Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 35

Ðề tài: Dùng phật pháp giảng cho những kẻ tâm ma

  1. #1

    Mặc định Dùng phật pháp giảng cho những kẻ tâm ma

    Phật đã giảng ròng rã 22 năm cho những tâm ma, TÁNH KHÔNG là gì?
    là Ba La mật Đa
    Muốn rời lục đạo, về cỏi tịnh độ, thì hành giả cần phải
    - Phước báu của mình nếu có , phải chuyển thành công đức hữu lậu và phát nguyện hồi hướng cho chúng sanh, đây là hạnh bố thí ba la mật
    - Phải tu TỨ VÔ LƯỢNG TÂM: TỪ BI HỸ XẢ, đây là tâm Ba la mật
    - Phải phát tâm bồ đề thành tâm vô lượng , đây là Hành Ba La Mật
    - Phải phát bồ đề tâm cho chúng sanh giác ngộ con đường giải thoát, không dùng mê tín dụ người mà họ phải tự tu và tự có chánh giác, chánh Tri.Đây là pháp thí ba la mật
    - Phải hành Bồ tát đạo theo hạnh ba la mật.
    - Chỉ cần giữ duy nhất câu niệm Phật Ba La Mật, chẳng cần đọc kinh sách chi hết. Tới một lúc hành giả sẽ thông hết tất cả các kinh kệ.

    Người nào tu mà còn cầu phước đức công đức cho riêng mình thì đi hoài không tới, và rất dễ dàng bị các cung cỏi cao hơn lợi dụng.
    Hãy để tâm quán xét pháp mình đang hành trì, các vị xem nếu không đúng thì chỉnh lại.
    Amitabha
    Last edited by Vân Quang; 26-04-2010 at 12:41 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  2. #2
    Nhị Đẳng Avatar của NhânDuyenSinh
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Ta-Bà
    Bài gởi
    2,032

    Mặc định

    Tâm ma mà nghe Phật Pháp chúng nó cười hoài à....hihi bây giờ tụi nó trọng sắc,vị,v...v..ko nhìn thấy ko tin...có giảng hoài cũng như nước đổ lá khoai à...đây là ý kiến riêng của cháu.

  3. #3
    12212012
    Guest

    Mặc định

    Bạn vân quang mến !
    những gì bạn ghi trên này là rất đúng theo một người học đạo,
    nhưng bạn hãy hiểu nếu người truyền đạo mà không nói cho người khác biết rằng niệm phật có thể cầu vãng sanh thì có bao nhiêu người biết niệm phật để cầu thoát khỏi lục đạo đâu phải hông ?
    mà nếu người truyền đạo nói rằng chúng sinh niệm adida phật có thể cầu vãng sanh thì lại bị người khác phỉ báng rằng ham muốn vãng sanh tâm tà ,ý tà .
    Người ta đã đi truyền đạo thì người ta có trách nhiệm truyền hết tất cả những gì người ta biết cho chúng sanh học hỏi.
    như là :
    niệm A DI ĐÀ PHẬT có thể cầu vãng sanh.
    nhưng mà phải buông sã , thanh tịnh , xem thấu vv.....
    cũng như là ngồi thiền niệm A DI DA PHẬT khoảng 5 năm có thể đắc thiề định
    nhưng mà phải thật thà niệm phật vv......
    Nếu tất cả mọi người đều nghỉ rằng cái gì cũng ba la mật thì cần gì đi truyền đạo nữa ,
    đêm hết một đống kinh sách cho họ mang về đọc hiểu thì hiểu không hiểu thì thôi,
    người có người đọc ta có ta tu cái ba la mật của ta .
    Nghĩ kĩ lại một lần nữa đi bạn nếu mà không có người giản kinh thì liệu đạo phật có thể kéo dài đến ngày hôm nay không?
    mình không biết nhiều về phật pháp toàn bộ những gì mình viết chỉ theo ý của
    mình thôi, mông được hiểu rõ thêm ý của bạn.
    thân mến

