn là nơi xa xôi hẻo lánh, rừng núi cận kề, thường là hang ổ tạm trú của bọn thảo khấu lục lâm. Làm ăn xong thì chúng thường lui về đây chia của hoặc ẩn náu dưỡng quân. Bè đảng của Dư Đành cũng thường qua lại. Nghe trong thôn Thuận Truyền có Hồ Ngạnh nổi tiếng về roi, bọn chúng cho người lại đề nghị hợp tác, nhập bọn làm ăn. Hồ Ngạnh từ chối. Chúng bèn nhắn tin hẹn gặp. Mặc dù bạn bè can ngăn, Hồ Ngạnh một mình xách roi vào truông y lời hẹn. Nửa đêm, Hồ Ngạnh về nhà, quần áo rách bươm nhưng không một thương tích trên người. Bạn bè đến hỏi thăm nhưng Hồ Ngạnh chỉ mỉm cười không nói. Biết tính Hồ Ngạnh, bạn hữu không ai đá động đến chuyện đó nữa. Cũng từ hôm đó, thôn Thuận Truyền vắng bóng bọn thảo khấu, nhất là bè đảng của Dư Đành không còn lai vãng nữa. Người hiểu biết nói với nhau rằng đêm hôm hẹn gặp, bè đảng và Dư Đành đã bị Hồ Ngạnh đánh cho tan tác. Chúng cam kết sẽ chừa đất Thuận Truyền không bao giờ dám xâm nhập. Thấy chúng tôn trọng luật giang hồ nên sau này Hồ Ngạnh không tiếp nhận trát mật đi tìm bắt Dư Đành, mặc dù phủ huyện đã nhiều lần cho người đón mời.
    Hồ Ngạnh chỉ có một người con trai bị bạo bệnh, mất một cách đột ngột, để lại một con trai tên Hồ Sừng. Việc con trai mất đột ngột khiến cho dư luận đặt ra câu chuyện như sau:
    Hồ Ngạnh dạy cho con trai nhiều năm võ nghệ song còn dấu lại một món nghề đề phòng thân. Người con nhiều lần cầu xin cha dạy cho món nghề đó, song đều bị từ chối. Một hôm, nhân dịp tối trời, con bịt mặt lẻn vào đánh lén Hồ Ngạnh. Hai cha con giao đấu với nhau, người con trúng đòn độc của cha nên phải tháo thân chạy trốn.
    Sáng hôm sau, trong buổi ăn sáng, Hồ Ngạnh nói cùng vợ:
    - Khi hôm có thằng lẻn vào đánh trộm tôi. Võ nghệ nó cũng khá. Không biết nó học trò ai mà có nhiều chiêu độc thủ. Tôi lỡ tay đánh nhằm chỗ hiểm của nó. Sợ thằng nhỏ nguy đến tính mạng.
    Bà Hồ Ngạnh nghe xong, buông chén đũa òa lên khóc:
    - Thôi ông giết thằng con ông rồi.
    Hồ Ngạnh giật mình tỉnh ngộ:
    - Thôi đúng nó rồi, hèn chi nó ra đòn quen quá.
    Hai ông bà vội chạy sang nhà con trai thì chứng kiến cảnh con trai đang thoi thóp trên giường.
    Chuyện này chỉ truyền miệng, không một chứng tích đáng tin.
    Có một chuyện nữa liên quan đến sự giao thiệp và tiếng tăm của ông. Vẫn là câu chuyện truyền miệng. Hồ Ngạnh giỏi roi nên một hôm, được bạn rủ đi ăn giỗ rồi van nài giúp cho đồng bọn cầm roi cản hậu một vụ cướp ở Phú Yên. Trận đánh xảy ra như ý định. Toán vũ trang của dân làng đuổi theo bị ngọn roi Hồ Ngạnh đánh bại. Sự vụ bị truy lùng, Hồ Ngạnh phải bán ruộng để lo quan mới được yên.
    Quãng đời lúc về già, Hồ Ngạnh thường đi đây đi đó, thăm viếng các cảnh chùa, thăm mạch bốc thuốc cứu đời.
    Ông qua đời vào mùa xuân năm Bính Thìn (1976) tại quê nhà. Hưởng thọ 85 tuổi.
    Last edited by NganhCong; 07-03-2013 at 11:55 AM.
    :rose: :rose: :rose:

  2. #2

    Mặc định

    2. Diệp Trường Phát

    Người Minh Hương, ngụ tại An Thái, huyện Bình Khê, có tục danh là Tàu Sáu.
    Ông sinh trưởng tại Việt Nam, song theo tục lệ Trung Quốc, năm lên mười ông được đưa về Trung Quốc học văn lẫn võ trong năm năm. Ông nói tiếng Việt rành rỗi như một người dân Việt. Võ nghệ giỏi, văn chương lại tinh thông, hợp với tính tình đôn hậu nên bạn bè của ông có khắp nơi trong tỉnh.
    Cùng với họ Quách, họ Diệp là hai họ đầu tiên gây dựng nên thôn An Thái và tổ chức thành một nơi thị tứ. Hai họ rất thân với nhau. Sau khi họ Quách dời lên thôn Thuận Nghĩa, hai bên vẫn thường xuyên qua lại thân tình với Quách Trường Xuyên và Quách Trường Sa, tuy hai anh em học Quách thuộc vào hàng con cháu.
    Hầu hết các trai tráng trong làng đều học võ nơi ông. Tuy nhiên, ông không chuyên tâm huấn luyện một ai để trở thành truyền nhân của ông. Ngoại trừ người con trai.
    Ông Tàu Sáu giỏi về quyền cước. Bởi vậy, ở Bình Định có câu: "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái" hoặc "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh", vì tại An Thái có võ sư Diệp Trường Phát, ở An Vinh có gia đình ông Hương mục Ngạc. Cho nên dùng câu nào cũng được.
    Trong những năm ở Trung Quốc, ông theo học võ Thiếu lâm. Gần đây có người ghép ông là ông tổ phái võ Tây Sơn. Chuyện này không được chính xác. Vì tổ tiên của ông không có liên hệ gì với nhà Tây Sơn và chính ông cũng thừa nhận ông thuộc môn phái Thiếu lâm.
    Ông không bao giờ đấu võ ở các nơi. Khi phải giao đấu với Hai Tửu là sự chẳng đặng đừng. Một là cho Hai Tửu một bài học, hai là chứng tỏ tài nghệ của mình. Tuy là một võ sư danh tiếng mà thái độ ôn tồn nhã nhặn như một văn nhân. Nhìn qua, không ai ngờ là người đã từng đánh ngã một lần mười người đàn ông mạnh khỏe.
    Sau đây là mẩu đối thoại giữa ông và Quách Trường Xuyên:
    - Đối với tôi, nước Trung Hoa là cha, nước Việt Nam là mẹ. Chữ hiếu nặng cả hai vai.
    Trường Xuyên hỏi:
    - Võ Bình Định nổi tiếng ở Việt Nam, nhưng đối với võ Tàu thì như thế nào?
    Diệp Trường Phát đáp:
    - Võ Bình Định gốc võ Tàu mà ra. Mà võ Tàu có nhiều môn phái. Truyền sang Việt Nam hầu hết là môn phái Thiếu lâm. Những võ sư sang Việt Nam có lắm người chưa học hết các môn trong môn phái. Rất ít người đã lãnh hội được môn bí truyền của bổn sư. Như thế những người Việt Nam học võ, thì làm sao sánh kịp những người học tận gốc.
    - Lúc về Tàu, chắc chú thụ giáo được nhiều?
    - Học suốt đời mà còn chưa tới chỗ vi diệu, huống hồ tôi chỉ học có mấy năm. Những gì trước kia tôi học được ở Việt Nam, khi về Tàu đều trở thành vô dụng mà còn có hại là khác. Những đường đi sai lâu ngày trở thành thói quen, thật khó cải tạo! Cho nên muốn học võ phải tìm thầy thiện nghệ chớ nếu học với những người thiếu căn bản chỉ biết "tròm trèm đôi miếng", tục gọi là "thầy vườn" thì đừng học còn hơn. Chính những người thiếu căn bản, những ông thầy vườn lại là những người ưa khoe khoang, ưa đấm đá, làm mất uy danh của võ lâm nhiều lắm. Do đó tôi ít muốn nói về võ nghệ.
    Diệp Trường Phát cũng giỏi về văn chương. Ông sở trường về thơ Nôm. Cũng như phần đông người làm thơ Đường Luật, họ Diệp bị ảnh hưởng lối thơ trực trần và thiên về lối tiểu xảo lấy việc đối chọi cân xứng, sít sao mà định giá trị của thơ.
    Một năm nọ, họ Diệp ra Quảng Nghĩa chơi, nhân có người ra đề "Dạ Vịnh Bút Sơn thi", ai muốn làm thơ chữ, thơ Nôm tùy thích. Phần đông người Việt và người Hoa làm thơ chữ Hán. Một mình họ Diệp là người Hoa lại làm thơ Việt. Ai nấy đều ngạc nhiên:
    Dựng ngược giữa trời bút một cây
    Chữ là hàng nhạn, chép là mây
    Sao vì chấm hẳn từng câu rõ
    Trăng cứ khuyên lần mấy chỗ hay
    Nét mực nước chan nào có giậm
    Cái ngòi gió thổi vẫn không lay
    Nghìn thu cao ngất hình còn tạc
    Tạo hóa vì ai khéo đắp xây
    (Trích hồi ký Bóng ngày qua của Quách Tấn)
    Ông cũng rất rành về môn hát bội. Giọng hát hay, lý thuyết giỏi và nghiên cứu rất tường tận các bản tuồng của các cụ Tú Nhơn Ân Nguyễn Diêu và cụ Đào Tấn. Những buổi gặp gỡ bạn bè võ nghệ như Đoàn Phong, Trường Sa, các bạn lại ít bàn về võ nghệ mà lại làm thơ thù tạc và phân vai cùng hát một vài lớp Trầm hương các, Cổ thành hội, Ngũ hổ bình tây.
    Ông mất vào năm 1963, mộ chôn tại quê hương An Thái.
    :rose: :rose: :rose:

  3. #3

    Mặc định

    3. Hương Mục Ngạc

    Ông Hương mục Ngạc cư ngụ tại An Vinh, huyện Bình Khê (Tây Sơn ngày nay).
    Thuộc dòng họ có võ nghệ. Tổ tổ cô của ông là sư phụ của bà Bùi Thị Xuân. Bà này nghe tiếng bà Xuân và tự thân đến gặp để đêm đêm truyền thụ võ nghệ. Dạy học trò mà không cho biết tên tuổi, quê quán. Đến khi gần chết, trong lúc chia tay cũng vẫn giữ hành tung bí mật.
    Vốn truyền thống con nhà võ, nên ông Hương mục Ngạc đã ham mê võ nghệ ngay từ thuở niên thiếu. Sống trong thôn An Vinh vốn đã nổi tiếng giỏi về quyền, nhờ gia đình có truyền thống về võ nghệ, nên ông luyện tập võ nghệ rất có căn bản.
    Nghe đồn tại Kiến Hàng có ông Khách Bút giỏi võ. Nhất là sự kiện chợ Gò lại làm ông nổi tiếng khắp nơi. Ông Hương mục Ngạc khăn gói xuống Kiến Hàng xin bái sư học tập. Ban đầu, ông Khách Bút từ chối, song trước tấm lòng thành khẩn của ông Hương mục Ngạc, ông Khách Bút tạm thời chấp nhận cho ở trọ lại vài hôm để khảo sát võ nghệ và đức tính con người.
    Sau khi biết rõ về gia thế và nhìn người thanh niên biểu diễn quyền cước, ông Khách Bút lấy làm ưng ý và nhận làm học trò. Đồng thời, ông Khách Bút cũng nhận thêm một học trò nữa cũng cùng thôn An Vinh. Đó là ông Năm Nghĩa. Hai người học trò có hai tư chất khác nhau, nên ông Khách Bút chú tâm luyện cho mỗi người một chuyên biệt võ công.
    Ông Hương mục Ngạc vốn đã rèn luyện về môn quyền, nên được thầy chuyên tâm hướng dẫn về quyền. Co nên sau này, ông Hương mục Ngạc nổi tiếng về quyền và làm cho thôn An Vinh vang danh về quyền:
    Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh

    Ông Năm Nghĩa thì người mảnh khảnh nhưng vóc cao, nên được rèn luyện về roi. Ông chuyên về trường tiên và trung bình tiên. Sau này ông truyền lại cho ông Hồ Ngạnh ở Thuận Truyền các thế nổi danh về roi.
    Ông Hương mục Ngạc sanh được ba người con, hai trai một gái (thật ra là tám người song ba còn sống).
    Vì là con dòng võ, nên ngay từ thuở nhỏ, ba anh em được cha tận tình rèn luyện, nên sau này ba anh em đều nổi tiếng. Đó là Bảy Lụt, Tấm Cảng và Chín Giác.
    Góa vợ sớm, nhưng ông không tục huyền và dành tất cả thời gian để dạy dỗ cho ba con. Đồng thời, ông cũng dạy nhiều học trò. Có nhiều người nổi tiếng như Hai Tửu là một.
    Thôn An Vinh chẳng những nổi tiếng về giỏi võ trong huyện Bình Khê mà còn lan rộng ra khắp tỉnh Bình Định và các tỉnh lân cận.
    Mỗi khi tỉnh Bình Định tổ chức một cuộc đấu võ đài nhân dịp lễ lộc hay tết nhất thì chính quyền thường mời ông Hương mục Ngạc đứng ra tổ chức. Một phần là nhờ ở uy danh ông Hương mục Ngạc, một phần ở chỗ ông Ngạc có bạn bè, học trò rất nhiều, nên sẽ đông người tham dự và nhất là không có sự phá phách làm rối trật tự trong các buổi giao đấu.
    Cuộc đời ông Hương mục Ngạc tuy không để lại cho đời những mẫu chuyện võ lâm gay cấn hay huyền thoại ly kỳ, song ông đã có công dạy dỗ con cái thành danh, học trò nổi tiếng và nhất là hầu hết thanh niên thôn An Vinh phần nhiều đều biết võ nghệ và là học trò của ông.
    Trong nghiệp võ, ông chưa hề để lại một điều ân hận nào. Người dân thôn An Vinh khi nhắc đến tên ông Hương mục Ngạc đều một niềm thánh kính, tuy ông không phải là tổ sư phái võ An Vinh, song cũng là một bậc tôn sư đầy khả năng và đức độ.
    Riêng về ông Năm Nghĩa thì sống một cuộc đời thầm lặng của một nông dân, tuy thân mình mang nhiều tài ba võ nghệ.
    Hai ông tham gia vào việc yểm trợ cho đồng bào chống thuế năm 1908, song hai ông vẫn coi đó là một nghĩa vụ góp phần vào đại cuộc chớ không phải là một thành tích đáng ghi. Tuy nhiên, người dân An Vinh cũng như nhân dân Bình Định vẫn ghi nhớ mãi trong lòng.
    :rose: :rose: :rose:

  4. #4

    Mặc định

    4. Khách Bút

    Tại huyện An Nhơn, cách Đập Đá vài cây số trên đường đi Gò Bồi, có một khu phố nằm dọc theo sông Biểu Xuyên có nhiều người Trung Quốc đến lập phố: đó là khu phố Kiến Hàng. Cách xây cất giống như mọi khu phố của người Trung Hoa ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam. Những dãy phố thấp lè tè và sâu hun hút. Bên ngoài dùng để buôn bán và bên trong gồm nhiều gian phòng làm kho và làm chỗ ở.
    Trong một ngôi nhà nhỏ, sống cô đơn một ông khách già. Đó là ông Khách Bút. Ông sống bằng nghề cao đơn hoàn tán. Trong một tủ kính kê sát tường, bày đủ mọi thứ thuốc cao đơn rất ngăn nắp. Một bộ ván nhỏ kê bên cạnh một cái bàn rộng, sắp đầy các thố thủy tinh to có, nhỏ có, trong chứa các loại thuốc tán, thuốc nước.
    Hàng tháng, ông thường đóng cửa hàng, quảy một đôi bầu đi bán tại các chợ phiên Đập Đá, chợ Gồm, chợ Dinh. Đôi khi ông cũng đi Quy Nhơn, hoặc ra khỏi tỉnh. Ông sống lặng lẽ, ít bầu bạn nên mọi người chung quanh ít ai chú ý đến ông. Nhất là không ai biết ông là một võ sư sang Việt Nam để sinh sống bằng nghề bán cao đơn hoàn tán.
    Cho đến một hôm, ông Khách Bút quảy đôi bầu đi bán phiên chợ Gồm về muộn. Trời đã tối mịt mà ông phải đi qua một cách gò mả khá rậm để về nhà. Một toán cướp dường như đã phục sẵn để chờ ông. Chúng lặng lẽ đón đường và đòi lấy tất cả tiền bán hàng. Ông Khách Bút không chịu, nên một trận ẩu đả xảy ra. Dùng chiếc đòn gánh, ông Khách Bút đã đánh tan tác bọn cướp. Tuy không có người chết song không một người nào không khỏi bị thương. Câu chuyện đón đường ăn cướp bị đánh tơi bời rất ít người biết, vì bọn cướp cố giấu cái thảm bại của mình và riêng ông Khách Bút thì không khi nào mở miệng kể lại với ai. Sau này, khi nhận dạy võ cho học trò, ông mới kể lại. Mãi đến khi xảy ra câu chuyện náo loạn tại chợ Gò - Tuy Phước, khắp cả huyện, toàn tỉnh đều biết ông Khách Bút là một người có võ nghệ tuyệt luân.
    Phiên chợ Gò là một phiên chợ hàng năm có một lần họp chợ rất đông đảo, tập hợp mọi người chẳng những là trong huyện Tuy Phước mà còn gồm nhiều người ở các quận trong tỉnh Bình Định và các tỉnh Nghệ An, Huế, Quảng Nam, Gia Định, Phú Yên…
    Nguyên đây là một khu gò mả rộng rãi nằm gần chùa hang núi Cần Úc, huyện Tuy Phước, gần quốc lộ xuống Quy Nhơn. Gò này trong thời Tây Sơn đã xảy ra một trận đánh lớn, quân Tây Sơn và Gia Long chết tại đây rất nhiều.
    Tháng 4 năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh kéo quân ra đánh Quy Nhơn, sai Võ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở núi Hàm Long, thuộc huyện Tuy Phước. Hàm Long, còn gọi là Cần Úc, là một độc sơn thấp bé song có thể dụng binh, nằm trong địa phận thôn Thuận Nghi. Hình giống như đầu rồng, miệng há rộng. Con sông Hà Thanh chạy từ nam ra bắc, qua khỏi núi thì quành xuống đông để ra đầm Thị Nại, tạo thành cánh tay ôm lấy chân núi ở mặt bắc và mặt tây.
    Chiếm cứ Hàm Long, Võ Tánh chờ thủy binh của Nguyễn Ánh kéo đến đánh ở mặt bắc thành Quy Nhơn thì mình sẽ kéo binh đánh bọc hậu.
    Tướng Tây Sơn là Võ Đình Tú đi kinh lý Phú Yên được tin quân Nguyễn Phúc Ánh đổ bộ lên Quy Nhơn, vội kéo quân về, đi thẳng lên Cần Úc đánh quân Võ Tánh.
    Hai bên đánh nhau kịch liệt suốt hai ngày đêm. Trận này quân Tây Sơn thất bại và tướng Võ Đình Tú tử thương. Dưới chân núi Cần Úc có một gò rộng lớn. Thây binh sĩ hai bên chôn cất lẫn lộn tại đây. Vì là nơi chôn cất của binh lính hai nhà Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu, gồm nhiều quân các tỉnh, nên hàng năm vào ngày phiên chợ Gò (ngày 30 tháng 4) những thân nhân của các tử sĩ đều tụ hội về thắp nhang tập thể tại chợ Gò. Để tránh sự rắc rối do quan quân địa phương triều Nguyễn Gia Miêu, phần đông người đi tảo mộ đều đem theo một ít hàng hóa nơi địa phương mình để bán tại chợ Gò, gọi là có công chuyện bán buôn. Do đó ngày 30 tháng 4 âm lịch, chợ Gò bỗng nhiên đông đảo người đi chợ.
    Chợ nhóm bắt đầu từ lúc hoàng hôn buông xuống. Từ xế chiều, các đoàn người gồm đủ các hạng người: già có, trẻ có, thanh niên, thiếu nữ, quang gánh, thúng mủng, tay xách, tay nải từ các nẻo đường tụ hội về tại chợ. Ngay trước ngõ vào chợ là một cái "bể hạ" (một loại như cửa ngọ môn làm bằng gỗ và tre được dựng ngay trên đầu hai cánh cửa đan bằng tre chắc chắn). Đi ngoài đàng cái quan nhìn vào khi hai cánh ngõ đóng lại thì không thấy gì bên trong chợ cả.
    Khi trời nhá nhem tối, người bán hàng bày hàng của mình ngay dưới đất và trước hàng cắm một nhánh tre, trên treo một ngọn đèn dầu phộng cháy leo lét. Dưới gốc nhánh tre, một bó nhang nghi ngút tỏa khói. Nhìn chung toàn cảnh thì trông như một buổi họp chợ, song cái không khí náo nhiệt ồn ào thường lệ của một buổi chợ phiên nơi thôn quê không còn nữa mà chỉ như một đám cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy tại các chợ làng. Tuy nhiên nhờ có đông đảo người qua lại, nên tuy ít phần náo nhiệt song vẫn có cái không khí chợ búa. Không khí ban đầu im lắng trang nghiêm bao trùm cả chợ.
    :rose: :rose: :rose:

  5. #5

    Mặc định

    5. Năm Nghĩa

    Người thôn An Vinh, huyện Bình Khê (Tây Sơn ngày nay), bạn học võ cùng với ông Hương mục Ngạc.
    Gia đình thuộc tầng lớp trung nông. Vóc người cao nhưng mảnh khảnh. Tình hình hiền lành đôn hậu. Thích học võ nghệ, song lại không ưa tranh tài cao thấp. Nghe tiếng đồn danh sư Khánh Bút nên xuống Kiến Hàng xin lạy thầy thụ giáo. Học được chân truyền về roi. Chuyên sử dụng roi đấu và roi chiến (trường tiên và trung bình tiên). Tính hợp với thầy, được thầy thương như con.
    Không nhận dạy học trò, nhưng có truyền lại một vài thế về roi chiến cho Hồ Ngạnh.
    Năm 1908, phong trào kháng thuế tại Bình Định bùng nổ. Ông Huỳnh Vân người Phù Mỹ, võ giỏi, chí lớn, có học vấn, ở trong ban lãnh đạo phong trào, đích thân lên An Vinh mời ông cùng Hương mục Ngạc tham gia phong trào. Biết rằng mình không có tài lãnh đạo nên ông chỉ tham gia hỗ trợ. Ông vui vẻ nhập cùng nhóm Hương mục Ngạc đi trừng trị bọn cường hào theo làm tay sai cho Pháp.
    Tại làng Trung Ái thuộc huyện An Nhơn có một tên đội, thường được gọi là Đội Roi, dựa thế quan thầy, thường làm nhiều việc tàn ác. Hành động nổi tiếng nhất của y là tra tấn người tình nghi bằng cách đốt chảy đèn chai rồi rảy lên người nạn nhân. Đèn chai là một loại đèn thắp bằng dầu chai lấy từ nhựa cây dầu rái đã khô, bó lại bằng lá chuối, to bằng cổ tay. Khi cháy, dầu chảy ra đặc sệt và nóng vô cùng. Khi dính vào da thịt vẫn bốc cháy. Vết thương rất lâu lành, càng ngày càng ăn sâu vào thịt. Cảm giác đau nóng luôn luôn thường trực tại vết thương.
    Đội Roi dùng que gạt từng giọt dầu đang cháy sôi lên đùi, lên bụng, lên lưng nạn nhân. Mỗi khi một ít, kéo dài sự đau đớn cho nạn nhân. Ban đầu thì kêu thét, rên la. Sau cùng ngất đi trong đau đớn. Tỉnh dậy, cơn đau đớn vẫn tiếp tục hành hạ, nạn nhân đành phải chịu nhận tất cả những gì có hoặc không có mà Đội Roi muốn biết. Thường thì phải đem tiền hoặc tài sản ra hối lộ.
    Tiếng đồn vang đến tai toán võ sĩ An Vinh, mọi người đồng thanh giao phó nhiệm vụ trừng trị cho Năm Nghĩa.
    Biết được Đội Roi sở trường về roi chiến (trung bình tiên), y đã từng phục vụ ở đội thị vệ kinh đô Huế, nên được huấn luyện thuần thục môn này. Sau vì bị tội đả thương người nên bị đuổi về quê, sung vào đội lính lệ phủ Bình Định. Tự thị là võ nghệ hơn người, đi đâu y cũng rêu rao câu "Nhất roi Kinh, nhì quyền Bình Định". Ít người dám tỷ đấu với y, vì y giỏi về roi và cũng giỏi về sự thù vặt, ai không nhường, y tìm đủ mọi cách hãm hại vu cáo. Và hại luôn cả con cháu dòng họ.
    Một buổi chiều, Năm Nghĩa ăn mặc chỉnh tề cùng với hai người bạn đồng phái đến nhà Đội Roi và được tiếp đón tử tế. Chủ, khách vừa cạn tuần trà thì Năm Nghĩa đứng lên:
    - Tôi là Năm Nghĩa, người thôn An Vinh, lâu nay nghe tiếng ông đội là bậc thầy về roi kinh, hôm nay nhân có việc đi qua đây, xin mạo muội đến xin ông đội chỉ giáo một vài đường roi.
    Đội Roi vốn cũng đã nghe danh Năm Nghĩa, song vẫn tỏ ý khinh thường, đáp:
    - Đã đấu thì chỉ có thắng và bại chứ không có chỉ dạy. Tôi đã có nhận làm thầy ông đâu? Nếu ông muốn đấu thì phải lập tờ cam đoan thì mới được thưởng thức vài đường roi kinh. Ông có hai ông bạn đi theo làm chứng, tôi sẽ cho mời hương chức đến chứng kiến.
    Năm Nghĩa y lời.
    Vốn sở trường môn trung bình tiên, Đội Roi đã vin cớ nhà không có trường tiên nên đề nghị tỉ thí bằng roi chiến. Năm Nghĩa lại sở trường roi đấu, nhưng vẫn vui vẻ dùng roi chiến.
    Vừa mới nhập cuộc, Đội Roi đã dùng ngay các thế hiểm độc mong hạ ngay Năm Nghĩa. Nhưng Năm Nghĩa đã phá giải hết tất cả. Tiếng roi chạm nhau kêu giòn như pháo nổ. Hai lần Đội Roi dùng đến thế "lạc côn" giả làm rơi gậy để lừa địch thủ, nhưng Năm Nghĩa đã ung dung né tránh.
    Sau hơn mười hiệp thì Đội Roi đã trúng một đòn "đâm so đũa" của Năm Nghĩa, gậy văng đến tận cuối sân, Đội Roi loạng choạng ngã ngửa ra sân. Buông gậy, Năm Nghĩa chạy lại đỡ Đội Roi dậy. Khiếp phục trước thế roi thần diệu của Năm Nghĩa, Đội Roi xanh mặt lắp bắp:
    - Xin cảm ơn đã tha mạng, thật bái phục, bái phục!
    Năm Nghĩa dìu Đội Roi vào nhà, an ủi:
    - Cánh tay của nhân huynh chỉ tạm thời tê bại trong vòng ba tháng. Trong thời gian này, nhân huynh đừng nên sử dụng lực kẻo ảnh hưởng suốt đời. Chúng ta đều là con nhà võ sĩ, cần lấy đức để tạo nghiệp về sau. Tôi với nhân huynh không thù không oán, nên không nỡ làm hư hại cánh tay của huynh. Tôi chỉ xin huynh nhớ cho một điều, nhân huynh còn có mẹ già mà huynh là người con chí hiếu nên mỗi khi huynh hành động một việc gì thì xin huynh hãy vì mẹ già mà nương nhẹ tay cho.
    Từ đó, Đội Roi xin được về quê phụng dưỡng mẹ già và thề không bao giờ sử dụng võ nữa.
    Nhân dân hai huyện Bình Khuê, An Nhơn mỗi khi nhắc đến Năm Nghĩa đều nhớ đến hành vi nghĩa trượng trong câu chuyện dùng đức độ từ tâm để cải hóa một kẻ có võ nghệ mà thiếu lương tri.
    Còn Năm Nghĩa giải thích sự khoan dung của ông:
    - Đội Roi vốn là một người con hiếu, còn mẹ già. Nếu giết Đội Roi thi quan quân địa phương sẽ vin vào cớ đó mà đàn áp phong trào, mà trả thù nhân dân An Vinh. Đội Roi sẽ cạch đến già, vì con nhà võ đã biết rằng mình thua một đòn chí tử thì suốt đời sẽ nhớ mãi. Cảm hóa người là chính, giết người chỉ là sự bất đắc dĩ mà thôi.
    :rose: :rose: :rose:

  6. #6

    Mặc định

    6. Đoàn Phong

    Sau này, nói chuyện lại với Quách Trường Sa, Đoàn Phong lấy làm lo sợ cho lúc bị nắm tóc của mình và từ đó thề không bao giờ để tóc dài nữa.
    Một lần nữa cũng tại Mỹ Yên, Mười Đậu lại gặp Đoàn Phong trong một đêm hát bội tại đình làng Mỹ Yên.
    Đoàn Phong ngồi đánh chầu. Trước khi mở màn, ông bầu khăn áo chỉnh tề ra thưa chào cùng hội đồng làng và sau đó quay về phía người đánh chầu nói đôi câu và bái ba bái. Nguyên trong buổi hát bội, người nào cầm roi chầu đều được bạn hát kính nể.
    Một là vì tiếng roi chầu như điểm nhịp khen chê và dẫn dắt con hát.
    Hai là người thưởng chầu trong khi con hát trình diễn có thưởng tiền cho câu hát hay hoặc những đoạn diễn tả có nghệ thuật. Tiền thưởng phần nhiều đã được đổi ra những cái thẻ tre hoặc bằng nguyên tiền (lúc xưa là tiền đúc, sau là tiền giấy).
    Người cầm chầu hào phóng thì con hát nhờ. Nếu khe khắt thì có đôi khi ít tiền thưởng mà lại còn bị "đánh tang" bắt bẻ. Cho nên trong buổi hát, ai được cầm chầu thì đó là một vinh hạnh lớn.
    Sau khi ông bầu bái ba bái xong, Đoàn Phong đánh ba tiếng trống và thường ba thẻ tiền. Bỗng nhiên Mười Đậu ngồi sau đứng dậy, tiến lên đứng bên cạnh Đoàn Phong:
    - Thưa anh Đoàn, ông bầu đã bái anh ba bái mà anh chỉ thưởng có ba que. Nếu anh lên thay cho ông bầu mà bái tôi một bái tôi thưởng cho anh mười que.
    - Chú đừng lộn xộn, bước khỏi đây ngay.
    - Nếu không bước thì sao?
    - Thì thưởng cho một roi chầu.
    Mười Đậu đưa ngay đầu cho Đoàn Phong.
    - Có dám thử không?
    Bốp. Ngọn roi chầu đã vút ngay vào đầu Mười Đậu. Vừa đau vừa kinh ngạc, Mười Đậu ôm đầu chạy ra khỏi rạp.
    Buổi hát vẫn tiếp diễn. Tiếng hát rộn ràng chen lẫn tiếng trống chầu giòn giã.
    Sau khi xức thuốc thoa dầu trên cục u nơi đầu, Mười Đậu xăn tay áo đi thẳng đến nơi phản Đoàn Phong ngồi đánh chầu. Vừa vào đến nơi, Mười Đậu đã chộp ngay ngực Đoàn Phong:
    - Anh Đoàn Phong, khi nãy tôi nói chơi có một vài tiếng mà anh cầm dùi chầu đánh lên đầu tôi. Bây giờ anh có dám đụng đến tôi không?
    Mười Đậu miệng nói, tay siết chặt áo Đoàn Phong, chuẩn bị ném Đoàn Phong xuống phản. Ngay tức khắc, dùng một thế tên là "đạo thiết mã", Đoàn Phong hai tay đánh thốc lên, gạt hai tay Mười Đậu ra, đồng một lượt với hai chân co lên đá mạnh văng Mười Đậu nằm tênh hênh trên sân khấu, tay còn nắm nguyên vạt áo dài của Đoàn Phong. Hôm ấy Đoàn Phong mặc áo dài đôi, trong áo trắng ngoài áo sa đen. Mười Đậu nắm chặt đến nỗi bị đạp văng lên sân khấu mang theo luôn hai vạt áo trắng, đen.
    Đồng bào xem hát và cả con hát thấy chuyện xảy ra thình lình ai nấy đều nhốn nháo toan ù té chạy.
    Đoàn Phong trao dùi chầu cho người ngồi cạnh, oai nghiêm về nhà thay áo, rồi trở lại đánh chầu cho đến mãn tuồng. Bộ hạ Mười Đậu lo cõng Mười Đậu về nhà thoa thuốc.
    Từ đấy trở về sau, không bao giờ Mười Đậu dám chạm mặt với Đoàn Phong nữa.
    Nhân việc xảy ra, mọi người trong giới võ lâm đều cho là Đoàn Phong có tánh "cộc", dùng võ ít khi nương tay. Trong một buổi ăn giỗ, Đoàn Phong đã tâm sự cùng Quách Trường Sa:
    - Trong một cuộc giao đấu, không có chuyện nương tay. Mình không hạ họ thì họ cũng hạ mình. Trong giao đấu không có đánh thử chơi mà phải đánh thiệt, để mình khỏi bị thế hạ phong. Nương tay hay ngừng tay một tích tắc rất có thể nguy hại đến thân mình. Cho nên trong nghề võ, khi nhập cuộc là phải tìm cách hạ đối phương, chớ không có lối biểu diễn võ nghệ để cho đối phương khâm phục mà đầu hàng
    Đó là quan niệm riêng biệt của Đoàn Phong, nên ít khi ông đấu võ giao hữu với ai. Biết võ là để phòng thân chớ không để biểu diễn tìm hư danh.
    Một lần từ Mỹ Yên ông đi Tân Nghi ăn giỗ nơi nhà bà Liễu và nghỉ đêm tại đó. Đến nửa đêm, một toán cướp võ trang, thắp đuốc đến bao vây nhà bà Liễu. Chúng phá cổng và định tràn vào.
    Đoàn Phong bình tĩnh bảo người nhà bà Liễu đem cái đèn tọa đăng ra để ở giữa sân và ông ra ngồi trên ghế, bên cạnh dựng một cây thiết bảng. Ông nói lớn với bọn cướp ngoài ngõ:
    - Đêm nay các anh định đến thăm gia chủ, lại có mặt của tôi tại đây. Tôi xin nói với các anh hai điều: Một là tôi và gia chủ là chỗ quen thân, nếu thấy gia chủ bị tai biến mà không giúp đỡ thì tôi là người bất nghĩa; hai là nếu giúp cho gia chủ chống lại với các anh thì sẽ có đổ máu xảy ra. Tôi với các anh không thù không oán thì chúng ta đánh nhau làm gì, thật không hợp tình hợp lý. Vậy tôi xin đề nghị với các anh để cho một dịp khác. Hôm nay các anh nên suy nghĩ và rút đi để chúng ta giữ được hòa khí.
    Đám cưới xì xào bàn tán với nhau một hồi rồi yên lặng rút lui. Danh của Đoàn Phong đã nổi lại càng vang xa.
    Học trò của Đoàn Phong rất ít. Chỉ huy nhất có một học trò võ nghệ tài ba, song sau này lại bỏ dở dang sự nghiệp. Đó là Dượng Mười, người Trà Sơn, anh em thúc bá với Đoàn Phong, thường gọi là Hai Lâm.
    Dượng Mười học hết chân truyền của Đoàn Phong. Vốn người bẩm chất thông minh, ham học võ nghệ song phải tánh hiếu thắng và tự cao. Một đôi khi hứng chí tuyên bố cùng bè bạn là võ nghệ của mình cao hơn thầy. Trong một đêm mưa gió, đi qua một chiếc cầu tre đã hư nát nên chân lọt xuống gầm cầu và làm độc. Sau này phải đi cà nhót. Thành ra ông không còn dịp thi tài võ nghệ với đời.
    Một vài người am tường thế sự đã kể lại là không phải ông Hai Lâm hư chân vì qua cầu mà vì trong một trận thách đấu với Đoàn Phong, hai người giao đấu với nhau và Đoàn Phong đã dùng quyền đánh vỡ xương mắt cá của Dượng Mười để loại bỏ tên học đồ phản trắc. Hai Lâm đã học được ngón "đạo thiết mã" và "thượng mã tam bộ" của Đoàn Phong, đá liên tiếp hai cái một lần rất hiểm độc.
    :rose: :rose: :rose:

  7. #7

    Mặc định

    7. Hai Tửu

    Hai Tửu người làng An Vinh, huyện Bình Khê, Bình Định, cháu gọi ông Hương mục Ngạc bằng cậu. Từ nhỏ đã ham học võ nghệ. Học được các tay võ trong làng, lớn lên theo cậu học thêm võ công. Tuy không nhận cháu làm học trò song Hương mục Ngạc vẫn chăm lo luyện tập cho cháu. Vì vậy, cho nên Hai Tửu vẫn một niềm tôn kính cậu như một sư phụ.
    Cậy có học tập và nương vào tiếng tăm của ông cậu, nên Hai Tửu thường tỏ vẻ ngông nghênh, coi ai cũng thua kém mình.
    An Vinh và An Thái cách nhau bởi dòng sông Côn. Hai làng đều nổi tiếng võ nghệ.
    "Trai An Thái, gái An Vinh" thường dùng để nói đến võ nghệ của hai làng trên. Tuy không đúng lắm song cũng có thể nói như vậy. Trai làng An Thái giỏi võ như gái làng An Vinh. Câu này thêm ý nhị cho câu ca dao:
    Ai về Bình Định mà coi
    Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền
    Có người nói là "cầm roi đi quyền" song khi đã cầm roi thì làm thế nào mà đi quyền được. Câu "bỏ roi đi quyền" ý nói gái Bình Định chẳng những giỏi roi (côn) mà cũng giỏi về quyền cước.
    Câu "trai An Thái, gái An Vinh" thoát thai từ câu "trai An Thái, gái Phú Đa" của tục ngữ Bình Định để nói đến phong thái con người: trai An Thái người cân đối, gọn gàng đẹp trai, gái Phú Đa nổi tiếng xinh đẹp nết na.
    Tuy nhiên, nói về võ thì câu "trai An Thái, gái An Vinh" gần đúng vì gái An Vinh có rất nhiều anh hùng hào kiệt như ở An Thái.
    Hai làng cách nhau một dòng sông, nhưng tình giao hữu ít đậm đà. Tuy không có chuyện xích mích song lại ít qua lại. Khi thanh niên bên này xông qua bên làng nọ thì thanh niên bên làng nọ lo bảo vệ các thôn nữ của mình. Nên thỉnh thoảng cũng có một vài cá nhân đọ sức để tranh người đẹp. Những buổi hội hè, đình đám hoặc làm chay hát bội thì dân bên này cũng qua thôn bên kia, tuy nhiên không hề có vụ phá đám nào xảy ra. Thành ra tình giữa hai thôn tuy không thân nhưng thuận.
    Hai Tửu biết bên An Thái có Diệp Trường Phát võ giỏi, nên nhiều lúc muốn sang thử sức. Nhân dịp nhà Tàu Sáu có ngày giỗ lớn. Bà con tụ về đông. Hai Tửu bèn sắm lễ vật đem sang thắp hương. Chủ khách gặp nhau vui vẻ trong xã giao. Thấy Tàu Sáu niềm nở trong giao tiếp, Hai Tửu tưởng là chủ nhà có ý khiếp danh Hai Tửu ở An Vinh. Khi trời đã xế chiều, khách đã ra về, chỉ còn lại một người lối xóm, đợi đến lúc gia chủ rảnh rang, Hai Tửu mới đứng lên ngỏ cùng Tàu Sáu xin được giao đấu một vài hiệp. Biết ý định của Hai Tửu ngay từ lúc vào nhà, Tàu Sáu chỉ nói một vài câu khiêm nhường xã giao rồi cùng Hai Tửu bước ra sân.
    Chỉ qua lại vài đường quyền, Hai Tửu nhảy lên đá liên tiếp hai cước vào sườn Tàu Sáu. Lẹ làng né tránh, Tàu Sáu cũng đá lại một cước. Như chờ sẵn dịp này, Hai Tửu đánh mạnh một cùi chỏ vào chân đá của Tàu Sáu. Không ngờ chỉ là một cú đá dứ, nên Hai Tửu để lộ sườn nên lập tức bị trúng ngay một quyền và một cước. Hai Tửu ngã lộn nhào ra mé sân. Tuy không bị thương tích nhưng Hai Tửu đứng ngẩn người ra một hồi lâu rồi mới chào chủ ra về. Từ đó, Hai Tửu mới thật sự kính phục Tàu Sáu và khi nhắc đến tên họ Diệp thì không hề có một câu nào mạo phạm.
    :rose: :rose: :rose:

  8. #8

    Mặc định

    8. Mười Đậu

    Học trò xuất sắc của Hai Tửu là Mười Đậu. Người thôn Đại Chí, được Hai Tửu thương yêu như con ruột, mọi tuyệt kỷ đều truyền cho Mười Đậu.
    Vốn sẵn có sức mạnh thiên phú và tính tình phóng khoáng, võ nghệ cao cường, nên Mười Đậu được vang danh khắp nơi. Bạn bè kẻ tốt thì ít mà bọn đàn em theo thói ngang tàng thì nhiều, nên càng ngày Mười Đậu càng thêm kiêu ngạo, tự đắc. Cho rằng mình tài nghệ vượt hơn thầy Hai Tửu, nên nhiều lúc làm bậy bị thầy quở trách, Mười Đậu đâm xa thầy rồi dần đi vào con đường du đãng.
    Sau trận ẩu đả cứu chị Tám Cảng ở Thu Xà, Quảng Nghĩa, Mười Đậu càng kiêu căng hơn. Hễ nghe ở đâu có người võ nghệ cao cường là lập tức Mười Đậu đến thử sức ngay. Đụng độ với Đoàn Phong hai lần, Mười Đậu nhụt bớt tính hung hăng và đi theo bọn trộm cướp làm bậy.
    Trong một trận đánh cướp ở An Nhơn, Mười Đậu bị truy nã và bị bắt giam tại huyện Tuy Phước. Một hôm, một toán tội phạm được đưa ra làm tạp dịch tại sân huyện đường. Tại trước cửa huyện có bố trí hai khẩu thần công vào đời Gia Long còn lại. Súng hư hỏng chỉ còn dùng làm cảnh. Một khẩu đế gỗ bị mục lăn ềnh xuống đất. Tám tù nhân xúm lại dùng đòn tre xeo lên, nhưng đòn thì gãy mà súng không nhúc nhích. Cả toán è ạch cả buổi mà vẫn không hoàn tất công tác. Mười Đậu đứng nhìn và cười khẩy:
    - Đâu phải bu đông người mà được việc. Phải có sức mạnh và trí thế mới hòng bê nổi.
    Mọi người yêu cầu Mười Đậu giúp cho một tay, Mười Đậu xăn tay áo, xuống tấn, tay phải thò nắm nơi miệng súng, tay trái luồn ôm thân súng, rồi lấy sức nâng được đầu súng lên. Mọi người vội vàng dùng đá kê lần lần đầu súng lên cao. Thân súng đã có khe hở với mặt đất nên đòn cây được luồn vào và không mấy chốc súng lại được đặt lên kệ. Ai nấy đều khiếp phục sức mạnh của Mười Đậu.
    Mãn hạn tù, Mười Đậu về ở luôn tại An Vinh và chỉ đi loanh quanh các làng trong huyện.
    Mười Đậu lại có tật mê hát bội và rất thích ngồi cầm chầu. Một bữa, Mười Đậu lên Phú Phong xem hát. Tại Phú Phong có một rạp hát thường trực hàng đêm. Hôm đó Mười Đậu đến trễ nên đã có hai người đánh chầu rồi, một là cựu Chánh tổng Liễn người thôn Trinh Tường, có uy danh trong huyện. Một là Bốn Liên, con ông Nguyễn Thái Hoàng ở Phú Phong. Mười Đậu không dám động đến ông cựu Chánh tổng, nên đến gần Bốn Liên hăm he muốn dành lấy dùi chầu thì bị Bốn Liên nện cho một dùi chầu vào đầu. Choáng váng vì bất ngờ, Mười Đậu định làm dữ, song nhìn thấy tướng mặt của Bốn Liên râu quai nón, đeo kính cận như một sĩ quan Nhật Bản, Mười Đậu dường như nhớ lại cái dùi chầu của Đoàn Phong tại rạp Mỹ Yên, nên đành ôm đầu lủi thủi ra khỏi rạp đi thẳng một mạch về An Vinh.
    Mười Đậu có bà con với Bảy Lụt. Cả hai thường đấu với nhau song không phân thắng bại. Các cuộc giao đấu thường kết thúc bằng cuộc vật lộn cũng không phân thắng bại.
    Tuy bà con và sống cùng thôn song cả hai đều không ưa nhau, nên ít qua lại với nhau.
    :rose: :rose: :rose:

  9. #9

    Mặc định

    9. Từ Thứ

    Từ Thứ, người làng Trường Định, huyện Bình Khê. Họ Từ là một trong bốn họ Trần, Phan, Từ, Nguyễn khai phá và lập ra thôn Trường Định vào đời Lê Cảnh Hưng (tiền bán thế kỷ thứ 18). Ông học được toàn bộ môn đánh roi của Ba Đề, nhất là Trung bình tiên. Từ Thứ lại giỏi về môn quyền, nhờ luyện tập chuyên cần, Từ Thứ được mọi người coi như là một Ba Đề thứ hai.
    Rút kinh nghiệm nơi tai nạn của sư phụ, Từ Thứ rất kén chọn học trò, nhiều người đến xin thọ giáo, song Từ Thứ nhất mực từ chối. Người vừa có tài năng vừa có đức độ mới được ông đón nhận. Ông chỉ sơ qua cho con cháu trong làng Trường Định về môn đánh roi để phòng thân, giữ làng. Đệ tử duy nhất của ông là Đoàn Phong ở Mỹ Yên.
    Từ Thứ ít khi giao thiệp với người đời, nên ít xảy ra chuyện xung đột trong giới võ lâm. Chỉ còn truyền lại chuyện đá văng Cả Nhượng.
    Nguyên Cả Nhượng là một phú hộ ở Cà Đáo, theo đòi học võ đã lâu. Thường tự thị là đệ nhất võ lâm cao thủ huyện Bình Khê, trong nhà thường nuôi thầy võ để dương oai. Vừa có tiền lại có thế, nên Cả Nhượng xem thường mọi người. Hễ có gì không vừa ý là y vừa chửi vừa đánh ngay.
    Một hôm, y dẫn bộ hạ đi ăn giỗ ở thôn Trường Định. Từ Thứ cũng được mời. Cả Nhượng trước đây đã nghe danh Từ Thứ, nhưng y ỷ mình có võ nghệ và nhất là có bộ hạ là hai võ sư đi kèm, nên nét kiêu căng để lộ ra ngoài mặt.
    Ăn xong, mọi người đang ngồi nơi phản giữa uống nước thì Cả Nhượng lên tiếng:
    - Chà, lâu nay nghe danh Từ Thứ là học trò ruột của Ba Đề, võ nghệ cũng khá. Nhân có mặt hôm nay, xin được chứng kiến một vài thế. Có sẵn hai vị võ sư là người nhà của tôi, xin chỉ giáo.
    Từ Thứ ôn tồn:
    - Thưa Cả, học võ mục đích là để phòng thân giữ mình, chớ đâu phải để giao đấu với nhau cho vui. Xin Cả miễn cho.
    Cả Nhượng nổi giận nói xách mé:
    - Nếu tao muốn đấu với mày thì mày có dám đấu không?
    Từ Thứ vẫn ôn tồn:
    - Đấu với Cả lại càng không đấu!
    Vừa nghe dứt lời, Cả Nhượng hai tay chụp lấy cái ống nhổ trầu bằng đồng để bên cạnh, đập xuống đầu Từ Thứ. Đang ngồi xếp bằng, Từ Thứ ngã người né tránh, rồi dùng ngay thế "Đạo Thiết Mã" vừa nằm ngửa vừa đá quét một cái. Cả Nhượng người to béo như một con trâu, trúng đòn văng như một trái banh từ phản ngựa vọt ra khỏi cửa bàn pha, lộn ba vòng rồi nằm thẳng cẳng ngoài sân. Hai võ sư đi theo sợ quá, tái cả mặt mày, vội vã chạy ra cõng học trò chạy mất.
    Sau trận này, Cả Nhượng không bao giờ đi ngang qua thôn Trường Định nữa và mỗi lần nghe nói đến Từ Thứ thì vội tảng lờ đi như không hề quen biết.
    Thế đá "Đạo Thiết Mã", Từ Thứ đã truyền cho học trò Đoàn Phong và cũng nhờ thế đá này mà Đoàn Phong đã hạ Mười Đậu trong hai lần đọ sức.
    :rose: :rose: :rose:

  10. #10

    Mặc định

    10. Ba Đề

    Ba Đề người thuộc huyện An Nhơn, học trò Khách Bút. Được chân truyền về Côn và Quyền. Tánh tình hiền hậu, rất mực thương yêu học trò. Vì tấm lòng nhơn hậu đối với môn đệ nên bị lụy vì học trò.
    Ông theo học thầy Khách Bút về môn Côn, chuyên vê Trung bình tiên. Học trò ông nhiều người xuất sắc như Từ Thứ là một.
    Ông sống một cuộc đời bình dị, nay đây mai đó. Nơi nào vui ở lâu, rồi đến chơi nơi khác. Đến đâu dạy roi đến đấy. Vì không kén chọn học trò, nên ông bị nạn vì học trò.
    Nguyên Ba Đề có hai người học trò thuộc vào hàng xuất sắc. Một hôm, theo một đám cướp đi cướp một nhà giàu tại thôn Kiến Hàng. Cuộc cướp vỡ lở, thanh niên trong thôn phần đông đều có võ nghệ nên kéo nhau vây đánh. Chống cự không lại, cả bọn kéo nhau chạy về hướng Đập Đá. Dân tráng đốt đuốc đuổi theo.
    Ba Đề đang ở chơi tại nhà một môn đệ gần Kiến Hàng, nghe tin có đánh nhau bèn đến xem. Thấy trong đám cướp bị vây có mặt hai đệ tử của mình bèn tham gia trận đánh.
    Vừa xông vào, Ba Đề đã bị một gậy đánh vào đầu. Lập tức bước sang một bên để né tránh thì sau lưng đã vù vù bay lại một gậy thứ hai.
    Cúi mình luồn qua tên thứ nhất, khiến cho tên này lãnh trọn ngon roi của tên thứ hai. Ngay lập tức Ba Đề đoạt lấy roi và dùng ngay thế "Toàn phong tảo diệp" vung roi đánh rạp hơn chục người bao quanh. Biết gặp cao thủ, mọi người hò nhau hướng về Ba Đề. Roi, rựa quéo đều nhằm ngay Ba Đề bổ xuống. Một mặt che cho hai đệ tử, một mặt Ba Đề đánh tháo một đường trống để rút lui. Nhân dịp vòng vây sơ hở, hai tên đồ đệ vượt vòng vây cắm đầu chạy trốn, để mặc thầy ở lại chịu đòn.
    Ba Đề vừa đánh vừa lui đến giữa bậc ruộng trên và ruộng dưới. Nơi đây có một con mương, bờ đắp cao ngang bụng, nên Ba Đề nương làm thế che mặt sau để chống đỡ mặt trước. Đám người ỷ thế đông lăn xả vào, nhưng vào ít thì ngã ít, vào nhiều thì ngã nhiều. Một thế roi văng ra, vài ba người văng vũ khí, ôm đầu chạy thối lui. Thấy không thể chống cự lâu dài, vì đám cướp đã chạy trốn tứ tán không người hỗ trợ, Ba Đề vụt nhảy lên bờ mương tìm phương chạy trốn. Rủi ro thay, khi định nhảy qua mương thì bị một người nương theo lòng mương lòn sau lưng Ba Đề, đánh ngay một gậy vào chân. Ba Đề dùng roi đỡ được thì bị một mũi tên đã cắm phập vào ót. Ba Đề lảo đảo và nhận thêm một vài gậy vào lưng đành ngã gục xuống mương. Gậy, đuốc, rựa quéo đồng loạt bổ xuống, Ba Đề chết ngay tức khắc. Đám đông sau khi lật mặt nhìn xem, thấy Ba Đề là người lạ mặt, nên lẳng lặng bỏ xác lại nơi mương rồi kéo nhau rút lui.
    Hai tên học trò, chạy trốn và ẩn sau một cái mả vôi, chờ đám đông đi khuất mới đến hiện trường và phát hiện xác của thầy nằm chết dưới mương. Vừa thương cảm vừa sợ hãi, hai người đem vùi thây thầy tạm thời dưới lòng mương rồi chạy về làng. Khuya hôm sau rủ thêm hai người bạn nữa đến moi xác thầy lên, đem về đồng làng chôn cất một cách thầm lặng, sợ người làng hay biết, vì tin bọn cướp có người bị đánh chết bỏ thây ngoài đông lan ra khắp huyện An Nhơn.
    Việc Ba Đề chết vì cứu học trò làm bậy được lấy làm một tấm gương cho các võ sư chọn lựa môn đệ. Học trò giỏi võ mà không có đức hạnh thì dù có tài cao đi nữa cũng không làm rạng danh sư phụ.
    Tuy nhiên, Ba Đề cũng đã để lại cho đời một học trò danh vang khắp huyện. Đó là Từ Thứ.
    :rose: :rose: :rose:

  11. #11

    Mặc định

    11. Ông Hương lễ Nghè

    Sinh quán làng An Định, xã Phước Hậu, nay là phường Nhơn Bình, thành phố Quy Nhơn, tên thật là Lê Công Trì, tục gọi là ông Hương lễ Nghè, thân sinh nhà thơ Vương Linh. Thuở nhỏ là người ham học võ nghệ. Sở trường về roi.
    Ông là võ sư có hai ngọn roi rất cao diệu.
    Một là ngọn roi chiến tức là trung bình tiên. Roi cao chỉ ngang đầu người, cầm ở giữa và đánh cả hai đầu. Người chỉ dạy ngọn roi này là một võ sư Trung Hoa tình cờ gặp trong một phiên chợ và vui lòng truyền lại cho ông. Sau một thời gian dài học tập, ông đã nhuần nhuyễn thế roi và đã trở thành một cao thủ sử dụng roi chiến.
    Hai là roi đấu, tức là trường tiên (hay còn gọi là trường san, dài khoảng 3,15m). Sư phụ ngón roi này là ông Bầu Đê. Nhờ đã thạo ngọn roi chiến, nên khi ông gặp được ông Bầu Đê, ông lại chuyên tâm học thêm roi đấu.
    Ông đã học được tất cả kỹ thuật về roi đấu của thầy. Khi ông Bầu Đê về già cô đơn, ông Hương lễ Nghè đã mời thầy về nhà phụng dưỡng được ít năm. Khi thầy đau yếu, trò lo thuốc thang chu đáo và khi thầy từ trần thì việc ma chay, tống táng như đối với cha mẹ.
    Ngọn roi đấu đã học thành tài. Có thể nói là đương thời ít có đối thủ. Vì thế cho nên các võ sư Bình Định thường tôn ông làm thủ lĩnh mỗi khi có tổ chức đấu roi. Thường thì trong các lễ lộc hằng năm như Tết Tây (ngày 14-7, kỷ niệm cuộc Cách mạng Pháp) lễ vạn thọ (sinh nhật vua Bảo Đại) hoặc các tổ chức từ thiện... hễ có tổ chức đấu quyền, đấu roi thì các võ sư Bình Định đều nhờ ông làm chủ bài, dự trù nếu gặp tay lạ nào cao cường, các võ sư khác không địch nổi thì ông ra tay kết thúc. Chưa bao giờ Bình Định chịu thua đấu roi với các tỉnh. Mặc dù có câu "Roi Kinh, Quyền Bình Định" song có lẽ vì người tài giỏi ở Huế ít khi chịu vào Bình Định để tham gia các trận đấu, nên chưa có ai vào dự mà thắng được ông Hương lễ Nghè.
    Có một lần lễ Tết Tây (14-7) được tổ chức tại sân cỏ, trước nhà thờ lớn Quy Nhơn, có cuộc đấu roi giữa 7 tỉnh miền Trung. Ở Huế năm ấy có một ông thị vệ nào tham gia. Các tay roi có tiếng của các tỉnh khác lần lượt bị các tay roi Bình Định hạ. Đến khi ông thị vệ ở Huế bước vào đấu trường thì các tay roi Bình Định như Chín Giác, Bảy Lụt đều không thể tránh khỏi vết nhọ mới đâm vào ngực. Hai Tửu - người nổi danh là cây roi cừ khôi trong đám trai trẻ Bình Định cũng chỉ chịu được vài ba thế đâm rồi ngực cũng lấm lọ đầu roi. Ông Hương mục Ngạc, người cầm đầu đoàn võ sĩ Bình Định, cha và cũng là thầy dạy võ của Hai Tửu, Bảy Lụt, Chín Giác nhận thấy ông thị vệ người Huế quả là một cao thủ, nên ông Hương mục Ngạc vội vã cho người chạy gấp lên An Định mời ông Hương lễ Nghè.
    Tuy nằm tại An Định, cách Quy Nhơn gần mười cây số, ông Hương lễ Nghè vẫn nghe được tin tức cuộc đấu roi dưới Quy Nhơn, nên khi người đi mời vừa đến thì ông đã nai nịt gọn gàng.
    Vừa đến nơi thì vừa lúc Hai Tửu vì chậm một tích tắc mà đành phải buông roi chịu lãnh một vết nhọ vào ngực.
    Cả hội trường vang dậy tiếng hoan hô. Những tiếng hô lớn của các toán lính phủ theo từng nhịp một: Roi Kinh, Roi Kinh, Roi Kinh...
    Sau khi bàn qua với ông Hương mục Ngạc, ông Hương lễ Nghè xin phép quan giám khảo nghỉ giải lao trong nửa tiếng đồng hồ. Ông nói:
    - Xin cho quan thị vệ được giải lao vì khi nãy giờ quan đã đấu nhiều trận.
    Quan thị vệ cười ha hả:
    - Không chi mô. Tui đang còn sung sức lắm. Mời cụ vào thử chơi vài thế.
    - Xin thỉnh quan nghỉ mệt một chốc rồi con xin hầu quan.
    Sau một hồi nghỉ, quan thị vệ đĩnh đạc bước ra đấu trường. Ông Hương lễ Nghè cũng bước theo ra. Đấu trường im phăng phắc. Một bên tuổi trẻ sung mãn oai vệ hùng dũng. Một bên râu tóc đã bắt đầu bạc, nhưng uy nghi quắc thước. Cuộc đấu roi bắt đầu.
    Cắc, cụp, cắc... cắc, cụp, cắc. Tiếng roi chạm vào nhau nghe như pháo nổ. Đấu một hồi, ban giám khảo truyền ngừng đấu và phán: Huề.
    Nhưng ông Hương lễ Nghè ôn tồn nói:
    - Xin ban giám khảo bảo "quan thị vệ" giơ cao hai tay lên.
    Khi đó mọi người ồ to lên: "Có hai vết nhọ hai bên hố nách".
    Thì ra ông Hương lễ Nghè đã sử dụng tuyệt kỹ "đâm so đũa" của thầy mình là ông Bầu Đê đã từng sử dụng mười mấy năm trước, khi đấu cùng một ông Tạo sĩ sống ở kinh.
    Đấu trường vang dậy tiếng hoan hô. Các tay roi Bình Định vây quanh ông Hương lễ Nghè, nâng ông lên vai và "kiệu" đi chung quanh đấu trường.
    Ông Hương lễ Nghè rất ít thu dụng học trò. Ông chỉ truyền một hai món tuyệt kỹ cho người nào hợp với ý ông. Như trường hợp của Quách Trường Sa là một. Ông thường hay kể chuyện về các trận đánh, các thế đánh cho Quách Trường Sa để suy ngẫm về nghệ thuật đánh roi.
    Để giải thích về kỹ thuật đánh bật văng roi của đối phương, ông Hương lễ Nghè đã một lần thử với học trò mình là Quách Trường Sa. Chỉ trong vòng ba tiếng cắc... cụp... cắc, là roi của Trường Sa văng lên mái nhà, mặc dù biết trước và Trường Sa đã nắm thật chắc ngọn roi của mình.
    Riêng với người học trò thư hai là Hộ Học thì roi không văng lên nóc nhà mà lại văng ra khỏi hàng rào. Nghệ thuật của ông Hương lễ Nghè là lúc giao đấu ông biết rõ đối phương nắm lấy roi như thế nào, chặt tay phải, chặt tay trái, hai tay đều chắc cho nên khi hai roi chạm nhau lần đầu ông đã phát hiện ra và dựa vào điểm ấy để mà làm roi đối phương khi đánh ra lại được roi của ông "trợ lực" để hất văng lên hoặc văng qua một bên.
    Ông Hương lễ Nghè đã học được thầy hai tuyệt kỹ về roi và cũng đã theo được chí thầy là không đi vào con đường thi cử. Ông thường theo thầy đi tham quan các buổi đấu võ trong các buổi hội hè. Hai thầy trò tuy tham quan song lại không tham dự. Khi nhìn ra một thế đánh hay thì thầy thường chỉ vẽ rành rẽ cho trò hoặc hai thầy trò cùng thảo luận bàn bạc khi rảnh rỗi.
    Ông Hương lễ Nghè cũng giống thầy ở chỗ là chỉ thi đấu với những cao thủ cuối cùng. Như trường hợp quan thị vệ người Huế là một.
    Thật ra Quách Trường Sa không hẳn là học trò của ông Hương lễ Nghè, vì Quách Trường Sa học roi ông Hương lễ Nghè và dạy lại Hương lễ Nghè bộ ngựa Tứ Ngung.
    Ông Hương lễ Nghè chẳng những nổi tiếng về môn đánh roi nổi tiếng mà còn có một cây roi đặc biệt. Đó là một loại cây cau núi có tên là Cây Nhóc. Màu đen, mắt nhặt, đặc ruột rất cứng, đánh nghe chan chát nghe như có pha kim loại. Cây roi nhóc càng dùng lâu càng lên nước đen nhánh, nặng như sắt. Đánh mạnh không gãy, dao chém không sờn, đặc biệt khi uốn cong thì có sức bật rất mạnh mà không hề cong vẹo. Chủ nhân thường dùng nó trong một thế đánh gọi là "bật roi". Giống như thế đánh của bút sắt, song bút sắt dùng để đâm kẻ địch, còn "bật roi" là để đánh địch khi cận chiến hoặc ở vào chỗ chật hẹp khó có trớn đánh đòn ngang.
    :rose: :rose: :rose:

  12. #12

    Mặc định

    12. Bầu Đê

    Người Tuy Phước, nổi tiếng với ngọn trường tiên (cây roi trường) ở các khóa trường võ Bình Định.
    Ông không đi thi, vì không luyện tập những môn bắt buộc khác mà ông cho là vô ích. Tuy không đi thi, song bất cứ kỳ thi nào ông cũng đi xem suốt. Nhất là cuộc thi phân hạng giành thủ khoa và á nguyên.
    Khi các thầy thi trường ba họp cách thì ban giám khảo mở kỳ phúc hạch để phân hạng. Đó là cuộc đấu roi trường.
    Roi trường làm bằng gỗ rắn chắc, bền dẻo, dài bảy thước năm ta (tương đương với 2,625m). Một đầu lớn bằng cổ tay, một đầu nhỏ bằng cán cuốc. Để tránh nguy hiểm khi đấu, ở đầu nhỏ có bọc vải, bên trong có tóc và nhọ trộn dầu, để khi nào điểm trúng thì có vết lọ trên người. Căn cứ vào số vết lọ mà tính điểm để thí sinh không chối cãi được.
    Chờ cho cuộc thi tài xong, các ông thủ khoa, cử nhân nhì, ba... đã được xác định thì Bầu Đê xách roi bước ra và xin phép ban giám khảo cho đấu với các thầy Cử tân khoa.
    Ông cử ba ra trước. Chào nhau xong, với mới nhập hiệp thì cắt... cụp chiếc roi của ông Cử ba đã bị đánh văng tới hiên trường. Đành phải giơ tay đầu hàng.
    Ông Cử nhì bước ra với dáng điệu thận trọng. Để khỏi bị đánh bật roi, ông xuống trụ, nắm chặt lấy cây roi và đánh trong thế thủ. Nhưng cây roi của ông bị ghìm xuống không thể nào rời khỏi ngọn roi của Bầu Đê. Thình lình, không ai thấy rõ thế nào mà ông Cử nhì bỗng ngã ngửa ra, roi rơi một bên còn ngọn roi của Bầu Đê vẫn còn giáng trên bụng Cử nhì.
    Ông Bầu Đê thu roi và đỡ ông Cử nhì dậy, song ông Cử đã ngất đi. Không biết vì bị đầu roi bọc vải điểm trúng vào huyệt đan điền hay vì sợ quá mà ngất đi.
    Chờ cứu ông Cử nhì hồi tỉnh bằng cách cho uống rượu mật ong pha mật gấu, ban giám khảo mời ông thủ khoa ra đấu.
    Ông thủ khoa cao lớn, oai nghi và có vẻ tự tin, bình tĩnh.
    Tuy đấu đã hai trận rồi, song ông Bầu Đê vẫn ở trong tình trạng bình thường. Hơi thở vẫn điều hòa và nét mặt vẫn tự nhiên.
    Dường như đã quan sát được đối phương sau hai trận đánh, nên ông thủ khoa luôn luôn tiếp nhận các thế đánh của ông Bầu Đê trong tư thế tấn công. Tiếng cắc cụp của đầu roi va vào nhau kêu rõ mồn một. Vòng quay người quanh võ trường im phăng phắc. Tự nhiên mọi người thấy toát mồ hôi. Cái không khí giao tranh giữa trưa nắng gắt đè nặng lên ngực mọi người đang theo dõi trận đấu.
    Ông Bầu Đê người nhỏ nhắn gọn gàng trong bộ quần áo nâu, đôi mắt long lanh sắc bén.
    Ông thủ khoa to lớn vạm vỡ nhưng đi lại nhẹ nhàng.
    Hai bên quần nhau, đi lại độ mười phút thì ban giám khảo truyền nghỉ và tuyên bố hai bên hòa.
    Lập tức có hai người phản đối: đó là ông Bầu Đê và ông Chánh Lãnh binh chủ khảo. Hai người chưa ai kịp giải thích tại vì sao phản đối thì chính ông thủ khoa bước ra trước ban giám khảo bái tạ và nói lớn.
    - Tôi xin nhận thua.
    Nói đoạn, ông thủ khoa giơ hai tay lên cao để lộ ra hai bên hố nách có hai vết lọ tròn rõ ràng. Thì ra hai hố nách đã bị ngọn roi của ông Bầu Đê điểm trúng.
    Các ông giám khảo cùng các thầy tân khoa đều giật mình. Trăm mắt nhìn từ ngoài vào vẫn không thấy kịp hai cú đấm thì người trong cuộc làm sao thấy rõ, mà dù có thấy kịp cũng không phản ứng kịp. Thật là nhanh như chớp. Nếu ngọn roi không dừng lại kịp thời thì thương vong tất đã xảy ra rồi. Trong cơn hăng say, ông thủ khoa đâu có hay biết gì nách mình đã dính lọ.
    Quan Chánh Lãnh là một Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) trường Thừa Thiên ngày trước, lại chính là một cây roi trường có tiếng. Ngứa nghề, quan lớn cởi áo dài, nai nịt gọn gàng, cầm roi xuống sân đề nghị Bầu Đê đấu mười hiệp.
    Bầu Đê khiêm tốn từ chối, Quan Lãnh nói:
    - Cung kính bất như phụng mạng, anh cứ làm cho hết sức mình để tôi biết thêm, nhất là hai kỹ thuật đánh văng roi và đâm vào nách.
    Hai bên ra đấu trường. Hai roi dính sát vào nhau. Ngọn roi qua lại.
    Chưa dược hai hiệp, ông Bầu Đê lên tiếng:
    - Xin quan lớn cho phép tôi thực hiện tuyệt kỹ thứ nhất.
    - Tùy.
    Tiếng "tùy" vừa ra khỏi miệng thì cây roi trong tay quan lớn cũng vù bay đến tận hiên trường.
    Ông Bầu Đê chống roi đứng đợi lính mang roi lại cho quan lớn.
    Cuộc đấu lại tiếp tục. Hai bên ghìm roi nhau sít sao.
    Kẻ tới người lui, hai đầu roi không thấy rời nhau mà âm thanh cắc cụp - cắc cụp vẫn vang vang. Khi chậm khi mau. Bỗng ông Bầu Đê lên tiếng:
    - Xin phép quan lớn cho tôi ra tuyệt kỹ thứ hai.
    Quan lớn lần này không trả lời "tùy" nữa mà lại kêu to:
    - Xin thôi.
    Ông Bầu Đê thu roi. Quan Lãnh cầm ngang cây trường tiên, cúi đầu vái ông Bầu Đê nói lớn:
    - Thật là roi thần. Tôi đã gặp trên hàng trăm tay roi bậc thầy, ngang có, hơn có, kém có, nhưng chưa gặp một cây roi thần thế này. Thật đáng bậc tôn sư.
    Ban giám khảo mời Bầu Đê ngồi và thưởng một chén rượu cùng một cây lụa.
    Quan Lãnh lại giơ cao tay trái lên để cho mọi người thấy rõ vết lọ do đầu roi ông Bầu Đê đã ghi. Ai nấy đều xôn xao hỏi:
    - Lúc nào ạ?
    Quan Lãnh cười:
    - Lúc ông xin phép, tôi chưa kịp trả lời thì đầu roi đã giáng vào nách tôi một cách nhẹ nhàng. Tôi xin thôi.
    Quay sang ông Bầu Đê, quan Lãnh cười:
    - Thật tình tôi suy nghĩ vẫn chưa hiểu rõ cách đánh văng roi và cách đâm vào nách thế nào? Tôi giữ chặt tay roi mà tay tôi không yếu hơn anh, làm sao anh đánh bật được roi tôi bay xa như vậy?
    Ông Bầu Đê ung dung đáp:
    - Đây là phép mượn sức người. Đánh văng roi quan lớn ra xa không phải chỉ có sức gân của tôi mà là hai sức của quan lớn và của tôi cộng lại. Nhưng đánh phải lựa chiều. Nếu đánh xuôi theo chiều mở bàn tay thì roi bị cả bàn tay giữ lại, không tuột ra được để bay đi, nhưng có thể bị đứt tiện trên sát chỗ cầm.
    Quay sang ông Cử nhân ba, ông nói:
    - Trường hợp của ông, thế đánh bay roi dễ dàng là vì ông không ở vào tư thế chuẩn bị kỹ càng. Khi mới vào cuộc, lúc đầu đầu roi của ông chạm vào đầu roi của tôi thì chắc ông nhận thấy nội lực của tôi truyền ra đầu roi không đầy đủ và sung mãn, cho nên ông tỏ ý khinh thường. Cho nên khi hai đầu roi vừa chạm nhau, ông đã vận nội lực úp bàn tay mặt xuống, đánh một đòn quyết tử. Biết trước thế nào ông cũng ra đòn như vậy, nên tôi chỉ chờ sẵn, khẽ bẩy một cái, đưa cả nội lực của ông cộng với nội lực của tôi vào đầu roi của ông để chuyển xuống nắm tay phải của ông. Thế là cây roi nhất định phải văng ra khỏi tay.
    Ông Cử ba vui vẻ cúi đầu bái lĩnh.
    Ông Cử nhì bước ra giọng ồ ồ:
    - Xin tiên sinh chỉ giáo.
    - Trường hợp của ông lại khác. Ông là người vô cùng cao, nội lực thâm hậu. Nhất là ông đã nhìn thấy cái sơ hở của kẻ đánh trước nên đã phòng bị chu đáo. Song vì chu đáo quá mà ông quên rằng đối phương đã lợi dụng được cái sức mạnh và sự dè dặt của ông mà ra đòn bí quyết. Khi hai đầu roi giao nhau, ông đã quyết tâm ghìm đầu roi của tôi, vì ỷ vào nội lực của mình. Tôi thì đã già rồi, nên nếu đấu lực với ông tôi sẽ bị thời gian làm cho hao mòn thể lực. Do đó, tôi cũng thả một nội lực của tôi ra để truyền vào đầu roi, song chỉ trong khoảnh khắc, tôi đã thu hồi ngay lại bằng cách xoay nhẹ đầu roi rồi thuận thế đưa cả nội lực của ông và của tôi truyền ngược về phía cán roi của ông. Vì thế, ông phải tự bật ngửa ra và đầu roi của tôi thẳng đến huyệt đan điền của ông ở dưới rốn. Ông ngất đi vì trúng huyệt đan điền và vì quá hoảng sợ. Chắc ông không hiểu được làm sao tôi lại có một nội lực thâm hậu dường ấy.
    Ông Cử hai cúi đầu, lẳng lặng bước lui, miệng lẩm bẩm:
    - Xin bái phục, bái phục.
    Ông thủ khoa định bước ra xin lãnh giáo thì quan Lãnh đã vội lên tiếng:
    - Còn trường hợp ông thủ khoa và cũng là của tôi. Xin cao huynh chỉ giáo.
    - Thưa, đâm vào nách là một kỹ thuật mà chúng tôi gọi nôm na là đâm so đũa. Tôi luồn ngọn roi theo thân roi của quan lớn đang đâm tới tức là hai roi đi song song nhau, sít nhau và ngược chiều nhau. Đâm so đũa là như thế.
    Quan Lãnh mỉm cười:
    - Lúc ấy tôi đã bí mật chuyển roi từ tay phải sang tay trái. Tay trái ở trước, dùng ngọn che thân, tay phải ở sau, dùng đốc che nách trái, kín như sau hai chiến lũy, làm sao anh lẻn vào được mà ghi điểm.
    Ông Bầu Đê thưa:
    - Thường nơi mình canh giữ nhiều, cho là kín thì lại có một cái khe hở nhỏ rất bất ngờ. Đấu võ cũng như đánh giặc, tìm chỗ khe hở bất ngờ nhất là nơi mà đối phương tin là giữ chặt, kín nhất, để từ đó bí mật tấn công vào thì đối phương sẽ bối rối không biết đâu mà đối phó. Quan lớn đã dùng kỹ thuật đổi tay roi khi hai ngọn roi của tôi và quan lớn song song ngược chiều nhau. Đầu roi của quan lớn nhằm ngực tôi thẳng đến, đồng thời che khuất cái đẩy roi của tôi đang tìm nách quan lớn lao tới. Nếu hai bên đều vô tình thì mỗi người nhận của bên kia một vết nhọ. Nhưng ở đây thì tôi đã biết và đã chuẩn bị gạt đầu roi của quan lớn ngay sau khi quan lớn thay tay. Còn quan lớn thì lại không biết roi của tôi cũng đang gần nách mình, nên tay phải cầm đốc vẫn không đề phòng khi đầu roi quan lớn gần sát ngực tôi, chắc quan lớn đã nghĩ là trúng rồi. Nhưng đầu roi chưa kịp đụng vào ngực tôi thì cái ngực đó đã xoay nghiêng và cái đốc roi của tôi từ dưới đưa vòng lên gạt đầu roi của quan ra. Quan lớn tiếc cú đánh không trúng cả mặt và tâm nên cố xoay đầu roi để đâm lại, nhưng không ngờ động tác vòng cái đốc gạt đầu roi của quan lớn giúp cho đầu roi của tôi chìm xuống, tránh đốc roi của quan lớn, rồi chui thẳng vào nách. Bí quyết là đó.
    Quan Lãnh đứng dậy bái ông Bầu Đê mà nói:
    - Hay! Hay lắm! Hay quá! Thật là bài học ngàn vàng. Xin hết sức cảm ơn ông. Tôi về theo đó luyện tập thêm, sang khoa sau xin trình bày lại ông chấm.
    Ông Bầu Đê mang cây lụa đổi lấy vải thao càng, may hai bộ quần áo nhuộm nâu dà (dà khác màu nâu vì màu nâu nhuộm bằng nước sắc củ nâu, màu đà nhuộm bằng vỏ cây dà, màu nhuộm sáng hơn, nếu pha thêm ít vàng thì màu phớt tía. Nếu pha hạt cau thì da sậm, dùng nhuộm lưới) cùng một cái khăn xéo bịt đầu.
    Ông vợ con không có, sống quanh quẩn trong làng. Gia tài chỉ có một cái vó vớt cá.
    Ông hành nghề cất vó một cách rất nghệ thuật. Đó là một phương pháp luyện tập hai tay cho khỏe và nhanh. Ông thường đem vó ra một cái bàu rộng và sâu, bỏ vó xuống và đứng trầm tĩnh nhìn mặt nước. Khi nhìn thấy mặt nước sủi tăm cá, ông mới tay trái cầm đốc cán vó, tay phải cầm thân cán và hấp một cái, vó đã được nhấc bổng ra khỏi nước. Dù nước sâu cách mấy, động tác cất vó rất nhanh nhẹn và lần nào cũng có cá lớn. Khi thì một con cá chép, đôi con diếc... Trong ngày, ông chỉ cất vó một đôi lần mỗi khi nhìn thấy tăm cá nổi lên trong vó. Khi lượng cá đủ mua gạo trong ngày, ông thôi không cất vó nữa. Tháng ngày thong thả, ung dung.
    Tuy nổi tiếng về roi thần, song ông lại không nhận dạy học trò. Có người hỏi, ông đáp:
    - Dạy học trò làm chi cho cực. Hễ cứ mỗi khoa thi thì mình lại chỉ cho vài quan Cử một vài thế để luyện tập suốt đời là đủ. Dạy như vậy ít tốn sức mà đạt nhiều kết quả. Các quan Cử võ luyện nhiều thứ, biết thêm một thế roi cũng đủ nói chuyện với người.
    Học trò duy nhất của ông là Lê Công Trì tục gọi là Hương lễ Nghè, người cùng huyện Tuy Phước, học được ông môn tuyệt kỹ đâm so đũa và đánh văng roi. Tình thầy trò như tình cha với con. Sau khi già yếu, ông Bầu Đê được người học trò tâm đắc rước về nuôi dưỡng trong những ngày cuối đời rất tận tâm, thân ái.
    :rose: :rose: :rose:

  13. #13

    Mặc định

    13. Chín Giác

    Là con út Hương mục Ngạc, Chín Giác thường theo anh là Bảy Lụt đi khắp đó đây. Vì còn trẻ nên anh ít khi gây thành chuyện lớn trong làng võ.
    Tánh tình hiền hòa, giỏi cả hai môn quyền và roi. Bè bạn thường gọi đùa anh là Cửu Sừng.
    Vì thường đi theo anh, nên tất cả mọi quyết định và các trận thư hùng đều do Bảy Lụt đảm đương cho nên danh của Chín Giác thì có mà thành tích lại không nhiều.
    Ngoài hai vụ đánh hạ võ sĩ Trịnh Đông Hải và đánh cậu ấm Lượng, Chín Giác chưa để lại cho đời những mẩu chuyện giang hồ khó quên như Bảy Lụt và Tám Cảng.
    :rose: :rose: :rose:

  14. #14

    Mặc định

    14. Tám Cảng

    Tám Cảng là con gái ông Hương mục Ngạc, em kế Bảy Lụt.
    Là một thiếu nữ có dung mạo dễ coi, tầm vóc mảnh mai, nhưng lại có sức khỏe dẻo dai. Từ thuở nhỏ, mẹ mất sớm nên được cha thương yêu trìu mến. Thấy anh luyện võ cùng cha, cô cũng bắt chước tập luyện theo.
    Ông Hương mục Ngạc thấy con tuy là gái, song có một thể chất của một năng khiếu võ nghệ hơn người, cho nên ông hết lòng truyền thụ cho con gái các môn quyền mà ông thụ giáo cùng ông Khách Bút.
    Nhờ có năng khiếu và dầy công rèn luyện, nên khi trở thành một thiếu nữ tuổi trăng tròn, Tám Cảng đã nổi danh võ giỏi. Cô thường theo cha và anh đi xem các buổi giao đấu trong các đám lễ làng có tổ chức giao đấu võ đài. Cô chỉ được ông Hương mục Ngạc cho tham kiến chớ không được tham dự giao đấu. Tuy nhiên, thỉnh thoảng cô cũng theo anh là Bảy Lụt tham dự một vài đám đánh lộn thử sức với các nhóm võ thuộc môn phái khác như nhóm An Thái, nhóm Thuận Truyền...
    Có lần cô ra Thu Xà (Quảng Nghĩa) xem hội của người Tàu tổ chức xô cỗ.
    Hội xô cỗ là một hội thuần túy Trung Hoa, được tổ chức do một bang hội bày ra cúng tế và sau đó là một cuộc tranh nhau phẩm vật đã cúng tế, như nguyên một con heo quay và hoa quả.
    Người Tàu sống ở Việt Nam nhưng vẫn theo tục lệ bên Tàu là tổ chức thành bang hội. Mỗi bang hội đều có một tổ chức thanh niên học tập, giao tiếp, giúp đỡ lẫn nhau. Và nhất là cùng luyện võ với nhau. Mỗi khi có tổ chức xô cỗ (người Việt thường gọi là xổ giàn), nghĩa là các phẩm vật cúng tế thường để trên các giàn cao, sau buổi cúng tế, được người chủ lễ tuyên bố xổ giàn thì các đám thanh niên chia nhau thành từng nhóm nhảy lên giàn, vác lấy con heo quay và truyền tay nhau hoặc vây quanh người vác heo để yểm trợ đồng bạn mang heo về. Còn các nhóm khác thì hè nhau nhảy vào cướp giật cho được con heo. Thế là ẩu đả phải xảy ra. Ai đánh nhau thì đánh, người có bổn phận cướp heo về vẫn phải giữ gìn con heo quay cho toàn vẹn, không được để rơi xuống đất, để bạn khác cướp mất. Nếu bị cướp mất phải cố sức giật lại cho được. Nhiều lúc heo đã được "cõng" đi mất mà những đám người vẫn còn tiếp tục đánh nhau. Những lúc này cuộc đánh nhau chỉ để trả thù nhau mà những lần trước nhóm này bị nhóm kia đả bại.
    Có nhiều nhóm ở các tỉnh khác, hoặc huyện khác trước tiên là đến xem, sau cũng nhảy vào tham gia đánh đấm.
    Hôm đó tại Thu Xà, người đi xem gồm hai tỉnh Quảng Nghĩa, Bình Định có đến hàng vạn người. Thanh niên các phái võ đã tập hợp từng nhóm đứng đợi đúng giờ Ngọ, từ trên giàn cao người ta ném những con heo quay xuống...
    Nhưng chưa đến giờ Ngọ là giờ xô cỗ thì từ một góc, đám đông bỗng nhiên nhốn nháo lên, người chạy ào ào, lộn xộn, la hét ầm ĩ. Thì ra đó là chị Tám Cảng bị mấy thanh niên Quảng Nghĩa chọc ghẹo một cách sỗ sàng, tệ hơn nữa là một thanh niên đưa tay ra bóp ngực chị Tám Cảng. Cơn giận nổi lên, chị Tám Cảng tát cho tên sàm sỡ một tát tai và đạp cho tên này một đạp ngã lăn kềnh ra. Đám thanh niên mất dạy này liền xông vào đánh chị. Ban đầu chị dùng quyền cước tự vệ, sau vì chúng đông quá nên chị cướp được một chiếc đòn gánh bằng tre của một thanh niên đang giơ cao toan đánh xuống. Chị sử dụng chiếc đòn gánh như một thanh trung bình côn, đánh bốn mặt như một cái chong chóng. Cây, gậy của đám thanh niên đánh vào đều bị bật ra hoặc văng đi. Càng lúc người tham chiến càng đông.
    Chị Tám Cảng một mình tả xông hữu đột, khiến đám đông thanh niên không dám xông vào mà chỉ đứng ngoài la ó và đánh dứ mà thôi. Phần đông lại sinh ra đánh lộn nhau vì đụng chạm. Cuộc ẩu đả hỗn độn ấy càng lâu càng mở rộng, lan gần một nửa số người đi xem. Người tham gia đánh để bị đòn thì ít, còn người hoảng sợ tông chạy, xô đẩy nhau, đụng chạm nhau để kình cãi đánh nhau một cách vô cớ và vô ý thức ngày càng nhiều. Cả hàng vạn người xôn xao, lộn xộn, chạy tông chạy tột, không định hướng, làm náo loạn cả một vùng. Sau cùng, không còn biết nhóm nào đánh nhóm nào, ai đánh ai, và người con gái đánh thanh niên ban đầu và những người bị đánh là ai hiện giờ ở đâu, có còn tại chỗ cũ không?
    Cuộc ẩu đả chưa được ổn định thì đã đến giờ xô cỗ. Trên giàn cao, các con heo quay vàng cháy đang được nâng lên và ném xuống, đám đông càng hỗn lộn. Cảnh giành giật lại thêm phần huyên náo.
    Một thanh niên vừa ôm trọn được con heo quay, toan vác lên vai để vụt chạy ra khỏi đám đông thì bị một toán ba người chận trước chận sau, đè xuống cướp heo. Toán thanh niên yểm trợ cho người vác heo liền xông lại đánh nhầu ba tên cướp giật. Đồng bọn bên kia lại kéo đến tiếp viện. Và ẩu đả lại thật sự bùng lên. Một toán khác lại xông vào, nhân lúc hai bên đánh nhau, giựt lấy con heo, cõng sau lưng, tông đại vào đám đông mà đào tẩu. Rốt cuộc, heo được cõng đến đâu thì cuộc ẩu đả, giành giựt xảy ra đến đó. Nhiều lúc heo đã đi xa hàng trăm thước mà người đánh nhau vẫn còn quần tụ la hét, đấm đá hăng say. Đây cũng là một dịp để cho các phe nhóm nhân dịp xô cỗ mà trả thù nhau. Năm ngoái, tại thôn kia toán này bị đại bại. Năm nay, cần phải rửa nhục, trả thù.
    Sau cùng, rồi cũng tàn cuộc. Nhóm được heo thì cõng heo ra về thành những đám rước reo hò vui vẻ. Nhìn đám người hò hét, reo vang, ai nấy đều ái ngại lắc đầu. Toàn cả bọn, áo quần xốc xếch, cái đứt khuy, cái tả tơi; mặt mũi tím bầm có người đều loang cả máu; chân bước tập tễnh hoặc phải có người cõng, người dìu. Nhưng tất cả đều có gương mặt hớn hở vui mừng vì đã đắc thắng. Người này cố diễn tả thế võ mình đánh ra và đối phương đã "lãnh đủ" như thế nào mà quên đi những vết bầm trên mặt, những cú thoi vào lưng.
    Toán thất bại không cướp được gì thì không ra về từng đoàn mà chia ra từng toán nhỏ đi rải rác đó đây. Tất cả mọi người đã quên đi người con gái can đảm đã một mình dám đánh bại một lũ côn đồ.
    Sự thật thì sau khi nội vụ xảy ra, chị Tám Cảng đã lâm vào thế bí, không cách nào thoát khỏi vòng vây.
    Trong cơn hiểm nghèo, chị Tám được anh Mười Đậu âm thầm cứu thoát.
    Mười Đậu là một võ sĩ quyền thuật ở gần An Vinh, nổi tiếng về gan dạ và sức mạnh. Thầy dạy Mười Đậu là anh Hai Tửu - anh họ của Bảy Lụt và Tám Cảng. Hôm đó, anh Mười Đậu cũng đi xem hội, đang ngồi uống rượu trong quán, nghe người ta trầm trồ khen một người con gái dám đánh cả một lũ côn đồ làm náo động cả một góc hội thì len lỏi đi tìm ai mà tài ba như thế? Đến tận nơi mới trông thấy Tám Cảng đang chống chỏi có chiều mệt mỏi. Cây đòn gánh trên tay chị bị đập nát, te tua, vấy đầy máu. Thanh niên nhiều người bị thương, nhiều nạn nhân nằm rên rỉ dưới đất. Tuy nhiên số còn lại vẫn còn đông, hung hăng cố bao vây để chờ chị Tám gục ngã vì đuối sức.

    Trước nguy cơ này, Mười Đậu nhân lúc lộn xộn chụp ngay một thanh niên đang hò hét đứng bên cạnh ném vào đám đông, rồi tiếp người thứ hai, thứ ba. Người này ném vào làm ngã người bị đụng, chưa kịp phân trần thì đã bị người bên cạnh phang cho một gậy. Người bị ném tức quá, gượng ngồi lên, quật vào chân người đánh mình. Gậy đánh ra tức thì trúng người. Và cứ như vậy thành ra loạn đả. Không ai biết vì sao? Cứ thấy người quơ gậy lên về hướng mình là lập tức trả đòn. Ai đánh trước để khỏi bị đánh. Ai lo thân nấy.
    Thừa loạn, Mười Đậu dìu chị Tám Cảng ra và lách dần, lách dần ra khỏi đám hỗn loạn rồi cõng chạy về nhà cứu chữa...
    Tám Cảng có thân hình cân đối, bộ mặt xinh xắn dễ thương, nhưng có chồng hơi muộn. Mãi đến hai mươi lăm tuổi mới có chồng. Nguyên do là ông Hương mục Ngạc chỉ muốn gả con gái mình cho chàng trai nào võ nghệ tài ba. Ông thường thổ lộ với bạn bè:
    - Tánh con Tám thì trực, võ nghệ lại khá, nên phải có chồng cao tay nghề mới cầm cương nó được.
    Bởi vậy, ông đặt ra một biệt lệ ai muốn làm chồng Tám Cảng thì phải đánh thắng Tám Cảng. Thường thì có một số người mang trầu cau đến dạm hỏi, song khi nghe phải giao đấu võ nghệ cùng Tám Cảng phải đành rút lui.
    Hàng tháng cứ đến ngày rằm, ông Hương mục Ngạc đều tổ chức tại sân nhà những buổi giao đấu dưới ánh trăng rằm.
    Các thanh niên háo sắc, háo danh lần lượt đến xin giao đấu. Chỉ qua vài hiệp đều bị Tám Cảng khi thì đá văng vào hàng rào, khi thì bị ném xuống ao cá gần sân. Tiếng tăm vang xa không còn ai dám đến cầu hôn nữa. Thuở trước, hễ là con gái tuổi mười lăm đã đi lấy chồng. Quá hai mươi tuổi mà còn ở vậy thì thiên hạ cho là đã ế chồng. Tám Cảng không lấy thế làm buồn, tháng ngày ngoài việc bếp núc phục vụ cha, chị mải vui chơi cùng các bạn võ nghệ, nên quên đi cái tuổi háo hức lấy chồng.
    Một hôm có một chàng trung niên, khăn áo chỉnh tề đến xin làm rể ông Hương mục Ngạc. Nhìn tướng người phúc hậu, ăn nói lễ phép, ông Hương mục Ngạc rất vừa ý:
    - Tôi nói cho anh rõ là con Tám Cảng mà muốn chung sống trăm năm thì trước hết phải trị nó mới lấy nó được. Không đủ võ nghệ, sức mạnh thì sẽ bị nó ăn hiếp, không sống được với nhau đâu!
    Người đến xin làm rể là anh Dư Hữu đấu với Tám Cảng. Hai bên cân sức cân tài. Sau vì một thế lỡ bộ nên Dư Hữu bị Tám Cảng đá một đá ngã nhào xuống ao cá. Dư Hữu vui vẻ ra về tầm sư học đạo và một năm sau trở lại. Trận đấu lại tiếp diễn trong sân nhà dưới ánh trăng rằm.
    Sau khi hạ Dư Hữu, chị Tám Cảng biết thế nào anh cũng có ngày trở lại, nên dốc tâm tập luyện các thế quyền do cha truyền dạy. Một năm trôi qua, cả hai người đều đổi khác. Dư Hữu trông vạm vỡ thêm. Tám Cảng duyên dáng mặn mà hơn. Lần này, anh chị nhìn nhau tự nhiên như một đôi bằng hữu. Ông Hương mục Ngạc bắc ghế ngồi ở đầu sân. Các đệ tử ngồi xổm trên hè nhà giám sát trận đấu. Lần này có Bảy Lụt, Chín Giác về tham quan. Bà con trong làng nghe tin kéo nhau đến đứng đông nghịt ngoài hàng rào ngó vào.
    Trước khi giao đấu, ông Hương mục Ngạc cũng nói qua vài điều kiện:
    - Giao đấu trong hữu nghị.
    - Không được quá tay làm thương tổn lẫn nhau.
    - Lỡ có thua thì phải chấp nhận.
    Còn việc dựng vợ gả chồng thì đương nhiên theo như lời giao ước.
    Nói dứt lời, ông Hương mục ra hiệu cho trận đấu bắt đầu.
    Tám Cảng chờ cho Dư Hữu bái tổ xong chị dùng hư quyền đánh nhứ vài cái. Dư Hữu bước phải, né tránh xã giao. Xong rồi cả hai đều nhập cuộc.
    Đánh được vài hiệp, Tám Cảng vẫn dùng đến thế đá cũ để hất văng Dư Hữu xuống ao, song như đã biết trước và đã chuẩn bị sẵn sàng, nên Dư Hữu tóm được chân Tám Cảng và chuyển mình đưa thẳng thân hình Tám Cảng nằm dài trên hàng rào duối. Tiếng hoan hô vang dậy nổi lên và Dư Hữu bước đến đỡ Tám Cảng leo xuống hàng rào cây duối. Tám Cảng mặt đỏ bừng, vừa bẽn lẽn vừa khâm phục "ngoe nguẩy" bước nhanh vào nhà.
    Tháng sau. Đám cưới được tổ chức trang trọng và vợ chồng sống với nhau được ba năm, yên ổn hạnh phúc, tuy có đôi khi cãi cọ nhau. Chị Tám Cảng tánh bướng bỉnh, thường hay trả lời một cách khiêu khích. Anh Dư Hữu ban đầu nhường nhị song bản chất hay nổi nóng. Chung sống đã ba năm mà không có con cái nên các cuộc cãi vã dần dần nổi lên liên tục, không ai nhịn ai.
    Một hôm, anh Dư Hữu đang ngồi vót mây dưới đất nơi nhà ngang. Chị Tám Cảng nằm trên võng đưa đi đưa lại. Hai vợ chồng đang trò chuyện thì bỗng cãi nhau. Anh thì nổi nóng cáu gắt, chị thì bướng bỉnh trả lời có ý khiêu khích, chồng càng tức giận, vợ càng châm chọc. Bực mình, anh lấy cái bát uống nước để cạnh chân ném vào mặt chị. Chị vươn tay bắt được, để xuống đất, nói:
    - Cái bát sứ này mà vỡ đi thì cũng uổng.
    Đoạn cười khẩy. Dư Hữu giận quá chụp một cái chày đâm tiêu để cạnh ném vút vào mặt vợ. Tám Cảng ung dung chụp lấy và cũng để một bên, rồi ngồi dậy nói:
    - Cái đầu mà nhầm là cái cối tiêu thì có lẽ mắt đã quáng gà rồi?
    Không dằn được nữa, Dư Hữu sẵn chiếc dao vót mây dưới chân phóng vút vào ngực chị. Lập tức Tám Cảng nằm ngửa ra nhanh như chớp để cây dao bay vụt qua. Ném dao xong, thấy vợ né tránh được và sắp sửa ngồi dậy, Dư Hữu hốt hoảng phóng một cái đã nhảy ra khỏi cửa, cắm đầu chạy một mạch đến nhà cha vợ, lạy cha và kể lại tất cả câu chuyện, rồi xin cha vợ thuận cho hai vợ chồng được ly hôn. Vì với tính khiêu khích châm chọc ấy, vợ chồng nếu tiếp tục sống với nhau ắt có ngày xảy ra án mạng.
    Sau khi ly dị, tánh chị Tám Cảng đâm ra thay đổi thất thường. Chị giao du cùng với các nhóm anh chị có thành tích xấu ở các huyện khác. Tuy nhiên, chị không bao giờ đi theo bọn họ làm ăn.
    Một hôm, trong buổi nhậu nhẹt, đám anh chị có người thách Tám Cảng về tài bắt và điều khiển ngựa. Chị nhận lời. Ngựa sẽ bắt tại Mỹ Yên và giao nộp tại Thuận Ninh. Toán anh chị lên đường đi Thuận Ninh. Riêng chị xuống Mỹ Yên và đêm đó lẻn vào nhà một phú hộ quan sát địa thế và chuồng ngựa. Tờ mờ sáng, một bóng ngựa chạy vọt ra khỏi chuồng, thẳng ra cổng nhà đã mở sẵn. Mọi người choàng tỉnh và chạy theo thì chỉ thấy con ngựa cắm đầu chạy thẳng mà chẳng có người cưỡi trên lưng. Thì ra chị Tám Cảng sau khi đã mở cổng, mở chuồng, chị lẻn vào chuồng ngựa và chẳng cần yên cương, chị dùng giây choàng qua lưng ngựa và luồn xuống dưới bụng ngựa, hai chân kẹp nơi cổ ngựa, tay trái nắm lấy "dái" ngựa. Và đồng thời chị điều khiển ngựa bằng tay trái. Con ngựa bị bóp hòn dái nên bị khống chế sẽ phóng nhanh hay chậm tùy theo sự điều khiển của chị Tám. Bởi nằm ôm dưới bụng ngựa nên mọi người chỉ thấy bóng ngựa cắm đầu chạy mà không trông thấy người cưỡi. Ngựa phi một mạch từ Mỹ Yên lên Thuận Ninh chỉ trong vài giờ. Giao xong ngựa, chị chỉ cười mà khước từ lời mời nhập bọn ở lại làm ăn. Chị chỉ trổ tài cho giới giang hồ biết và trở về phụng dưỡng cha già. Việc chồng con, Tám Cảng không bao giờ nhắc đến nữa.
    :rose: :rose: :rose:

  15. #15

    Mặc định

    15. Bảy Lụt

    Bảy Lụt là con trai lớn của ông Hương mục Ngạc. Vì là con thứ 7 nên có tục danh là Bảy Lụt.
    Bảy Lụt tầm vóc to lớn, sức mạnh hơn người. Theo cha học võ từ thuở còn thơ. Bản tính chân thật, can đảm và rất hiếu học võ nghệ. Vì học võ đã lâu, nên ông được xem như là đại sư huynh của các môn đệ của ông Hương mục Ngạc. Ông thường thay cha dạy các môn đồ mới nhập học.
    Vì có một tầm vóc tương xứng với sức mạnh trời cho, Bảy Lụt đã biết phối hợp với môn cầm nã để ứng dụng vào các thế vật rất đặc biệt. Cho nên các tay võ đương thời rất sợ khi tỉ thí với Bảy Lụt mà gặp thế cận chiến thì trăm người như một đều bị vật té hoặc bị khóa tay khóa chân không cách nào vùng vẫy. Bảy Lụt cũng thường theo cha tham dự các buổi đấu võ đài. Thường ông thắng nhiều hơn là thua.
    Năm ông hai mươi tuổi thì huyện Bình Khê có một vụ bắt cướp xảy ra rất quan trọng. Đó là việc quan Tuần vũ Bình Định lúc bấy giờ bất lực trước việc đồng đảng Dư Đành gây rối khắp các phủ huyện trong tỉnh, cho nên cơ quan tỉnh mật truyền và cấp mật lệnh cho các tay võ sĩ có tiếng trong tỉnh để đi tầm nã bắt cho được Dư Đành. Bảy Lụt được dự vào số người lãnh mật lệnh này.
    Là một thanh niên có võ nghệ, nên tánh háo thắng vẫn chưa kìm hãm được. Bảy Lụt dù chưa biết mặt Dư Đành ra sao cả mà vẫn hăng hái cùng với hai người bạn cầm giấy tầm nã Dư Đành đi khắp hai huyện Bình Khê, Phù Cát. Hai người bạn của Bảy Lụt vốn là học trò của ông Hương lễ Nghè, cũng là đàn em và bà con cùng Bảy Lụt.
    Nhóm ba người đi khắp xóm làng, ghé vào các quán trọ, quán cơm nơi các chợ, các huyện hỏi thăm tin tức của đồng đảng Dư Đành. Ba người đi đến tận làng xóm xa xôi hoang vắng như các vùng Thuận Hạnh, Thuận Truyền, Thuận Nhất, Thuận Ninh. Nơi đó là những vùng giáp ranh giữa huyện Bình Khê, Phù Cát, An Khê, là nơi sào huyệt của những tay anh chị mỗi khi "làm ăn" đều tụ hội về và cũng là nơi nương náu cho các tay giang hồ đang bị tầm nã. Mà cũng là nơi tàng trữ các đồ vật trộm cướp được trước khi đem đi tiêu thụ. Nhất là các vụ trộm ngựa và trộm bò trong hai huyện Bình Khê, Phù Cát. Các con vật bị trộm đem về Thuận Ninh để cất dấu.
    Thuận Ninh là một thôn nằm ở phía bắc Tứ Thuận. Địa hình hiểm trở, nhà cửa dân cư thưa thớt. Dân làng phần đông làm nghề lục lâm. Ban ngày đi làm rẫy từ cánh rừng hoang đất đai cằn cỗi, cây cối toàn gai góc, họ đến các chân núi đất trơ trọi để chặt cây đốn củi như người dân lương thiện, song khi mặt trời ngả bóng chiều hôm là hội họp rủ nhau đi cướp phá hoặc trộm bò trộm ngựa ở các thôn trù phú xa xôi. Tại Thuận Ninh có những đường hầm, khe suối và hang động tự nhiên rộng rãi hiểm trở, có thể chứa nổi vài chục người. Bọn trộm cướp thường dùng làm sào huyệt cất giữ trâu bò và ngựa ăn trộm được. Ngoài tài ăn trộm, tài dấu tang vật, chúng còn có một biệt tài là làm mất các dấu vết riêng để dễ nhận diện như các dấu xoáy trên mình trâu, bò. Xoáy là nơi các lông nằm chồng lên nhau thành một cái xoáy rất đặc biệt. Nhìn thấy là nhận ra ngay. Nhưng khi bọn trộm đã nhốt con vật một vài ngày thì chúng đã tài tình làm mất cái xoáy đi và hiện ra cái xoáy khác ở nơi khác. Cho nên khi đem súc vật đi các chợ bán hoặc bán tại chỗ cho các con buôn súc vật thì dù có chủ của con vật đến nhận dạng cũng không cách gì nhìn ra dấu vết cũ đặc biệt được.
    Tuy nhiên, có nhiều chuyện trớ trêu đã xảy ra. Một toán người buôn súc vật đem theo một người mất một con ngựa rất hay có một cái xoáy đặc biệt ở trên trán. Người mất ngựa trước đó đã đi cớ quan và ghi lại trong đơn dấu vết đặc biệt đó. Sau khi theo toán buôn đi vào Thuận Ninh tìm mua ngựa thì người nọ gặp được một con ngựa rất giống ngựa nhà mình. Cũng tầm vóc ấy, hàm răng ấy và sắc hồng ấy. Song trên trán lại không có cái xoáy. Người mất ngựa đành phải bỏ tiền ra mua con ngựa ấy, vì rất thích là nó rất giống con ngựa cũ của mình. Khi cưỡi ra về thì ngựa chạy đúng y như con bị mất. Vì không đủ chứng cớ nên đành mất tiền. Về đến nhà, sau một tháng, bỗng một hôm người chủ ngựa phát giác ra là cái xoáy nơi trán của ngựa bỗng nhiên xuất hiện. Và đúng là con ngựa cũ rồi. Câu chuyện được thưa lên quan. Chủ ngựa và người bán ra hầu tòa. Nhân chứng là các người đi buôn ngựa có mặt hôm đó.
    Sau khi nghe chủ ngựa khai rõ trước tòa, người bán ngựa ung dung đối đáp:
    - Dạ thưa quan lớn, ngựa ông ta mất là ngựa có dấu xoáy trên trán, còn ngựa của tôi bán cho ông ấy là ngựa không có xoáy, xin quan lớn hỏi các ông buôn ngựa xem có phải hôm ấy con bán con ngựa nào? Khi mua ngựa, nếu phải là ngựa của ông mất thì chắc là ổng đã thưa kiện tôi rồi chớ đâu có phải đợi đến hôm nay? Biết đâu ổng mất ngựa hôm trước, hôm nay tìm lại được ngựa và vì tiếc tiền đã mua ngựa nên thưa kiện con để lấy tiền lại. Thưa quan, nếu ông muốn lấy tiền lại thì xin quan truyền cho ổng trả lại con ngựa ổng mua của con. May ra còn có thể hoàn tiền lại. Ngựa hay hồi này có giá lắm.
    Sau khi hỏi rõ nhân chứng xác nhận là khi mua ngựa thì quả ngựa không có xoáy trán, nên quan đành xử người mất ngựa thua kiện. Tuy nhiên, quan huyện cũng cảnh cáo người bán ngựa, nếu có để xảy ra câu chuyện trên nữa thì quan sẽ trừng trị không tha!

    Tin hai người học trò Hương mục Ngạc do con trai Bảy Lụt cầm đầu đi tầm nã Dư Đành bay đến tai Dư Đành. Có người trong bọn đưa ý kiến là cần đánh phủ đầu một trận, đánh ngay người con nổi tiếng của ông thầy võ An Vinh để bọn võ sĩ lon con khác khiếp vía, không dám lò mò đi tìm nữa. Tất cả đồng ý. Duy có Tám Hựu không đồng ý. Tám Hựu là quân sư của đảng cướp, vốn là một người có học thông chữ Hán, giỏi võ nghệ, song sức lực không được khỏe lắm, nhờ đa mưu túc trí và là thầy của Dư Đành, nên chức vụ quân sư của ông luôn luôn được đồng bọn tôn kính. Lời bàn của Tám Hựu như sau:
    Hiện nay quan Nam triều và Tây đều chưa biết rõ chúng mình là ai? Ở đâu? Nên có truy nã chúng mình thì chỉ như leo cây bắt cá. Nay lại tự mình lộ mặt để gây chuyện ân oán giang hồ thì chẳng khác nào "lạy ông tôi ở bụi này". Đánh nó rồi thì mình sẽ bỏ xứ đi đâu?
    Nhưng cả bọn đều nhất trí là cần đánh cho bọn võ sĩ sợ và cho cả bọn do thám cũng sợ luôn, để không dám bén mảng đến các vùng này. Hơn nữa, không nên đánh ở đây mà đưa nó tới một nơi hẻo lánh xa vùng Tứ Thuận.
    Cuối cùng, đầu nguồn suối Cẩm Tuyền được bọn chúng lựa chọn. Suối Cẩm Tuyền là một con suối cạn (tại thôn Trường Định), trước có tên là Suối Bèo (vì đầy bèo Nhật Bản) chỉ có nước trong mùa mưa còn suốt tám tháng mùa khô chỉ là một con suối cát dài khoảng năm, sáu cây số, không một rãnh nước, lòng suối rộng đến hai, ba trăm thước, hai bên bờ lách mọc đầy, từng đám cỏ rậm rạp xanh rì nơi còn vương hơi nước. Thật là một nơi lý tưởng cho việc thanh toán lẫn nhau.
    Chúng chọn nơi cuối làng Trường Định giáp ven Mỹ Thuận, Kiên Luông, làm nơi gặp gỡ. Chúng cho người nói nhỏ cùng bọn Bảy Lụt rằng:
    - Bọn Dư Đành từ ngày bị truy lùng đã trốn bặt trên bưng, không hè bén mảng đến vùng Tứ Thuận nữa. Chúng ẩn náu trong rừng và chỉ đi lại từ lúc chiều vừa ngả bóng núi tới chập choạng tối. Chúng phải đi lẻ tẻ từng đứa một chớ không dám đi đông, sợ lộ đường đi của chúng. Khi đi cũng như khi về, đều phải đi ngang qua đầu suối cạn Cẩm Tuyền. Muốn biết mặt Dư Đành thì độ xế chiều lẻn lên đầu suối, núp trong đám lau sậy thì sẽ thấy Dư Đành đi qua.
    Người đó còn tả sơ qua hình dáng của Dư Đành để cho dễ nhận diện.
    Bảy Lụt cùng hai người bạn cầm đoản đao, thừng và đoản côn, lên đầu suối núp rình. Quả nhiên, lúc chạng vạng tối, một người đàn ông tầm thước, tay không, thản nhiên đi qua đó. Hình dáng trông giống Dư Đành như người đưa tin đã tả.
    Nhìn trước nhìn sau không thấy còn có ai nữa nên ba người nhóm Bảy Lụt xô ra đón đường, quát:
    - Đứng lại! Đi đâu đây?
    Người kia dừng chân hỏi lại:
    - Các anh là ai mà lại núp rình người đi đường. Định làm gì?
    - Tao là Bảy Lụt đây. Tao lãnh trát mật đi bắt mày đây?
    Người kia thản nhiên hỏi lại:
    - Đi bắt ai mới được chứ?
    Bảy Lụt nạt lớn:
    - Bắt Dư Đành!
    - Này anh bắt Dư Đành sao lại đón đường tôi?
    Ba người nhóm Bảy Lụt thấy thái độ thản nhiên của người đi đường, đâm ra thấy mình vô lý, nên lúng túng nói bâng quơ:
    - Thế anh không phải là Dư Đành, sao anh lại đi đường này trong lúc nhá nhem tối thế này?
    - Còn Bảy Lụt và anh em sao lại cũng đi con đường này, trong lúc nhá nhem tối thế này?
    Trong khi tranh luận qua lại và phân vân chưa biết xử trí thế nào thì nhóm Bảy Lụt bỗng thấy trong đám lau lách bên bờ xuất hiện bốn năm người tay thước, tay rựa quéo, xông ra vây quanh. Một tiếng hô to: "đánh".
    Người đàn ông đi đường nhảy vào ôm Bảy Lụt vật xuống. Hai người vật nhau. Côn, giản văng ra. Hai người bạn Bảy Lụt bị bốn người đến sau vây đánh túi bụi, nên đành tháo chạy, quên cả Bảy Lụt đang đánh vật cùng Dư Đành.
    Lợi dụng sức mạnh và thế cầm nã của mình, Bảy Lụt đè ngửa được Dư Đành và ngồi xổm trên bụng. Dư Đành tuy nằm dưới, song dùng thế khóa tay và chân của Bảy Lụt thành ra Bảy Lụt ngồi trên mà không đánh đá gì được, đồng thời cũng không gỡ tay chân ra được. Bốn người kia, sau khi rượt đuổi hai bạn của Bảy Lụt, quay lại dùng gậy và rựa quéo bổ vào đầu, vào lưng Bảy Lụt.
    Trong cuộc đánh vật, cái thế làm cho đối phương lấm lưng trắng bụng là thắng. Còn ở đây, kẻ nằm dưới bị lấm lưng trắng bụng, nhưng người thắng thế lại phơi lưng, ngỏng đầu ra để nhận hàng chục nhát rựa và ngọn côn mà không né tránh được, cũng không vùng ra được để chạy trốn. Đầu Bảy Lụt bị thủng nhiều chỗ, lưng rách từng vạch dài, máu ra lênh láng. Cuối cùng, Bảy Lụt ngất đi. Dư Đành hất Bảy Lụt rơi xuống đất, rồi đứng dậy nói:
    - Thằng này mạnh thật, nhưng nó không biết mình đã khóa tay khóa chân nó rồi, nên cứ cố mà rướn người định đánh mà không được.
    Một người hỏi:
    - Chết chưa?
    Một người cúi xuống nhìn:
    - Chưa, còn thoi thóp.
    - Chặt đầu cho rồi.
    Chết làm gì? Để nó mang cái xác về cho bọn võ An Vinh, An Thái biết thế nào là vuốt râu cọp.
    Một người hỏi:
    - Ý anh Dư thế nào?
    Đáp:
    - Thằng con nít, ngựa con háu đá, cho ăn đòn một trận sẽ tởn tới già, khiếp cả dòng họ, cả chi phái. Giết làm gì cho to việc ra.
    Bảy Lụt giả chết nằm lắng nghe tỏ rõ hết câu chuyện.
    :rose: :rose: :rose:

  16. #16

    Mặc định

    16. Bùi Điền

    Bùi Điền thuộc dòng dõi Bùi Thị Xuân, quê ở thôn Xuân Hòa, Bình Khê. Quê mẹ ở Gia Trị, huyện Hoài Ân.
    Bùi công tính người điềm đạm, võ nghệ cao cường, thường đi đây đó kết giao với nhiều anh hào. Trong đó có Tăng Bạt Hổ. Năm Giáp Tuất (1874), nhân về thăm quê ngoại ở Hoài Ân, nghe tiếng Tăng giỏi võ bèn tìm đến thử tài. Đấu quyền hai bên cân sức nhờ ở sức lực ngang nhau mà thế võ cũng không hơn kém. Khi đấu với nhau bằng vũ khí thì Bùi Điền dùng côn, còn Tăng Doãn Văn dùng kiếm. Ngọn trường côn vung lên như mưa sa bão táp mà đôi song kiếm thì chớp nhoáng lẹ làng. Lại bất phân thắng bại. Cuối cùng buông vũ khí, cầm tay nhau cười xòa. Từ đó trở thành thân hữu. Làng Xuân Hòa kề cận Phú Phong, nên Bùi Điền rất thân với Nguyễn Hóa, người Phú Phong. Nguyễn Hóa cũng là một trang nghĩa sĩ, vô công cao cường, mưu trí hơn người.
    Khi Mai Xuân Thưởng thi đậu cử nhân về quê mưu tính việc lớn thì Bùi Điền, Nguyễn Hóa là hai đồng chí đầu tiên. Bùi Điền, Nguyễn Hóa phụ trách việc tổ chức quân sự. Những thanh niên có võ nghệ, lòng yêu nước nhiệt thành của 3 huyện Bình Khê, Tuy Phước, An Nhơn đều nhất tề hưởng ứng. Bùi Điền, Nguyễn Hóa vừa tổ chức vừa huấn luyện nghĩa quân. Khi cụ Hường Đào lui binh về An Khê thì Mai Xuân Thưởng được mời hợp tác. Mai công đem tất cả nghĩa binh sát nhập vào lực lượng chung. Bùi Điền theo lên cao nguyên và tham gia tích cực vào việc tổ chức hai đội binh người Thượng là Sơn Dũng và Sơn Hùng.
    Trong lúc Bình Khê khởi nghĩa thì Hoài Ân cũng có Tăng Doãn Văn nổi dậy. Bùi Điền được phân công đi liên lạc. Sự hợp tác thành công. Họ Mai phụ trách phía Nam, họ Tăng trách nhiệm phía Bắc. Bùi Điền được cử ra cùng Nguyễn Sách, một vị nho sĩ tú tài biết võ nghệ, thông thạo địa phương, vốn người Phù Cát, lập chiến khu tại núi Chớp Chài huyện Phù Mỹ. Núi Chớp Chài, cao nhất (653 thước) trong dãy núi Bích Kê, địa thế hung hiểm, có thể chặn được đường nối từ Bắc vào Nam Bình Định.
    Tại đây năm 1773, tướng Nguyễn là Tôn Thất Hương bị phục binh của Tây Sơn tử thương. Năm 1802, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bị Lê Văn Duyệt và Lê Chất chận đường rút lui về Bắc để cứu Quang Toản, nên phải theo đường núi qua Lào rồi xuống Nghệ An.
    Bùi Điền và Nguyễn Sách lập xong đồn lũy thì Bùi Điền được lệnh Mai Nguyên Soái kéo binh ra Quảng Nghĩa đánh Nguyễn Thân để mở đường liên lạc với nghĩa binh hai tỉnh Quảng Nghĩa, Quảng Nam.
    Đầu xuân năm Bính Tuất (tháng 2 năm 1886), Bùi Điền chia quân làm hai đạo kéo ra Quảng Nghĩa. Một đạo do chánh tướng Bùi Điền chỉ huy đi thẳng ra đóng ở La Hà, gần tỉnh lỵ. Một đạo do phó tướng Đỗ Duyệt điều khiển, đi đường núi ra chiếm đóng núi Tai Mèo phía Nam Tiểu phủ Sơn phòng của Nguyễn Thân.
    Nguyễn Thân con của Nguyễn Tấn, một vị quan có công giữ vững miền Sơn phòng Quảng Nghĩa, trước theo Văn Thân, sau lại theo Pháp, được Pháp cấp súng đạn để đàn áp phong trào Cần Vương. Được tin nghĩa quân Bình Định kéo đến, Nguyễn Thân ra lệnh cho 500 lính Sơn phòng sắm sẵn mỗi người một cây nọc và một bó đuốc, rồi dàn quân ra trước núi Tai Mèo, đốt đuốc cắm vào nọc, đóng xuống đất.
    Đoạn để lại chừng mười người với súng bắn lên núi, còn bao nhiêu thì đi vòng sau núi, bao vây nghĩa quân. Nghĩa quân Bình Định thấy trước mặt có ánh sáng, tưởng trại của quân địch, bèn tập trung tên đạn trên núi bắn xuống cho đến sáng. Đỗ Duyệt thấy bên địch bất động, tưởng địch đã rút chạy nên cho quân nghỉ để nấu ăn. Thình lình quân Nguyễn Thân ở sau núi tràn lên đánh úp. Nghĩa quân không phản ứng kịp nên bị đại bại. Đỗ Duyệt bị tử trận, ấn tín bị Nguyễn Thân cướp được.
    Dùng ấn tín của nghĩa quân, Nguyễn Thân viết thư gạt Bùi Điền rằng đã bắt được Nguyễn Thân, xin thỉnh chánh tướng vào Sơn phòng xử tội. Bùi Điền thấy có dấu ấn tín, tưởng thật bèn đem quân vào Sơn phòng. Nguyễn Thân cho quân mai phục tại Tú Sơn (Mộ Đức), nghĩa quân không đề phòng nên bị đột kích. Toàn đội binh tan rã. Lớp chết, lớp bị bắt, lớp chạy trốn khắp nơi. Bùi Điền nhờ có sức mạnh, vô cùng cao cường, tả xông hữu đột, ngọn roi đi đến đâu lính Nguyễn Thân chạy đến đó. Bùi tướng quân che chở cho tàn quân rút lui. Giặc Thân khiếp sợ không dám đuổi theo. Về đến Bình Định, quân lành mạnh chỉ còn một phần ba. Bùi Điền nhờ có công sáng lập ra đoàn nghĩa quân nên được tha tội chết.
    Nguyễn Thân được vua Đồng Khánh thăng chức Tham tri bộ Binh, tước Diên Lộc Nam, chức Nghĩa Định Tiểu Thảo Xử Trí Sứ (Sứ giả đi đánh dẹp giặc ở Quảng Nghĩa và Bình Định được trọn quyền xử trí mọi việc) chuẩn bị vào Bình Định. Nghe tin, Tăng Tổng trấn quyết định kéo quân ra Quảng Nghĩa đánh Nguyễn Thân trước khi y xâm nhập Bình Định. Bùi Điền lại tình nguyện ra quân. Đặng Đề đang giữ đồn Phủ Cũ được Trần Vận thay thế để làm phó tướng theo Bùi Điền.
    Bùi Điền chia quân làm hai cánh. Tiền quân do mình điều khiển. Hậu quân do Đặng Đề chỉ huy. Cánh tiền quân đến Thánh Hiếu (Đức Phổ) thì gặp quân Nguyễn Thân. Hai bên giao chiến. Không để cho quân địch sử dụng súng, nghĩa quân lăn xả vào đánh nhập nội, đâm chém không ngừng tay. Tinh thần địch bị dao động, lớp chết lớp bị thương. Nguyễn Thân đành phải rút chạy về Lâm Đăng (Đức Phổ). Nghĩa quân không quen thuộc địa thế nên không dám đuổi theo.
    Đến Lâm Đăng, Nguyễn Thân lại được tin còn một cánh quân hậu tập kéo đi sau bèn dùng kế để thủ thắng. Một mặt y cho về tỉnh lấy thêm binh, một mặt y sai một số lính gốc người Bình Định, hớt hải chạy vào Bình Đê, tuyên truyền rằng cánh tiền quân của tướng Bùi Điền đã bị đánh tan ở Đức Phổ. Tướng bị giết, quân vừa chết vừa đầu hàng gần hết. Chỉ thoát được một vài người chạy về Bình Định. Chánh quân của Đặng Đề vừa đến Bình Đê tưởng thật bèn đóng quân lại.
    Trong khi đó Nguyễn Thân cho một toán quân đi vòng lên núi Chóp Ngà là dãy núi lên đến đỉnh nơi triền phía Bắc, tức triền ngó ra Quảng Nghĩa. Cánh quân của Bùi Điền đợi cánh hậu quân cho đến tối mà vẫn không thấy. Lòng đang nghi nghi ngại ngại thì chợt thấy lửa sáng từ Bắc tiến dần vào Nam. Ai nấy đều lo ngại… Bùi Điền ngờ rằng cách hậu quân của Đặng Đề bị đánh vỡ và Nguyễn Thân đang tiến binh. Chưa kịp phòng bị thì nghĩa quân lại nghe một tiếng pháo nổ rồi binh Nguyễn Thân tràn đến. Lực lượng địch quân lần này quá đông, súng đạn được sử dụng tối đa và nắm phần chủ động. Nghĩa quân tan rã nhanh chóng Bùi Điền trúng đạn, máu dầm mình, càng đánh càng yếu sức rồi bị bắt đem về Quảng Nghĩa. Bùi tướng công mất trong ngục thất.
    :rose: :rose: :rose:

  17. #17

    Mặc định

    17. Đội Dung

    Người Phù Mỹ, huyện Phù Ly, sanh năm Đinh Tỵ (1857), võ giỏi, tánh tình cương trực. Thuở thanh niên đi lính lên được chức đội, đóng tại đồn An Dũ, đồng thời với Tăng Bạt Hổ. Khi vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống chiếu Cần Vương, ông cùng với Tăng Bạt Hổ hiệu triệu một số quân sĩ có thiện chí lấy hết vũ khí và lương thực trong đồn lên vùng núi Kim Sơn tổ chức nghĩa quân chống Pháp.
    Đội Dung võ nghệ giỏi, có tài nhảy cao và nhiều mưu lược. Trong quân đội thường có các cuộc thao diễn. Lúc nào Đội Dung cũng đoạt cờ đầu, cho nên chỉ đầu quân trong một năm là ông thăng lên chức Đội trưởng. Ông có người bạn đồng canh, đồng hương và đồng môn là Lê Thức. Hai người rất thân với nhau và sau này trở thành hai vị phụ tá đắc lực cho Tăng Bạt Hổ.
    Khi phong trào Cần Vương nổi lên thì chẳng những toàn dân trong tỉnh đều hoàn toàn theo về phe chống Pháp mà các quan chức tri phủ, tri huyện tuy không dám ra mặt tán đồng, song vẫn ngấm ngầm tán trợ. Sau vua Đồng Khánh tuân lệnh người Pháp, sai Phạm Phú Lâm mang chỉ dụ vào Bình Định khuyên nghĩa quân giải giáp về với triều đình, Tăng Tổng trấn cùng Đội Dung, Lê Thức nhìn nhau cười lớn.
    - Dấy binh đánh Pháp, tên tay sai của Pháp lại bảo mình bãi binh.
    Liệu không khuyến dụ được, Đồng Khánh bèn phong cho Nguyễn Thân chức Nghĩa Định Tiểu Thảo Xử Trí Sứ, được quyền tiền trảm hậu tấu và hành sự tùy nghi.
    Viên tri phủ Bồng Sơn là Huỳnh Quang, một tên tham quan khả ố, bấy lâu muốn lập công cùng triều đình, nhưng cô thế, không dám xúc phạm đến nghĩa quân. Nay nghe tin Nguyễn Thân sắp đem quân vào đánh dẹp, bèn bắt lý hương làng An Thường cùng bà Tăng Tổng trấn đến tra hỏi. Tăng Tổng trấn nổi giận toan cử binh xuống vấn tội. Đội Dung xin đi thay.
    Nghĩa quân kéo đến Bồng Sơn, đồng bào kéo ra hoan nghênh chật cả đường sá. Vốn thù ghét Huỳnh Quang, phần đông dân chúng kéo theo nghĩa quân bắt tên tham quan. Nhưng khi vào phủ, không tìm thấy ai cả. Ngờ rằng Huỳnh Quang cùng gia đình và thuộc hạ đến ẩn nấp nơi đồn Lại Giang, nghĩa quân và nhân dân kéo sang đồn. Tiếng reo hò vang trời dậy đất. Viên chỉ huy đồn sợ quá mở cửa chạy trốn. Không kẻ cầm đầu, lính giữ đồn cùng nhau nạp vũ khí xin hàng. Đồng bào ùa vào đồn lục tìm tên tri phủ. Không tìm thấy, họ nổi giận cướp phá các kho quân lương, quân trang. Nghĩa quân không ngăn nổi, Đội Dung phải dùng súng địch, bắn chỉ thiên mới vãn hồi được trật tự. Đoạn yêu cầu đồng bào giải tán và tuyên bố cùng lính giữ đồn, ai muốn trở về nhà làm ăn thì cứ về, ai muốn theo nghĩa quân thì được thu nhận không điều kiện. Phần đông xin ở lại.
    Đội Dung một mặt sai người về Kim Sơn báo tin, một mặt lo chỉnh đốn đội ngũ, tu bổ doanh trại và liên lạc cùng đồn Phủ Cũ, đồn Bình Đê để chung lo việc phòng địch.
    Nguyễn Thân sau khi được phong chức, định kéo quân vào Bình Định thì bị Bùi Điền đem binh đánh trước. Thắng được Bùi Điền, Nguyễn Thân kéo binh đánh đồn Lại Giang. Đội Dung liệu một mình không chống nổi, bèn cho người cầu cứu hai đồn Phủ Cũ và Bình Đê. Đồn Bình Đê nằm ở mặt Bắc, ngăn ranh giới Quảng Nghĩa - Bình Định do Võ Đạt trấn đóng. Vừa đúng lúc có Đặng Đề theo quân Bùi Điền đánh Quảng Nghĩa vào tạm trú tại Bình Đê. Đồn Phủ Cũ thì do Trần Vận trấn đóng. Võ Đạt người làng Xuân Vinh, huyện Hoài Nhơn. Đặng Đề người huyện Phù Mỹ (?) và Trần Vận người huyện Hoài Nhơn.
    Nhận được tin, từ mặt Bắc Võ Đạt và Đặng Đề đánh vào; ở mặt Nam, Trần Vận đánh ra. Binh Nguyễn Thân phải phân tán để chống cự. Đội Dung thừa thế xua binh xông ra đánh giết. Nghĩa quân và ngụy quân cùng nhau kịch chiến. Ngụy quân được trang bị súng đạn đầy đủ. Nghĩa quân chỉ có gươm, đao, giáo, mác, nhưng lòng đầy dũng cảm, cao đức hy sinh, nên đã chiến đấu anh dũng cùng địch quân từ hừng đông đến đứng bóng. Đạn địch bay như mưa, không mấy lúc ngớt. Nghĩa quân không chút sợ sệt, cứ xông vào giết địch theo tiếng gọi của cấp chỉ huy. Trong lúc hỗn chiến thì tướng Võ Đạt trúng đạn tử thương. Tướng Trần Vận sa cơ bị bắt, nghĩa quân lớp chết lớp bị thương quá nhiều, nên Đội Dung và Đặng Đề phải rút lui quân về Kim Sơn.
    Nghĩa quân mười phần hao hết bảy tám, lớp chết lớp bị thương không chạy được, lớp rút lui không kịp nên bị bắt. Nguyễn Thân ra lệnh chặt đầu tất cả những người đã chết lẫn còn sống, đem đầu treo hai bên đường, hai bên đầu cầu Bồng Sơn, còn xác thì đem phơi nơi bãi cát sông Lại Giang.
    Khí uất hận ngút trời.
    Hai đồn Bình Đê và Phủ Cũ cùng mất vào tay giặc.
    Đêm mồng 8 tháng 8 (5-9-1886), Tổng trấn Tăng Bạt Hổ hợp đồng cùng tướng Nguyễn Sách chỉ huy chiếm khu Chóp Chài thất bại, vì nghe lầm địa danh Lại Giang ra Lộc Giang, nên chỉ một mình binh Tăng Tổng trấn đánh Lại Giang, Đội Dung và Lê Thức đã lập công đầu
    Đội Dung vốn đã biết rõ hình thế của đồn Lại Giang nên đề nghị sẽ lén đưa quân vào đồn theo ngả không có lính canh, vì nơi này địa thế rất hiểm trở. Để làm thang leo, Tăng Tổng trấn, Đội Dung và Lê Thức cùng các võ sĩ tráng kiện đứng làm trụ để quân sĩ leo chồng lên vài ba bốn tầng cho đến đầu tường rồi từ đầu tường nắm tay nhau làm dây chuyền để xuống đất, chỉ trong khoảnh khắc, nghĩa quân đã lọt vào đồn một cách yên ổn.
    Theo lời hướng dẫn của Đội Dung, nghĩa quân chia làm nhiều toán đi theo các con đường lớp bao vây trại chỉ huy, lớp đánh chiếm các bót canh, các trại lính. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn tiếng hò reo nổi dậy. Lính trong đồn phần đông đang ngủ say, giật mình thức giấc, hốt hoảng bỏ chạy tứ tung. Trận này tuy lấy được đồn, song lại bị Nguyễn Thân đánh bại, Tăng Tổng trấn bị thương
    Đầu xuân năm Đinh Hợi (1887), Nguyễn Thân cử đại binh đến đánh Kim Sơn, Đội Dung và Lê Thức đã dùng chiến thuật du kích đánh nhiều trận phục kích khiến Nguyễn Thân thiệt hại nặng. Nguyễn Thân bèn dùng hỏa công đốt rừng núi Kim Sơn. Đội Dung đã ở lại chặn đường tấn công địch để Tăng Tổng trấn rút lui lánh nạn. Đêm đến, Đội Dung cùng Lê Thức đem quân tấn công trại Nguyễn Thân. Không đề phòng, quân Nguyễn Thân chạy tứ tán. Sáng hôm sau Nguyễn Thân tập hợp lại rồi phản công. Nghĩa quân phần đói, mệt nên số ít không chống nổi quân đông, chỉ một số ít thoát khỏi thương vong. Đội Dung anh dũng hy sinh tại trận tiền. Lê Thức bị thương, song trốn thoát.
    Mặt trận Cần Vương Bắc Bình Định tan rã.
    :rose: :rose: :rose:

  18. #18

    Mặc định

    18. Trần Hữu Khánh

    Trần Hữu Khánh sanh năm Tân Sửu (1841) thọ 81 tuổi, tạ thế ngày 13-9-1920, chôn tại Gò Sung sau nhà may Diệp, số 202 thị trấn Phú Phong (Tây Sơn).
    Ông làm quan triều đình Huế, chức Tán tương quân vụ (Tán nghị). Sau, ông từ quan về vui thú điền viên, thông giỏi về Khoa địa lý tướng số trong vùng. Trong thời Cần Vương kháng Pháp và chống thuế, ông đã đứng ra xin tha cho những đàn bà có tội trong khi bụng còn đang mang thai, chờ khi sanh đẻ xong.
    Đến phong trào khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng, ông được nhân dân đồng tình đấu tranh với chính quyền khởi nghĩa xin tha tội cho ông Trần Hữu Khánh về tội có tham gia với triều đình nhà Nguyễn.
    Ông rất thương đàn bà con gái, cháu ngoại, nên chia gia tài đồng đều.
    :rose: :rose: :rose:

  19. #19

    Mặc định

    19. Trần Diệu

    Ông thuộc hệ phái thứ sáu của Trần gia. Hệ thứ năm, ông Bốn lên làng Trinh Tường làm ăn sinh được bốn người con là Trần Diệu, Trần Địch, Trần Triệu và Trần Khâm. Văn Thân khởi nghĩa, bốn anh em điều tham gia nghĩa binh.
    Trần Diệu bình sanh lỗi lạc, chí khí cương trực, mồ côi mẹ từ thuở nhỏ, bản chất thông minh, có theo học trường Quốc Tử giám Huế. Thi Hương hỏng về làm việc ở hội đồng xã. Vốn dòng dõi võ nghệ nên vừa học văn vừa luyện võ.
    Năm Ất Dậu (1885) cụ Hường Lô Đào Doãn Địch người làng Tùng Giảng, huyện Tuy Phước, đang làm quan tại triều bỏ về Bình Định khởi nghĩa Cần Vương.
    Đang có tang cha, nhưng Trần Diệu vẫn hăng hái tham gia. Là người có học và biết võ nghệ nên ông được Mai Xuân Thưởng sau khi lên làm Bình Tây Nguyên soái, phong làm Nhiếp binh, có Trần Trực làm Đề binh phụ tá, đồng phụ trách chỉ huy sản xuất và luyện quân ở Bắc trại.
    Khi Bắc trại bị Trần Bá Lộc tấn công, Trần Diệu thoát hiểm chạy về ẩn náu ở Trinh Tường được vài hôm thì bị lùng bắt.
    Trong khi thẩm vấn, Trần Bá Lộc chỉ quan tâm đến ba nhân vật quan trọng: Mai Nguyên soái, Đại tướng Nguyễn Cang, Thống binh Nguyễn Hóa.
    Trần Bá Lộc hỏi các tướng bị bắt song không ai chịu nói sự thật, Lộc truyền đem trói mỗi người vào mỗi cây cọc ở trước sân đình làng Phú Phong và bảo hễ nói thật thì tha hết tội, bằng không thì bắn tức thì. Súng lên cò răng rắc. Tất cả mọi người đều đứng im, Lộc hỏi từng người một.
    - Tướng Cang hiện ở đâu?
    Không một tiếng đáp. Lộc hô bắn. Tiếng súng nổ, lần lượt ngã từng người một. Không một tiếng trả lời. Súng lại nổ.
    Đến lượt Trần Diệu. Sau khi đã suy nghĩ, cân nhắc, ông thấy rằng Tướng Cang đã chết, đại nghĩa chắc không thành, cần phải lưu lại tấm thân để còn mong làm việc khác. Cho nên ông đáp:
    - Bị bắn chết rồi.
    - Ai bắn?
    - Tây bắn gãy răng.
    Lộc truyền mở trói, dẫn đi tìm mả Tướng Cang. Quật mả khám nghiệm, quả như lời, bèn tha tội chết. Sự việc tiếp theo được ông Trần Ích Trí, cháu đời thứ chín họ Trần ghi lại trong bản ký sự "Tiểu sử Đệ nhất tổ Trần Diệu":
    "Cụ cố tổ chúng ta bị giam giữ một thời gian, rồi gia tài điền sản đều bị tịch thu sung công cả (điền sản này do thân phụ chia cho, một phần lớn cúng vào thứ Văn Thân, còn lại bị tịch thu vào công quỹ). Tay trắng lại hoàn tay trắng, sự nghiệp cũng vì đại nghĩa mà tan tành như xác pháo, họa chăng chỉ lưu lại chút gương ái quốc cho con cháu họ Trần...
    ... Cũng chẳng khác gì Quan Vân Trường đời Tam Quốc "tàn niên quy cố lý", cụ về làng, cố ý đôn đốc, xúc tiến toàn dân đề chỉnh tu đình, từ, miếu, vũ, trường học, mở chợ, khuyên nhủ học hành. Nhưng thấy cái học khoa cử, cái học từ chương đã lỗi thời, lạc bước khó theo kịp với trào lưu thế giới, nên cấp tốc theo chiều đổi hướng. Cố đốc công lập Văn chỉ Tuy Bình. Xét thấy có chút thiện tâm với quần chúng nên dân trong quản hạt tôn tặng chức "thủ chỉ" để đối xử với quan với dân lúc bấy giờ.
    Con người ta lúc chí hiên ngang bất toại, chán chê với cuộc đời rồi muốn hét lên một tiếng cho hả lòng, nên cụ có nuôi con hát trong nhà, để lúc trà dư tửu hậu, lấy cảnh sân khấu giả tạo mà cũng có triều đình, có đám trung thần, có đồ sủng nịnh, có thằng hề bôi nhọ, có con gái giả điên. Tuồng tích của cụ đặt thường là trào phúng và châm biếm. Quan địa phương thường đi hành hạt, có ghé lại vấn an để tỏ lòng kính phục người đồng phục của Mai tướng công còn sót lại... (Trích gia phả họ Trần)
    :rose: :rose: :rose:

  20. #20

    Mặc định

    20. Trần Tân

    Là em ruột của Trần Trực, kết duyên cùng bà Nguyễn Thị Đức ở thôn Phú Phong, sinh hạ được ba trai và bốn gái. Con gái đầu tên Trần Thị Nhã nên nhân dân thường gọi ông bằng tên con.
    Ông ứng nghĩa Cần Vương chống Pháp, được Mai anh hùng cử làm Quản trấn. Nhân dân thường gọi là Quản Nhã.
    Quản Nhã tính chân thật, nóng nảy, rất tận tâm vì nghĩa vụ. Khi gia nhập nghĩa quân, ông lo toan việc binh nên ít khi về nhà. Nhờ ở võ nghệ siêu quần, am hiểu địa hình địa thế ở khắp nơi trong huyện nên khi anh hùng Mai Xuân Thưởng lập thứ Hương Sơn ở núi Thơm nằm ở giữa bốn làng An Chánh, Vân Tường, Trường Định, Kiên Thạch, thì ông được cử làm Quản trấn, hợp cùng cử nhân Vũ Phong Mậu làm Tham trấn, Cử nhân Nguyễn Trọng Trì làm Hiệp trấn. Vì bất hòa cùng Tham Mậu hãm hại, ông mất ngày 16 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), tuổi chưa đầy năm mươi. Ông có bảy người con, ba trai, bốn gái. Cháu nội ông là Tú tài Trần Khương, văn hay chữ tốt đã viết cuốn gia phả "Trần gia phổ lục".
    Cháu ngoại ông là võ sĩ Đoàn Phong nổi tiếng về đôi song sỉ và và thế võ "Thuận thế du dương" trong tỉnh Bình Định.
    :rose: :rose: :rose:

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. SƯ ÐỊA LUẬN THÍCH
    By phanquanbt in forum Đạo Phật
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 27-05-2013, 02:57 PM
  2. CÕI VÔ HÌNH THEO TÂY PHƯƠNG
    By Thien_than_000 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 14
    Bài mới gởi: 16-03-2013, 08:22 PM
  3. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 03-03-2013, 07:15 AM
  4. KHOA HỌC TÂM LINH NHÂN ĐIỆN M.E.L
    By tuanvu_quynh1949 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-04-2011, 03:26 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •