(Theo Angutfana Nikaya 8 52 = Tăng Nhất A Hàm số 8 52).
Và kể từ ngày ấy, vị Tôn giả A Nan Ða là một trong những người đầu tiên có công sáng lập ra hệ thống Ni giới, nên ông tìm mọi cách để thúc đẩy hệ thống này tiến mạnh trên đường Thánh đạo.
Ðây cũng là lý do khiến cho A Nan Ða đã gặp phài một số phiền phức.
Có hai trường hợp các Tỳ khưu Ni bướng bỉnh chống lại đại Trưởng lão Ca Diếp (Maha Kassapa) để đòi nghe pháp của A Nan Ða (Theo Samyutta Nikàya 16, 10, 11 = Tạp A Hàm các số 16, 10, 11).
Một trong hai trường hợp đó đã được đề cập qua trong chương hai, với tựa đề là A Nan Ða một cái tên quen thuộc. Theo sử chép thì kết quả của biến cố ấy là có hai Tỳ khưu Ni khó dạy hoàn tục. Và họ nêu lý do hoàn tục rằng: Họ đã không chịu nổi cảnh của một ông thầy (Aùm chỉ A Nan Ða) không biết chú ý đến họ như những con người, mà chỉ chú trọng đến họ như hai tâm hồn cần được cứu rỗi.
Nghiêm trọng hơn nữa là trường hợp của Tỳ khưu Ni tên là Kosambi, một cái tên mà A Nan Ða chưa từng quen thuộc. Tỳ khưu Ni này một hôm bỗng nhắn lời đến A Nan Ða rằng: Cô ta đang bệnh nặng, cần sự viếng thăm của ông. Sự thật cô đã thầm yêu trộm nhớ A Nan Ða, và chỉ muốn tạo dịp quyến rũ vị Sa môn này. A Nan Ða khi biết rõ chuyện ấy, thay vì né tránh ông đã giải quyết vấn đề một cách cao thượng.
A Nan Ða đến thẳng tư thất của Tỳ khưu Ni si tình kia, rồi giảng giải cho cô ta nghe rằng: Xác thân này của ông vốn là sự hội hợp của những chất đáng nhờm gớm.. Nhất thời, nó chỉ là giao điểm của ba nguồn đau khổ là Tham sống, Thèm Khát Hưởng Thụ và Ngã Chấp. Rồi ông phân tích hậu quả trầm luân của ba nguồn đau khổ ấy, để thức tỉnh người đàn bà tăm tối kia.
Ông nói: Thứ nhất hễ tham sống thì cái chết sẽ làm cho ta đau khổ, mà cái chết không thể tránh được. Cái chết được biểu hiện bằng cái già và cái bệnh, mà cái già và cái bệnh cũng không thể tránh được. Khi người ta cảm thấy mình mỗi ngày một già thì người ta tự biết mình càng lúc càng tiến đến chỗ chết. Thứ hai: Hễ thèm khát hưởng thụ thì bất toại nguyện sẽ làm cho ta đau khổ, mà điều bất toại nguyện không thể tránh được, vì con người chỉ ngăn ngừa nổi ác nghiệp sắp tới (nhờ tinh tấn tu hành), chứ không ngăn được ác quả đã tạo. Khi người ta đối diện với một nghiệp quả đã tạo dù lành hay dữ, sự thèm khát luôn luôn làm cho người ta đau khổ. Nếu quả lành thì thèm khát mong được có nhiều hơn, còn nếu quả ác thì thèm khát mong được tránh khỏi. Thứ ba hễ ngã chấp thì vô thường sẽ làm cho ta đau khổ, mà vô thường là một luật định không ai có thể tránh được. Mặt trời buổi sáng mọc ở hướng Ðông, rồi buổi chiều lặn ở hướng Tây. Ngày qua tháng lại là tượng trưng chính xác nhất của định luật vô thường. Vô thường là yếu tố căn bản để làm cho cái "ngã tạm thời" không bao giờ thực sự tồn tại, chứ đừng nói chi đến việc hiện hữu lâu dài hay trường cửu.
Một bậc xuất gia chân chính là người biết biến đổi ba ác pháp tham sống, thèm khát, hưởng thụ và ngã chấp ấy ra thành ba thiện pháp là: Vô tư trước hai trạng thái sống và chết, không mắc dính trước mọi cám dỗ của dục lạc ở đời và niệm tưởng đến luật vô thường, mọi vật không ngừng biến đổi! Bậc xuất gia ấy sẽ thay thế sự tham sống bằng sự ham thích tịch tịnh, thay thế sự thèm khát hưởng thụ bằng sự ham thích phúc đức để tạo thiện nghiệp và thay thế sự ngã chấp bằng tính vô ngã đại đồng.
Nói cách khác là bậc xuất gia ấy biết đem sự sống của mình hòa với sự sống chung của muôn loài vạn vật, biết đem tính phát triển thiện hạnh của mình đóng góp vào sự tiến hóa chung của tất cả chúng sinh, và biết đem cái bản vị tạm thời trong một kiếp người của mình làm ngọn đèn soi thấy lý Vô ngã trong cái vòng sinh sinh diệt diệt.
Nghĩa là một bậc xuất gia như thế hằng sống trong Chánh Pháp. Và sự biết mình chính là một sức mạnh hộ trì cho trí huệ sáng suốt để dẹp bỏ mọi tà tư duy, nhất là tình dục, hầu như giác linh của họ nhập vào một phẩm hạnh Thánh nhân, một phẩm cách nhằm đạt đến giải thoát mọi đau khổ trong kiếp này và thoát khỏi cảnh tử sanh trong những kiếp sau.
A Nan Ða cũng nhấn mạnh rằng tình dục là nguyên nhân chính cắt đứt con đường giải thoát. Một bậc xuất gia mà để cho tình dục lộng hành trong tâm mình ví chẳng khác nào như người đi thuyền khi thấy thuyền bị chảy nước mà không chịu kịp thời ngăn chặn lại. Người đi thuyền đó trước sau gì cũng bị nhận chìm dưới đáy nước.
Sau khi nghe những lời giảng dạy chân chính như thế, Tỳ khưu si tình Kosambi liền thức tỉnh. Cô lập tức rời khỏi giường (nơi mà trước đó chẳng bao lâu cô đã dùng làm chỗ khêu gợi) để đe đầu phủ phục trước mặt A Nan Ða, thành tâm nhận lỗi, rồi sám hối, yêu cầu A Nan Ða tha thứ.
A Nan Ða liền hoan hỷ trước lời sám hối của Tỳ khưu Ni, và khuyến khích cô rằng: "Trong cộng đồng những người sống theo Bát Chánh Ðạo, kẻ nào biết nhận lỗi và sám hối ăn năn là người sẽ tiến bộ, và sẽ đạt đến mục tiêu giải thoát". (Theo Anguttara Nikaya 4, 159: Tăng Nhất A Hàm số 4, 159).
Câu chuyện này hiển nhiên đã chứng minh một cách hùng hồn về khả năng cảm hóa (bằng thuyết pháp đúng lúc và hợp hoàn cảnh) của A Nan Ða, đối với những kẻ tăm tối hầu đưa họ ra khỏi vô minh và dục vọng
Bookmarks