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 12212012 Xem Bài Gởi
    Bạn vân quang mến !
    những gì bạn ghi trên này là rất đúng theo một người học đạo,
    nhưng bạn hãy hiểu nếu người truyền đạo mà không nói cho người khác biết rằng niệm phật có thể cầu vãng sanh thì có bao nhiêu người biết niệm phật để cầu thoát khỏi lục đạo đâu phải hông ?
    mà nếu người truyền đạo nói rằng chúng sinh niệm adida phật có thể cầu vãng sanh thì lại bị người khác phỉ báng rằng ham muốn vãng sanh tâm tà ,ý tà .
    Người ta đã đi truyền đạo thì người ta có trách nhiệm truyền hết tất cả những gì người ta biết cho chúng sanh học hỏi.
    như là :
    niệm A DI ĐÀ PHẬT có thể cầu vãng sanh.
    nhưng mà phải buông sã , thanh tịnh , xem thấu vv.....
    cũng như là ngồi thiền niệm A DI DA PHẬT khoảng 5 năm có thể đắc thiề định
    nhưng mà phải thật thà niệm phật vv......
    Nếu tất cả mọi người đều nghỉ rằng cái gì cũng ba la mật thì cần gì đi truyền đạo nữa , đêm hết một đống kinh sách cho họ mang về đọc hiểu thì hiểu không hiểu thì thôi, người có người đọc ta có ta tu cái ba la mật của ta .
    Nghĩ kĩ lại một lần nữa đi bạn nếu mà không có người giản kinh thì liệu đạo phật có thể kéo dài đến ngày hôm nay không?
    mình không biết nhiều về phật pháp toàn bộ những gì mình viết chỉ theo ý của mình thôi, mông được hiểu rõ thêm ý của bạn.
    thân mến
    Bạn thân mến,
    Bạn nói rất đúng!
    Nhưng niệm Phật Ba La Mật là sao? là niệm miên mật bất cứ khi nào, bất cứ chổ nào, niệm mà không chấp mình niệm, không kể số biến niệm, chỉ để chính niệm tập trung vào tiếng hay chữ A Di Đà Phật , chẳng cần có âm thanh để nghe hay mặc niệm, tới một lúc bạn chẳng cần nghe kinh hay đọc kinh ở đâu , nhưng khi bạn nói về đạo thì những lời bạn nói không khác gì kinh, hay bạn chỉ nghe ai nói qua câu kinh nào bạn đã hiểu rõ nó.
    Niệm Phật Ba La Mật chỉ cầu phát nguyện 1 lần trong ngày hồi hướng cho chúng sanh tất cả công đức mà mình tạo được trong ngày, và nguyện cùng chúng sanh hoàn thành Phật đạo, cũng chẳng cần phải nguyện tôi niệm Phật là cầu vảng sanh, vì còn cầu là còn chấp vào, hành giả rất cần phải dụng pháp nương vào chúng sanh mà hoàn thành Phật đạo.
    Niệm Phật Ba La Mật rất cần phải kèm thêm các pháp mà tôi đã kể ở trên, thì bạn sẽ giác ngộ rất nhanh chỉ vài ba năm là thấy mình tinh tấn hơn hẳn nhiều người tu hàng vài chục năm.
    Khi bạn đã phát nguyện hành bồ tát đạo thì mục đích vảng sanh chỉ là thứ yếu, mà cứu khổ phổ độ chúng sanh để giác ngộ họ , giúp họ tu tâm sửa tánh và tu thành Phật quả mới là quan trọng. Cách truyền pháp quan trọng nhất và dễ dàng nhất vẫn là các pháp trên.
    Trích dẫn Nguyên văn bởi NhânDuyenSinh Xem Bài Gởi
    Tâm ma mà nghe Phật Pháp chúng nó cười hoài à....hihi bây giờ tụi nó trọng sắc,vị,v...v..ko nhìn thấy ko tin...có giảng hoài cũng như nước đổ lá khoai à...đây là ý kiến riêng của cháu.
    Chẳng những chúng cười mà họ còn phỉ báng ta nữa! Đối với họ thì cầu pháp nào và trì cái gì mà múa ấn quay cuồng thì mới cho là linh, phải khiến được vị hộ pháp kéo hai tay mình lên để thỉnh cho được lá bùa trên bàn thờ thì mới cho là ứng, có nhiều người nữ sau khi được điểm đạo , bị ma nhập vào khiến tâm tính thay đổi, khiến chồng bỏ đi luôn, thấy cảnh đó mà cảm thấy xót xa, vậy mà kẻ đó lại cho là mình có công đức vì đã truyền được đạo cho một người.Người ta đã trục ma ra được rồi, hắn ở nhà thắp nhang gọi con ma đó nhập vào lại xác đó, thật là thất đức, đọa mấy tầng địa ngục cũng chẳng thể hết tội.
    Amitabha
    Last edited by Vân Quang; 26-04-2010 at 02:37 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  5. #5
    12212012
    Guest

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vân Quang Xem Bài Gởi
    Bạn thân mến,
    Niệm Phật Ba La Mật rất cần phải kèm thêm các pháp mà tôi đã kể ở trên, thì bạn sẽ giác ngộ rất nhanh chỉ vài ba năm là thấy mình tinh tấn hơn hẳn nhiều người tu hàng vài chục năm.
    Amitabha

    Bạn Vân Quang mến!
    tuyệt đối đúng không sai chút nào , mình nói họ nghe niệm phật có thể vãng sanh , cũng như bạn nói trên này , bạn truyền đạo , bạn nói cho mình biết thì mình mới biết, sẽ không ai có quyền nói bạn bị tâm tà ,ý tà đâu vì đó là trách nhiệm của bạn
    cảm ơn rất nhiều.

  6. #6
    12212012
    Guest

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vân Quang Xem Bài Gởi


    hắn ở nhà thắp nhang gọi con ma đó nhập vào lại xác đó, thật là thất đức, đọa mấy tầng địa ngục cũng chẳng thể hết tội.
    Amitabha

    mình nghĩ rằng câu nói trên đây bạn bị phạm tội chù ẻo người ta xuống địa ngục rồi đó , đây chỉ là sự góp ý của mình
    thân mến.

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 12212012 Xem Bài Gởi
    mình nghĩ rằng câu nói trên đây bạn bị phạm tội chù ẻo người ta xuống địa ngục rồi đó , đây chỉ là sự góp ý của mình
    thân mến.
    Không phải trù đâu bạn, mà là liệt kê cho họ thấy tội của họ, vì họ làm hại chúng sanh do ham cầu thần thông và ấn chứng, lại muốn truyền đạo cho người khác để lập công đức cho riêng mình. Tội nầy to lớn không thể nghĩ bàn.Vì hắn tưởng ở nhà thắp nhang là không ai biết, nhưng đâu có che đươc cỏi vô hình.
    Amitabha
    Last edited by Vân Quang; 26-04-2010 at 07:50 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  8. #8
    Nhị Đẳng Avatar của NhânDuyenSinh
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    Ta-Bà
    Bài gởi
    2,032

    Mặc định

    theo cháu thiết nghĩ tùy theo thời thế, nương theo duyên để mà truyền bá hoằng dương Phật Pháp, tùy theo người tâm sáng hay chưa được sáng lắm mà dụng các Pháp, dụng tướng dụng hình mà hướng cho họ đi vào con đường Chánh Đạo, thế nên Tà Ma cũng biết đây là thời hỗn loạn, thời mạt, chúng lợi dụng điểm những con người cả tin vào tướng vào hình v..v..mà chúng quấy chúng phá. Bùn thay nhưng biết làm sao đây, thời thế tạo chứ mấy ai tạo thời thế đâu. Còn riêng cháu luôn tán dương Ba La Mật Đa.....đúng là đại thần chú là vô thượng chú....3 đời chư Phật sau xưa đều nhờ vào huệ năng mà đắc thành Chánh Giác, lời dạy của Phật ko sai......Ba La Mật, Ba La Mật Đa là Bật ma ra...ha ha....:)

  9. #9

    Mặc định

    Không phải trù đâu bạn, mà là liệt kê cho họ thấy tội của họ, vì họ làm hại chúng sanh do ham cầu thần thông và ấn chứng, lại muốn truyền đạo cho người khác để lập công đức cho riêng mình. Tội nầy to lớn không thể nghĩa bàn.Vì hắn tưởng ở nhà thắp nhang là không ai biết, nhưng đâu có che đươc cỏi vô hình.
    Amitabha
    --------------------------------
    VÂN QUANG
    ở cỏi trần gian là ta đang sống là hữu hình ,tu vô vi và hữu vi bao giờ cũng phải luân chuyển cả hai,vì tất cả chúng sanh họ luôn mong cầu sự bình an ,và sự sống ,mọi thứ đó họ cầu ai?họ ko biết cầu cho đạt theo ý mong cầu ,.
    phật dạy ta tu đừng có mong cầu ,đó là khi đầy đủ kìa ,còn đang thiếu hụt ,đau khổ ,đói kém ,đụng đâu họ lạy đó ,bất kể là ai miểng nghe linh là tới ,ko một ai nghỉ đến hai chữ giác ngộ ,nhưng giác ngộ cái gì??giác ngộ sự thật ,ý thức cuộc sống ,là thực tiển từng ngày ,còn nói đến phật thánh tiên họ lại càng mơ hồ ,họ hỏi ngược lại tu có cho ấm no ko?tu có cho sự sống ấm no ko ?
    còn tu mà mong ấn chứng thần thông ,nếu chưa được ấn chứng thần thông dù cho VÂN QUANG tha hồ ngồi cầu nguyện hoài cũng ko có ,khỏi nói huyện mong cầu hay ko???
    còn truyền đạo thì cứ hỏi họ truyền đạo với mục đích gì ??chắc chắn họ mong cho chúng sanh hiểu đạo rồi ,nhưng rọi lại lương tâm thì chính người truyền đạo mới có câu trả lời ,mong vài lời suy xét
    -------------------------
    A DI ĐÀ PHẬT

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minh đài Xem Bài Gởi
    --------------------------------
    VÂN QUANG
    ở cỏi trần gian là ta đang sống là hữu hình ,tu vô vi và hữu vi bao giờ cũng phải luân chuyển cả hai,vì tất cả chúng sanh họ luôn mong cầu sự bình an ,và sự sống ,mọi thứ đó họ cầu ai?họ ko biết cầu cho đạt theo ý mong cầu ,.
    phật dạy ta tu đừng có mong cầu ,đó là khi đầy đủ kìa ,còn đang thiếu hụt ,đau khổ ,đói kém ,đụng đâu họ lạy đó ,bất kể là ai miểng nghe linh là tới ,ko một ai nghỉ đến hai chữ giác ngộ ,nhưng giác ngộ cái gì??giác ngộ sự thật ,ý thức cuộc sống ,là thực tiển từng ngày ,còn nói đến phật thánh tiên họ lại càng mơ hồ ,họ hỏi ngược lại tu có cho ấm no ko?tu có cho sự sống ấm no ko ?
    còn tu mà mong ấn chứng thần thông ,nếu chưa được ấn chứng thần thông dù cho VÂN QUANG tha hồ ngồi cầu nguyện hoài cũng ko có ,khỏi nói huyện mong cầu hay ko???
    còn truyền đạo thì cứ hỏi họ truyền đạo với mục đích gì ??chắc chắn họ mong cho chúng sanh hiểu đạo rồi ,nhưng rọi lại lương tâm thì chính người truyền đạo mới có câu trả lời ,mong vài lời suy xét
    -------------------------
    A DI ĐÀ PHẬT
    Nếu đã biết gieo nhân nào sẽ gặt quả mà cầu bình an đặng sao? Như vậy là không hiểu lẽ đạo, người tu cần phải hành nhiều hạnh ba la mật thì mới bù đắp được các tội vô gián mà mình đã làm từ vô thỹ tới nay, hạnh ba la mật là sao?
    -Là làm nhưng tâm không nghĩ mình làm là vì sự lợi ích cho mình
    -Là làm nhưng tâm không nghĩ người nhận kết quả của việc mình làm là người xin
    -Là làm nhưng không nghĩ công cụ của cải là của riêng mình
    Đó là cơ bản của hạnh Ba La Mật
    Khi mình đã hành hạnh nầy thì chắc chắc có thể làm giảm được nghiệp quả xấu mà mình phải nhận lấy. Nhưng mục đích của người tu là cũng chẳng chấp vào việc nầy mà mục đích chính vẫn là giúp chúng sanh giác ngộ để cùng mình tiến về chánh giác chánh tri.
    Phật không nói khi thiếu thì cần phải mong cầu, với lòng tham muốn của con người biết bao giờ mới đủ hả Minh Đài, Phật chỉ nói còn Ái Dục là còn sinh nghiệp, còn phân biệt là còn vô minh, dứt tam độc tức niết bàn.
    Có một vị quốc vương kia đem tiền của cùng dường xây chùa lập tượng, ông nầy hỏi một đại sư, tôi làm vậy có phước đức hay không?
    Vị đại sư nầy trả lời :- không
    .....
    Vì sao thì các vị cứ từ từ mà tìm hiểu.
    Ấn chứng thần thông có chắc là ấn chứng hay không? Ấn chứng của ai? ai chứng? và chứng để làm gì? Khi quý vị nghe một giọng văn mạch lạc trôi chảy nghe thấy có lý đã vội cho nó là chân lý , người thuyết còn xưng là Di Lặc thuyết, có chuẩn mực nào để biết nó là chân lý thực hay huyễn.
    Nghe được một câu nói bên tai, có biết ai nói hay không? rồi tin đó là Phật phụ nhĩ, thật là tầm phào quá mức. Phật đã không nói đừng nghe những gì mà người tưởng là được bề trên cho biết hay sao?
    Phải có chánh giác thì khó có mê lầm.
    Phật không dạy ta tu là đừng có mong cầu ư? Nếu vậy ta tu để mong được cái gì? thân tâm thanh tịnh ư? Trí tuệ ư? niết bàn ư? Phật chỉ nói không nên có Ái dục cho riêng mình , vì khi mong cầu cho riêng mình thì đó là nghiệp, ta phải biết chuyển biến ái dục thành lòng ham muốn, chúng sanh giác ngộ và cùng mình tiến tới gần đất Phật.
    Cái mong cầu nầy có cho riêng mình đâu, mà cho cả mình lẫn chúng sanh, như vậy là sẽ không sinh nghiệp.Nếu không mong cầu thì thuyết cho người không biết tu làm gì , để cho họ trở thành người giác ngộ, như vậy không phải là mong cầu hay sao?
    Amitabha
    Last edited by Vân Quang; 26-04-2010 at 05:53 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  11. #11

    Mặc định

    Nếu đã biết gieo nhân nào sẽ gặt quả mà cầu bình an đặng sao?
    -------------------------------------------------
    nhân quả trong nhất thời thì ta thấy đó là nhân là quả ,nhưng nếu qua một kiếp ,ví dụ đứa bé bị mù ,bị câm ,bị điếc ,bẩm sinh ,ai chứng minh đã gieo nhân ,mà nhận quả ,cả một đời nuôi con ăn học ,đùng một cái chồng bỏ ,một thân gánh hai con ròi bôn ba tứ xứ tạo nên của cải ,rồi chồng về kiếm chuyện đánh đập ,vậy ai???gieo ai nhận ;
    khi mới sanh bị cảnh tan thương tan nhà nát cửa ,ai gieo ai nhận
    ------------------------------------------
    -Là làm nhưng không nghĩ công cụ của cải là của riêng mình
    --------------------------------------
    vậy hỏi lại lương tâm xem ,nếu ko nghỉ của mình sao ngay bật sư tu trong chùa hãy còn tranh chấp
    nói là nói nhưng tâm hành nói ko phải của riêng mình ,ắc đã nghỉ ko có ,sao người còn cải còn tranh ,nói dễ nhưng hành khó lắm ,khi nào ko còn tranh chấp ,ko còn gây khổ ,ko còn cải nữa đó mới ko còn của mình
    -----------------------------------------
    Phật không nói khi thiếu thì cần phải mong cầu, với lòng tham muốn của con người biết bao giờ mới đủ
    ------------------------
    câu này minh đài chịu đó ,lòng tham của con người vốn là ko đáy ,muốn hơn chứ ko chịu thua ,dù kinh có cao cở nào ,vi diệu cở nào ,nhưng ko xóa được lòng tham
    --------------------------------------
    người thuyết còn xưng là Di Lặc thuyết, có chuẩn mực nào để biết nó là chân lý thực hay huyễn.
    Nghe được một câu nói bên tai, có biết ai nói hay không? rồi tin đó là Phật phụ nhĩ, thật là tầm phào quá mức. Phật đã không nói đừng nghe những gì mà người tưởng là được bề trên cho biết hay sao?
    Phải có chánh giác thì khó có mê lầm.
    --------------------------------


    câu này VÂN QUANG MẮNG CHÍNH XÁC ,qua sông rồi qua rồi bờ mê ,ngu gì đáo lại cỏi mê
    -----------------------------------------
    biết ta mong cầu ko của riêng mình mà bao phủ cả chúng sanh ,đây chỉ là ngộ ở riêng tâm mình thôi ,đó là lòng cao thượng nhưng mấy ai hả sư huynh ,trên đời ngoài sư huynh ra nói được phải làm được mới là chính nhân
    ---------------------------------------------
    VÌ VẬY MUỐN TU ĐẠT THEO CHÁNH PHÁP PHẢI TÌM CẦU THẦY TU CHÁNH PHÁP ,CHỌN MINH SƯ CHÁNH CHƠN ,ĐỂ CỨU MÌNH CỨU CẢ CỬU QUYỀN THẤT TỔ

  12. #12
    12212012
    Guest

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi NhânDuyenSinh Xem Bài Gởi
    theo cháu thiết nghĩ tùy theo thời thế, nương theo duyên để mà truyền bá hoằng dương Phật Pháp, tùy theo người tâm sáng hay chưa được sáng lắm mà dụng các Pháp, dụng tướng dụng hình mà hướng cho họ đi vào con đường Chánh Đạo, thế nên Tà Ma cũng biết đây là thời hỗn loạn, thời mạt, chúng lợi dụng điểm những con người cả tin vào tướng vào hình v..v..mà chúng quấy chúng phá. Bùn thay nhưng biết làm sao đây, thời thế tạo chứ mấy ai tạo thời thế đâu. Còn riêng cháu luôn tán dương Ba La Mật Đa.....đúng là đại thần chú là vô thượng chú....3 đời chư Phật sau xưa đều nhờ vào huệ năng mà đắc thành Chánh Giác, lời dạy của Phật ko sai......Ba La Mật, Ba La Mật Đa là Bật ma ra...ha ha....:)

    Tôi cũng vởi thẳng 2 tay 2 chân tán dương ba la mật nếu theo 1 người học đạo.
    bạn nên đọc TĨ MĨ tất cả những bài những bài các bạn khác viết, rồi câu trả lời của bạn mới được chính đán.
    thân mến.

  13. #13

    Mặc định

    Tánh không đã được thuyết giảng từ rất lâu, nam tông , Phật giáo nguyên thủy ,có câu nguyện hồi hướng, và nguyện rãi tâm từ
    - Nguyện công đức nầy
    Hồi hướng khắp tất cả
    Đệ tử và chúng sanh
    giai cộng thành Phật đạo

    Tiểu thừa vẫn còn kèm "đệ tử" vào phần hồi hướng

    -Phái Đại Thừa: Phát bồ đề tâm thành tâm vô lượng, hồi hướng tất cả công đức cho chúng sanh

    -Kim cang thừa : nhấn mạnh tánh không hai lần, một lần hồi hướng tất cả công đức cho chúng sanh va không chấp pháp hữu hay chấp vô vi, gặp Phật hay không gặp Phật đều chẳng để tâm tới

    Xem lại các điểm nhấn của Kinh Duy Ma Cật.
    Khi nói về cõi Tịnh độ, kinh Duy Ma Cật cũng có dạy rằng:

    Các Bồ-tát Chúng Hương hỏi: Bồ-tát ở thế giới Ta bà thực hành những pháp gì không bị thương tổn, không dính mắc để có thể sanh sang ở tịnh độ. Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ-tát ở cõi này thành tựu được tám pháp thì không còn lầm lỗi và được sanh về cõi Tịnh độ: 1)Làm lợi ích chúng sinh mà không mong cầu đền đáp (vô cầu) . Thi ân bất cầu báo nghĩa là làm ơn mà không cầu đền ơn đáp nghĩa hay cho người vật gì mà không tiếc nuối.

    2)Thay tất cả chúng sinh, gánh chịu những thiệt thòi khổ não (từ bi). Thông thường khi con mình bị đau bệnh hay chết chóc thì cha mẹ thường hay than thở muốn gánh chịu nổi khổ đau của con mình. Cái tâm này chính là tâm Bồ-tát khi thấy chúng sinh đau khổ, thiệt thòi. Đây là việc khó làm mà làm được mới gọi là Bồ-tát.

    3)Bao nhiêu công đức mình làm đều ban hết cho tất cả chúng sinh (hỉ, xả, lợi tha). Ngay cả việc tu hành, gây dựng công đức thì Bồ-tát cũng cho hết tất cả chúng sinh. Gầy dựng công đức là việc khó làm mà có rồi lại đem cho hết là việc rất khó làm vì thế Bồ-tát mới thong dong tự tại là như vậy.
    ….
    Nếu Bồ-tát thực hành đứng đắn tám phương thức ở trên hay nói một cách rộng rãi là cho tất cả những ai muốn tu theo hạnh Bồ-tát Đại thừa thì chính họ đã phá được chấp ngã, chấp pháp, phát triển tâm từ bi hỉ xả mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Không còn tánh tham tật đố, dưới cứu giúp chúng sinh trên mong viên thành Phật đạo. Không tán kỷ hủy tha, khen mình chê người. Chỉ nhìn lỗi mình mà không thấy lỗi người. Làm mà không chấp việc mình làm và nếu có được chút ít công đức gì thì ban hết cho chúng sinh cùng thành Phật đạo.

    Lục Tổ Huệ Năng đã từng giảng niệm Phật Ba la Mật, và thiền vô niệm xứ
    Tu theo hạnh Ba La Mật không phải là dễ, ai hành thuần thục pháp tu nầy thì con đường đi đến Phật quả càng gần.
    Đức Phổ Hiền cũng có dạy thiền bằng pháp niệm Phật Ba La Mật, VQ đã chuyển thành Quán Tâm Pháp.
    Amitabha
    Last edited by Vân Quang; 26-04-2010 at 09:10 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  14. #14

    Mặc định

    Từ những dẫn chứng nêu trên TU TÁNH KHÔNG, không phải là chấp vào KHÔNG, mà mục đích chính là không chấp có lẫn không chấp không.
    Trong Kim cương thừa ,khi bạn tu theo pháp Liên hoa bộ - Di Đà- Quán Âm, bạn phải quán chính thân mình là thân của đức Quán âm trắng và thanh tịnh, trên đầu là Di Đà bổn tôn ngự, đây chính là quán hữu, nhưng thật sự không thấy đó là vô, nhưng tới một ngày nào đó có người thấy bạn là như thế.... như thế, thì cũng chớ có chấp vào, đó là bản chất của TU TÁNH KHÔNG đấy.
    Amitabha

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  15. #15

    Mặc định

    Vì sao các vị đạo sư càng tu cao thì lại càng ngộ ra phải TU TÁNH KHÔNG?
    Khi bạn luân hồi về cỏi ta bà , là bạn đã bị tước hết ngũ thần thông, và thay vào đó ngũ uẩn, có nhiều truyền thuyết cho rằng ai cũng phải ăn một bát cháo lú trước khi qua cầu Nại Hà, những người có căn cơ cao, họ vẫn còn giữ được một số ký ức tiền kiếp
    Vì sao các vị đạo sư càng tu cao thì lại càng ngộ ra phải TU TÁNH KHÔNG?
    Vậy ngũ uẩn là gì?
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Ngũ_uẩn
    Ngũ uẩn (zh. wǔyùn 五蘊, sa. pañca-skandha, pi. pañca-khandha, bo. phung po lnga ཕུང་པོ་ལྔ་), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰), là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là cái "ta".
    Ngũ uẩn là:
    1. Sắc (zh. 色; sa., pi. rūpa), chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
    2. Thụ (zh. 受, sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
    3. Tưởng (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā), là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
    4. Hành (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác...
    5. Thức (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
    Ngũ uẩn cũng được gọi là năm ràng buộc vì chỉ có Phật hay A-la-hán mới không bị dính mắc nơi chúng. Đặc tính chung của chúng là Vô thường, Vô ngã và Khổ. Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh đến tính Không của ngũ uẩn. Sắc (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Danh sắc cả ngoài và trong. Diệt danh sắc. Tiếp diệt cảm thọ, biết cái chân thật, biết nó vô thường mà chẳng nên theo. Diệt các tưởng lăng xăng, diệt các tưởng chấp. Quán tưởng, diệt hành. Diệt tâm phân biệt, diệt thức.

    Vô ngã, đạt được vô ngã tức là ngã phật, đạt được vô ngã tức phật ngã chẳng gọi là ngã. Pháp phật không thể nói, không nghể nghĩ bàn
    Tính chất khổ và vô thường của năm uẩn là một trong những quan điểm quan trọng nhất của Phật giáo. Khổ xuất phát từ sự bấp bênh, không chắc thật của các uẩn đó; và con người được tạo thành từ năm uẩn đó không gì khác hơn là một sự giả hợp, không có một cái "ta" thật sự đứng đằng sau con người đó (Vô ngã). Tri kiến về tính vô ngã của ngũ uẩn là một tri kiến rất quan trọng, nó có thể đưa đến giải thoát. Đại sư người Đức Nyānatiloka trình bày như sau về tầm quan trọng đó:
    "Đời sống của mỗi chúng ta thực chất chỉ là một chuỗi hiện tượng thân tâm, một chuỗi hiện tượng đã hoạt động vô lượng kiếp trước khi ta sinh ra và sẽ còn tiếp tục vô tận sau khi ta chết đi. Ngũ uẩn này, dù riêng lẽ từng uẩn hay hợp chung lại, chúng không hề tạo thành một cái gì gọi là cái ta. Ngoài chúng ra, không còn cái gì được gọi là một thể của cái ta độc lập với chúng, để ta tạm gọi nó là cái ta. Lòng tin có một cái ta, có một nhân cách độc lập chỉ là một ảo tưởng."
    Joseph Goldstein cũng viết:

    "Cái mà chúng ta gọi là cái ta chỉ là ngũ uẩn đang hiện hành vô chủ."
    Last edited by Vân Quang; 27-04-2010 at 09:20 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  16. #16

    Mặc định Một nhận định về A-lại-da Thức

    Một nhận định về A-lại-da Thức
    Hòa thượng Walpola Ràhula [1]

    Tỳ kheo Giác Nguyên dịch Việt
    ________________________________________

    Trong Du Già Phái (Yogacara) -- còn gọi là Duy Thức Tông (Vijnanavàda) -- có một khái niệm được xem là biểu tượng độc đáo nhất, đó chính là A Lại Da Thức hay Tàng Thức (Alayavjnana) và chính ngài Vô Trước (Asanga) đã là người hoàn chỉnh nó.
    Ngài Asanga đã chia Thức Uẩn (trong ngũ uẩn) thành ba phần Tâm (Citta), Ý (Manas) và Thức (Vijnana) trong khi ở truyền thống Phật giáo Thượng Tọa Bộ thì ba danh từ này đều trỏ chung một thức uẩn. Kể cả Hữu Bộ (Sarvastivada) cũng đồng ý như vậy. Đến Kinh Lăng Già (Larikavatarasùtra), một tác phẩm đặc biệt của Phật giáo Bắc Tông, cũng xem ba chữ này là các từ đồng nghĩa, dù trong vài bài kinh có nói tới những cái giống như là ý nghĩa riêng biệt của từng chữ. Ngài Thế Thân (Vasubandhu) cũng từng xác định trong Vimsativijnaptimatrasiddhi rằng ba thuật ngữ này đồng nghĩa nhau. Nhưng theo chỗ nhận định của tôi (Walpola Ràhula) thì ba danh từ này lột tả những khía cạnh khác nhau của Thức Uẩn nên ta khó mà xem chúng như những chữ đồng nghĩa một cách dễ dãi như vậy.
    Để bảo vệ quan điểm của mình, ngài Asanga phân tích Thức Uẩn như sau:
    "Thế nào là Thức Uẩn (Vijnana-skandha)? Đó là Tâm (Citta), Ý (Manas) và Thức (Vijnana).

    "Thế nào là Tâm (Citta)? Đó chính là Tạng Thức (Alayavijnana) bảo lưu tất cả chủng tử (Sarvabijaka), trưởng dưỡng tất cả tập khí (Vàsanaparibhavita) của tất cả Uẩn (Skandha) Xứ (Ayatana) và Giới (Dhàtu).

    "Thế nào là Ý (Manas)? Chính là sở tri của Tạng Thức và luôn tự có khuynh hướng chấp ngã (Manyanat-maka) với sự tập nhiễm của bốn thứ phiền não: Ngã Kiến (Atmadrsti), Ngã Ái (Atmasneha), Ngã Mạn (Asmimàna) và Vô Minh (Avidya).

    "Thế nào là Thức (Vijnana)? Đó chính là Lục Thức (Sadvijnanakàyah): Nhãn thức (Caksuvijnana), Nhĩ thức (Srota), Tỷ thức (Ghrana), Thiệt thức (Jivha), Thân thức (Kàya) và Ý thức (Manovijnana)".

    Như vậy chữ Thức (Vijnana) chỉ cho Lục Thức, 6 phản ứng đơn thuần của các nội căn đối với lục trần (ngoại cảnh). Đây chính là đặc điểm nổi bật nhất của Thức Uẩn. Ý (Manas) thì ám chỉ các thuộc tính phụ thứ như suy tư, tầm cầu, tính toán, … của Thức Uẩn. Còn Tâm (Citta) tức A Lại Da Thức thì lại phản ảnh khía cạnh sâu kín, tinh khôi, tinh tế nhất của Thức Uẩn. Nó bảo lưu tất cả dấu ấn quá khứ và cưu mang trọn vẹn những tiềm lực thiện ác trong tương lai mai này. Kinh Giải Thâm Mật (Sandhinimmocana-sùtra) xác nhận chính Tạng Thức mới là Tâm (Citta), tiếng Tây Tạng là Sems.
    Đại đa số người học Phật đều cho Tàng Thức là tác phẩm của riêng Đại Thừa Giáo, không có cơ sở trong Phật giáo nguyên thủy. Nhưng trong Mahayana-sangraha chính ngài Asanga đã viết rằng: "Theo Thinh Văn Thừa, ba chữ này là đồng nghĩa". Ngài còn trích đoạn Tăng Nhất A Hàm (Ekottaragama):

    "Chúng sinh phàm phu thích tích lũy (Alayarata), ưa cất giữ (Alayarama), hoan hỷ trong ý nghĩ bảo lưu (Alayasammudita), thích thú trong sự cất giấu (Alayabhirata). Khi Chánh pháp được thuyết giảng nhắm đến sự diệt trừ khái niệm cất giấu đó thì chúng sanh mới để tâm lắng nghe bằng một sự lóng tai thật sự (Srotam avadadhanti) và từ đó an lập tâm tư vào trí tuệ giác ngộ (Ajnacittam upasthapayanti), sống hành trì theo Chánh pháp. Khi đức Như Lai xuất hiện ở đời, điều kỳ diệu hy hữu này cũng sẽ xuất hiện ở đời".

    Giáo sư Lamotte đã đánh đồng đoạn kinh trên đây của Tăng Nhất A Hàm với đoạn kinh sau này của Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya)[2]:
    "Alayarama bhikkhave pajà àlaya-ratà àlayasammudità sa tathàgatena anàlaye dhamme desiyamàne sussuyati sotam odahati annacittam upatthapeti. Tathàgatassa bhikkhave arahato sammà-sambuddhassa pàtubhàvo ayam pathamo acchariyo abbhùtadhammo pàtubhavati".
    Bên cạnh đoạn kinh trên đây, thuật ngữ Alaya còn xuất hiện ở vài nơi khác trong kinh điển Pàli cũng với ý nghĩa tương tự. Các tập sớ giải Atthakathà của Phật giáo Nam truyền giải thích chữ Alaya là sự mê đắm trong năm dục trần, và chỉ vậy thôi, không còn ý nghĩa chuyên môn nào khác. Nhưng ý nghĩa trên đây trong các sớ giải Pàli cũng đã nhắc tới một khía cạnh của A Lại Da Thức.
    Trong kinh Lăng Già (Lankavatara-sutsa) cho rằng thuật ngữ Như Lai Tạng (Tathàgatagarbha) đồng nghĩa với A Lại Da Thức, có bản thể thường trong sáng (Prakrtipra-bhasvara) và hằng thanh tịnh (Prakrtipari-suddha) nhưng luôn hiển hiện trong hình thức tạp nhiễm bởi nó bị vấy bẩn từ các phiền não ngoại lai (Agantuka klesopaklistatàya). Trong Anguttara-nikàya đức Phật cũng xác nhận cái gọi là tâm thực ra là trong sáng (Pabhassara) nhưng do bị tập nhiễm bởi các phiền não ngoại lai (Agantukehi upakkilesehi upakkilittham) nên không còn thanh tịnh. Từ đó ta có thể hiểu các thuật ngữ Như Lai Tạng hay A Lại Da Thức hoặc Tâm (Citta) chỉ là những từ đồng nghĩa, nhưng phải với những giải thích tương tự trên đây, không hơn không kém.

    Cũng có không ít trường hợp nhiều người cho rằng A Lại Da Thức là một cái Tôi của đạo Phật, một hình thức Linh Hồn thường hằng bất biến và đây chính là điều sai lầm phải tránh như trường hợp tỳ kheo Sati đã bị đức Phật quở trách khi chấp sai Thức Uẩn là Linh Hồn, Bản Ngã.

    Theo ngài Asanga, chứng đạt Níp Bàn chính là sự chuyển hóa A Lại Da Thức (Asrayapravrtti). Ý niệm này cũng có thể được xem là tương đương với thuật ngữ Alayasamugghàta (đoạn tận sở tập) đã được kinh điển Pàli xem là chữ đồng nghĩa với Nibbàna (Níp Bàn).

    Thuật ngữ Alayavijnanapravrtti thỉnh thoảng cũng được thay thế bằng chữ Bìjapravrtti (sự chuyển hóa các chủng tử). Chử Bìja ở đây chỉ cho Samklesika dharmabìja (chủng tử phiền não) cái tạo nên dòng luân hồi. Một người chuyển hóa được các chủng tử thì lập tức chứng ngộ Níp Bàn.

    Ngay trong kinh điển Pàli, chữ Khìnabìja (đoạn chủng) vẫn được dùng để gọi bậc La Hán, người đã phá nát các mầm móng phiền não.

    Qua những gì vừa trình bày, khái niệm A Lại Da Thức xem ra đã có cơ sở trong giáo lý nguyên thủy nhưng dĩ nhiên phải với một định nghĩa rõ ràng, lành mạnh.

    (dịch xong trưa 2 tháng 8 năm 2001)
    [1] Tác giả cuốn "What Buddha Taught" (bản dịch của Sư Cô Trí Hải là "Đạo Phật, Con Đường Thoát Khổ")
    [2] Ang. II, P. 131
    Last edited by Vân Quang; 27-04-2010 at 09:49 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  17. #17

    Mặc định

    Tóm lại các phần đã dẫn ở trên
    "Thế nào là Thức Uẩn (Vijnana-skandha)?
    Nó gồm Tâm , Ý và Thức .

    Thế nào là Tâm ?

    - Đó chính là Tạng Thức (Alayavijnana) bảo lưu tất cả chủng tử , trưởng dưỡng tất cả tập khí của tất cả Uẩn , Xứ và Giới .

    Thế nào là Ý ?
    - Đó chính là sở tri của Tạng Thức và luôn tự có khuynh hướng chấp ngã với sự tập nhiễm của bốn thứ phiền não: Ngã Kiến ,Ngã Ái , Ngã Mạn và Vô Minh

    Thế nào là Thức ?
    - Đó chính là Lục Thức : Nhãn thức , Nhĩ thức , Tỷ thức , Thiệt thức , Thân thức và Ý thức

    Như vậy chữ Thức chỉ cho Lục Thức, 6 phản ứng đơn thuần của các nội căn đối với lục trần (ngoại cảnh). Đây chính là đặc điểm nổi bật nhất của Thức Uẩn. Ý thì ám chỉ các thuộc tính phụ thứ như suy tư, tầm cầu, tính toán, … của Thức Uẩn. Còn Tâm (Citta) tức A Lại Da Thức thì lại phản ảnh khía cạnh sâu kín, tinh khôi, tinh tế nhất của Thức Uẩn. Nó bảo lưu tất cả dấu ấn quá khứ và cưu mang trọn vẹn những tiềm lực thiện ác trong tương lai mai này.

    Từ đó ta có thể hiểu các thuật ngữ Như Lai Tạng hay A Lại Da Thức hoặc Tâm (Citta) chỉ là những từ đồng nghĩa, nhưng phải với những giải thích tương tự trên đây, không hơn không kém.

    Cũng có không ít trường hợp nhiều người cho rằng A Lại Da Thức là một cái Tôi của đạo Phật, một hình thức Linh Hồn thường hằng bất biến và đây chính là điều sai lầm phải tránh như trường hợp tỳ kheo Sati đã bị đức Phật quở trách khi chấp sai Thức Uẩn là Linh Hồn, Bản Ngã.

    Chứng đạt Níp Bàn chính là sự chuyển hóa A Lại Da Thức (Asrayapravrtti). Ý niệm này cũng có thể được xem là tương đương với thuật ngữ đoạn tận sở tập đã được kinh điển Pàli xem là chữ đồng nghĩa với Nibbàna (Níp Bàn).Tức đoạn được tham sân si ái-dục, nguồn gốc sinh ra phiền não.
    Cái tạo ra luân hồi chính là chủng tử phiền não. Chuyển hóa được các chủng tử nầy lập tức chứng ngộ Níp Bàn xa rời sinh tử

    Vậy bậc A La Hán chính là người đã phá nát các mầm móng phiền não.
    Last edited by Vân Quang; 27-04-2010 at 10:27 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  18. #18

    Mặc định

    Vậy Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh nói gì?
    -Ngũ Uẩn cả ba đời quá khứ hiện tại vị lai, đều là không
    -Sắc là không , không là sắc, đây là ý nói cái mà ta nhiếp từ lục căn vào Tâm , tất cả đều không có thật, và khi ta còn phân biệt là còn vô minh.
    - Không có thần thông cũng chẳng có không thần thông, vì khi luân hồi vào thế giới ta bà nầy ta đã bị tước ngũ thông và thay vào ngũ uẩn, Bây giờ thân tâm thanh tịnh, nghiệp chướng tiêu trừ thì thần thông trở lại, chẳng phải là chứng đắc chi cả!
    - Vậy thì cầu có thần thông làm gì? Vì khi bạn cầu cái gì về cho mình là có mang nghiệp và phải trả nghiệp, vậy làm sao ta có thể ra khỏi luân hồi đây?
    - Vấn đề của ta là cầu Trí TUỆ BÁT NHÃ, để có chánh giác, chánh biến chánh tri, có trí tuệ bát nhã thì gạt bỏ những huyễn sắc pháp giới , kể cả những vô sắc- vô pháp giới, từ đó nghĩa của cầu chú ga tê ! ga tê !
    Chính là:
    -Buông xả, bỏ lại tất cả ở bờ bên nầy để thành tựu giác ngộ ở bờ bên kia là như thế đó, những lời nầy của Đức Thích Ca, Ngài nhìn thấy được, khi chúng ta tu tập tới thân tâm thanh tịnh, ta sẽ có sự khác biệt so với người không tu, và một số thần thông sẽ tự có, tới đây nếu không thấu hiểu bát nhã thì ta sẽ tự xem là đã tu tới nơi, và đã đạt mục đích, điều nầy là sai lầm.
    Amitabha
    Last edited by Vân Quang; 27-04-2010 at 11:52 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  19. #19

    Mặc định

    Để làm rõ vấn để nầy hơn nữa tôi xin mạn phép chư vị ở các cung cỏi , xin mạn phép chư Phật, chư Bồ Tát, xin các vị thượng sư các guru các bậc Du Già ở tận hư không khắp các Pháp giới , tôi xin được nói rõ hơn để cho mọi người thấy rõ hơn.
    Khi người tu tập theo tánh không đạt tới mức thân khẩu ý thanh tịnh, tất cả công đức hồi hướng cho chúng sanh của họ đã bù trừ được nghiệp quả nhiều đời, họ sẽ có thần thông, sức mạnh thần thông nầy do chính công phu bản thân của họ, và công đức của bản thân họ, sức định của tâm thân họ, tức mức độ của giới định huệ và sự hợp nhất thân khẩu ý của họ.Do đó thần thông tự lực nầy có cao có thấp.Giống như nội công của người luyện khí công vậy.Ngoài ra họ có thể kết tập thần thông tha lực tương ưng từ các chư Bồ Tát & chư Phật.Nhưng tha lực trực tiếp hành động và tác pháp vẫn là các vị hộ pháp của chư Phật chư Bồ Tát, họ là ai? Là những chúng sinh được chư Phật chư Bồ Tát hằng hộ niệm trong các cỏi Thiên và được chọn lọc (họ là những vị tu theo Phật ở các cỏi Thiên và ở các cỏi khác) .Như vậy sức mạnh thần thông nầy không thể nghĩ bàn và hành giả không cần phải trả lại bất cứ thứ gì cho các sự giúp đở tha lực kia. Vì hành động yêu cầu tha lực của họ không làm lợi riêng cho họ, mà là làm lợi ích cho chúng sanh, nhưng những hành động nầy cũng phải tuân thủ theo luật nhân quả & nghiệp báo.
    Còn phần người tu tập thần thông thì sao?
    Người tu tập thần thông thì có khác , công đức họ tích lũy để trả dần cho những thiên ma, thiên thần, mà họ yêu cầu tác pháp giúp tha lực cho họ, dù cho cũng có người xin nguyện phát bồ đề tâm và cuối buổi công phu họ cũng có xin hồi hướng cho chúng sanh, nhưng thiên ma , thiên thần đã chực sẳn lấy công liền tại chổ (trước cả khi hành giả hồi hướng cho chúng sinh), thân tâm hành giả sẽ rất khó mà thanh tịnh vì, phước hay công đức của họ tích lũy mà không cho ai cả.Và cũng rất khó cân bằng với nghiệp quả nhiều đời của mình. Khi họ tác pháp bằng thần thông thì cũng phải trả công đức cho thiên thần hay thiên ma, nếu không thì sẽ chẳng có ma nào giúp họ cả.Do đó họ chỉ có thể triệu tập tha lực từ các thiên ma, thiên thần, có nhiều khi là ngạ quỹ, và không bao giờ nhờ được chư bồ tát chư Phật, vì không tương ưng ở hạnh phát bồ đề tâm như chư Phật chư Bồ Tát.Và chính bản thân của mình tha lực cũng không mạnh.
    Nếu so sánh hai người cùng tu cùng một thời gian, tu theo Mật Tông chính thống tự bản thân của họ điện từ trường phát ra xung quanh mạnh hơn kẻ tu theo thần thông. Điều nầy thì tự các vị có liên quan tự tìm hiểu nhé!
    Amitabha
    P/S Các bạn có thể tham khảo thêm ở đây
    http://vutruhuyenbi.com/forum/viewtopic.php?f=36&t=2075

    Last edited by Vân Quang; 27-04-2010 at 04:14 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  20. #20

    Mặc định

    toàn là những lời ma thuyết - huynh vanquang tôi đọc ở đâu đó tại diễn đàn thấy có người nói vangquang dừng tu đi mà hãy làm làm trách nhiệm của 1 con người - tui đọc trong Long Hoa rồi, có đoạn nói về loại người có chứng Tu theo ý tự hiểu của mình thế này mà lại rao giảng lung tung quá, thiếu thực tế lại mơ hồ có khi tệ hơn cả người bình thường biết làm tròn bổn phận gia đình. Diễn đàn này ai cũng có quyền bình xét, tham gia chút thôi.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •