Trang 1 trong 7 1234567 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 125

Ðề tài: HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC

  1. #1

    Smile HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC

    Vào ngày 15-8-2012 tình cờ chúng tôi mở mạng lưới điện toán của Thư Viện Hoa Sen, bất ngờ thấy một thư ngỏ đề ngày 18 tháng 12 năm 2010 (Thư này đã gửi ngày 16-6-2003) của Tâm Diệu thuộc Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen gửi các bậc Tôn Túc, Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, cùng Cư sĩ Phật tử. Thư trình bày về Hòa Thượng Thích Thông Lạc đã là một trong mười đệ tử đầu tiên của Hoà Thượng Thích Thanh Từ viện chủ Thiền Viện Trúc Lâm Đà Lạt. HT Thông Lạc cũng tự xưng đã chứng Tứ Thiền, đắc Tam Minh và đã được HT Thanh Từ ấn chứng.

    HT Thông Lạc hiện là Viện chủ Tu Viện Chơn Như ở xã Gia Lộc Trảng Bàng, Tây Ninh, HT Thông Lạc đã khẳng định rằng Phật giáo Đại thừa là của ngoại đạo chứ không phải của Phật giáo đã đăng trên mạng lưới điện toán toàn cầu và qua các sách in ấn của Tu Viện Chơn Như. Bởi vậy nhiều Phật tử Việt Nam từ khắp thế giới hoang mang về sự việc qúa quan trong này, nên Ban Biên Tập mong mỏi Chư Tôn Đức và Phật tử giải quyết sớm vấn đề bất an của Phật tử Phật giáo Đại Thừa.

    Vấn đề này đã xảy ra từ cả 10 năm nay và đã có một số bài phản biện của một số vị Tu sĩ và Cư sĩ, nhưng chưa ngăn chặn được sự đả kích Phật giáo Bắc truyền vẫn lan tràn các trên mạng. Cũng không thấy bài viết của HT Thanh Từ là vị Tôn sư của HT Thông Lạc trước kia. Bởi vậy chúng tôi liền bắt tay vào viết để chặn đứng sự việc vô cùng tai hại này, hy vọng mọi người đều đọc tập phản biện này và hiểu rõ sự thật.

    Chúng tôi căn cứ theo bản tóm tắt của Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen mà trả lời, hy vọng sẽ góp phần trong việc bảo vệ Pháp bảo và do hoàn tất vội vàng nên có những điều khiếm khuyết, xin qúy Thiện tri thức tha thứ cho, người viết chân thành đa tạ.


    MỤC LỤC


    I). Đại Thừa là của Bà La Môn để lừa đảo tín đồ Phật Giáo
    II). Thiền Đông Độ là của Lão Giáo, gọi là "Thiền Giáo đồng hành"
    III). Tịnh Độ, Pháp Hoa, Mật Tông, Thiền Tông là của Bà La Môn.
    1. Tịnh Ðộ Tông là mê tín, lừa đảo, biến tu sĩ thành Thầy tụng
    2. Mật Tông là tà thuật, biến ông Thầy thành Thầy Thầy bùa, v.v.
    3. Pháp Hoa Tông là cúng bái, van xin nương vào thần quyền
    4. Thiền Tông biến Phật Giáo vô ngã thành Phật Giáo hữu ngã
    IV). Nói về vô ngã: Vô ngã ác pháp là Niết Bàn, chứ không phải vô ngã là Niết Bàn.
    Vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá
    V). Nói về hành thiền:
    1. Ngồi thiền không động, không nói, không nghĩ thì như gỗ đá
    2. Không chấp nhận hành không, hành ác, chấp nhận hành thiện
    VI). - Thiền Đông Độ ức chế niệm thiện-ác là khai mở tưởng tuệ
    - Lý Bát Nhã của Đại Thừa phá Phật Giáo tận gốc (Tứ Đế)
    VII). - Thiền tông ức chế ý thức cho là định, đó là định ngoại đạo
    - Hết vọng phát sinh hiểu biết gọi là trí tuệ, sự thực là tưởng tri
    - Thiền sư hý luận, nói Đông nói Tây, la, hét, chỉ, trỏ, v.v.
    VIII). Kinh Kim Cang: - Không có pháp hành, toàn hý luận suông
    - Chưa ai làm được như kinh, toàn bánh vẽ
    IX). Kinh PhạmVõng: - Không phải của Phật, là của Bà La Môn
    - Kinh PhạmVõng có thâm ý diệt PhậtGiáo
    X). Kinh Duy Ma Cật như rắn thêm chân để lường gạt Phật tử
    XI). Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
    1. Lường gạt mọi người
    2. Tánh thấy nghe giác sáng suốt mà chui vào cái đãy thối
    3. Có Phật tánh mà ngu như con bò
    XII). Kinh Viên Giác do Tổ thuyết để lường gạt tín đồ Phật Giáo
    XIII). 1. Không có Di Lặc, chỉ là sản phẩm của Bà La Môn
    2. Ðưa Ðức Di Lặc ra để làm cách mạng lật Ðức Thích Ca
    XIV). - Trung Quán Luận của Ngài Long Thọ là hý luận là bánh vẽ
    - Các người tu theo đều chết đau đớn .
    XV). 1. Kinh Địa Tạng là của Bà La Môn mục đích lường gạt
    2. Cầu siêu làm tuần thất là mê tín
    XVI). Thiền Sư Nguyên Thủy chưa đạt đạo:
    1. Thiền sư Ajahn Chad viết tập Mặt Hồ Tĩnh Lặng sai giáo pháp
    2. Thiền Sư Mahãsi, viết tập Vipassana sai ý nghĩa của Phật .


    PHẢN BIỆN
    HIỆN TƯỢNG THÍCH THÔNG LẠC
    Trong quan niệm của chúng tôi sẽ tránh dùng danh tự Đại thừa, Tiểu thừa mà thay bằng Bắc truyền, Nam truyền được nhiều chừng nào tốt chừng ấy để tránh bớt sự phân chia có tính cách miệt thị không tốt trong Phật giáo nói chung và để sự phân tích được rõ ràng, chúng tôi xin theo từng điểm thứ lớp mà Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa Sen đã tóm lược những điều mà tác giả Hòa Thượng Thích Thông Lạc (viết tắt: HT TTL) đã nêu ra để phân tích mổ xẻ như dưới đây:
    I). HT. TTL: Phật Giáo Đại Thừa không phải là Phật Giáo chánh thống, mà là Phật giáo theo kiểu kiến giải giáo pháp của Bà La Môn; hay nói cách khác, Phật Giáo Đại Thừa là đạo Bà La Môn lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo, cho nên nghĩa lý toàn bộ kinh sách Đại Thừa là Giáo pháp của Bà La Môn
    chính gốc. (ĐVXP-Tập 8)

    I). Phản biện:
    Để sự nhận xét được chính xác, chúng ta cần nêu ra chủ thuyết của Đạo Bà La Môn so sánh với Triết lý của Phật Giáo Bắc truyền (Đại Thừa) trong một số vấn đề như sau:
    1). Quan niệm về Thượng Đế:
    - Đạo Bà La Môn: Quan niệm chỉ có Phạm Thiên (Brahman) là hiện thực tối cao, triết lý Bà-la-môn cho rằng Phạm Thiên là thực tại có trước nhất, thực thể duy nhất, tất cả vũ trụ là Phạm Thiên. Vạn vật phát hiện tự nơi ngài và vũ trụ đã có sẵn trong ngài; Ngài là thực hữu vì không phải là hư không, là ý thức vì là nguồn gốc của mọi nhận biết, trực giác tâm linh (Turiya) là bản chất của ý thức về tự ngã duy nhất, nơi mà tất cả muôn vật trong thế giới đều trở về, trở về với thực hữu tuyệt đối yên vui, thanh tịnh an lạc vì đó là hạnh phúc vĩnh hằng.
    - Phật Giáo Bắc Truyền:
    Trong bài “Bà La Môn giáo và triết học Phật giáo” của tác giả Như Thị viết: “Nếu như Bà-la-môn giáo với đặc trưng đã cho sự cấu thành của hiện tượng nằm trong những quy luật của thần linh thì sự khác biệt của Phật giáo lại thuộc về quy luật nhân duyên; kinh Phật Tự Thuyết, nói về nguyên lý Duyên khởi được đức Phật tóm tắt:
    Do cái này có mặt nên cái kia có mặt.
    Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt.
    Do cái này sinh nên cái kia sinh.
    Do cái này diệt nên cái kia diệt.
    Quy luật nhân duyên là mối quan hệ chính yếu mà Phật giáo Bắc truyền đề cập khi biện giải về hiện hữu hữu thể; theo Bà La Môn giáo thì con người không thể thấu triệt được bản chất của nó, vì đơn giản là nó thuộc về những quy tắc của nguyên lý tuyệt đối, mà đã là như vậy thì hiển nhiên chỉ có Phạm Thiên (Brahman) mới có đủ thẩm quyền để biết mà thôi.
    Còn Phật giáo Bắc Truyền luận rằng Không tánh là thực tánh của các pháp, vì là không tánh nên quy luật nhân duyên được vận hành và trở thành năng lực chi phối sự vận động của các pháp; sự chuyển vận này làm thành các hệ quả mà sanh trụ dị diệt, có, không … là những biểu tướng phải xảy ra.”
    Nói về cõi Phạm Thiên, được biết: 28 tầng trời gồm 6 tầng thấp là cõi Dục giới, 4 tầng trời cao nhất là cõi Vô Sắc giới, và 18 tầng trời ở giữa là cõi Sắc giới, thì 3 tầng trời thấp nhất của Sắc giới là cõi Phạm Thiên chia ra Đại Phạm Thiên ở trên, thấp hơn là Phạm Thiên và thấp nhất là Phạm Chúng Thiên. Tuổi thọ và sự vi diệu thần thông v.v… của 3 loại Trời này khác nhau, tầng trên ví như vua, tầng giữa ví như quan, tầng dưới ví như dân, đó là nói vắn tắt.
    Đạo Bà La Môn gọi là Ấn Độ giáo thờ Phạm Thiên, Phạm Thiên là Thượng Đế, Thượng Đế sinh ra mọi người Bà La Môn, vì người đạo Bà La Môn đều cho rằng mình là con của Phạm Thiên, nên thường cúng tế Thượng Đế. Vị Đại Phạm Thiên chính là Thượng Đế của đạo Bà La Môn Ấn Độ giáo vậy.
    Đức Phật không công nhận một vị Thần linh tối cao, Phật giáo Bắc truyền không dạy giáo điều thần bí, nhưng có cái Chân như, Niết Bàn … chính là cái bất sanh bất diệt, không có điểm khởi đầu và cũng không có điểm kết thúc; nó vốn là bản thể của muôn pháp, vì vậy không thể cho nó là một chân lý ban đầu. Do đó chúng ta thấy rõ quan niệm Thượng Đế của Bà La Môn khác biệt hoàn toàn với lý chân như Niết Bàn của Phật giáo Bắc truyền.
    2). Về Vô thường, Khổ, Ngã:
    - Đạo Bà La Môn quan niệm: Đời là vô thường, đời là khổ, nhưng mỗi con người là một Tiểu ngã (Atman) có tự ngã bất biến (có linh hồn); Bà La Môn giáo khẳng định: nếu không có Tiểu ngã, tất cả sinh hoạt tinh thần và thể chất của con người đều chấm dứt; nhưng ngay khi cả sinh hoạt tinh thần và thể chất chấm dứt thì Tiểu ngã vẫn tồn tại bất diệt.
    - Phật giáo Bắc truyền: Cũng quan niệm thân tâm thế giới đều vô thường, đời là bể khổ, nhưng vô ngã không có cái ta. vì con người gồm có thân và tâm, Thân gồm bốn thứ Đất Nước Gió Lửa thuộc về đất nước gió lửa chứ chẳng có cái nào là ta; còn Tâm gồm bốn thứ Thọ, Tưởng, Hành và Thức, chúng đều thay đổi không ngừng nên chẳng thứ nào là ta. Nói chi tiết thì tất cả Ngũ uẩn gồm sắc thụ tưởng hành thức và mười tám giới phân biệt gồm sáu căn, sáu trần, và sáu thức mỗi thứ đều không thể độc lập được, nên không thật có cái ngã, không thật có linh hồn, chỉ do nhân duyên hòa hợp mà có, giả có chứ không có thực thể riêng của cái ngã hay linh hồn, không thuần nhất bất biến nên chẳng phải tự ngã của ta.
    Chúng ta thấy có điểm chung có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong giáo lý Phật giáo Bắc truyền so với Bà-la-môn giáo là quan niệm về tư tưởng luân hồi, khổ đau và tìm cầu giải thoát; nhưng trên bình diện triết học, Phật giáo Bắc truyền không hề có tính thực hữu của bản thể Phạm Thiên và thay vào đó là tự tính vô ngã. Một bên chủ trương vô thật ngã, còn một bên chủ trương tư tưởng có linh hồn và đề cao Bản Ngã tuyệt đối Phạm Thiên thì làm sao Bà La Môn giáo có thể là gốc của Phật giáo Bắc truyền được?
    3). Về Nhân qủa, cúng tế, khổ hạnh:
    - Đạo Bà La Môn chủ trương: Nhân qủa không chạy khỏi, cần làm lành, cúng tế Thần linh để được giảm tội, hoặc phái Khổ hạnh phải hành xác thân để trừ khỏi tội lỗi đã gây ra như: Hoặc chỉ ăn rau, chỉ ăn cỏ, chỉ uống nước cháo, chỉ ăn gạo sống. Hoặc ăn rễ, búp, lá, hạt. Hoặc mặc áo cỏ, áo vỏ cây, áo bỏ ngoài gò mả; hoặc đứng một chân, nằm trên sỏi đá, nằm trên trái cây vỏ cứng, nằm trên đống phân bò khô…
    - Phật giáo Bắc Truyền: Nhân qủa được công nhận, phủ nhận thuyết định mệnh, mà nói đau khổ hay hạnh phúc đều do chính ta tạo ra; không chủ trương cúng tế Thần thánh hoặc hành hạ xác thân để diệt trừ tội lỗi, mà phải sám hối, bỏ làm ác, chỉ làm việc lành. Đạo Phật Bắc truyền chủ trương sống theo Trung đạo: biết đủ, không sống xa hoa và không sống khổ hạnh.
    Như vậy, mặc dù công nhận nhân qủa, nhưng Phật giáo Bắc truyền có đường lối tránh qủa báo khác với Bà La Môn giáo; Phật Giáo Bắc truyền chủ trương tránh làm việc ác và làm việc lành để làm nhẹ nghiệp lực đã có.
    4). Về Vô minh:
    - Đạo Bà La Môn quan niệm: Các trói buộc phát sinh từ sự vướng mắc vào vật chất là do linh hồn đã bị dục vọng làm ô nhiễm đó là vô minh.
    - Phật giáo Bắc truyền: Quan niệm vô minh là u mê không hiểu, ô nhiễm trói buộc, mê lầm chấp trước, nhìn sai lạc không thấy sự thật, là gốc của bất thiện.
    Nhìn sơ qua thì thấy quan niệm vô minh của cả hai gần giống nhau, nhưng không phải là hoàn toàn giống, vì Bà La Môn cho rằng do dục vọng mà có vô minh, còn Phật giáo Bắc truyền thì nói vô minh là do ngu si tạo ra, nên nó sâu xa hơn vậy.
    5). Về Bất nhị Nhất nguyên:
    - Đạo Bà La Môn: Chủ trương thế giới, con người cùng các vị Thần đều là huyển ảnh huyển tượng, chỉ có Phạm Thiên mới thực sự là sở hữu hiện thực tối cao; con người và Thượng Đế không phải là hai (bất nhị) mà chỉ là một, nên con nguời sau khi chết sẽ có thể trở về với Thượng Đế (nhất nguyên).
    - Phật giáo Bắc truyền: Không chủ trương Nhất nguyên, nhưng Bất nhị tức là không phải hai mà cũng không phải một, như như bình đẳng mà không có sự khác biệt giữa cái này với cái kia. Trong Kinh Duy Ma Cật, Bồ Tát Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát về kinh nghiệm nhập Pháp Môn Bất Nhị của mình, Bồ Tát Đức Thủ nói: “Ta (Ngã) với cái của Ta (ngã sở) là hai, vì có cái Ta nên mới có cái của Ta, nếu không có cái Ta thì sẽ không có cái của Ta, đây là chân nhập Pháp Môn Bất Nhị”…. Còn Kinh Pháp Bảo Đàn, sau lúc Ấn-Tông Pháp Sư làm lễ trước Ngài Huệ Năng, và xin Ngài trưng Áo-Bát để đại chúng được chiêm bái; sau khi thấy Áo-Bát rồi, Ấn-Tông lại hỏi:
    - Đức Hoàng-Mai sau khi phó chúc rồi, Ngài truyền thọ như thế nào?
    Ngài Huệ-Năng trả lời:
    - Ngũ-Tổ không truyền thọ chi cả, chỉ có luận môn kiến tánh thành Phật, Ngài chẳng luận pháp thiền-định và pháp giải-thoát.
    - Sao chẳng luận pháp thiền-định và pháp giải-thoát?
    - Vì hai pháp ấy chẳng phải là Phật-Pháp, Phật-Pháp là Pháp chẳng hai.
    - Phật-Pháp là Pháp chẳng hai là nghĩa sao?
    - Pháp-Sư giảng Kinh Niết-Bàn đã hiểu rõ Phật tánh tức Pháp chẳng hai của Phật-Pháp vậy. Như Cao-Qúy Đức-Vương Bồ-Tát thưa với Phật rằng: “Người phạm bốn điều trọng cấm (dâm dục, trộm cướp, giết người, và nói bốn điều vọng ngữ), làm năm điều đại nghịch (giết cha, giết mẹ, hại A-la-Hán, khuấy rối chúng Tăng, khởi ác ý mong hại Phật), thì thiện căn và Phật tánh có bị đoạn diệt chăng?” Phật đáp rằng: “Thiện căn có hai thứ, một là thường, hai là vô thường, còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, cho nên Phật tánh không đoạn diệt, ấy gọi là Pháp chẳng hai”.
    Ấn-Tông Pháp-Sư nghe Ngài giảng, vui mừng chắp tay thưa rằng:
    - Sự giảng Kinh của tôi như gạch bể ngói vỡ, sự luận nghĩa của Ngài cũng như vàng ròng.
    Như vậy, chúng ta thấy Bà La Môn chủ trương Bất nhị Nhất nguyên khác với Bất nhị của Phật giáo Bắc truyền.
    6). Về Giải thoát:
    - Đạo Bà La Môn: Đối với Bà-la-môn giáo, sự giải thoát chính là sự trở về với bản thể Phạm Thiên; bởi vì tiểu ngã (Atman) đã ngày càng đi ra khỏi những quy luật của Đấng sáng tạo. Nguyên nhân là do linh hồn đã bị vô minh, dục vọng làm ô nhiễm để rồi bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi không trở về được nữa. Bà La Môn Giáo khẳng định không có những linh hồn cá biệt, tất cả đều là hư huyễn, chỉ có giá trị tạm thời và là những hiện thực tương đối; sự đa dạng biến mất khi trí huệ cứu cánh dẫn dắt tâm thức cá nhân hoà nhập với Phạm thiên và như vậy là giải thoát.
    Để đươc giải thoát, Đạo Bà La Môn chủ trương Cúng tế Thần linh, cầu xin ban ơn, đồng thời cũng dùng thiền định Yoga để linh hồn Tiểu ngã (Atman) trở về hợp nhất với Đại Ngã Phạm Thiên (Brahman). Phương pháp trực tiếp để thành tựu cái Ta chân thật tức Tiểu ngã, cũng tức là Đại Ngã Phạm Thiên; thành tựu cái Ta thật tức là phát hiện cái toàn bộ, đó là Thượng đế cội nguồn của tất cả.
    - Phật giáo Bắc truyền: Phật giáo Bắc truyền không chủ trương cúng tế thần linh, mà khẳng định đặc tính tự lực thể nghiệm và thành tựu Pháp thân Phật của chính mỗi người; giác ngộ trong Phật giáo có nhiều tầng bậc khác nhau tùy thuộc vào nỗ lực dụng công thanh lọc tâm của hành giả nên nó không có một tiêu chuẩn nhất định, nó thuộc về lĩnh vực của thực nghiệm, và cũng chính vì thế mà trong Phật giáo Bắc truyền, những giá trị tế lễ cầu cúng hay van xin để được hoàn thiện giác ngộ đều bị phủ nhận.
    Quan niệm không trở về đâu cả, mà sự đồng nhất lại chính là sự nhận ra, giác ngộ được các pháp như thật “nó đang là” mới được gọi là giải thoát. Bởi vậy, trong Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái, dù là niệm Phật, hay tọa thiền, đả thất,…cũng đều nhằm một mục đích giác ngộ giải thoát. Để giác ngộ giải thoát, Phật dạy có rất nhiều Pháp Môn tu khác nhau, như tu sống với hiện tại, dứt vọng tưởng, tham thiền, tụng Kinh, niệm Phật, trì Chú, thiền định v.v… để thanh tịnh tâm thức . . .
    Xem như trên, chúng ta thấy chủ trương giải thoát giữa Ba La Môn giáo và Phật giáo Bắc truyền hoàn toàn khác biệt từ tư tưởng đến mục đích, nên không thể bảo rằng Phật Giáo Bắc truyền không phải là Phật giáo vì lầm cho rằng nghĩa lý toàn bộ kinh sách Đại Thừa là theo kiểu kiến giải giáo pháp của Bà La Môn chính gốc và lấy tên là Phật Giáo Đại Thừa để lừa đảo tín đồ Phật Giáo là không có cơ sở.
    II). HT. TTL: Thiền Đông Độ không phải là của Phật Giáo mà là của Lão Giáo Trung Hoa (Tiên Đạo) Tư tưởng Lão Trang Trung Hoa phát triển, có những điểm tương đồng với tư tưởng kinh sách phát triển Đại Thừa Giáo Ấn Độ. Vì thế, sau này Phật giáo Đại Thừa đồng hóa tư tưởng Lão Giáo lấy tên là Phật Giáo Tối Thượng Thừa" hay còn gọi là "Thiền Tông". Chủ trương của Thiền Tông là kết hợp Lão Giáo và Đại Thừa, nên thường gọi là "Thiền Giáo đồng hành"…. (ĐVXP-Tập 8)
    II). Phản Biện:
    1). Tác giả TTL viết rằng: “Thiền Đông Độ không phải là của Phật giáo mà là của Lão giáo Trung Hoa…”, muốn biết Thiền Đông Độ có phải là của Lão Giáo hay không, chúng ta phải tìm hiểu về Đạo Lão trước rồi so sánh với Phật giáo như sau:
    Đạo Lão cũng gọi là Đạo giáo, Nguồn gốc từ thế kỉ thứ 4 trước Tây Lịch, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử (sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước Tây Lịch) xuất hiện. Đạo giáo là một trong Tam giáo từ thời Trung Quốc cổ, song song với Nho giáo và Phật giáo. Mặc dù có rất nhiều quan điểm khác biệt nhưng cả ba giáo lí này đã hoà hợp thành một truyền thống.
    Đạo giáo thâu nhiếp nhiều tư tưởng từ thời nhà Chu (1040-256 trước Tây Lịch). Những tư tưởng này là vũ trụ luận về trời đất (thiên địa), năm chất {ngũ hành: Kim (sắt), Mộc (gỗ), thủy (nước), hỏa (lửa), thổ (đất)}, thuyết về năng lượng, chân khí, thuyết âm dương và Kinh Dịch. Ngoài ra, những truyền thống tu luyện thân tâm như điều hoà hơi thở, Thái cực quyền, Khí công, Trầm tư, thiết tưởng linh ảnh và những huyền thuật với mục đích đạt trường sinh bất tử.
    Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử và bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lý luận của một thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí tối nghĩa, làm cho người đọc phải tự lí giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy rất nhiều bản chú giải.
    Đạo Đức là gì?
    - Đạo của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái có sẵn một cách tự nhiên rằng: “Người ta bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo bắt chước Tự nhiên”; Đạo là nguồn gốc của vạn vật, nó chẳng phải cái gì khác ngoài sự tôn trọng tự nhiên.
    - Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật, Đức chính là sự luật biến đổi âm dương.
    Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ. Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với “Đạo”.
    Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về thấm sâu tinh thần biện chứng âm dương, chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách công bằng, chu đáo, và do vậy mà hợp lý. Công bằng, vì nó luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu, chu đáo vì nó như cái lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thắng, không cần nói mà ứng nghiệm; mọi sự mất quân bình đều trái với lẽ tự nhiên, và do đó sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương mà chuyển hóa.
    Từ đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không trái đạo lý, t ùy thuận tự mhiên, lấy đức giáo hóa dân); đừng làm gì thái quá, vì thái quá thì theo luật âm dương “vật cực tắc phản” (mọi vật đẩy tới cùng rồi thì sẽ bị dội lại), kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là không tranh, không làm những điều không nên làm, áp dụng vào đời sống xã hội Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt của người cầm quyền.
    Cả Khổng Tử và Lão Tử đều tiếp nhận sức sống của văn minh nông nghiệp, nhưng trong khi Khổng Tử tìm cách kết hợp nó với văn minh gốc du mục thì Lão Tử dựa hoàn toàn vào nó; do đó Khổng thì “nhập thế”, “hữu vi”, còn Lão thì “xuất thế”, “vô vi”.
    Nhưng Trang Tử (khoảng 369 – 286 trước Tây Lịch): Với chủ trương sống hòa mình với tự nhiên của Lão Tử, Trang tử thay bằng lối sống xa lánh, chủ trương yếm thế thoát tục trở về xã hội nguyên thủy: “Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền, muôn vật sống chung, làng xóm tiếp liên cùng ở với cầm thú”.
    Trang Tử và Nam Hoa chân kinh: Được viết ở thế kỉ thứ 4 trước TL và tương truyền tác giả là Trang Tử. Trong Nam Hoa kinh, thể tính của Đạo được diễn tả qua những ngụ ngôn, những mẩu chuyện có tính cách triết lý. Trang Tử lấy nhiều điểm trong Đạo Đức kinh làm chủ đề, nhưng Trang Tử không hề nhắc nhở những nhà cầm quyền việc an quốc trị dân mà lên án bài bác; mà chỉ với mục đích lìa thế gian là người lí tưởng, và chỉ làm một chân nhân vô sự.
    Trong thời Lão Trang, người ta không thấy dấu tích của một tổ chức hay cơ cấu triết học hoặc tôn giáo nào có thể được gọi là Đạo giáo. Chỉ còn một vài tác phẩm có tư tưởng Đạo giáo được lưu lại, tôn vinh là Thánh điển khi Đạo giáo dần dần hình thành. Tuy nhiên, tất cả các nhà nghiên cứu đều công nhận là những tác phẩm này đã có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của Đạo giáo.
    Đạo giáo.
    Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử cộng với bản chất duy tâm mà Trang Tử nêu ra đã trở thành cơ sở cho việc thần bí hóa đạo gia thành Đạo giáo; chủ trương cùng với thái độ vô vi của Lão – Trang phản ứng đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị.
    Đạo giáo thờ “Đạo” và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái Thượng Lão Quân”, coi ông là hóa thân của “Đạo” giáng sinh xuống cõi trần. Kinh điển của Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh, ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng còn bao gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh, bói toán, tướng số, coi đất (phong thủy), thơ văn, bút ký…; Đạo giáo có hai phái:
    1. Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh;
    2. Đạo giáo thần tiên dạy tu luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử, tu tiên có hai cách nội tu và ngoại dưỡng:
    - Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng).
    - Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với “Đạo”.
    Tóm lại nếu nói về lối hành xử vô vi thì Đạo Lão và Đạo Phật tương đối giống nhau, như đạo Lão quan niệm về cái tâm của con người:
    Tướng do tâm sinh
    Tâm tịnh Thần sáng
    Thần sáng Trí minh
    Tâm bất tịnh, Thần suy
    Thần bất tịnh Trí bất minh
    Cũng tương tự như Phật giáo với quan niệm “Nhất thiết duy tâm tạo”, tất cả đều do tâm này làm chủ tạo tác những thiện nghiệp hoặc ác nghiệp. Nó tương ứng với những hành nghiệp mà chúng sanh đó đã tạo thiện hay bất thiện mà hiện tướng “thần minh trí sáng”. Có thể nói hai quan điểm về tâm của hai tư tưởng tương tự nhau, nhưng mục đích cuối cùng của hai đạo thì hoàn toàn khác nhau; vì Đạo Lão tìm cách đạt Đạo qua việc ứng dụng những phương pháp như Khí công, Thái cực quyền, tập trung cao độ, thiết tưởng (năng lực tưởng tượng), hình dung, thuật luyện kim, nghi lễ và huyền học để tạo một thế giới vi quan từ thân tâm - một ánh tượng của đại vũ trụ - và qua đó đạt được sự hợp nhất với vũ trụ.
    Xét về mục đích của Lão giáo như trên, chúng ta thấy quan niệm có một phần nào tương tự, nhưng không phải là giống nhau; vì thế cho rằng “Thiền Đông Độ không phải là của Phật Giáo mà là của Lão Giáo Trung Hoa (Tiên Đạo) Tư tưởng Lão Trang Trung Hoa phát triển, có những điểm tương đồng với tư tưởng kinh sách phát triển Đại Thừa Giáo Ấn Độ” là sai sự thật, vì sao? Vì nếu mục đích của việc tu theo Đạo giáo là sống lâu thì mục đích của việc tu theo Phật giáo Bắc truyền là thoát khổ, nếu Đạo Lão tu để trở về hợp nhất với vũ trụ (cũng giống hệt như Bà La Môn Ấn Độ giáo tu để trở về với Thượng Đế Phạm Thiên) thì Phật giáo Bắc truyền tu để thể hiện Chân như, tu để giải thoát, vì vậy cho nên Phật giáo Bắc truyền chẳng thể là của Lão giáo hay Ấn Độ giáo.
    2). Nếu bảo rằng: “sau này Phật giáo Đại Thừa đồng hóa tư tưởng Lão Giáo lấy tên là Phật Giáo Tối Thượng Thừa hay còn gọi là Thiền Tông". Chủ trương của Thiền Tông là kết hợp Lão Giáo và Đại Thừa, nên thường gọi là "Thiền Giáo đồng hành" cũng là không hiểu Thiền Tông, vì cách hành trì của Thiền Tông do thiện xảo của Chư Tổ hướng dẫn tu hành chỉ là theo vết xe Thiền Tông từ Phật Thích Ca đã làm chứ chẳng phải khác lạ gì như “Niêm Hoa Vi Tiếu” của Phật Thích Ca và Tôn giả Đại Ca Diếp được đại ngộ.
    Rồi sau Tổ Ca Diếp nói với Tôn giả A Nan Đà rằng: “Cây đại phướn đổ rồi” (trong khi cây phướn không đổ) khiến cho Tôn giả A Nan Đà đại ngộ, đều là của Thiền Tông. Bởi vậy cho nên nếu sự tu của Đạo giáo để thể nhập hợp nhất với đại vũ trụ thì sự tu của Phật giáo Bắc truyền là để thành Phật, vì Đức Phật đã khẳng định rằng: “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”.
    Kết lại, Đạo Lão gần giống Phật Giáo Bắc truyền nhưng không phải là giống, vì Lão giáo xa lánh cuộc đời sống ẩn dật chứ không phải tu giác ngộ giải thoát khỏi luân hồi sinh tử như Phật Giáo. Tác giả Thông Lạc còn nhầm lẫn giữa Thiền Tông với Giáo môn thiền định như Tông Thiên Thai, Tông Hoa Nghiêm v.v… bên Trung Hoa nên đã dùng “Thiền Giáo đồng hành” (Thiền Tông và Giáo Tông cùng nhau tu hành) để chỉ Thiền Tông với Lão Giáo là sai sự thật. Mặt khác, ở Việt Nam có những pháp Môn tu hoặc Tụng Kinh, hoặc Trì Chú, hoặc Niệm Phật, và thực hành song song với thiền định, đây là Giáo Môn, có những người tu như vậy; rồi lại có người tu Thiền Tông, nên mới có tên “Thiền Giáo đồng hành”.
    III). HT. TTL: Khi về họp ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban Tỉnh Hội đề nghị tôi biên soạn giáo án Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông. Trong buổi họp hôm đó, tôi đưa ra ý kiến và vạch rõ bốn tông phái này không phải của Phật Giáo mà của Bà La Môn Giáo.
    (Còn tiếp)

    Hiện tượng T.Thông Lạc (02

    III). HT. TTL: Khi về họp ở Tỉnh Hội Phật Giáo Tây Ninh, ông Trưởng Ban Tỉnh Hội đề nghị tôi biên soạn giáo án Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông. Trong buổi họp hôm đó, tôi đưa ra ý kiến và vạch rõ bốn tông phái này không phải của Phật Giáo mà của Bà La Môn Giáo.

    III). Phản Biện: Muốn xác định bốn tông Tịnh Độ Tông, Mật Tông, Pháp Hoa Tông và Thiền Tông là của Bà La Môn Giáo thì phải chứng minh sự kiện chứ không nên nói một cách hàm hồ sai sự thật. Sau đây chúng ta bàn vào chi tiết từng tông để rõ vấn đề hư thực:

    1). HT TTL:Tịnh Ðộ Tông là pháp môn mê tín, lừa đảo giới tín đồ bình dân, biến tu sĩ thành những ông Thầy tụng, Thầy cúng tế làm những điều mê tín, phi đạo đức. Các vị Thầy này phá giới luật Phật tận cùng, có một lối sống giống như người thế tục, có vợ con, làm tất cả các nghề nghiệp để sanh sống.

    1). Phản Biện: Phải công nhận rằng có một số ít Chùa nhỏ do những người không phải là người xuất gia điều hành, mà do những người có gia đình đảm trách; những người này là người thế tục và coi Chùa như cơ sở nghề nghiệp để sinh sống nên không tuân theo quy củ của Phật Giáo và có thể làm những điều mê tín. Nhưng không phải các Chùa có Tu sĩ thực thụ hành nghề Thầy cúng, cũng không phải các Tu sĩ làm nghề phi đạo đức, mà trái lại các vị làm việc đạo đức giúp cho người chết; vì các vị tu Tịnh Độ thường hộ niệm và làm lễ cầu siêu cho người chết, đây là việc làm độ tha, có tính cách giúp cho người chết và thân nhân người chết an tâm.
    Đây là việc làm có tính cách văn hóa Việt Nam, cũng là việc giữ cho người Phật tử tại gia có một mối kết hợp với các vị tu sĩ trong vấn đề sống chết. Nếu không, có thể họ sẽ có sự xa cách với đạo Phật và sẽ tìm đến các đạo khác, vì các đạo khác họ mong mỏi phục vụ bất cứ ai của đạo Phật muốn họ phục vụ, họ mong muốn và nhiệt tình hết cỡ được phục vụ, và nếu Tu sĩ của chúng ta chẳng làm gì cả, thì tương lai sẽ không còn Phật tử tại gia nữa, không còn Phật tử tại gia thì lẽ dĩ nhiên sẽ không còn Phật tử xuất gia, và như thế thì đạo Phật sẽ biến mất tại Việt Nam.
    Ngoài ra, các vị Tu sĩ làm các việc hộ niệm hoặc cầu siêu đều được Phật tử cúng dường, như thế có hơn là ngồi đấy mà mong Phật tử cúng dường, tức là ăn của tín thí mà không tu hành tới nơi tới chốn thì sẽ phải trả qủa báo khi chết hay sao? Ngoài ra, các vị Tu sĩ Tịnh Độ Tông còn phải tu niệm Phật A Di Đà để được vãng sanh, trong khi tu hành dành chút thời giờ đi làm lễ hoặc hộ niệm cũng giống như bỏ thời giờ đi khất thực để sống vậy, đâu có khác là bao; như vậy các vị Tu sĩ tu Tịnh Độ đã tự độ (có tha độ) và độ tha cho người khác nữa, một việc làm không thể chỉ trích được.
    Trước khi bàn về Tịnh Độ Tông có phải là mê tin hay không, chúng ta lược trích mấy lời của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh Viện Chủ Chùa Vạn Đức viết bài “Công Phu Niệm Phật” ngày Khánh tuế 17/7 Nhâm Thìn – 2/9/2012), Ngài nói về cách niệm Phật của chính Ngài như sau:
    “Trong mấy mươi năm chấp trì danh hiệu Phật A Di Đà nghĩa là:
    1. Bất niệm tự niệm: mình không nghĩ niệm nhưng trong tâm vẫn luôn tự niệm Phật.
    2. Niệm lực tương tục: niệm Phật có sức mạnh thường niệm luôn, không lúc nào hở dứt.

    Nếu người nào tự thực hành thì sẽ tự biết, từ chỗ được “chấp trì danh hiệu” là đạt bước đầu tiên về đạo lực trong pháp môn Trì danh niệm Phật. Từ “chấp trì danh hiệu” ở bước đầu tiên này mới được những bước sau như tiến lên tam muội (chánh định) chẳng hạn; đến bây giờ, tôi cũng chỉ được tầng bậc này thôi.
    Đời tôi năm nay đã 96 tuổi mà thọ dụng không hết, Thứ nhất: ngũ tạng, lục phủ trong thân không sanh bệnh. Có lần tôi vô bệnh viện để khám bệnh, sau khi khám xong, bệnh viện làm giấy kết quả xét nghiệm về tâm, cang, tỳ, phế, thận, máu huyết… Họ tổng kết rằng: kiểm tra kỹ, tất cả đều bình thường.
    Kế nữa, có điều làm chứng cho mình biết, các vị đắc đạo lên bậc Thánh, cái ngủ không có, thùy miên tâm sở bị trí lực làm cho thế lực của nó yếu hẳn hoặc mất đi. Người bình thường, thùy miên tâm sở còn nguyên, hễ nằm nhắm mắt thì khởi lên ngủ mê, nếu trằn trọc không ngủ được là bị bệnh mất ngủ; còn người được đạo, thùy miên tâm sở yếu hoặc không còn, vì có trí lực chế phục. Từ lâu rồi cho đến bây giờ, mấy tháng nay tôi không ngủ, mấy chú thị giả nói: “Con không ngủ một đêm thì ngày sau không làm gì được! Sư ông mấy tháng không ngủ tinh thần vẫn tỉnh sáng, còn phấn chấn mạnh hơn lúc trước kia”; thỉnh thoảng tôi cũng ngủ nhưng ít lắm, đến đỗi chỉ khi có chiêm bao mới biết mình ngủ.
    Trên đường đạo, mình biết rất rõ ràng chứ không phải mù mờ, mù mờ nguy hiểm lắm; chính mình không rõ để nhận biết, rồi tự viết thành sách. Người đọc tưởng rằng đúng, chẳng dè chỉ là phàm phu tự ý nói ra; tôi thường nói: phải y cứ trong Kinh làm chánh, gọi là Thánh giáo lượng”.
    Đại Lão Hòa Thượng nói về sự không ngủ làm người viết này nhớ lại khi đọc về lược sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã không ngủ, chương trình làm việc hàng ngày của Ngài kín hết, chỉ trừ từ 1:00 giờ đến 2:00 giờ chiều và từ 4:00 giờ đến 5:00 giờ sáng Ngài nằm nghiêng bên phải định thần cho giãn gân cốt thôi. Bây giờ, chính Hòa Thượng Thích Trí Tịnh đã nói như trên, chứng tỏ đã tiến tới đạo rồi, Ngài chỉ không nói hết ra thôi, chúng ta chờ xem ngày Hoà Thượng vãng sinh về Tây phương Cực Lạc như thế nào?
    Như vậy Tu Tịnh Độ đúng sẽ đưa tới giải thoát chứ không phải là mê tín; ngoài ra tác giả Thích Thông Lạc trả lời thế nào về các câu hỏi sau đây:
    1. Tại sao có người tu Tịnh Độ biết trước ngày ra đi, chuẩn bị đầy đủ, ngồi kết già niệm Phật rồi an nhiên thị tịch?

    Bằng chứng: Bài “Biết Trước Giờ Chết” do Hòa Thượng Thích Tịnh Nghiêm viết về một bằng chứng biết trước giờ chết, ra đi tự tại, như sau:
    “Hòa thượng Hải Đức trụ trì chùa Hải Đức ở Huế và cũng là người thừa kế chùa Hải Đức tại Nha Trang, sau Ngài cúng chùa Hải Đức Nha Trang cho Giáo hội Phật giáo Trung phần; Ngài mở Phật học viện Trung phần và cử Thượng tọa Trí Thủ vào làm giám đốc Phật học viện.
    Năm ấy, Ngài trên 80 tuổi, Ngài không đau ốm chi. Biết mình sắp về Tây Phương nên sáng ngày 8 tháng 4 Âm lịch, Ngài bảo bà cô nấu ăn, “Hôm nay cô đi chợ mua hoa trái về cúng vía Phật. Trưa nay thầy về Tây Phương đó”; bà cô nói, “Bạch Hòa thượng, năm nay giáo hội làm lễ Phật Đản vào ngày rằm chớ không làm ngày mùng 8 nữa”, Hòa thượng nói, “Thế à, thôi, để đến rằm cũng được.”
    Thế rồi đến ngày rằm, bà cô đi chợ mua hoa trái để cúng lễ Phật đản, Hòa thượng bảo thầy tri sự quét chùa sạch, chưng hoa quả, và khi đúng ngọ, lên hương đèn cúng vía Phật.
    Nửa buổi, Hòa thượng bảo thị giả hái các bông hoa, nấu nước cho Ngài tắm, thay đồ mới và Ngài bảo bà cô khuấy một chén bột mình tinh để Ngài dùng. Đến gần trưa, Ngài hỏi thầy tri sự: “Đúng ngọ chưa?” Thầy tri sự nói: “Đã gần đúng giờ ngọ rồi”, Hòa thượng bảo thầy tri sự, “Mặc áo, lên chùa, đốt hương đèn, đánh trống Bát Nhã, Thầy sẽ đi đó.”
    Thầy tri sự lên chùa đốt đèn nhang xong, đánh trống Bát Nhã, rồi xuống nhà tổ, thấy Hòa thượng ngồi tư thế thiền định, Thầy đến đưa tay trước mũi, thì Hòa thượng đã đi rồi. Thầy liền qua chùa Từ Đàm báo cho Giáo hội biết, Giáo hội cũng vừa làm lễ Phật Đản xong; Chư Thượng tọa, Đại đức, tăng ni liền qua chùa Hải Đức tiếp tục hộ niệm. Một giờ sau, đỡ Hòa thượng nằm xuống và lo tang lễ.
    Như vậy, Hòa thượng đã biết trước giờ chết và hẹn lại một tuần, Ngài ra đi một cách ung dung, tự tại; nên biết pháp môn Tịnh Độ là một pháp môn mầu nhiệm, đường tắt trong đường tắt”.
    2. Tại sao có người tu Tịnh Độ khi sắp chết tự nhiên có mùi hương thơm lạ khắp vùng, hoặc có nhạc trời, hoặc có ánh sáng sáng rực trong ban đêm, rồi sau đó ra đi?

    Bằng chứng: Trường hợp người tu khi chết được hộ niệm được vãng sinh được viết trong quyển “Pháp Môn Tịnh Độ” của Toàn Không Đỗ Đăng Tiến như sau: “Năm 1958, một cô giáo ở chợ Lớn 19 tuổi, quy y với Hòa Thượng Thích Khánh Anh (về sau Hòa Thượng làm pháp chủ hội Phật Giáo Tăng Già Nam Việt), cô giáo được đặt pháp danh là Diệu Tâm. Cô ăn chay trường, nuôi mẹ góa, sớm chiều công phu niệm Phật. Ngày 14 và 30 cô thường đến chùa lạy sám hối.
    Đến năm 21 tuổi bị bệnh nặng, cô nhờ rước thầy của cô đến tụng niệm, đến lúc sắp lâm chung, cô bảo đỡ cô ngồi dậy vì Quan Âm Bồ Tát đến rước. Lúc ấy vào ban đêm, hào quang sáng rực trên nóc nhà, lối xóm tưởng nhà cô bị cháy, mọi người tới chữa lửa nhưng không phải, mà là có sự lạ lúc cô giáo qua đời”.
    Tác giả Thông Lạc nghĩ sao về lời nói của Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh vẫn còn sống, nếu không tin nữa có thể đích thân diện kiến Ngài để hỏi cho ra lẽ, nghĩ sao về hai câu hỏi có dẫn chứng? Bởi vậy cho nên nói Tịnh Độ Tông mê tín là đã nói sai vậy.

    2). HT TTL: Mật Tông là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến ông Thầy thành Thầy phù thủy, Thầy bùa, Thầy pháp, v.v...

    2). Phản biện: Mật Tông tuy về hình thức có những lễ lạc khác vì một phần do phong tục nên có vẻ huyền bí, nhưng về hành trì chú trọng ở trì Chú và Thiền định,
    Mật giáo chủ trương lối thực hành "Tam mật tương ứng", thân mật, khẩu mật, và ý mật; nghĩa là: Thân, khẩu, ý quyện chặt không rời. Thân ngồi kiết già, Miệng tụng Đà la ni tương tục, Ý lắng nghe lời chú hoăc quán một đối tượng do hành giả pháp nguyện và hướng tâm vào. Pháp hành của hành giả trì Đà la ni là "Tam mật"
    Người tu Mật-Tông phải “vừa tu vừa cứu độ”, có nghĩa là hàng ngày trong mọi lúc, ở mọi nơi đều phải nghĩ đến việc làm lợi lạc cho chúng sinh, mình đem cho mà chẳng cần người được cho biết đến, và cũng không cần họ đền ơn…
    Khi người không hiểu về Mật Tông mà phê bình Mật Tông thì đó là “nói không có sách, mách không có chứng”, do đó chúng ta cùng
    t óm lược qua tập “Mật Tông Vấn Đáp” của tác giả Mật Nghiêm viết năm 1992 để hiểu sơ về Mật Tông là thế nào?
    Theo tác giả Mật Nghiêm thì: “nếu coi Mật tông như một nghành chuyên về bùa phép, cầu phước, giáng họa, sai phái quỷ thần, trừ khử tà ma, dị đoan mê tín. Nếu hiểu một cách phiến diện như vậy thì thật là oan cho Mật tông quá! Thật ra Mật tông là một hướng đi gồm nhiều pháp môn chuyên tu giải thoát, với những phương tiện thiện xảo, có thể đưa hành giả đạt được những quả vị lớn hay nhỏ, chắc chắn thành tựu ngay trong hiện kiếp này”.
    Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt xét: Thế nào là Mật tông, cách hành trì tu Mật Tông, và quan niệm của người tu Mật Tông.

    A. Thế nào là Mật tông?

    1. Định nghĩa Mật Tông: Mật Tông là một tông phái của Đạo Phật dùng các “MẬT NGỮ” của Chư Phật làm phương tiện tu hành, Mật ngữ có nghĩa là “lời nói kín”. Mật ngữ còn gọi là “Chân Ngôn” (lời nói
    chân thật), Mật ngữ còn gọi là “Chú”, đây là tiếng thông thường người đời hay dùng nhất, Chú cũng có nghĩa là lời nói bí mật. Bí mật vì nó không được giải nghĩa, chỉ có chư Phật mới hiểu trọn vẹn, tùy trình độ, căn cơ và có sự ứng dụng mà mỗi người hiểu một khác và đạt kết quả khác, nó chỉ được thông đạt qua Tâm truyền Tâm, giữa Thầy trò, giữa chư Phật (hoặc người nói ra chân ngôn) với hành giả (Điều này chỉ người nào tu Mật rồi mới chứng nghiệm được), và sau chót là kết quả tùy Tâm hành giả.

    2. Tại sao lại dùng “Chú” làm phương tiện tu hành?

    Tu theo đạo Phật có rất nhiều cách để đi tới “cứu cánh giải thoát”, có người niệm Phật, có người tụng Kinh, có người ngồi Thiền, vậy thì dùng “Chú” cũng chỉ là mượn xe đi đến đích mà thôi. Trong một cuộc hành trình muốn đi tới một điểm nào đó, người ta thường thích chọn xe nào đi cho nhanh và thoải mái. Vậy thì việc chọn “Chú” mà không dùng các phương tiện khác cũng như thế, vì dùng “Chú” thì ngoài “tự lực” của mình còn nhờ “tha lực”, giống như đi thuyền biết trương buồm lên, nên nhờ được gió đẩy đi nhanh hơn. Người tu Mật-Tông nói đến tha lực là nói đến sức hỗ trợ vô hình từ các cõi xuất-thế-gian đưa đến; bởi vì sức người có hạn mà sức ngoài thì vô hạn, nếu ta biết nương vào sức đó thì sẽ giúp ta sớm đạt kết quả.
    3. Nhờ đâu ta có tha lực hỗ trợ?

    Nhờ ở chân ngôn tức “Chú”, điều này thuộc về bí mật, mà chỉ có thể chứng minh được bằng Đức Tin của mình, sự chứng nghiệm và cảm nhận; kết quả chỉ được chứng minh khi đã hành trì.
    4. “Chú” do đâu mà có và đọc Chú có lợi gì?
    “Chú” do TÂM Phật mà có, “Chú” do lòng thương xót chúng sinh mà có; Chư Phật, chư Bồ Tát hoặc các vị khác khởi từ tâm chân thật, từ lòng thương xót chúng sinh mà nói ra “Chú” để cứu độ. “Chú” phát xuất từ TÂM-CHÂN-THẬT nên mới gọi là “Chân ngôn”; vì “Chú” xuất phát từ chỗ vô hạn là Tâm Phật nên lợi ích của nó cũng vô cùng, không thể kể hết. Tuy nhiên, đối với người tu thì lợi ích thiết thực nhất là “Chú” giúp ta tìm cầu giải thoát mau chóng và giúp người khác cùng tiến với ta; còn các lợi ích khác như Thần thông, trừ Tà ma, chữa Bệnh chỉ là phụ, không nên nhìn “Chú” bằng con mắt hạn hẹp đó.

    5. Những ai đọc “Chú” được?

    “Chú” là phương tiện của Phật cho mượn nên ai cũng có quyền đọc; tuy nhiên như khi ta mượn một cái xe thì điều cần thiết là ta có biết xử dụng nó hay không. Do đó đọc “Chú” thì ai cũng có thể đọc được, nhưng có kết quả hay không, nhiều hay ít, đó mới là vấn đề, ấy là chưa nói tới có thể cái hại đưa đến nữa. Nói thế không hẳn là chỉ những người tu chân ngôn mới được đọc “Chú” mà bất cứ ai nếu với Tâm thành thật, hướng đến sự tốt lành cho mình và cho người, vẫn có thể dùng “Chú” mà vẫn thấy linh nghiệm.

    6. Đọc “Chú” đòi hỏi những điều kiện gì?

    Sự tin tưởng vững chắc vào “Chú”, thành khẩn khi đọc, hướng về làm lợi ích cho chúng sanh. Đối với người tu Mật tông thì còn cần phải: Xả thế nào, dụng Tâm ra sao, dụng ý thế nào, dụng lực làm sao, trì tụng thế nào trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi; còn phải làm thế nào Tam-mật tương ưng, làm lợi ích cho chúng sanh thế nào, và hồi hướng công đức ra sao, v.v…

    7. Mục đích của việc trì “Chú” là gì?

    Mục đích tối hậu của việc trì Chú là giải thoát cho mình và để cứu độ người khác, và phải tu thành Phật bằng phương tiện trì “Chú” ngay trong hiện kiếp này.

    8. Muốn tu trì “Chú” để thành Phật thì phải làm sao?

    Hành giả tu Mật Tông phải thực hiện được “Tam-Mật tương ưng”, nghĩa là làm sao cho “Thân, Khẩu, Ý giống như Phật”. Muốn được “Tam Mật tương ưng” thì phải qua một quá trình tu tập hành trì, đi nhanh hay chậm là do sự tự ngộ và mở Tâm của mình.

    9. Mật-Tông có đọc Chú, bắt Ấn như Thầy Pháp hành tà không?

    Khi nào tin một cách mù quáng thì là mê tín thật, còn người tu Mật-Tông thì biết rõ việc mình làm, thấy rõ mục đích mình đi tới, vậy sao gọi là mê tín được. Việc Tà hay Chánh do TÂM ý người hành đạo. Nếu tu theo Chánh Đạo, nhưng ta dùng phương tiện đi làm việc xấu, cướp đoạt tiền bạc vợ con của người, lòng đầy tham sân si, thì đó là ta hành Tà. Nếu như Thầy Pháp mà làm việc cứu người không nghĩ đến lợi cá nhân, không hại người lành, ngăn chận kẻ ác thì đó là Chánh chớ đâu phải Tà; về người tu Mật-Tông mục đích là “tu để thành Phật” vậy làm sao Tà được? Phật và Ma chỉ khác nhau ở lòng “Từ Bi Cứu Độ” mà “Từ Bi Cứu Độ” là tông chỉ của Mật-Tông đấy.

    10. Vì sao đọc “Chú” lại cần bắt Ấn?

    Ấn là bí pháp thuộc về “thân mật”, khi nào tu lâu sẽ hiểu, đại để có thể tạm giải thích: khi ta bắt Ấn thì làm phát huy cái lực của “Chú” cũng ví như mở đài Tivi mà có thêm ăng ten vậy, đối với người tu Mật thì việc bắt Ấn còn là một sự “thể nhập” vào pháp thân Phật nữa.

    11. Lợi ích đặc biệt Chú thế nào?

    “Nghiệp” là cái đem con người trôi lăn trong sanh tử luôn hồi, nay nhờ “Chú”, ta chuyển được nghiệp, giải được nghiệp để sớm giải thoát; đó là điểm khác biệt quan trọng nhất của Mật-Tông so với tông phái khác. “Chú” còn giúp hành giả lập công bồi đức và tiêu tội nữa;
    đấy là chỉ kể những lợi ích thiết thực cho vấn đề giải quyết sanh tử luân hồi thôi, chứ chưa nói đến lợi ích chữa bệnh, cứu người, tăng thêm tuổi thọ v.v…

    B. Cách hành trì tu Mật Tông.

    1. Người tu Mật-Tông phải làm gì?

    Người tu Mật-Tông phải “vừa tu vừa cứu độ”, có nghĩa là hàng ngày trong mọi lúc, ở mọi nơi đều phải nghĩ đến việc làm lợi lạc cho chúng sinh; làm lợi lạc bằng cách “Chú nguyện”, dùng “Chân ngôn Chú pháp”. Đây là một hình thức bố thí có thể được xếp vào loại “Pháp thí”, Phật dạy: “Pháp thí cao hơn tài thí”. Có nghĩa là cao hơn cho tiền bạc, sự bố thí này lại là “Ba-La-Mật” nghĩa là tuyệt đỉnh ở chỗ mình đem cho mà chẳng cần người được cho biết đến, và cũng không cần họ đền ơn.

    2. Tại sao Mật-Tông chủ trương cứu độ là chính?

    Các Tông phái khác trong Đạo Phật cũng đều thực hiện việc cứu độ, nhưng dưới nhiều hình thức và hoàn cảnh khác nhau, riêng Mật-Tông đặt nặng vấn đề này hơn; vì người tu Mật là người mang lý tưởng Bồ Tát! Trong chủ trương “Thượng cầu hạ hóa”, người tu Mật quan niệm rằng đó là thực tu, thực tu thì phải hành, không hành thì chẳng chứng được “Cái lý”; có vậy thì “Lý - Sự mới viên dung”.
    Các Tổ đã dạy 4 bước tu hành là “Tín, Giải, Hành, Chứng” nghĩa là Tin thì phải Hiểu, Hiểu thì phải Làm, Làm thì mới thấy kết quả;
    đó là làm tròn tự lợi và lợi tha, tự lợi ở chỗ hằng thường mở rộng TÂM mình, ở trong thiện niệm và làm các việc lành. Lợi tha là cứu độ, Cứu là giúp đỡ, đem ra khỏi chỗ nguy hiểm tai hại; Độ là dìu dắt, nghĩa chính là chở bằng đò qua sông. Vậy “Cứu độ” là giúp đỡ, dìu dắt người qua biển khổ, từ bên này bờ mê sang bên kia bờ giác.
    Người tu Mật muốn làm tròn hạnh cứu độ phải thực hiện các điểm sau đây:
    - Cứu độ không phân biệt, nghĩa là không khởi Tâm phân biệt thiện ác, giàu nghèo, sang hèn, tốt xấu v.v…
    - Cứu độ mà không độ, nghĩa là không thấy mình độ người, và không thấy có người được độ; không vì danh, không vì lợi, không mong cầu đền đáp.
    - Sâu xa hơn ta phải hiểu hành động cứu độ là giải thoát, giải thoát cho mình và cho người.

    3. Người tu Mật có hành lục độ không?

    Cứu độ là con đường làm tròn quả vị, có cả 6 độ nằm trong đó, nếu bạn làm thường hằng thì thấy “LỤC ĐỘ” trong đó cả, vì sao?
    Vì khi BỐ THÍ bạn đã TRÌ GIỚI không sân tham, nếu bạn làm thường hằng thì đó là hạnh TINH TẤN; cho mà không cầu lợi không mong đền đáp, đó là hạnh NHẪN NHỤC. Cho mà trong Tâm luôn luôn bình đẳng, không phân biệt thân thù, trụ nơi chánh niệm, đó là THIỀN ĐỊNH; cho mà niệm niệm giải thoát đó là TRÍ HUỆ, đây là con đường đi đến thành PHẬT đó bạn!

    4. Hành giả Mật-tông vào Đời như thế nào?

    Vào đời bằng cách dấn thân, quên mình để cứu độ bằng phương tiện thực tiễn, cả vật chất lẫn tinh thần, nhằm mục đích tối thượng là cùng nhau giải thoát; nhưng phải luôn luôn:
    - Thức tỉnh tức là sáng suốt,
    - Xả kỷ tức là bỏ cái “Ta”, cái Ngã,
    - Không chấp tức là tùy duyên,
    - Giữ con đường Trung đạo.
    - Ngoài ra, người tu Mật lấy “XẢ” làm đầu, lấy “BI” làm căn bản, lấy “TÙY HỶ” chúng sanh làm hành động tiếp xúc, lấy “TỪ” làm môi trường sinh hoạt.

    5. Hành giả Mật Tông phải có Tâm thế nào?

    Muốn vào Pháp và chắc chắn đi đến thành tựu thì người tu Mật phải:

    a. Đối với mình :
    Thực hiện 3 điểm để được nhất tâm và luôn trong chánh niệm là:
    - XẢ TẤT CẢ: Là bỏ cái “TA” cái “CỦA TA”, tức xả Ngã và Ngã Sở.
    - PHÁ TẤT CẢ: Là phá cái “TÂM PHÂN BIỆT” và “KIẾN CHẤP”.
    - LÀM TẤT CẢ: Là “LÀM CÁI THIỆN NGHIỆP” và hằng thường giữ Thân, Khẩu, Ý lành.

    b. Đối với người :
    Đối với người phải thường tùy hỷ và lấy “BI TÂM” mà đối xử để:
    - CHUYỂN TẤT CẢ: Là dựa vào bi nguyện của Chư Phật, chư Bồ Tát và đem tất cả công đức lực của mình để chuyển hóa cho người khiến nghiệp dữ thành lành, hướng về chánh pháp tu hành.
    - THẮNG TẤT CẢ: Là bằng phương tiện thiện xảo, bằng nguyện lực bằng chánh tâm để thắng mọi tà ngụy.
    - THÀNH TẤT CẢ: Là người tu Chân ngôn mang Tâm Bồ Tát làm việc Phật làm nên “khởi niệm tất thành”, đó là chỗ thắng diệu của Pháp vậy.

    6. Cái chướng ngại cho hành giả Mật Tông là gì?

    Cái khó khăn nhất mà tất cả những người mới bước vào con đường “Mật thừa” đều gặp đó là:
    - ƯA thích thần thông, hoặc
    - MUỐN mau chóng được một cái gì, thành một cái gì!
    Tâm lý này cũng đúng thôi, nhưng nó lại trở thành chướng ngại lớn cho hành giả, vì ưa thích thần thông tức mong muốn có quyền năng hoặc là siêu nhân, đó là phát triển tự Ngã; mong mau chóng kết quả là bạn còn tham cầu, còn chưa làm chủ thật sự Tâm mình, khi bạn “tu Pháp Mật” mà còn với tư tưởng đó thì kết quả rất là hạn chế và khó mà chuyên nhất.

    7. Làm thế nào biết là thành tựu?

    Phật nói “Tự tu tự chứng” vậy thì thành quả không ai giống ai, có người thành tựu lớn, có người thành tựu nhỏ; tùy theo căn cơ phước đức, công phu của mỗi người. Tuy nhiên, thành tựu nói chung của những người “TU GIẢI THOÁT” không phải ở chỗ “biến hóa thần thông, hô phong hoán vũ” mà là tự thấy được:
    - TÂM PHÀM của mình ngày một mất,
    - NGHIỆP XẤU ngày một bỏ,
    - TỪ BI ngày một tăng,
    - TINH THẦN ngày một an ổn,
    - TRÍ THẤY BIẾT ngày một sáng,
    - GIẢI THOÁT ngày một gần v.v…

    C. Quan niệm của người tu Mật Tông

    1. Cái nhìn của người tu Mật tông ra sao?
    Người tu Mật cần phải thể hiện những điều sau đây:
    - Lấy vũ trụ làm nhà
    - Lấy thiên nhiên làm bạn hữu
    - Lấy chúng sinh làm quyến thuộc
    - Lấy vạn hữu làm chân thân
    Một vị Tổ Mật Tông bên Tây Tạng đã nói:
    - Tất cả mọi hình tướng đều là Niết Bàn,
    - Tất cả mọi âm thanh đều là Chân ngôn,
    - Tất cả mọi chúng sanh đều là Phật.
    Mật Tông là thế đó, nên Mật Tông là:
    - SỰ SỐNG HIỆN THỰC, hồn nhiên và tràn đầy.
    - GIÁO LÝ SỐNG ĐỘNG, hàm súc và phong phú rút ra từ cuộc sống, từ kinh nghiệm hàng ngày.
    - LỜI THẬT: Là chân lý, xóa mọi thành kiến, mọi danh xưng, khai thông dòng sống trào tuôn bất tận.

    2. Làm sao để trì “Chân ngôn” cho có hiệu quả?

    Bạn sẽ được Thầy chỉ cho bạn khi nào bạn thực sự vào Pháp hành, vì nó thuộc mật truyền, thường bên Mật Tông khi một vị Thầy truyền cho đệ tử một câu Chân ngôn là vị Thầy đó đã hành qua, đã giàu kinh nghiệm và đã nắm được yếu quyết của nó. Tuy nhiên, có thể trả lời bạn tổng quát như thế này:
    1/ Trước hết đừng nôn nóng cầu đắc, cầu chứng,
    2/ Tâm ý phải thanh tịnh, không mưu tính bất chánh,
    3/ Không dùng chân ngôn trong trường hợp thiếu Tâm Bi,
    4/ Không nói dối, xảo trá, lừa dối, ngụy biện,
    5/ Phải thành khẩn, siêng năng,
    Sau nữa còn những điểm dành cho người tu Mật đó là:
    6/ Phải biết nguyện mới thành,
    7/ Phải có Ấn mới quyết định, v.v…

    Đa số thường bị cái lỗi lầm là nghe thấy một câu chú “hay”, có “công năng lớn” là đem ra hành trì, không cần có Thầy chỉ dẫn; như vậy chỉ uổng công mà chẳng đem lại kết quả gì. Nếu tu Chân ngôn mà dễ như thế thì ai tu chẳng được! Rất đáng buồn là đã có những bạn bỏ phí cả những năm tháng dài, để chạy theo sự tham mê vô vọng đó, rồi khi không được gì đâm ra chán nản, mất tin tưởng và quay ra phỉ báng.
    Đây cũng là chỗ bí nhiệm của “Mật Môn”, đừng tưởng coi sách là đủ đâu! Những gì được viết ra sách là không còn Mật nữa, là thuộc về “công truyền”; những gì không được viết ra, do Thầy truyền mới là “Mật truyền”, tâm truyền đấy bạn ạ; Chân ngôn là một chén thuốc bổ, nhưng đối với người này nó trở thành thuốc độc, còn đối với người khác nó lại là thuốc trường sanh, vậy hãy xem mình đã áp dụng đúng chưa.

    3. Thế nào là Tam mật tương ưng?
    Nghĩa đơn giản của Tam mật là:
    - Thân mật,
    - Khẩu mật,
    - Ý mật.
    Tương ưng là ứng nhập cùng Phật, Bồ Tát, thông thường giải chữ tương ưng là làm cho giống hay thành Thân, Khẩu, Ý của Phật. Đó là cái nói của người trụ nơi lý thuyết không thật sự hành pháp, có thể nói thế này cho bạn dễ hiểu: Người tu Mật dùng phương tiện của mình để:
    - Biến “SẮC THÂN” hiện tại này thành “PHÁP THÂN”, đó là Thân mật.
    - Đưa cái ngôn ngữ giới hạn này trở lại với thực tướng của nó, rời danh tự, rời ngôn ngữ, rời tư duy, rời phân biệt, về cái chỗ xuất sanh vô lượng, vô biên nghĩa, vì rốt cùng âm thanh chính là thực tướng, và ngôn ngữ chính là chân lý, đó là Khẩu mật.
    - Biến THỨC thành TRÍ vô lậu đó là Ý mật, nói ra dài lắm, phải hành mới hiểu được bạn ạ!
    Tổng kết về quan điểm của Mật môn như sau:
    - Đại bí mật làm TÔNG
    - Pháp giới chân như làm THỂ
    - Bất tư nghì làm DỤNG
    - Tam Mật làm MÔN
    - Tối thượng làm GIÁO TƯỚNG
    Xét lược qua về Mật Tông, chúng ta thấy rõ ràng là tu Mật Tông hướng đến giải thoát cho hành giả, như thế thì sao bảo rằng “Mật Tông là pháp môn tà thuật, huyễn hoặc lường gạt tín đồ nhẹ dạ, ham mê thần thông, biến ông Thầy thành Thầy phù thủy, Thầy bùa, Thầy pháp, v.v...” được chứ? Hơn nữa Mật Tông được lãnh đạo bởi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đang phát triển mạnh tại các nước Âu Mỹ với sự hưởng ứng và kính trọng nhiệt liệt của giới trí thức Tây phương. Chính Mật Tông cùng với các Tông khác không kể Bắc truyền hay Nam truyền đều đang cùng tùy duyên làm cho nẩy mầm Phật pháp khắp thế giới; bởi vậy không nên gieo rắc tà kiến gây hiểu lầm làm hư mầm giống Phật của các người đang hành trì và sẽ hành trì Mật Tông.

    3). HT TTL: Pháp Hoa Tông là pháp môn phi đạo đức, ngồi không mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi, biến ông Thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v... Biến Ðạo Phật thành thần giáo, biến tín đồ mất sức tự chủ, luôn luôn sống trong tha lực, tựa nương vào thần quyền; do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.

    3). Phản biện: Tác giả phê bình về việc cúng bái cầu xin tha lực, nương thần quyền, đây là tác giả nhắm vào việc van xin Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn. Chúng ta sẽ lược trích đoạn giải thích trong Phẩm thứ 25 Bồ Tát Quan Thế Âm của “Pháp Hoa Kinh Thâm Nghĩa Đề Cương” do Pháp Sư Thích Từ Thông như sau:
    “Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn thường gọi giản luợc là phẩm Phổ Môn, phẩm kinh nầy tùy chủng tánh và trình độ kiến giải của mỗi người mà có sự nhận thức khác nhau; vì vậy khi ứng dụng việc tu tập hành trì, mỗi người theo sự nhận thức của mình mà "tín ngưỡng".
    Thế nên khó tìm một tiêu chuẩn nhất trí về Bồ tát Quán Thế Âm và ý nghĩa của phẩm Phổ Môn nầy; theo sự giải thích của Hải Ấn đại sư được nhiều bậc đa văn tiền bối tán đồng, phẩm Quán Thế Âm được liệt vào phần Nhập Phật Tri Kiến, giáo nghĩa rất thâm sâu. Đây là pháp thực hành quán niệm dựa trên âm văn (nghe tiếng) của Nhĩ căn và thanh trần. Thanh trần và Âm (Tiếng), Nhĩ căn và Văn (Nghe) vậy. Nhĩ căn có ba đức tánh Viên (tròn đầy), Thông (thông suốt), Thường (thường hằng), nó đặc thù hơn các căn khác.
    - Ngồi một nơi yên tĩnh, mười phương có tiếng trống, cùng một lúc nghe đủ cả mười; đó là đức Viên.
    - Cách vách có thể nghe tiếng, tiếng gần tiếng xa cũng có thể nghe; đó là đức Thông
    - Có tiếng nghe đã đành, không tiếng tánh nghe vẫn có; đó là đức Thường của nhĩ căn vậy.
    Phương pháp quán niệm Âm văn rất là quan trọng, tu học phẩm Quán Thế Âm Bồ tát, Phật tử chúng ta hãy gác qua tình cảm do tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt; hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận dụng lý trí có tánh khách quan, mới có thể nhận chân giáo lý, mới có thể biết được sự thật về những điều Phật dạy chúng ta.
    Ở phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát thứ 20, đã đề cập Oai Âm Vương Phật. Đó là đức Bản sư đã kín đáo gợi ý, mật chỉ tiền đề cho thính chúng Pháp Hoa Hải hội về Âm Văn trong hồi ấy.
    Ở phẩm 21, Như Lai thần lực, Phật mật ý chỉ bày công dụng của Âm Văn tỏ rõ hơn, qua hai sự kiện: tiếng tằng hắng và tiếng khảy móng tay, vang khắp mười phương quốc độ.
    Ở phẩm 24, Diệu Âm, công dụng của Âm thanh đến đấy đã thành Diệu: Diệu Âm đến, có mặt, thì cõi Ta bà rực rỡ, trang nghiêm đẹp đẽ; Diệu Âm về, vắng tiếng, cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không còn trang nghiêm đẹp đẽ nữa.
    Ở phẩm Quán Thế Âm thứ 25 này: Phật dạy cho chúng ta cách Giữ diệu âm ở lại để cõi Ta bà xinh đẹp rạng rỡ mãi; Quán Thế Âm là danh hiệu "Nhân cách hóa một phương pháp tu tập".
    - Quán là vận dụng cái trí năng tri, soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng như quán tưởng, quán niệm một đối tượng nào...
    - Thế có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật, ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng chúng ta.
    - Âm là tiếng, Âm có âm hưởng, âm ba, âm thanh đều là đối tượng của nhĩ căn.
    Quán Thế Âm là quán niệm cái tiếng tăm thầm lặng mà trong như sương, trắng như tuyết, sáng chói như kim cương, nó thường xuyên liên tục không có một phút giây gián đoạn ở lòng ta; ở đời có thứ tiếng nào thường xuyên liên tục không gián đoạn?
    - Tiếng của tâm ta, tiếng lòng mầu nhiệm của ta là thứ tiếng thường xuyên và liên tục không ngừng, nó luôn luôn nói với chúng ta nếu chúng ta để ý lắng nghe; nó có khả năng nói ngày nói đêm nói ở mọi nơi chốn, chỉ trừ lúc ngủ không chiêm bao, nhưng làm sao biết được thứ tiếng nào là mầu nhiệm?
    - Thứ tiếng có khuynh hướng tiến lên giải thoát giác ngộ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ; chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh niệm và chánh định được liệt vào tiếng mầu nhiệm, là diệu âm đó. Trái lại, những thứ tiếng có chất vô minh, phiền não, khổ đau như: tham, sân, si, mạn...người Phật tử phải quên, bỏ nó đi, không nên lưu lại ở ký ức mình.
    Diệu Âm tức Quán Thế Âm, Quán Thế Âm tức Diệu Âm đến rồi về để cho cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không giữ được vẻ xinh đẹp, trang nghiêm nữa; đó là Diệu Âm Bồ tát vãng lai ở phẩm trước.
    “Nghe phẩm Quán Thế Âm, mỗi người phải đặt mình là một Vô Tận Ý Bồ tát, phải sử dụng ý thức sâu xa vô tận, tư duy thăm thẳm tột suốt nguồn tâm, để nhận thức thâm nghĩa của kinh. Nếu sử dụng ý thức nông cạn, tư duy hời hợt, "tín ngưỡng" Quán Thế Âm như một đấng thần quyền, sẽ sa vào mê tín dị đoan, làm cho người trí khinh chê, chánh pháp từ đây mai một!
    Giả sử có vô lượng chúng sanh đang gánh chịu nhiều điều khổ não mà được nghe "Hạnh Quán Thế Âm", liền quán âm thanh đó, thì họ sẽ được giải thoát những điều khổ não; quán niệm "âm thanh" có nghĩa là quán tiếng tâm mình, là Diệu Âm vậy.
    Trọng tâm cứu khổ của Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tinh thần, tất nhiên khi giải thoát khổ tinh thần, thì thân thể lành mạnh và mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm tay; vì vật chất không ngoài tinh thần, tinh thần không ngoài vật chất, hai thứ ấy tác động lẫn nhau, thế thì sự cứu độ, sự ban cho của Quán Thế Âm là cứu độ, ban cho tinh thần, tinh thần thuộc lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức.
    Bồ tát sẽ không ban cho vật chất hữu vi cho chúng sanh đâu, vì làm như vậy tức là dồn đẩy chúng sanh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát; mà Bồ tát thì không thể nào làm việc ác đức và tội lỗi đối với lương tâm mình.
    Thế mà tác gỉa Thông Lạc và nhiều người không hiểu đã bóp méo sự thật về "Hạnh Quán Âm", đã hiểu và truyền bá Quán Thế Âm như một Bồ tát chuyên làm công tác "từ thiện xã hội" rằng Quán Thế Âm Bồ tát hứa sẽ giúp đỡ, hộ độ tất cả những gì người tín chủ muốn, miễn là "có lễ" và "thiết lễ cầu an" trước tượng Ngài, thành tâm khẩn nguyện và tụng phẩm "Phổ Môn Kinh".
    Không, không thể như vậy được, vì Bồ tát là bậc Đại đạo tâm thành tựu chúng sanh, Bồ tát là bậc hữu tình đã giác ngộ, Bồ tát là bậc giác ngộ cho chúng hữu tình. Đạo lý nhân quả Phật dạy Bồ tát đã thân chứng Chánh tà, chân ngụy, chánh pháp, phi pháp, với trí tuệ "hành thâm Bát nhã Ba la mật đa" không cần suy nghĩ, Bồ tát đã biết rõ hết rồi. Thế mà lại nói: Bồ tát là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, Ngài độ hết thảy chúng sanh vô điều kiện, chỉ cần "cúng dường", "cầu nguyện" và tha thiết "khấn vái" Ngài.
    Ý nghĩa nông cạn đó, việc làm không lý trí đó, với người trí, quả là sự bôi nhọ, sự sĩ nhục nặng nề đối với vị Bồ tát "Đẳng Giác Quán Thế Âm"; muốn hiểu Bồ tát Quán Thế Âm cứu khổ với hình thức nào, chúng ta phải hiểu những vấn đề được biểu trưng về khổ nạn và giải thoát khổ nạn được an vui như sau:

    1. Về mặt khổ nạn:
    - Nạn lửa, chỉ về tánh "thấy biết", vì tánh thấy biết trái ý hay sinh nóng nảy như tánh lửa. Cho nên về lửa có: Lửa tức giận, lửa dâm dục, lửa bất mãn, bất bình; lửa hận não nung đốt tâm can.
    Do đó: Vào lửa không bị lửa thiêu, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm (Phản Văn Văn Tự Tánh) thì sẽ không còn sân hận giận thù nữa mà đạt giải thoát ví như bị lửa đốt không bị cháy.
    - Nạn nước, chỉ về tánh "nghe biết", vì nếu nghe tiếng đàn ca
    Du dương, nghe giọng nói ỏn ẻn dễ bị đam mê cuốn trôi, nhận chìm trong luyến ái nhục dục, dần dần đi đến khổ đau; tánh luyến ái nặng nề này được ám chỉ như một hình thức cuốn trôi nhận chìm của tánh nước.
    Do đó: Chìm dưới nước, được vào chỗ cạn, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ không còn bị tham ái dục hành hạ lôi cuốn nhận chìm vào khổ đau nữa mà được thoát khỏi, ví như bị nước cuốn trôi nhận chìm được thoát vào chỗ cạn vậy.
    - Quỷ la sát, ám chỉ những kẻ độc hại, hung bạo, tàn ác giết người.
    Do đó: Đi thuyền tìm châu báu trong biển lớn bị lạc vào nước quỷ La Sát sẽ thoát được nạn quỷ ấy, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm sẽ không còn tánh độc hại hung bạo tàn ác giết người nữa, mà được giải thoát; được giải thoát rồi sẽ độ cho các bạn đồng hành cùng giải thoát, ví như gặp Qủy La sát sẽ thoát được qủy hại.
    - Dao gậy, ví như sức tác hại của sáu căn tiếp xúc dính mắc vướng viú đối với sáu trần, sinh ra sự đau khổ như bị cắt, bị đánh.
    Do đó: Sắp bị dao gậy chém đánh, thì dao gậy kia bị gẫy từng khúc, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm thì khi sáu căn tiếp xúc sáu trần sẽ không còn bị dính mắc đưa đến buồn phiền đau khổ như bị cắt bị đánh nữa mà được an nhiên tự tại, chẳng khác nào bị dao chém gậy đánh thì dao gậy đều bị gẫy vậy.
    - Ma quỷ, chỉ sự cám dỗ của tham, sân, si, mạn, nghi, giải đãi, thùy miên, phóng dật, hôn trầm.... sẽ làm cho không còn phân biệt được đâu là thiện đâu là ác rồi tạo ra biết bao khổ đau cho kẻ khác và cho mình.
    Do đó: Khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ không còn bị cám dỗ của tham sân si, mạn nghi, giãi đãi, thùy miên, phóng dật, hôn trầm v.v… nữa và như vậy sẽ không còn vô minh tức được giải thoát, chẳng khác nào khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại.
    - Gông cùm xiềng xích, biểu trưng sự ràng buộc mê mờ tối tăm vì những thứ như được mất, đúng sai, vinh nhục, vui buồn làm con người mất tự do tự tại, kìm sức phát triển về thể xác lẫn tinh thần.
    Do đó: Bị xiềng xích gông cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm, dù người có tội hay không sẽ hết bị si mê u tối ràng buộc mà được sáng suốt tự tại, cũng như bị xiềng xích gông cùm đều bị đứt rã.
    - Giặc cướp, ám chỉ những hành động sai quấy tội lỗi như trộm cướp, tà dâm, nói dối nói châm chọc, nói thêu dệt, nói ác. Do đó, mất sạch công đức lành ví như bị giặc cướp hết sạch của cải tài sản.
    Do đó: Gặp đường hiểm nạn giặc cướp, được thoát khỏi và không bị sợ hãi, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ không còn hành động sai quấy gây tội lỗi phải bị tù tội, mà hành động chính đáng gây công đức lành, cũng như gặp giặc cướp được thoát khỏi.
    Đức Phật nói: Này Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ, nghĩa là: chúng sinh hãy suy nghĩ sâu xa về Pháp Môn tu Phản Văn Văn Tự Tánh của Quan Thế Âm, và phải một lòng không quên tu.

    2. Về mặt an vui:
    - Thất bảo là vàng bạc, lưu ly v.v... biểu trưng thất thánh tài: tín, giới, văn, tàm, quý, niệm, định, xả.
    - Của báu, biểu trưng tất cả công đức lành.
    - Con trai, biểu trưng trí tuệ và giác ngộ, do đó muốn cầu con trai liền sinh con trai phúc đức trí tuệ, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quan Thế Âm sẽ đạt được trí tuệ giải thoát.
    - Con gái, biểu trưng phước đức và giải thoát, do đó muốn cầu con gái liền sinh con gái có tướng xinh đẹp, nghĩa là nếu tu Pháp Môn Quán Thế Âm sẽ đạt được công đức giải thoát.
    Ngoài ra, tất cả những từ mang tính cách "lành mạnh" và "an vui" trong phẩm kinh nầy, phải được hiểu là: Phước đức, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến thuộc loại "tâm sở thiện".
    Tất cả những danh từ có tính cách tác hại, gây đau khổ, mất mát ở phẩm Phổ Môn đều phải được hiểu: Là những tác động tâm lý thuộc loại "tâm sở bất thiện", không được hiểu đó là sự kiện "cụ thể" ở ngoại cảnh trước mắt, hiểu sai thì nó trở thành chuyện mê tín hoang đường.
    Tóm lại, "tâm sở thiện hay bất thiện" cũng được hiểu đó là cách nói về biểu trưng, vì lẽ Quán Thế Âm là pháp tu để "Nhập Phật tri kiến" chớ không phải là một thần thánh để nguyện cầu. Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong 28 phẩm kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đưa vào đây một Bồ tát chuyên làm công tác xã hội tầm thường như thế, thì quả là phỉ báng Thế Tôn lắm vậy.
    Xét sự phân tích Kinh Pháp Hoa qua Phẩm Phổ Môn như vậy thì người cho rằng: “Pháp Hoa Tông là pháp môn phi đạo đức, ngồi không mà muốn làm giàu, làm ác mà muốn trốn tránh tội lỗi, biến ông Thầy thành một vị Bà La Môn chuyên tế lễ, cúng bái, cầu khẩn van xin v.v... Biến Ðạo Phật thành thần giáo, biến tín đồ mất sức tự chủ, luôn luôn sống trong tha lực, tựa nương vào thần quyền; do thế mới sản xuất ra Quán Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.” là người đã đọc Kinh Pháp Hoa với tư tưởng của một người không dùng quán pháp để xét xem ý nghĩa lời Kinh muốn nói gì, nên đã có sự hiểu lầm vô cùng tai hại đưa đến việc phỉ báng. Nếu là người Phật tử tại gia lầm lẫn có thể không đáng trách, nhưng với một vị Tu Sĩ tu hành học hỏi nghiên cứu Phật pháp trong nhiều năm mà hiểu lầm Phật pháp thì thử hỏi Đức Phật có chấp nhận được không?
    Nhân tiện đây cũng xin thưa với qúy Phật tử: Đức Phật giảng dạy có lần có lượt từ dễ đến khó, ban đầu Ngài giảng dạy về Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo, về Mười hai Nhân Duyên, v.v…, rồi dần dần mãi về sau Ngài mới giảng đến các điều khó. Các Kinh như Viên Giác, Lăng Nghiêm, Duy Ma Cật, Kim Cang Bát Nhã, Pháp Hoa v.v… đều thuộc loại Kinh cao siêu khó hiểu. Nếu người đọc đã thấu hiểu các Kinh dễ rồi nghĩa là đã có căn bản giáo pháp rồi thì khi đọc các Kinh khó, chúng ta phải dùng Kinh dễ làm căn bản cho các Kinh khó mới đúng ý Phật, mà các Kinh dễ hiểu chẳng có Kinh nào nói đến sự cầu nguyện để được giác ngộ cả.
    Tuy nhiên nhiều người đọc Kinh căn bản thì hiểu, nhưng khi đọc Kinh khó lại không hiểu hay hiểu sai ý Phật. Khi hiểu sai sẽ đưa đến tai hại vô cùng như trường hợp “Hiện tượng Thích Thông Lạc”. Chắc là việc này đã xảy ra nhiều rồi, chỉ là các người ấy không phát biểu viết hay nói ra mà thôi. Hiện nay một số các Chùa có tổ chức Đạo Tràng tụng Kinh Pháp Hoa, không biết rằng có phải là tụng Kinh Pháp Hoa là để hiểu nghĩa Kinh để thực hành hay chỉ là hiểu lời Kinh để cầu được phúc đức theo nghĩa đen của Kinh? Thật là tai họa khi tụng Kinh để hiểu lời Kinh theo nghĩa đen để cầu phước, vì đây chính là phỉ báng Phật vậy.
    Một vấn đề khác cũng cần nêu ra, đó là một số các Chùa tụng kinh đã dùng sách chữ Hán Việt, vì hầu hết các Phật tử không học chữ Hán nên khi đọc đều như vịt nghe sấm chẳng hiểu gì cả. Mục đích của tụng kinh là để hiểu lời kinh để rồi sẽ hành theo, chứ không phải tụng kinh cho Phật nghe. Thật là tai họa do một số Chùa đã làm mà không biết, cứ an nhiên làm, tụng nhanh như gió cuốn mưa tuôn, nghe thì hay lắm, mà Phật tử tại gia tụng không hiểu chỉ tụng như con vẹt, chứ không dám hé răng phàn nàn gì về điều này cả.
    Trường hợp thường xảy ra nhiều nhất là Kinh A Di Đà và Bát Nhã Tâm Kinh, một số Chùa tụng trong các buổi Cầu Siêu, lễ Vu Lan v.v… bằng chữ Hán Việt, mặc dầu ngày nay đã được rất nhiều người dịch ra chữ Việt rồi nhưng vẫn còn tình trạng tụng bằng tiếng Hán Việt. Có người nói: tụng không hiểu để dễ đi vào nhất tâm, đây là ngụy biện, vì nếu đọc không hiểu người đọc sẽ miệng đọc còn ý thì nghĩ chuyện khác, chứ nhất tâm cái gì? Thời Phật tại thế, mỗi ngày Đức Phật giảng, các đệ tử phải đọc tụng nhiều lần để hiểu nghĩa lời Ngài dạy rồi thực hành; mong rằng các vị Viện Chủ Chùa và mọi người chúng ta cùng để ý, xin ngàn lần bái tạ, đừng để tình trạng Phật tử đọc Kinh mà không hiểu này xảy ra nữa, như thế mới là tôn trọng Phật.

    4). HT TTL: Thiền Tông là pháp môn ngã chấp, lý luận có logic, dễ lừa đảo giới trí thức, biến Phật Giáo vô ngã thành Phật Giáo hữu ngã trừu tượng, mơ hồ, biến thiền sư thành giảng sư, luận sư, v.v... Sau buổi họp đó các Thầy trong Ban Tri Sự Tỉnh Hội báo cáo về Giáo Hội Trung Ương và Thầy tôi tức là Hòa Thượng Thanh Từ. Tôi biết rất rõ điều đó, nhưng tôi không ngại, là vì tôi xác định: Những gì tôi nói là sự thật, vì sự thật thì còn để mọi người suy ngẫm, chứ sự thật mà dối gạt được ai sao? ... [ĐVXP-Tập 7]

    4). Phản biện: Nói rằng Thiền Tông là Pháp Môn ngã chấp thì không đúng, vì tất cả các Pháp Môn tu của Bắc truyền đều phải hành vô ngã trong khi tu, nếu sáu căn dinh mắc sáu trần, nếu còn tham sân mạn nghi v.v… là người tu còn dính mắc vào cái Ta, tức là chấp Sắc thân là thật có, chấp Thọ Tưởng Hành Thức là thật Ta thì sẽ bị cái Ta cái của Ta ngăn cản lôi kéo vào muôn mối, không thể nào đạt qủa giải thoát được; chỉ khi tu hành tới vô ngã mới giải thoát được, đã vô ngã rồi thì làm gì có hữu ngã trừu tượng nữa, nên nói rằng Thiền Tông chấp Ngã là không hiểu Thiền Tông vậy.
    Ngay cả những người tu Tịnh Độ niệm Phật A Di Đà nếu còn nhớ con nhớ cháu, nhớ gia tài của cải, nhớ cõi Ta Bà sung sướng, v.v… thì dù có niệm Phật như dông tố, như vẹt kêu suốt ngày cũng chẳng thể được về Tây phương Cực Lạc. Huống chi là có người còn nghĩ đến danh lợi cho người đúc tượng mình cho nó oai ta đây là nhất; những người như vậy là còn chấp cái ngã, Phật bảo là người kiêu mạn làm trò hề.
    Thiền Tông được truyền từ Phật Thích-Ca Mâu-Ni (623 -543 trước Dương lịch) cho Sơ Tổ Đại Ca-Diếp, và truyền đến Tổ thứ hai mươi tám là ngài Bồ-Đề Đạt-Ma; sau Bồ-Đề Đạt-Ma qua Trung-Hoa làm Sơ Tổ của Thiền-Tông Trung-Quốc và truyền tới Lục Tổ Huệ-Năng tức là Tổ thứ ba mươi ba.
    Ở nơi hội Linh-Sơn, đức Phật đưa lên cành hoa (Niêm Hoa Thị Chúng), lúc ấy tất cả đại-chúng đều ngơ ngác (không hiểu), chỉ có Tôn-giả Đại Ca-Diếp mỉm cười (Niêm Hoa Vi Tiếu). Thấy vậy, đức Phật nói: “Ta có Chính-pháp Nhãn-tạng, Niết-bàn Diệu-tâm, Thật-tướng Vô-tướng, Pháp-môn vi-diệu, chẳng lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, nay phú chúc cho Ma-Ha Ca-Diếp”. Từ đó pháp thiền trực tiếp của Thiền-Tông căn cứ theo việc này.
    Phương pháp trực tiếp này, đức Phật đã dùng qua nhiều lần, như một lần, đức Phật đem hạt châu-ngọc Ma-Ni ra hỏi Ngũ Phương Thiên-Vương rằng: “Hạt châu-ngọc này màu gì?” Khi ấy Ngũ Phương Thiên-Vương tùy vị trí khác biệt và sự thấy của mình đều trả lời màu sắc khác nhau; Đức Phật giấu hạt châu-ngọc rồi đưa tay không ra hỏi: “Hạt châu-ngọc này màu gì?” Các Thiên-Vương nói: “Trong tay đức Thế-Tôn chẳng có hạt châu-ngọc thì đâu có màu gì!” Đức Phật nói: “Các ông sao qúa mê muội điên đảo, Ta đem hạt châu-ngọc thế gian cho xem thì nói có màu xanh, tím, vàng, đỏ, trắng; Ta thị hiện hạt châu-ngọc chân thật thì chẳng biết gì cả!”; khi ấy Ngũ Phương Thiên-Vương đều tự ngộ đạo.
    Nếu Ngài Ca Diếp còn ngã chấp thì chẳng thể đốn ngộ khi Đức Phật chỉ đưa cành hoa lên liền ngộ, Ngũ phương Thiên Vương nếu còn chấp ngã cũng không thể ngộ được. Cái ngộ đạo của Thiền Tông rất là đặc biệt như vậy, do đó chúng ta là người chưa ngộ đạo không sao hiểu nổi đâu. Tu theo Thiền Tông khi có kết qủa thì biến Thiền Sư thành luận Sư, Giảng Sư, thành Tổ Sư là lẽ đương nhiên như chúng ta đã thấy những vị Thiền Sư sau khi đốn ngộ rồi thì thông đạt nên nói năng đều đúng pháp chứ không còn mù mờ như những phàm phu chúng ta nữa.
    Để thêm ý về Thiền Tông, chúng ta trích dẫn một đoạn trong bài “Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” của Hòa Thượng Thích Thanh Từ giảng như sau:
    “Như tôi đã nói khi tất cả các niệm diệt hết là chứng diệt tận định, nếu trong tâm an định rồi, hành giả nhìn thấy sự vật bên ngoài có dấy niệm không? Không dấy, bên trong lặng thì đối với cảnh bên ngoài cũng lặng, trong lặng ngoài lặng, lúc này còn cái gì (?); chỉ một cái trong lặng, tôi thường nói như quí vị ngồi năm ba phút không một ý nghĩ nào dấy lên, lúc đó có biết không? Biết rõ ràng, tiếng chim kêu mình nghe, bóng người đi mình thấy; thấy biết rành rẽ cái nào ra cái ấy, biết mà không dấy động, lặng yên hằng tri giác, cái biết đó không động cũng không có tướng nên nó không sinh diệt.
    Nhưng chúng ta có bệnh vừa thấy thì phân biệt tốt xấu, vừa nghe thì phân biệt hay dở, rồi quên cái thấy nghe ban đầu của mình; nắm bắt theo sắc tướng âm thanh bên ngoài thành ra điên đảo, hiện giờ ai không có cái biết hiện tiền ấy? Thấy tức là biết, biết tức là tâm; như vậy khi ở trong lặng được vọng tưởng rồi, bên ngoài đối duyên xúc cảnh, sáu căn không bị dính kẹt với sáu trần, lúc đó ta là Phật hiện tiền chớ còn gì nữa (!); nhưng nói thế thiên hạ không chịu đâu, phải có hào quang, có hoa sen hiện ở trên trời, trên mây mới được.
    Cái biết rõ ràng nơi mắt, đó là cái thật của mình mà chúng ta coi thường, không chịu nhận. Nhìn cây tùng nói nó dáng con gì, vật gì thì thích lắm, chớ nói cây tùng là cây tùng thì không chịu; Phật nói chúng sanh điên đảo là vì vậy, không bao giờ chấp nhận sự thật, không bao giờ chấp nhận sự hiện hữu của mình và muôn vật đúng ở vị trí của mỗi thứ.
    Trong hội Linh Sơn, đức Phật đưa cành hoa lên là muốn chỉ cái Ngài đã ấp ủ từ trước tới bấy giờ, đó chính là tâm hiện tiền chân thật đầy đủ nơi mỗi người, là tánh thấy tánh nghe hằng tri hằng giác. Mọi người đều có tánh thấy, tánh nghe, tánh biết mà không chịu nhận, cứ chạy theo những thứ giả tạm bên ngoài. Phật muốn chỉ thẳng nhưng không làm sao chỉ được, buộc lòng phải nói quanh co đủ thứ phương tiện; Ngài chờ cho nhân duyên chín mùi rồi mới chỉ thẳng bằng cách đưa cành hoa lên. Ở đây đức Phật cốt làm cho hội chúng nhận ra tánh thấy hằng hữu nơi mình, nhưng tất cả đều ngẩn ngơ chứng tỏ không biết gì; tới ngài Ca Diếp nhìn thấy liền cười vì Ngài nhận biết chỗ Phật muốn chỉ, đó là Ngài đã ngộ nên được đức Thế Tôn ấn chứng.
    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy Phật đã cố gắng chỉ cái chân thật cho mình, chớ không muốn che giấu làm gì; nhưng vì ta không lãnh hội thôi, cứ theo kinh mà hiểu, kẹt trong văn tự chữ nghĩa nên không thấy được cái sâu kín bên trong. Sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, tôn giả A-nan hỏi ngài Ca Diếp:
    - Thưa sư huynh, đức Thế Tôn truyền y kim lăng cho sư huynh, ngoài ra còn có truyền cái gì khác không?
    Ngài Ca Diếp kêu:
    - A-nan.
    Ngài A-nan ứng thinh:
    - Dạ.
    Ngài Ca Diếp bảo:
    - Cây phướn trước chùa ngã.
    Nhưng thật ra lúc ấy cây phướn có ngã đâu, như vậy mới biết rằng trọng tâm là vừa kêu liền ứng thinh dạ, đó là tánh nghe hằng hữu; cái biết từ lỗ tai không có suy nghĩ, nghe kêu thì lên tiếng, chứng tỏ cái biết ấy luôn sẵn nơi ta; đó là ngài Ca Diếp đã trả lời cái đức Phật truyền cho mình rồi, ngay đó ngài A-nan liền nhận được.
    Người xưa có cố tình giấu giếm mình gì đâu, chỉ vì không nói được; bởi vì nói ra là trật rồi, chỉ còn thuật “gọi” thôi; khi ngài ca Diếp kêu, A-nan ứng thinh “dạ”, cả hai bên đều không khởi suy nghĩ mà nghe biết rõ ràng, hiện tiền nơi sáu căn của chúng ta; đó là điều cốt tủy đức Phật đã để lại và Chư Tổ tiếp nối truyền trao cho đến ngày nay.
    Chúng ta thấy từ Phật tới Tổ Ca Diếp chỉ truyền một thứ, không có khác; nếu khác chăng thì ở mắt hoặc tai thôi, chớ không có hai pháp. Các Ngài cố chỉ cái biết thật của mình, còn cái biết hơn thua phải quấy là cái biết của thế gian không thật, biết qua bóng dáng vô thường; cái biết thật là biết trực tiếp không qua hình ảnh ngôn ngữ nào hết, đó là chỗ thiết yếu Chư Phật Tổ đã truyền lại cho chúng ta.
    Thế thì chỉ “cái đó” gần hay xa, có quyền bí gì đâu, các Ngài chỉ ra một cái thực tế sẵn nơi mình mà chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nên không ai dám nhận “cái đó” của mình hết; đó là giai đoạn đầu từ Phật tới Tổ, qua giai đoạn kế là các Tổ sau này truyền thừa cho nhau; đi quanh co đến đâu rồi cũng trở về chỗ đó.
    Tổ thứ ba là Tổ Tăng Xán, Ngài có làm bài “Tín tâm minh”, mở đầu thế này:

    Đại đạo vô nan,
    Duy hiềm giản trạch

    Bao nhiêu đó thôi đã nói hết rồi. Chữ Đạo ở đây là lấy từ của bên Lão giáo, Lão giáo nói đạo là chỗ không còn ngôn thuyết, không còn nói năng, là chân lý tuyệt đối; như vậy chân lý cuối cùng chúng ta gọi là đại đạo, Đại đạo không khó, mà khó là tại giản trạch, phân biệt. Cứ nghe gọi trực tiếp trả lời, đưa cái gì lên trực tiếp thấy, đó là đại đạo; còn bước qua cái suy nghĩ thứ hai thì mất đại đạo, bởi vậy có người hỏi ngài Triệu Châu: “Thế nào là đại đạo? Ngài trả lời: “Đại đạo là con đường cái”. Đại đạo ở ngay trước mắt không chịu hỏi, tức nhiên phải chỉ đường cái ngoài kia; người sau cứ như vậy mà mò nên mò không ra.
    Đến ngài Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp: “Bình thường tâm thị đạo”, tức tâm bình thường là đạo; Tâm bình thường là sao? Chúng ta có tâm bình thường không (?), có mà không biết giữ nên thành không; vậy tâm bình thường là tâm gì? Là tâm không nghĩ thiện không nghĩ ác, không nghĩ phải không nghĩ quấy…, tất cả cái nghĩ hai bên đều không có; thế thì hiện giờ chúng ta có tâm đó không? Ai cũng thừa nhận có mà không sống được với nó vì bỏ quên lâu quá, bây giờ không nhận ra nữa; bởi vậy, tôi nói: chúng ta là những kẻ rất phủ phàng, rất tệ bạc; phũ phàng ai? Phũ phàng mình, cứ xách gói đi đầu này học đạo, đi đầu kia học đạo, cầu khẩn lạy lục muốn u đầu sứt trán mà tìm vẫn không ra; khi nghe chỗ nào linh thiêng liền chạy đến, rốt cuộc cái sẵn có bên mình lại quên, không phũ phàng là gì?
    Chúng ta thường gọi những người điên là bất bình thường, bây giờ tâm mình đang bình thường, tự nhiên khởi nghĩ lăng xăng là bất bình thường, như vậy mình có điên không? Bởi vậy Phật nói chúng sanh điên đảo, rõ ràng đang sống bình thường bỗng dấy niệm chạy tứ tung, rồi kềm đè; khổ chưa? Chúng ta tu mà không chịu sống với tâm bình thường nên trở thành điên đảo, nhưng nếu có ai nói ta điên thì bực tức lộn ngược lên; thế là điên lại càng điên hơn vậy.
    Tâm bình thường là tâm không nghĩ phải quấy, hơn thua, tốt xấu…, thấy biết, nghe biết, đói biết, no biết mà không nghĩ suy gì hết, đó là tâm bình thường. Cả ngày đi đứng nằm ngồi, sống như mọi người mà tâm không dấy động nên các Thiền sư thường dùng từ như ngây như ngô, không lanh lẹ như người thế gian; còn chúng ta lanh lẹ quá, vừa động tới liền nghĩ đông, nghĩ tây. Nói một hiểu hai ba, thành ra phiền não điên cả đầu, nhiều người ôm đầu nói tôi khó ngủ quá, nghĩ tứ tung hết làm sao ngủ được.
    Mã Tổ ngày xưa khi thấy một vị tăng thường ngồi thiền ở hành lang, Ngài tới nắm lỗ tai thổi phù không cho ngồi. Ai không hiểu cứ nghĩ ông già chơi kỳ cục! Bởi chính Mã Tổ lúc đầu ngồi thiền tinh tấn lắm, sau này ngài Hoài Nhượng tới thử mới biết Mã Tổ chưa thông, vì kẹt trong cái ngồi. Đến khi đắc pháp nơi Tổ Hoài Nhượng rồi, hễ thấy ai ngồi thiền, Ngài liền tới thổi, tại sao? Bởi nếu chấp cho ngồi là thiền, đó là giết thiền; phải biết đi đứng nằm ngồi đều là thiền, chớ không phải chỉ có ngồi mới thiền.
    Chúng ta đi đứng nằm ngồi trong bốn oai nghi đừng có tâm lăng xăng, sống với tâm bình thường thì không ngồi thiền, ngồi nhổ cỏ chơi cũng vẫn thiền như thường; song nếu chưa sống với tâm bình thường thì phải ngồi thiền. Tổ sư muốn chỉ cho chúng ta thấy Thiền là vô tâm trong tất cả chỗ, tất cả thời; vô tâm là không có tâm chạy theo, nhưng vẫn có tâm bình thường. Không nghĩ suy phân biệt mà vẫn thấy biết rõ ràng gọi là vô tâm, nên nói nếu được tất cả chỗ vô tâm thì tất cả chỗ là đạo. Chúng ta đi đứng nằm ngồi có khi chạy lên cõi trời, có khi chui xuống địa ngục, có khi làm thánh hiền, có khi làm tướng cướp đủ thứ hết; vì vậy mà trôi lăn trong lục đạo mãi.
    Chúng ta sống được với tâm bình thường, dù không cầu giải thoát tự nhiên cũng giải thoát, bởi ta đâu có tạo nghiệp; quí vị thử một ngày sống tâm bình thường xem có tạo nghiệp gì không? Giả sử ta lỡ dẫm chết con kiến cũng không bị định nghiệp, bởi vì nghiệp do ý niệm xấu dấy lên, rồi miệng nói thân làm; nếu thân làm mà tâm không dấy thì không thành định nghiệp”.
    Xem lời giảng của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, chúng ta đều thấy rõ một lối tu của Phật Giáo Thiền Tông, chứng tỏ rằng không có chỗ nào lời nào chấp Ngã hoặc biến Phật Giáo vô ngã thành Phật Giáo hữu ngã trừu tượng cả
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  2. #2

    Smile PHẢN BIỆN (03),

    *IV). HT. TTL: Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”, cái ý muốn của mình là gì? Là Bản Ngã Ác Pháp, Bản Ngã Ác Pháp không ly thì làm sao có Niết Bàn? Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn, chứ không phải Vô Ngã là Niết Bàn, vì vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá. [trang 41 TCB1] Ðạo Phật chủ trương: lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình không làm khổ mình khổ người, từ chỗ này chúng ta suy ra để thấy Ðạo Phật không mâu thuẩn, vì Ðạo Phật "Vô ngã ác pháp chứ không phải vô ngã thiện pháp". Nếu chúng ta tu hành vô ngã cả thiện pháp và lẫn ác pháp thì hóa ra chúng ta là cây, là đá; cây đá là một loại vô tri vô giác, đó là cái vô ngã của Ðại Thừa, Ðạo Phật không có vô ngã như kiểu đó. (ĐVXP-Tập 8)
    IV). Phản biện: Căn bản của Đạo Phật là làm lành tránh làm ác, lấy thiện diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình, không làm khổ mình khổ người; đó cũng là tôn chỉ của Phật Giáo Bắc truyền chứ chẳng phải riêng của Nguyên Thủy Nam truyền. Chúng ta lần lượt bàn đến các vấn đề này:
    1). Nói rằng: “Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn” là không chính xác, chúng ta có thể lược trích dẫn Tứ Thiền trong Kinh Sa Môn Qủa của Kinh Trường Bộ thuộc Nam truyền do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch như sau:
    Khi Vua A Xà Thế lần đầu tiên tới yết kiến và quy y Đức Phật, được Ngài giảng về qủa thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn như sau:
    “Tỳ-kheo tự mình quán năm triền cái (tham ái, sân hận, hôn trầm, trạo hối, nghi) chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường sa mạc; này Đại vương, cũng như không mắc nợ, như không bệnh tật, như được khỏi tù tội, như được tự do, như đất lành yên ổn, này Đại vương, Tỳ-kheo quán năm triền cái khi diệt trừ chúng.
    Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái, hân hoan sinh, do hân hoan nên hỷ sinh; do tâm hoan hỷ thân được khinh an; do thân khinh an lạc thọ sinh; do lạc thọ tâm được định tĩnh. Tỳ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm (nghĩ ngợi), với tứ (ý tứ); Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sinh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sinh ấy thấm nhuần”.
    Đây là hành giả đạt qủa Thiền thứ nhất gọi là Tu Đà Hoàn; hành giả đạt qủa Tu Đà Hoàn là bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn ở bước khởi đầu, chứ chưa phải là A La Hán nên chưa tới Niết Bàn được, nên nói “Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn” là thiếu sót.
    2). Nói rằng: “Không phải vô ngã là Niết Bàn” là không đúng lý, vì trong Tứ thiền, sau khi đạt qủa vị thứ Nhất, hành giả tiếp tục hành thiền để đạt qủa vị Thứ Hai như sau:
    “Lại nữa, này Đại vương, Tỳ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sinh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sinh ấy thấm nhuần.
    Lại nữa, này Đại vương, Tỳ-kheo ly hỷ trú xả, chính niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú thiền thứ ba. Tỳ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần.
    Lại nữa, này Đại vương, Tỳ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỳ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần”.
    Hành giả lià khổ dứt vui, vui buồn đều dứt, không buồn không vui, ly xả tất cả những gì còn sót lại, vị ấy an trụ Thiền thứ tư. Đạt được thiền này rồi, vị ấy còn phải tiến lên không còn không thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng rỗng không, rồi cái tưởng rỗng không đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định; Diệt tận định còn gọi là Diệt thọ tưởng định. Thọ tức là cảm giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm; trong nội tâm thì lặng, ngoài đối với sáu trần không dính, như vậy vị ấy đạt vô ngã hoàn toàn, tới đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sinh tức quả A-la-hán. Hoặc vị ấy sau khi an trụ Thiền thứ tư rồi tiếp tục tu Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo để chứng Vô sinh qủa A La Hán., bấy giờ vị ấy chứng nghiệm hạnh phúc tối thượng; đây là Niết Bàn của vị A La Hán, tại sao nói Vô ngã không đạt Niết Bàn?
    Đối với Thiền Tông, theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ trong bài: “Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” thì Thiền Tông đi thẳng vào xả niệm thanh tịnh, xả niệm thanh tịnh rồi lại tiếp tục tiến thẳng lên Diệt thọ tưởng định, chứ không qua Tứ thiền, không qua Tứ không; như vậy chỉ một bước buông niệm là thẳng tới Diệt thọ tưởng định chứng Vô sinh; đó là đối chiếu giữa Thiền tông với thiền Nguyên thủy.
    3). Nói rằng: “vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá” là không đúng sự thực, đây là lời của người không hiểu Thiền Tông khi đọc Pháp Bảo Đàn Kinh. Câu chuyện như sau: Lục Tổ Huệ Năng sau khi nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đọc Kinh Kim Cang cho nghe đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (không đặt để cái tâm vào bất cứ cái gì thường hay sinh ra tâm tính rất kỳ đặc) thì đại ngộ, Ngài biết cả thẩy các Pháp đều chẳng lià tánh mình, nên Ngài buột miệng thốt ra năm câu kệ:
    Nào dè tánh mình vốn không sanh diệt,
    Nào dè tánh mình vốn thanh tịnh trong sạch,
    Nào dè tánh mình vốn chứa đầy đủ muôn Pháp,
    Nào dè tánh mình vốn không dao động,
    Nào dè tánh mình vốn sinh ra muôn Pháp.
    Do đó Ngũ Tổ ấn chứng và truyên y bát cho Ngài Huệ Năng làm Lục Tổ Thiền Tông, rồi Ngũ Tổ bảo Lục Tổ nên đi về phương Nam vì có những kẻ phàm phu tranh giành áo bát. Bởi vậy Lục Tổ ra đi, nhưng sau ba ngày tứ chúng biết được việc Lục Tổ đã lãnh áo bát và rời khỏi, nên một số đã đuổi theo mong giành áo bát. Khi Thượng Tọa Huệ Minh theo kịp thoáng thấy phiá trước, lúc ấy Lục Tổ nói: “Áo bát là vật làm tin, há dùng sức mà tranh giành được sao?”, rồi Ngài để áo bát trên tảng đá và đi ra núp dưới cỏ tranh. Khi Huệ Minh đi tới thấy áo bát mà không thấy người thì mừng thầm sẽ giành được, nhưng khi cầm nhấc áo bát lên không được thì hoảng kinh bèn nói:
    - Hành-giả, Hành-giả, tôi vì Pháp mà đến đây, chứ chẳng phải vì tranh Áo-Bát đâu, xin Hành-giả từ-bi thương xót.
    Nghe vậy, ngài Huệ-Năng bước ra khỏi đám cỏ tranh, rồi ngồi trên tảng đá; thầy Huệ-Minh liền làm lễ rồi nói:
    - Mong ơn Hành-giả nói Pháp cho tôi nghe.
    Ngài Huệ-Năng nói:
    - Ông vì Pháp mà đến đây thì phải dứt hết duyên trần, chớ sinh một niệm tưởng, tôi sẽ nói rõ Phật-Pháp cho ông nghe.
    Lẳng lặng một lúc, đợi cho thầy Huệ-Minh thi hành điều vừa nói, ngài Huệ-Năng mới bảo:
    - Ông chẳng nghĩ việc lành, không nghĩ điều ác, chính trong thời gian đó, cái ấy, tức là tỏ thấy cái Bản-lai Diện-mục của Thượng-Tọa Minh vậy.
    Thầy Huệ-Minh vừa nghe xong liền rất tỏ sáng, lại hỏi: …
    Có lẽ tác giả Thông Lạc căn cứ vào câu “chẳng nghĩ việc lành không nghĩ điều ác” của Lục Tổ này mà kết luận là gỗ đá chăng? Nếu hiểu như thế thì cách xa Thiền Tông như trời với đất! Tâm không suy nghĩ tưởng nhớ nhưng tỉnh thức trong sáng như không quấy nước gây thành sóng, nếu mặt nước yên tĩnh không gợn sóng sẽ thấy hình bóng rõ ràng; cũng như nước không đục lặng trong sẽ thấy vật dưới đáy vậy, chứ chẳng phải không nghĩ thiện không nghĩ ác như người ngủ mê, người chết giấc chẳng biết gì. Trường hợp Thượng Tọa Huệ Minh trong lúc không có một niệm tưởng nào với tâm tỉnh thức nên khi nghe Lục Tổ nói liền tỏ sáng nghĩa là nhận ra bản thể của mình tức là ngộ. Như vậy thì làm sao nói: “vô ngã cả ác lẫn thiện là cây đá”?
    4). Nói rằng: Ðạo Phật "Vô ngã ác pháp chứ không phải vô ngã thiện pháp".
    Đối với Thiền Tông không chấp, nghĩa là không dính mắc, vẫn biết rằng việc thiện là điều tốt phải làm, việc ác là điều xấu phải tránh, nhưng nếu cứ dính mắc vào việc thiện thì tu hành chẳng thể mang lại kết qủa mà chỉ được phúc thôi. Nếu còn dính mắc vào việc làm thiện thì tâm sẽ vướng víu vào việc làm thiện, ví như có ta bố thí, có người nhận, như vậy không thể nói là vô ngã được; dù có làm thiện phải coi như không làm không nhớ, không thấy việc làm ấy là quan trọng, do đó sẽ không vướng víu vào việc làm thiện nên tâm được an ổn và mới đạt được vô ngã đích thực và và sẽ dẫn tới đạt qủa Niết Bàn. Người đạt vô ngã ác pháp như ở trên đã nói chỉ đạt sơ qủa mà thôi, khi nào vô ngã cả thiện lẫn ác mới đạt được qủa vị Tứ Thiền, do đó điều nhận xét của tác giả Thông Lạc là lầm lẫn vậy.
    V). HT.TTL: Một người toạ thiền thân không động, miệng không nói và ý không tư duy thì giống như cây đá, đó là thiền của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, ngược lại thiền định của Đạo Phật thân không hành ác, nhưng thân hành thiện, miệng không nói lời ác, nhưng miệng nói lời thiện, ý không suy nghĩ điều ác, nhưng ý suy nghĩ điều thiện; cho nên Đạo Phật không chấp nhận hành không, không chấp nhận hành ác, chỉ chấp nhận hành thiện. Vì vậy tu theo đạo Phật không trở thành cây đá, mà trở thành một con người hữu ích cho mình cho người, có nghĩa là không làm khổ mình khổ người, tạo cảnh sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.....[trang 170 TCB 1]
    V). Phản biện:
    Nói rằng: “Một người tọa thiền thân không động, miệng không nói và ý không tư duy thì giống như cây đá, đó là thiền của Đại Thừa và Thiền Đông Độ”. Để giải thích, chúng ta tạm lấy 2 trường hợp tu khác nhau tiêu biểu trong nhiều lối tu của Thiền Tông hiện nay như dưới đây:
    1). Xả niệm thanh tịnh địa: Niệm dấy lên liền buông bỏ, chúng ta có thể trích một đoạn trong bài “Phật Giáo Thiền Tông Thực Tế Đến Không Ngờ” của Hòa Thượng Thích Thanh Từ như sau:
    “… Nói theo thứ bậc Tứ thiền, Sơ thiền gọi là Ly sanh hỷ lạc. Ly là lìa ngũ dục mà được vui. Nhị thiền gọi là Định sanh hỷ lạc, do tâm được an định, tự nhiên thấy vui; tâm yên thấy vui đó là định sanh hỷ lạc. Tiến lên tới Tam thiền gọi là Ly hỷ diệu lạc, nghĩa là ta bỏ cái vui của Ly sanh được cái vui của Định sanh; bây giờ cái vui của định cũng bỏ luôn, chỉ còn niềm vui nhè nhẹ thầm thầm bên trong gọi là Ly hỷ diệu lạc, vì vui thô mất đi chỉ còn vui tế nên gọi là diệu lạc. Tiến lên Tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh địa, tức buông niệm; niệm dấy lên liền buông, do buông niệm được yên nên gọi là Xả niệm thanh tịnh. Tu theo thứ tự từng bậc thì như vậy. Cho nên người tu theo Thiền tông không nói cấp bậc gì cả, mà nhảy thẳng vào chỗ vô niệm, nghĩa là đi tắt ngang Xả niệm thanh tịnh. Như thế ngầm hiểu họ cũng trải qua các thứ lớp kia, nhưng không nói từng bậc chứng đắc.
    Bởi Phật nói tu Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ là bốn loại thiền ngoại đạo, nếu không tiến lên Diệt thọ tưởng định thì không thể nhập Niết-bàn được. Vì vậy Phật khuyên các thầy Tỳ-kheo không nên đi theo con đường Tứ không, mà ngang tới Tứ thiền tu qua Tứ Diệu đế, chứng Tứ quả Thanh văn thì tốt hơn.
    Nói về Tứ không, trước tiên là Không vô biên xứ, đây là do hành giả dùng tưởng trống không, từ trống không nhỏ tới trống không lớn dần đến vô cùng vô tận, chứng đạt Không vô biên xứ. Bỏ cái không đó quay lại quán thức phân biệt của mình, biết thức phân biệt không có tướng mạo, từ phân biệt thân đến phân biệt tâm, cứ bủa ra khắp hết vô cùng vô tận, đạt được Thức vô biên xứ. Kế tiếp tưởng thân tâm không có gì hết, rỗng tuếch không chỗ nơi, chứng đạt Vô sở hữu xứ; dù tưởng rỗng tuếch vẫn còn là tưởng, nên tiến lên Phi tưởng phi phi tưởng, nghĩa là không có tưởng mà không phải không tưởng. Đến đây không còn tưởng thô, tưởng không, tưởng thức mà có tưởng vi tế tức tưởng rỗng tuếch, còn cái tưởng đó cũng phải bỏ, mới qua Diệt tận định; Diệt tận định còn gọi là Diệt thọ tưởng định. Thọ tức là cảm giác của sáu căn đối với sáu trần, tưởng là phần bên trong nội tâm; trong nội tâm thì lặng, ngoài đối với sáu trần không dính, tới đây nhập Diệt thọ tưởng định, chứng vô sanh tức quả A-la-hán. Tu theo Thiền tông không mắc kẹt ở Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, mà đi thẳng vào Xả niệm thanh tịnh; Xả niệm thanh tịnh rồi lại tiếp tục tiến thẳng lên Diệt thọ tưởng định, chớ không qua Tứ không. Như vậy chỉ một bước buông niệm là thẳng tới Diệt thọ tưởng định; đó là tôi đối chiếu giữa Thiền tông với thiền Nguyên thủy, tu theo Tứ đế.
    Trên đường tu nếu theo cấp bậc thì thấy được quả này, quả kia. Nhưng thấy “được” thì dễ mắc kẹt trong chứng đắc lắm, chấp bữa nay tôi chứng Sơ thiền rồi, tâm ngã mạn theo đó phát sanh. Còn tu thấy niệm dấy khởi liền bỏ, không nói chứng thì không có gì để chấp, nhờ thế tâm ngã mạn không phát sanh; khi nào các niệm lặng hết, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, đó là vô sanh, không nói Niết-bàn mà đã nhập trong Niết-bàn, đây là gốc của sự tu.
    Thật ra cấp bậc đều là giả danh, cái hiểu, cái sống thực bên trong mới quan trọng, Phật vì phương tiện lập ta cấp bậc để chúng ta dễ tu, đó không phải là mục đích cứu kính; nhưng vì không hiểu, ta lại chấp phương tiện ấy là chân lý nên không nhận ra được chỗ chân thật đức Phật muốn chỉ bày. Lại chỗ chân thật ấy không có tướng mạo nên không thể chỉ thẳng, dùng ngôn ngữ người ta càng không biết do đó buộc lòng đức Phật phải dùng phương tiện nói quanh co; ai nhận được thì tu đúng với tông chỉ của Phật, đạt được kết quả viên mãn.
    Thế nên: phương tiện chỉ giúp chúng ta trong một giai đoạn nào thôi, phải cố gắng tiến lên nữa đừng để mắc kẹt trong phương tiện; nếu chúng ta còn kẹt nơi chứng đắc là còn toan tính còn trông đợi, mà toan tính trông đợi thì tâm làm sao yên. Đi tới cứu kính thì phải hoàn toàn vắng lặng mọi suy tư phân biệt, tâm lặng lẽ thanh tịnh mới thể nhập được chỗ chân thật bất sanh bất diệt…”
    Xem lời giảng của HT Thanh Từ như vậy thì tác giả Thông Lạc đã căn cứ vào những từ ngữ: “Vô niệm, buông niệm, thấy niệm khởi liền bỏ, các niệm lặng hết, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, hoàn toàn vắng lặng mọi suy tư phân biệt, v.v…” mà cho Thiền Tông là như gỗ đá thì tác giả Thông Lạc đã không nắm được ý chỉ tu theo Thiền Tông, vì tất cả chỉ là mục đích đạt vô ngã y như Thiền Nguyên Thủy không khác vậy.
    Thiền Tông hành trì có khi như không hành, bởi vì hành là tâm hành chứ không phải là thân hành nên tưởng rằng không tu hành gì cả, Thiền Tông không chấp nhận hành ác, chỉ chấp nhận hành thiện nhưng không bám vào sự chấp làm thiện. Vì vậy tu theo Thiền Tông không trở thành cây đá, mà trở thành một con người hữu ích cho mình và cho người.
    2). Tham Thiền:
    Trong quyển Pháp Môn Đốn Ngộ của Toàn Không Đỗ Đăng Tiến viết: “Phật và các vị Tổ-Sư truyền xuống đường lối tham thiền, nên được gọi là Tổ-Sư thiền, tham thiền được kết quả kiến-tánh gọi là đốn-ngộ; phương pháp tham thiền được đốn ngộ nên gọi là Pháp Môn Đốn Ngộ. Tham thiền cũng không nhất thiết hẳn là phải ngồi thiền, Lục-Tổ Huệ-Năng bên Trung-Hoa giảng: “Phải khi lao động (làm việc) mà tham được mới tốt”. Ngài nói: “Đạo do tâm ngộ, chứ không phải do ngồi, nói ngồi thiền tức là tâm ngồi, chứ không phải thân ngồi, nghiã là đối với tất cả cảnh giới tâm niệm chẳng khởi gọi là ngồi, trong thấy tự-tánh chẳng động gọi là thiền”.
    Có một số người không hiểu đã thực hành sai, bị Tổ Lâm-Tế quở trách như sau:
    “Có một bọn người ăn cơm no rồi ngồi thiền quán hạnh, chụp bắt niệm lậu không cho sinh khởi, tránh ồn ào, cầu tĩnh lặng, ấy là pháp ngoại đạo. Tổ-Sư nói: “Nếu ông trụ tâm khán tịnh, cử tâm ngoại chiếu, nhiếp tâm nội trừng (trong lặng), ngưng tâm nhập định; người như thế đều là tạo tác”. Người nghe pháp này làm sao tu nó, chứng nó, trang nghiêm nó, nó vốn chẳng phải vật để cho tu, chẳng phải vật để trang nghiêm được; nếu bảo nó trang nghiêm ông được, thì tất cả vật đều được trang nghiêm. Sơn Tăng (tự xưng) nói hướng ngoài chẳng có pháp, học nhân không lĩnh (lãnh) hội được bèn cho là hướng trong, rồi liền dựa vách ngồi trạm nhiên chẳng động; chấp lấy cái này là Phật pháp của Tổ môn, thực là sai lầm lớn. Nếu ông chấp lấy cảnh thanh tịnh bất động là đúng, như vậy là ông nhận cái vô minh là chúa tể; người xưa nói: “Chỗ hầm sâu đen tối mịt mù thật đáng ghê sợ” là lý này vậy”.
    Thế nào là tham câu thoại đầu?
    Chữ tham tức là nghi, nghi là thắc mắc không hiểu, một việc đã hiểu rồi thì hết nghi, cho nên tham thiền rất chú trọng cái nghi, cũng gọi là nghi tình; muốn khởi lên cái nghi tình này phải nhờ câu hỏi không hiểu nổi, tức là phải nhờ câu thoại đầu, gọi là tham câu thoại đầu. Có nghi tình mới được gọi là tham thiền như: “sinh từ đầu đến (?)”, chẳng thể không nghi chỗ đến, “tử đi về đâu (?)”, chẳng thể không nghi chỗ đi; cái nghi tình này ắt phải phát sinh.
    Cũng như tham câu: “Khi chưa có trời đất, ta là gì?” Có biết ta là gì không (?), mờ mịt chẳng hiểu, chẳng biết mình là gì; muốn biết rõ mình mà không biết được thì phải sinh khởi thắc mắc: tại sao muốn biết mà hiểu không được. Lúc ấy hỏi thầm trong bụng “Ta là gì?”, cảm thấy không hiểu thì đáp không ra, đáp không ra thì càng thấy thắc mắc nên trong tâm càng sinh khởi thắc mắc nhiều hơn, đó gọi là nghi tình; có nghi tình tức là tham thiền vậy.
    Thiền-Sư Lai-Qủa nói:
    “Nghi người, nghi vật, nói chung là nghi pháp là hồ nghi, còn cái nghi này (nghi chính mình) tức là công phu tham thiền cũng gọi là chánh nghi vậy”.
    Khi ta không hiểu biết nổi, từ đó cứ thắc mắc, cứ thế mà hỏi, tức là có nghi tình, cứ thế mà hỏi mãi, càng hỏi càng thắc mắc, ấy là phát nghi tình; Thiền Tông dùng cách tham hay tham thiền một câu hay một chữ không hiểu để làm cái búa tạ đập bộ óc vô minh gọi là tham thoại đầu.
    Ngài Hư-Vân cho thí dụ:
    “Thoại đầu là cây gậy, nghi tình là đi, như người cụt chân muốn đi phải nhờ cây gậy, cũng như muốn khởi nghi tình phải nhờ câu thoại đầu vậy”.
    Một số câu thoại đầu tiêu biểu:
    Sau đây là vài câu thoại đầu tiêu biểu, người tham thiền phải cân nhắc cho kỹ trước khi chọn một câu cho mình thực hành, nên nhớ là khi đã chọn và thực hành rồi thì không được đổi sang câu khác.
    1- Khi chưa có trời đất, ta là gì?
    2- Khi cha mẹ chưa sinh, bản-lai ta ra sao?
    3- Chẳng phải tâm, chẳng phải vật, chẳng phải Phật, là gì?
    4- Chủ nhân thân ta là ai và bây giờ ở chỗ nào?
    Câu thoại là câu tự hỏi chính mình, có hỏi phải có đáp, đáp không được thì càng thắc mắc, thắc mắc nhiều gọi là đại nghi tình; hỏi lần đầu đáp không được, hỏi lần thứ hai thứ ba, cứ tiếp tục hỏi mãi ngày đêm không ngừng. Bất cứ khi đi đứng nằm ngồi, đang làm việc tay chân hay trí óc, khi đi bộ, đi xe, ăn cơm, uống nước, đi tiêu, đi tiểu, v.v…, đều phải tiếp tục hỏi hoài, hỏi mãi không giây phút nào để gián đoạn.
    Người mới tham thiền đạt đến thoại đầu sẽ đạt đến chỗ tự tại, sẽ được giải thoát tất cả, tức minh-tâm kiến-tánh; người đã đốn-ngộ triệt để trở thành bậc Thánh ngay khi còn sống, chứ không cần chờ tới khi chết, vì người ấy biết hết, hiểu trọn mọi việc.
    Xem cách tu Tham Thiền như thế mà tác giả Thông Lạc bảo Thiền Đông Độ là gỗ đá thì rõ ràng là hồ đồ không hiểu nhiều về Đông độ Thiền.
    VI). HT. TTL: Muốn triển khai Minh trí tuệ, các nhà Đại thừa và thiền Đông Độ dùng pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác, cho tâm không niệm thiện niệm ác là định và do tâm định thì phát tuệ (chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), bản lai diện mục hiện tiền là Phật Tánh, mà Phật Tánh là tánh giác, tánh giác tức là trí tuệ. Do những pháp hành tu tập để triển khai trí tuệ như vậy, họ đã lầm, không ngờ đường tu tập ấy lại khai mở tưởng tuệ; khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo). (ĐVXP-Tập 6)
    VI). Phản biện:
    1). Nói rằng: “Lối tu tập chẳng niệm thiện chẳng niệm ác là pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác, là khai mở tưởng tuệ” là lầm lẫn lớn; vì sao? Vì Phật dạy muốn giác ngộ giải thoát cũng như muốn kiến tánh đốn ngộ phải vô ngã, Thiền Tông khi tu thấy niệm dấy khởi liền bỏ, khi nào các niệm lặng hết, mọi suy tư phân biệt hoàn toàn vắng lặng, muôn duyên bên ngoài không dính, nội tâm không kẹt, không động, tâm lặng lẽ thanh tịnh mới thể nhập được chỗ chân thật bất sinh bất diệt, đây là gốc của sự tu theo Hòa Thượng Thích Thanh Từ.
    Còn pháp môn tham thiền tức là tham câu thoại đầu còn gọi là tham khán câu thoại đầu, hoặc tham khán công án, tức là vừa hỏi vừa nhìn ngay chỗ không hiểu không biết ấy; tức là không cần phải dẹp bỏ muôn niệm thiện ác, chỉ chăm chú một niệm tham thoại đầu, nếu được miên mật rồi thì không còn kẽ hở cho bất cứ niệm thiện hay ác nào khởi lên nữa.
    Thực ra: khi tham thoại đầu có nghi tình và miên mật, nó tự động chấm dứt tất cả cái biết của bộ óc, tại sao phải chấm dứt cái biết của bộ óc? Tại vì: cái biết của bộ óc là tướng bệnh, là cái biết không chân thật, cũng thuộc cái biết của người ngủ mơ, cái biết của người mù sờ voi, không thật. Người đạt đến thoại đầu sẽ đạt đến chỗ tự tại, sẽ được giải thoát tất cả, tức minh-tâm kiến-tánh và ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nghiã là hết kiếp hiện tại sẽ nhập Niết-bàn, hay thung dung đến sáu cõi để cứu độ chúng-sanh đều tùy ý muốn.
    Bằng những cách tu của Thiền Tông nêu trên, hành giả đạt giải thoát và lúc đó Phật tánh sẽ hiện ra, người tu Thiền Đông Độ trở thành người siêu việt nên không ai tranh cãi được với người đã giải thoát, chứ chẳng phải khai mở Tưởng tuệ như tác giả Thông Lạc lầm tưởng đâu. Vì không còn có tưởng ở trong tâm thì làm sao khai mở được tưởng tuệ, một danh từ lạ vì tưởng là tư tưởng của phàm phu, còn tuệ là trí tuệ là phát huệ của bậc thánh, hai thứ khác nhau, chúng ta không nên ghép chung làm một, vì cưỡng đặt danh từ này là rắn thêm râu, râu ông nọ cắm cằm bà kia không đúng chỗ.
    2. Nói rằng: “Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo). (ĐVXP-Tập 6)” thì không đúng, vì căn bản của Phật giáo vẫn là Khổ Tập Diệt Đạo không thể chối cãi, nhưng tiến lên tầng cao thì cái Khổ coi như không còn nữa vì người tu coi cái Khổ không nghĩa lý, nó chỉ là giả có, không thật, ngay cả cái vui cũng như không, nghĩa là vui sướng buồn khổ không dính mắc không chấp chặt vào thân tâm, nếu hành trì được như vậy là đạt đến vô ngã.
    Nói đến Bát Nhã Tâm Kinh, là nói đến chữ Tâm, Kinh Hoa Nghiêm nói lên ý này là: "Nhất Thiết Duy Tâm Tạo", vũ trụ vạn hữu và vạn vô, tất cả đều là Tâm, Tâm bao gồm hư không pháp giới gọi là "Bản Tâm", bản tâm tức là Tự tánh, Tự tánh là Bất Nhị (không hai). Hư không pháp giới tức là Tâm, Tâm tức là hư không pháp giới, chẳng phải là hai cái, không có khác biệt, như vậy mới đúng với cái nghĩa Bất Nhị của Tự tánh.
    Tâm Kinh muốn làm cho tất cả muôn ngàn cái tâm sai biệt của chúng ta đều đạt đến chỗ hoàn toàn không sai biệt, hồi phục lại cái Bất Nhị của Tự tánh, cho nên Kinh này dạy chúng ta y theo đó mà thực hành để đạt đến chỗ Bất Nhất Bất Nhị, chổ hoàn toàn không có sai biệt. Tâm Kinh dạy chúng ta phá chấp tất cả, phá từng thứ lớp, phá tới không còn gì để phá nữa, kết quả được Kiến Tánh, biết rõ được chính mình, đạt đến tự do tự tại, cũng là đạt đến bờ bên kia (Ba La Mật) vậy.
    Tâm Kinh dạy phá sạch hết mọi thứ như: Không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương vị, xúc, pháp; không có nhãn thức giới, cho đến ý thức giới. Không có vô minh, cũng không có hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí huệ, không có chứng đắc, cũng không có chỗ được. Khi đã phá chấp hết mọi thứ sạch không còn dấu vết nào nữa sẽ đạt tới cứu cánh Niết Bàn; ba đời Chư Phật y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, đều được đạo qủa Bồ Đề.
    Vì thế cho nên nói: “tu tập (Bát Nhã Tâm Kinh) ấy lại khai mở tưởng tuệ; khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa. Do lý luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc” là không đứng vững vì Tâm Kinh phá mọi kiến chấp của con người thì làm gì còn Thọ Tưởng Hành Thức nữa. Tác giả Thông Lạc đã cố gán ghép cho Bát Nhã Tâm Kinh một trọng tội là tiêu diệt Phật giáo chính gốc, sự thật lý Bát Nhã của Phật giáo Bắc truyền không tiêu diệt Phật giáo Nguyên Thủy, Nguyên Thủy vẫn là căn bản, nhưng Bắc truyền hành trì ở một tầng bậc khác nhưng kết qủa vẫn như kết qủa của Nam Truyền vậy thôi.
    VII). HT. TTL: Đưa ra một số vấn đề của Phật giáo Bắc truyền như sau:
    1). HT TTL: Cái sai thứ nhất của kinh sách Phát Triển và Thiền Tông là: Khi tâm hết vọng tưởng do sự tập trung ức chế ý thức mà cho là định thì định đó không phải là định của Đạo Phật, mà là định của ngoại đạo.
    1). Phản biện: Như đã chứng minh ở phần đầu, ở đây chúng ta có thể trích một đoạn trong bài “Bà La Môn Giáo và Triết học Phật Giáo” của Như Thị để dẫn chứng sự khác biệt giữa Bà La Môn và Phật giáo Bắc truyền như sau:
    “Bà-la-môn giáo cho rằng cuộc đời này là sự giả tạm và đau khổ, bởi thế sự giải thoát chính là cần thiết nhất mà tất cả các thế hệ tư tưởng Ấn Độ đều nỗ lực tìm kiếm; đối với họ, sự giải thoát chính là sự trở về với bản thể Phạm Thiên, nhưng tại sao phải trở về? Bởi vì tiểu ngã Atman đã ngày càng đi ra khỏi những quy luật của Đấng sáng tạo Phạm Thiên. Nguyên nhân là do linh hồn đã bị vô minh dục vọng làm ô nhiễm để rồi bị trôi lăn trong sanh tử luân hồi không bao giờ trở về được nữa; muốn diệt dục vọng, vô minh không gì khác hơn là dùng thiền Yoga để đạt được những trạng thái thiền định.
    Chính trạng thái thiền định này giúp cho người Bà-la-môn hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của Ý thức, cái mà họ cho rằng chính nó là nguyên nhân của sự phân biệt đối đãi, vô minh, ham muốn… Bởi thế, Bà-la-môn giáo chủ trương dùng trí tuệ đạt được bằng cách thể nhập các loại định Yoga để loại bỏ sự kiềm tỏa của Ý thức, lúc đó sự giải thoát mới có thể được xảy ra và bản ngã hoàn toàn được thể nhập vào đại ngã Brahman.
    Một ảnh dụ thường được các Bà-la-môn dùng để ám chỉ điều này là sự không mộng mị của một giấc ngủ; câu chuyện giữa Indra và Prajàpati trong Upanisads kể lại trong một lần đối đáp, Prajàpati đã trả lời câu hỏi của Indra rằng, người được hưởng giấc ngủ say không mộng mị là bản ngã. Trong Bà-la-môn giáo, Chàndogya Upanisads đã phải dùng đến câu chuyện giữa Prajapati và Indra; câu chuyện này đề cập đến 4 giai đoạn thể nghiệm Atman của Indra, bốn giai đoạn đó là:
    - Thức (Vishva)
    - Mộng (Taijasa)
    - Ngủ say không mộng (Pràjna)
    - Ý thức tâm linh (Turiya)
    Với sự hoàn tất cả bốn giai đoạn trên, người Bà-la-môn có thể được đồng nhất Atman với Brahman đồng thời tận hưởng hạnh phúc của sự vĩnh hằng; đây là thực tại theo Bà-la-môn giáo.
    Còn đối với Phật giáo, phạm trù giải thoát bao gồm: đối tượng để giải thoát và phương pháp:
    1. Đối tượng để giải thoát:
    Về đối tượng, Phật giáo đồng ý với Bà-la-môn giáo khi cho rằng cuộc đời của con người là đau khổ, và nỗi khổ này không có nguyên nhân nào khác ngoài vô minh, ái dục. Muốn hết khổ thì phải loại bỏ những nguyên nhân ấy, tuy nhiên, quan điểm về vô minh của Phật giáo khác với Bà-la-môn giáo ở chỗ: nếu Bà-la-môn cho rằng vô minh là do mối quan hệ giữa Ý thức và cảm giác hiện tượng quá sâu đậm dẫn đến sự mê đắm mà đánh mất tính chất thanh cao của Bản ngã nên bị luân hồi sanh tử, thì Phật giáo lại cho rằng “Bất tri Đệ nhất nghĩa đế vị chi vô minh” (không liễu tri được Đệ nhất nghĩa đế là vô minh)
    Theo Phật giáo Nam truyền giải thích, vô minh là không liễu tri được Tứ Đế, còn Bắc truyền Phật giáo thì cho rằng không giác ngộ được bản chất như thật của các pháp gọi là vô minh. Bản chất như thật ở đây tức là bản chất không thật tánh của các pháp và Phật tánh viên dung của chúng sanh. Và Phật giáo cho rằng muốn giải thoát thì trước hết phải liễu tri được Đệ nhất nghĩa đế ấy, cho nên đối tượng giải thoát tất nhiên là con người, nhưng đi sâu vào nội dung thì Bà-la-môn giáo chú trọng ở vấn đề đưa bản ngã con người ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ý thức, còn Phật giáo thì lại phát triển Ý thức lên đỉnh điểm của nhận thức, tức là Diệu Quan Sát Trí để chuyển hóa tâm thức và giác ngộ thật tánh các pháp.
    2. Phương pháp giải thoát
    Do hướng đến sự thể nhập của bản ngã vào Đại ngã làm đối tượng nên các phương pháp của Bà-la-môn giáo để tiếp cận bao gồm thực hành các lễ nghi, nghiên cứu Veda và thực hành Yoga với mục đích hạn chế Ý thức để đạt được giải thoát. Trong khi đó, Phật giáo Bắc truyền lại cho rằng giác ngộ được các pháp như thật “nó đang là” mới được gọi là giải thoát; điều này đã được đức Phật dạy rằng: “Yah pratìtysamutpàdam paysyati so dharmam pasyati, yo dharmam pasyati so buddham pasyati” (Ai thấy lý Duyên khởi, người ấy thấy Pháp; ai thấy Pháp, người ấy thấy Phật”). Bởi vậy, trong Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái, dù là niệm Phật, hay tọa thiền, đả thất,… tất cả đều lấy việc việc nâng cao sự nhận thức của tâm thức lên đến tột đỉnh của sự giác ngộ; nói khác hơn, tất cả chỉ vì hoàn thiện tính năng tự hoạt của tâm, mà một trong các đại diện của cái tâm ấy là Ý thức.
    Tóm lại: Thiền Yoga là lối tu có trước đức Phật từ lâu, các đạo sĩ sống nơi hoang vắng, xa lánh sự ồn náo của thế gian, tu luyện lối sống minh triết đặc biệt; thiền Yoga có hai phái khác nhau:
    - Hatha Yoga: Chuyên luyện tập thân thể chịu đựng dẻo dai, quyết chí bền vững với thời gian, mong được sống khỏe, sống lâu.
    - Raja Yoga: Luyện tập ý chí trở thành năng lực thông tuệ, đem Tiểu ngã Atman hòa nhập vào Đại ngã Brahman”.
    Dĩ nhiên Bà La Môn khi đạt đạo của họ chỉ có 5 thần thông, nhưng không có lậu tận thông như 6 thần thông giải thoát của Đạo Phật; xem như thế mà bảo rằng “ức chế ý thức và cái định của Phật giáo Bắc truyền là cái định của ngoại đạo” là không chính xác.
    2). HT TTL: Cái sai thứ hai là: Trong chỗ hết vọng phát sanh sự hiểu biết, mọi người đều lầm tưởng mà cho sự hiểu biết đó là trí tuệ; sự thật đó là tưởng tri chứ không phải trí tuệ. Đức Phật đã xác định trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, mà giới luật tức là đức hạnh, cho nên người có đức hạnh là người có trí tuệ, người có trí tuệ là người có đức hạnh.
    2). Phản biện:
    1. Nói rằng: “Trong chỗ hết vọng phát sanh sự hiểu biết, mọi người đều lầm tưởng mà cho sự hiểu biết đó là trí tuệ; sự thật đó là tưởng tri chứ không phải trí tuệ”. Vấn đề này đã chứng minh bác bỏ ở phản biện thứ sáu ở trên khi luận bàn về Tưởng tuệ, ở đây tác giả Thông Lạc lại đẻ ra một danh từ mới nữa là tưởng tri; Tưởng tri là cái biết của tư tưởng, vẫn thuộc lãnh vực phàm phu, nên không thể đạt giải thoát được. Sự thực thì theo Bắc truyền, thân người gồm có thân và tâm, thân là sắc, tâm là thọ tưởng hành thức; tất cả sắc thọ tưởng hành thức phải không còn được chấp thật nữa mới gọi là vô ngã, muốn vậy hành giả phải quán sát thân tâm là vô ngã.
    Thân là sắc do tứ đại, đất là của đất, nước là của nước, gió là của gió, lửa là của lửa chứ đâu có cái nào là của Ta; Tâm gồm Thọ Tưởng Hành Thức. Thọ là cảm thọ lúc cảm thọ vui lúc cảm thọ buồn lúc cảm thọ không vui không buồn, không cố định lúc có lúc không như thế thì làm sao bảo Thọ là Ta được, vì cái Ta trường tồn bất biến. Tưởng là nghĩ nhớ cái nọ cái kia, khi nghĩ nhớ khi không nên không thể bảo Tưởng là Ta được vì cái Ta trường tồn bất biến.
    Hành là suy nghĩ tạo tác, khi có hành khi không hành chẳng phải thường hành, nên cũng chẳng thể là Ta; Thức là ý thức phân biệt cũng vậy khi có phân biệt khi không, nên chẳng thể là cái Ta bất biến, do đó cả Thân và Tâm đều không phải là Ta nên vô ngã. Nếu sự quán chiếu đến thuần thục rồi, hành giả sẽ được giác ngộ kiến tánh, nghĩa là khi không còn một tí nào dính mắc chấp chặt vào Thân và Tâm nữa tức là chẳng còn niệm thiện niệm ác thì được giải thoát, và khi đã được giải thoát rồi thì làm gì có tưởng tri hay tưởng biết nữa.
    2. Nói rằng: “Đức Phật đã xác định trí tuệ ở đâu thì giới luật ở đó, mà giới luật tức là đức hạnh, cho nên người có đức hạnh là người có trí tuệ, người có trí tuệ là người có đức hạnh”. Người có giới hạnh đầy đủ thì sẽ có trí tuệ, đó là đối với Nguyên Thủy, còn đối với Bắc truyền thì đức Phật nói tới hai loại trí, chúng ta trích một đoạn của bài Trí Tuệ trong quyển Phật Giáo Căn Bản của Toàn Không Đỗ Đăng Tiến như sau:
    - Căn bản trí: Là giác tính minh diệu mà mọi chúng sanh đều có sẵn, nhưng bị vô minh che lấp nên chưa xuất hiện, bị đủ thứ thói hư tật xấu như tham sân si mạn nghi v.v… vùi dập; thí dụ như chất vàng lẫn trong quặng đất sỏi đá, như mặt trời bi che bởi sương mù về mùa đông nên chẳng thể hiển lộ được.
    - Hậu đắc trí: Là trí huệ có được nhờ công phu tu tập, ví như vàng đã được lọc luyện từ quặng đất sỏi, vàng không còn lẫn lộn với bất cứ chất gì khác; người tu hành đến khi hết vô minh phiền não, trí huệ hiện ra.
    Tuy phân ra hai loại nhưng chỉ là một, cũng như một thứ vàng, sau khi tu đạt hậu đắc trí tức trí huệ hiện; tất cả những ai tu muốn có trí huệ đều phải giữ Giới là lẽ đương nhiên, nhưng giữ Giới không thôi mà không tu hành gì cả thì giữ giới cả đời cũng chưa chắc đã có trí huệ, bởi vì chuyện đời như màng nhện như sỏi đất luôn luôn quấn quýt làm dơ bẩn con người. Khi gỡ được màng nhện này thì màng nhện kia dính vào, khi rửa được thân sạch thì miệng dơ, khi rửa được miệng sạch thì ý nhiễm sự đời, trăm nghìn thứ giữ sao cho trọn vẹn để phát sinh trí tuệ đây nếu không tu?
    - Nguồn gốc trí huệ: Do chữ Nam Phạn (Pali) “Panna” chữ Bắc Phạn (Sancrit) “prajna”; người Trí Huệ hiểu rõ sự lý cùng tột, là trực nhận tánh không, là giác ngộ, là “Trí biết tục đế, Huệ thông chân đế”. Có thể nói Trí là thể tính sáng suốt trong sạch, Huệ là cái sáng chiếu soi, Trí Huệ rộng lớn (Ba La Mật) là thể tính sáng suốt soi sáng một cách tinh tường không thể nhầm lẫn; trí huệ là sự hiểu biết siêu việt cùng tột, là giải thoát.
    - Làm sao có trí huệ?
    Muốn có trí huệ, đức Phật đã dạy tám vạn bốn nghìn pháp môn tu, người Phật tử có thể chọn bất cứ pháp môn nào thích hợp với mình để tu hành, đều có thể đạt được trí huệ tức là giải thoát. Tuy nhiên, căn cứ duy thức học, sau khi tu theo duy thức, các thức được chuyển biến thành các trí, khi hành giả đạt trí huệ sẽ có bốn trí như sau:
    a. Thành sở tác trí: Năm thức Nhãn, Nhĩ, Tị, Thiệt, Thân trở thành trong sạch không còn một tí gì bợn nhơ của năm trần là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, nghĩa là không còn vẩn đục bởi phàm trần. Tâm hành giả: như hồ nước trong lặng không gợn sóng, lúc đó năm thức biến thành “Thành sở tác trí”; nghĩa là năm giác quan của chúng ta trở thành có năng lực thần diệu kỳ bí, chứ không còn là giác quan của kẻ phàm phu chỉ nhận biết một cách hạn hẹp mà thôi.
    b. Diệu quan sát trí: Thức thứ sáu, là ý thức là thức góp ý nhận biết cho năm thức nêu trên, thức này làm việc suốt ngày đêm không ngưng nghỉ. Ban ngày suy nghĩ tưởng nhớ hết việc này qua chuyện khác, lo lắng buồn khổ, hân hoan sung sướng v.v…, ban đêm khi ngủ mộng mơ đủ cả. Khi tâm viên ý mã (tâm ý như khỉ ngựa) ấy đã được cột lại một chỗ hết đường cựa quậy qua sự tu hành rồi, thức này chuyển thành “Diệu quan sát trí” có công năng quan sát thâm diệu cùng khắp.
    c. Bình đẳng tính trí: Thức thứ bảy Mạt Na là thức tự ý thức về chính mình, ô nhiễm cho rằng mình có một cái ta, Mạt Na phân biệt chủ thể khách thể tạo nên ý thức nhị nguyên chấp ngã (ta) nhân (người) chúng sanh (muôn loài). Năm giác quan cùng ý thức báo cho Mạt Na thông tin từ bên ngoài không hề đánh giá tốt xấu, chính Mạt Na là kẻ đánh giá phải trái hay dở tốt xấu v.v…, và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động, đồng thời Mạt Na lại đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào A Lại Da là thức thứ tám. Khi tu hành phá vỡ tan tành chấp tướng ngã nhân chúng sanh thọ giả (cảm giác) của Mạt Na thì nó chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”, nghiã là trí huệ này có năng lực nhận thức chân thật về tính bình đẳng vô ngã trong muôn pháp.
    d. Đại Viên cảnh trí: Khi cảm giác của tất cả các hoạt động của năm căn và ý được Mạt Na đưa vào A Lại Đa, thức này có nhiệm vụ giữ gìn tất cả các tin tức ấy, gọi là chấp trì sinh mạng chủng tử. Khi tu hành đạt đến địa vị vô lậu (không còn ô nhiễm), thức này chuyển thành “Đại Viên cảnh trí”, tức là thành cái trí huệ sáng suốt trong sạch như chiếc gương khổng lồ tròn đầy trong sạch soi chiếu cùng khắp, tương ưng cho chân tâm chân như Phật tánh.
    Tóm lại trong khi tu, hành giả Bắc truyền vẫn phải tuân hành giới luật triệt để chứ không phải là không có đạo hạnh như tác giả Thông Lạc đã lầm tưởng đâu.
    3). HT TTL: Nói rằng: Trí tuệ hiểu biết những tưởng pháp như hiểu biết trong kinh sách Đại Thừa và các công án của Thiền Đông Độ là tưởng tuệ; sự hiểu biết đó không ích lợi cho mình cho người, sự hiểu biết đó chỉ là một hý luận. Từ xưa đến giờ các thiền sư dựng lên trò hý luận công án nói Đông trả lời Tây, nói Nam trả lời Bắc và còn hơn thế nữa là la, hét, chỉ, trỏ, v.v...(ĐVXP-Tập 8)
    3). Phản biện:
    1. Thiền Đông Độ là tưởng tuệ. Như đã phân tích phản biện trong các phần ở trên, tác giả Thông Lạc cho là Tưởng tuệ là không đúng: Tưởng là tư tưởng thuộc lãnh vực phàm phu, Tuệ là trí tuệ là phát huệ đưa đến bậc thánh, hai thứ khác nhau, không nên lầm lẫn tư tưởng với trí tuệ, cũng không nên ghép chung tưởng với tuệ để nói tưởng tuệ, mà phải nói là người tu đạt được trí Tuệ, khi đã đạt được trí tuệ thì không thể bảo rằng sự hiểu biết của Thiền Sư là hý luận. Các cách hét la, đánh đập, chỉ trỏ, hỏi Đông trả lời Tây, hỏi nam trả lời Bắc v.v… chỉ là phương tiện thiện xảo của Thiền Sư để đưa hành giả mau đốn ngộ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi mà thôi; những cách hành xử như thế đều không khác khi đức Phật đưa lên cành hoa nơi Hội Linh Sơn, Ngài Đại Ca Diếp nhìn thấy đã mỉm cười và được đức Phật ấn chứng ngộ đạo. Chúng ta nêu ra vài trường hợp kỳ đặc của Thiền sư như sau:
    2. Thiện xảo của Thiền Sư:
    Trong Thiền Thất từ 20-10-1993 đến 26-10-1993 tại Từ Ân Thiền Đường, Việt Nam, một vị Tăng hỏi Hòa Thượng Thích Duy Lực:
    Hỏi: Vừa rồi con có nhập thất, khi công phu xong, con ra ngắm trăng, tự nhiên trong tâm lưu xuất năm câu “Sống điên đảo, nói điên đảo, ăn điên đảo, nghĩ điên đảo, tưởng điên đảo,” con không biết đó là cái gì?
    Đáp: Dẫu cho lưu xuất đúng với Chơn như Phật tánh cũng là vọng, đừng biết tới, nếu khởi lên cái biết, Thiền tông gọi là “cửa của tất cả tai họa. “Tổ Sư Thiền là dùng cái không biết để tu, giữ cái nghi để đưa đến kiến tánh, khi kiến tánh sẽ biết hết”; nay có biết tức chướng ngại cho sự tu, nên nói chữ TRI là cửa tai họa. Ví như ngày trước bên Trung Hoa Hòa Thượng Thủy Lạo, bình thường đã có công phu nhưng chưa ngộ, ông xin yết kiến ngài Mã Tổ để trình công phu, khi vừa bước chân vào gặp ngài Mã Tổ nói: - Đảnh lễ đi! Thượng Tọa Thủy Lạo đang lạy xuống bị ngài Mã Tổ đạp nhào một cái liền ngộ; ấy là thình lình chặn đứng sự suy nghĩ phân biệt, Ý thức của chúng ta như nguồn suối, ngày đêm chảy xiết, nên cái biết của Phật tánh chẳng thể hiện ra được; khi thình lình bị chặn đứng thì Phật tánh liền hiện, khỏi cần hỏi nữa, mới biết thủ đoạn của Tổ sư.
    Ví như: ngài Huỳnh Bá bảo nhiệm sau khi ngộ (tìm cách chứng tỏ mình đã ngộ), người khác thì nhập thất để bảo nhiệm (gặp vị đã ngộ rồi chứng cho mình đã ngộ), còn ngài lại đi vào một ngôi chùa làm công quả, ai sai việc gì làm việc nấy.
    Một hôm, Thừa tướng Bùi Hưu (là người có tham thiền) đến viếng chùa, thấy trên vách vẽ một vị cao Tăng, hỏi người chủ chùa: - Đây là hình tượng của ai? - Đó là một vị cao Tăng. - Hình vẽ đây rồi, còn cao Tăng ở đâu? Chủ chùa im lặng không trả lời được; Bùi Tướng quốc hỏi:
    - Chùa này có Thiền sư không? Đáp: Có một vị mới đến mấy hôm, đang làm công quả, xem cử chỉ thì giống Thiền sư.
    - Vậy thì mời Sư đó ra. Gặp Hoàng Bá, Tướng quốc hỏi: - Hồi nãy tôi thấy bức tranh này, hỏi Chủ chùa, nhưng ngài lại tiếc lời dạy bảo, chẳng biết Sư có thể chỉ dạy không? - Xin hỏi. - Hình tượng ở đây, còn cao Tăng đâu? Huỳnh Bá la lên gọi: Bùi Hưu! Bùi Hưu đáp: Dạ. - Ở đâu?
    Bùi Tướng quốc liền ngộ, khen rằng: “Thật là Thiền sư!,” bèn mời về phủ cúng dường, và lễ Ngài làm thầy. Cho nên, Phật pháp chẳng phải do học, chỉ có Thiền sư kiến tánh rồi mới có cơ xảo đó, khiến người khai ngộ. Nếu người chưa kiến tánh, cứ theo lời nói để trả lời thì làm sao ngộ được; nay quí vị hỏi mà tôi trả lời là muốn khiến cho tin tự tâm đầy đủ, cứ giữ mãi nghi tình sau này sẽ ngộ.
    Xem hai thí dụ kể trên mà cho là: “sự hiểu biết đó không ích lợi cho mình cho người, sự hiểu biết đó chỉ là một hý luận. Từ xưa đến giờ các thiền sư dựng lên trò hý luận công án nói Đông trả lời Tây, nói Nam trả lời Bắc và còn hơn thế nữa là la, hét, chỉ, trỏ, v.v...” thì thật là lầm lẫn tai hại đối với Thiền Tông và oan cho thiện xảo của chư Thiền sư đã moi gan tim óc mình ra để hướng dẫn chỉ bảo người học đạt mục đích tối thượng mà có người không hiểu đã nhục mạ Thiền sư là hý luận thì thật là không có lời nào nặng bằng*

    VIII). HT. TTL: Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này, Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ....(ĐVXP-Tập 8)
    VIII). Phản biện:
    1). HT TTL viết rằng: “Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông” là không tìm hiểu kỹ càng, vì các kinh Bắc truyền phần nhiều đều là Kinh liễu nghĩa, người đọc kinh Kim cang mà hiểu được ý nghĩa trọn vẹn thì rất dễ để theo đó áp dụng hành trì; nếu người đọc không nắm vững được ý Kinh thì làm sao biết áp dụng hành theo, nên tưởng rằng chỉ có lý thuyết suông.
    Thật ra Kinh Kim Cang (hay Kim Cương), tên đầy đủ là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), từ tiếng Phạn: Vajracchedika là Kim Cang, nó có khả năng cắt chém cứng như kim cang. Trong bối cảnh của bài Kinh, chúng ta có thể hình dung ra một chiếc gươm bén chắc chặt đứt các màn hình tướng để lộ ra sự thật, cũng có thể hiểu là kinh có một sức mạnh sấm sét, một sức công phá khủng khiếp, nhằm phá tan mọi kiến chấp.
    Kinh nói, Bồ-tát hành đạo, để đạt đến cứu cánh cần phải loại trừ ý niệm về tự ngã; nhưng tự ngã ấy bị bọc trong lớp vỏ vô minh, muốn diệt trừ vô minh phải có định lực và trí tuệ như kim cang mới loại trừ được nó.
    Chúng ta từ vô thủy đến nay bị vô minh bao phủ bằng vọng tưởng thành thân của ta, bằng sự khổ vui, bằng tài sản của cải, cho đến gia đình xã hội, núi sông đất nước của ta đều cho là hiện thực; vì vậy cho nên khi không còn được như ý muốn, khi tán gia bại sản, khi núi sông đất nước sụp đổ, thì cái vọng tưởng cũng sụp đổ gây nên tức giận buồn khổ đến tự tử bằng cách có kẻ trầm mình xuống sông, hoặc treo cổ trên cành cây v.v...
    Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực; người nghe có thể kinh hoàng, như nghe sét đánh ngang tai; tiếng sét đó là từ Kim cang bát-nhã. Nếu chúng ta đọc kinh Kim Cang với sự suy gẫm cao độ thì kinh Kim cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái ta, và chỉ cách vận dụng kim cang trí đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.
    Tiếng sấm sét đầu tiên trong Kinh Kim Cang là khi Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn, Ngài thật hiếm có trên đời, Ngài khéo hộ niệm cho các Bồ Tát, khéo phó chúc cho các Bồ Tát. Bạch Thế Tôn, thiện nam tín nữ đã phát tâm nguyện vô thượng Bồ đề, thì phải an trụ tâm thế nào, hàng phục tâm thế nào?"
    Phật bảoTu Bồ Đề rằng: "Các Bồ Tát nên hàng phục cái tâm như thế này: Tất cả chúng sanh các loài, dù sanh bằng trứng bằng thai, dù sanh bằng ẩm thấp bằng hóa sanh, dù có hình sắc hay không hình sắc, dù có tư tưởng hay không tư tưởng, ta phải làm sao giúp chúng đều được diệt độ vào Niết Bàn. Diệt độ cho vô lượng vô số vô biên chúng sanh như vậy mà thật ra không có chúng sanh nào được độ cả, tại sao vậy? Tu Bồ Đề! Vì nếu Bồ Tát vẫn còn phân biệt tướng ngã, tướng nhân, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ Tát vậy"
    Ở đây Phật dạy chúng ta bỏ phân biệt chấp trước cái ta là thật (ngã), xa lià chấp người, vật là thật (nhân, chúng sinh), diệt trừ chấp mạng sống tiếp nối là thật (thọ giả), vì ý thức thường lưu động theo vọng tâm vọng cảnh (gọi là người có thọ giả tướng). Chúng ta có thể diễn giải theo tinh thần Thiền tông là không nên chấp trước, không nên dính mắc vào hình tướng, sắc thanh hương vị xúc pháp trong việc hàng phục tâm. Phần chính của Kinh Kim Cang đều đồng loạt một đường lối thường được dùng là:
    "Cái này có (khẳng định), thực ra nó không có (phủ định), vì vậy người ta gọi nó là (khẳng định)".
    Như: Như Lai nói Thế giới, thực ra không phải là Thế giới, ấy mới gọi là Thế giới
    Hoặc: Bồ Tát có trang nghiêm cõi Phật, tức không phải là trang nghiêm; chỉ tạm gọi là trang nghiêm thôi.
    Hoặc: Thân người to lớn như núi Tu Di thật là to lớn, nhưng không phải là thân to lớn, đó mới thực là thân to lớn.
    Suốt phần Tôn Giả Tu Bồ Đề hỏi Phật của Kinh Kim Cang đều chẳng ngoài ý nghĩa ba câu như nêu trên:
    Câu thứ nhất: Chấp thật
    Câu thứ hai: Phủ định, phá, chống lại câu 1, lọt vào chấp không.
    Câu thứ ba: Giả danh, tạm gọi thôi.
    Câu thứ ba phá cả ba câu 1, 2, 3, vì cả ba đều là giả danh, nghĩa là bác bỏ chấp thật của câu 1, bác bỏ chấp không của câu 2, bác bỏ chấp điên đảo tưởng của câu 3, thế nào là điên đảo tưởng? Nghĩa là: khi chúng ta gọi cành hoa chẳng hạn, Bồ Tát cũng gọi cành hoa như chúng ta, nhưng chúng ta lại có tư tưởng đẹp xấu, dính mắc yêu ghét, đây là điên đảo tưởng; còn Bồ Tát tuy cũng gọi là cành hoa nhưng không dính mắc ý tưởng yêu ghét, thì gọi là lưu bố tưởng thôi, nên Bồ Tát không có điên đảo tưởng. Chúng ta muốn được như Bồ Tát thì phải tu hành sao cho không còn điên đảo tưởng, như vậy thì làm sao có thể nói rằng: “Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ toàn là hý luận lý thuyết suông”; ở đây ví như người ngủ mê nên đã nói mơ vậy đó.
    2). HT TTL viết rằng: “Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này. Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ......(ĐVXP-Tập 8)
    Câu nói trên chứng tỏ là tác giả không nắm được Kinh Kim Cang của Bắc truyền, không biết về lịch sử Thiền Tông, chúng ta cùng theo dõi tiếp về Kinh Kim Cang do tác giả Trịnh Nguyên Phước phân tích như sau:
    “Trong chương 10, để có tâm thanh tịnh, đức Phật khuyên: “không nên trụ vào sắc mà sanh tâm, không nên trụ vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm, không nên trụ vào chỗ nào mà sanh tâm." (Hán văn: Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.)
    Thoạt nghe câu trên không có vẻ gì đặc biệt, nhưng thật ra chứa đựng thông điệp thâm sâu sắc bén; chính trong khi nghe thầy mình, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn đọc lại câu này, mà Lục tổ Huệ Năng hoát nhiên đại ngộ và kêu lên: "Đâu ngờ tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh! Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt! Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ! Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động! Đâu ngờ tự tánh sanh ra muôn pháp!", và vua Trần Thái Tông cũng đạt được đại ngộ khi đọc đến câu này.
    Như vậy, câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hẳn phải có một sức mạnh đặc biệt lắm mới có thể gây chấn động và tuệ giác nơi hai vị Thiền sư xuất chúng này. Đó có thể là 8 chữ nói đến bởi Trúc Lâm Sơ Tổ Trần Nhân Tông khi trả lời một vị tăng hỏi ngài 'cứu cánh là gì?': "Bát tự đả khai phân phó liễu, Cánh vô dư sự khả trình quân".(Tám chữ mở thông đà trao hết, còn gì đâu nữa để trình ông).(Trong bài kệ "Hữu cú vô cú").
    Nếu phải thu gọn Kinh Kim Cương vào một câu, chỉ một câu thôi, thì có lẽ chính là câu này. Làm thế nào để an trụ, hàng phục tâm? Đức Phật đã trả lời một cách ngắn gọn câu hỏi của trưởng lão Tu Bồ Đề: "Đừng để tâm trụ vào một nơi nào hết". Bởi vì khi tâm bắt đầu trụ (hay dính mắc) vào sắc, thanh, hương, vị, xúc hay pháp, thì tức khắc tâm dấy lên, tâm bị dao động vì vọng tưởng, cho nên không còn cái thanh tịnh trong sáng ban đầu. Trong Kinh còn nói, trong chương 14, "Nếu tâm còn chỗ trụ, tức không phải là trụ" (Hán văn: Nhược tâm hữu trụ, tức vi phi trụ)”. Như vậy, có thể nói rằng: muốn tâm an trụ thì đừng để cho tâm trụ. Tâm không trụ thì mới an trụ”.
    Thế mà tác giả Thông Lạc nói rằng: “Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm được như trong kinh này, kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ bánh vẽ”; đọc đoạn trên rồi thì thấy rõ nói như vậy là không đúng sự thật.
    IX). HT. TTL: Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới không phải là chánh pháp của Phật mà là của Bà La Môn có thâm ý muốn diệt Phật giáo nên mới chế ra Bồ Tát Giới; mục đích của Bồ Tát Giới là bộ sách có hình thức tổ chức người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho Phật Giáo Đại Thừa. Phần thứ nhất là khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn, nhưng sự thật là phục vụ cho quý Thầy Đại thừa: Bồ Tát Giới là một bộ sách khuyến dụ Phật tử để lừa công sức và lừa của cải, tiền bạc của họ; Bồ Tát Giới là một loại kinh sách với thâm ý diệt Phật Giáo, quý vị đọc cho kỹ lại bộ sách thì mới thấy rõ âm mưu thâm độc của Phật Giáo phát triển Đại Thừa. ...(ĐVXP-Tập 8)
    IX). Phản Biện:
    1). Trình bày sơ lược Kinh Phạm Võng
    Kinh Phạm Võng nói về Giới luật cho những người tu hành Bồ Tát đạo, muốn lãnh thọ Bồ Tát Giới, thì bất cứ ai, dù là Quốc Vương, Vương tử, Tể tướng, Bách quan, Tỷ khưu, Tỷ khưu ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Phạm thiên, chư thiên trong mười tám tầng trời Cõi Sắc, chư thiên trong sáu tầng Cõi Dục, những kẻ dâm nam, dâm nữ, nô bộc, tỳ thiếp, tám bộ quỷ thần, súc sanh cho đến những loài do biến hóa, miễn rằng tất cả họ hiểu được lời của vị pháp sư trao giới, thì hết thảy họ đều được thọ giới và có thể trở thành bậc thanh tịnh.
    Thời đức Phật còn tại thế, cứ mỗi nửa tháng tất cả các đệ tử của Phật đều phải tụng Giới, Giới tiếng phạn là Pratimoksaśìla phiên âm là Ba La Đề Mộc Xoa; Trung Hoa dịch là Bảo giải thoát, nghĩa là bảo trì cho người thực hành thoát ly sanh tử đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Do đó, giới là chiếc xe báu, là bậc thầy dẫn đường đi đến Niết Bàn.
    Bởi vậy, giới là cơ bản của vạn đức của người tu, là nền tảng của mọi sự trang nghiêm; nhưng giới pháp có ba loại: Một là giới pháp xuất gia gồm có: mười giới, hai trăm năm mươi giới. Hai là giới pháp tại gia gồm có: năm giới, tám giới. Ba là giới pháp cho hàng Bồ Tát xuất gia và tại gia, đó là Bồ Tát tam tụ tịnh giới gồm:
    - Nhiếp luật nghi giới: Đó là không phạm vào một Giới Trọng và Giới Khinh nào, nghĩa là quyết giữ không làm các việc ác, đình chỉ làm điều ác là trì giới, nếu làm điều ác là phạm giới.
    - Nhiếp thiện pháp giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết làm tất cả các việc lành, chính là phụng hành các điều thiện; như vậy làm điều Thiện là trì giới, không làm điều thiện là phạm giới.
    - Nhiêu ích hữu tình giới: Người thọ trì Bồ Tát giới quyết tu hạnh từ bi hỉ xả, làm tất cả các điều lợi ích cho tất cả chúng sanh, không một loài nào mà không hóa độ; như vậy thực hành sự hóa độ là trì giới, không thực hành sự hóa độ là phạm giới.
    Riêng về Bồ Tát Giới chúng ta nên biết có 2 loại Bồ Tát Giới:
    1. Hàng Bồ Tát Giới xuất gia có 2 loại Giới:
    - 10 Giới Trọng:
    Giới thứ 1: Sát sanh Giới thứ 2: Trộm cướp Giới thử 3: Dâm dục Giới thứ 4: Vọng ngữ (nói dối) Giới thứ 5: Bán rượu Giới thứ 6: Rao nói lỗi của bốn chúng Giới thứ 7: Tự khen mình chê người Giới thứ 8: Bỏn sẻn thêm mắng đuổi Giới thứ 9: Giận hờn không chịu sám hối Giới thứ 10: Hủy báng Tam bảo - 48 Giới Khinh: Giới thứ 1: Không kính Thầy, bạn Giới thứ 2: Uống rượu Giới thứ 3: Ăn thịt Giới thứ 4: Ăn ngũ vị tân Giới thứ 5: Không dạy người có tội sám hối Giới thứ 6: Không cung cấp, thỉnh pháp (khi Pháp Sư tới) Giới thứ 7: Giải đãi không nghe pháp Giới thứ 8: Tâm trái bỏ với Đại thừa. Giới thứ 9: Không chăm sóc người bệnh Giới thứ 10: Chứa khí cụ sát sanh Giới thứ 11: Đi sứ (cho sự thù nghịch) Giới thứ 12: Buôn bán phi pháp (buôn bán người và súc vật) Giới thứ 13: Hủy báng (các bậc danh đức, cha mẹ v.v…) Giới thứ 14: Phóng hỏa thiêu đốt (núi rừng, nhà cửa v.v…) Giới thứ 15: Dạy giáo lý ngoài Đại thừa Giới thứ 16: Vì lợi nói pháp lộn xộn Giới thứ 17: Cậy thế lực khuyên góp Giới thứ 18: Không hiểu mà làm thầy truyền giới Giới thứ 19: Nói lưỡi hai chiều Giới thứ 20: Không phóng sanh cứu vật Giới thứ 21: Sân hận báo thù sân hận, đem đánh trả đánh Giới thứ 22: Tâm kiêu mạn không thỉnh pháp Giới thứ 23: Khinh ngạo không tận tâm dạy Giới thứ 24: Không tu học Đại thừa Giới thứ 25: Tri chúng vụng về (Phải có lòng từ-bi, biết đủ) Giới thứ 26: Riêng thọ lợi dưỡng (phải trọng đãi khách Tăng) Giới thứ 27: Thọ biệt thỉnh (không dành riêng của cúngdàng) Giới thứ 28: Biệt thỉnh Tăng (theo thứ tự không thiên vị ai) Giới thứ 29: Tà mạng (như xem tướng, bùa chú, pháp thuật) Giới thứ 30: Làm quản lý cho bạch y (Bất kính ngày trai giới) Giới thứ 31: Không mua chuộc (Tượng, cha mẹ, người tu bị bán) Giới thứ 32: Tổn hại chúng sanh (bán những thứ có hại cho người và những thứ để giết người) Giới thứ 33: Tà mạng giác quán (coi đánh giết, cả với ca kịch) Giới thứ 34: Tạm bỏ Bồ đề tâm Giới thứ 35: Không phát nguyện (Kính thuận cha mẹ, Sưtrưởng) Giới thứ 36: Không phát thệ (giữ Giới của Phật) Giới thứ 37: Không được du hành nơi mạo hiểm, có nạn Giới thứ 38: Trái thứ lớp tôn ti Giới thứ 39: Không tu phước huệ Giới thứ 40: Không bình đẳng truyền giới (18 loại được thọ) Giới thứ 41: Vì lợi làm thầy Giới thứ 42: Giảng thuyết giới cho kẻ ác Giới thứ 43: Khởi tâm phạm giới không tâm hổ thẹn, Giới thứ 44: Không cúngdường kinhđiển (đọctụng, biênchép) Giới thứ 45: Không giáo hóa chúng sanh Giới thứ 46: Thuyết pháp không đúng như pháp. Giới thứ 47: Cấm chế không đúng pháp (đặt luật phi pháp) Giới thứ 48: Phá pháp (nói Giới của Phật để Vua kìm chế tu sĩ)
    2. Hàng Bồ Tát Giới tại gia:
    - 6 Giới Trọng:
    Giới thứ 1: Sát sanh Giới thứ 2: Trộm cướp Giới thử 3: Tà dâm Giới thứ 4: Vọng ngữ (nói dối) Giới thứ 5: Bán rượu Giới thứ 6: Rao nói lỗi của bốn chúng
    - 28 Giới Khinh:
    (1) Giới không cúng dường cha mẹ, sư trưởng (tội sơ ý).
    (2) Giới uống rượu (3) Giới không chăm sóc người bệnh (4) Giới không bố thí người đến xin (5) Giới không chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng (6) Giới khinh mạn người phá giới: (Tăng ni cư sĩ phạm Giới) (7) Giới không thọ sáu ngày bát quan trai giới mỗi tháng (8) Giới không đi nghe pháp (9) Giới thọ đồ dùng của chư Tăng (ngọa cụ, giường, ghế,...
    (10) Giới uống nước có trùng: (nước có trùng vẫn cố ý uống)
    (11) Giới đi một mình trong chổ nguy hiểm (12) Giới một mình ngủ đêm tại chùa ni (nam)chùa tăng (nữ) (13) Giới vì của đánh người (vì tiền của đánh chửi rủa người)
    (14) Giới bố thí thức ăn thừa cho bốn chúng. (15) Giới nuôi mèo, chồn (16) Giới nuôi súc vật: (nuôi voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà …)
    (17) Giới không chứa ba y, bình bát, tích trượng (để cúng dường chúng tăng)
    (18) Giới không lựa chỗ nước sạch, đất cao để trồng trọt (19) Giới buôn bán không chân chánh: (lật lọng, gian lận) (20) Giới hành dâm không đúng thời, không đúng chỗ (21) Giới gian lận thuế: (không nộp, khai thuế gian lận)
    (22) Giới vi phạm luật pháp quốc gia: (23) Giới có thực phẩm mới mà không cúng Tam bảo trước (24) Giới Tăng già không cho thuyết pháp mà tự cứ làm. (25) Giới đi trước năm chúng xuất gia (khi đi cùng đoàn) (26) Giới phân phối thức ăn cho chư Tăng không bình đẳng (27) Giới nuôi tằm: (nuôi tằm lấy tơ)
    (28) Giới đi đường gặp người bệnh không chăm sóc
    Bồ Tát không phạm Giới Trọng từ thân miệng đến ý; nếu tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc khen tặng sự làm, hoặc thấy người làm mà vui theo, đều là phạm Trọng Giới bị tội Ba La Di (ví như bị tử hình: Nam được tái thọ tất cả 7 lần, nữ chỉ một lần thôi). Nếu sau khi thọ giới mà Bồ tát vi phạm một trong các Giới Khinh thì phạm vào tội sơ ý, nếu không khởi tâm sám hối sẽ bị đọa lạc vì do nhiễm ô tạo nghiệp sinh tử luân hồi.
    Nếu người thọ giới Bồ-Tát mà không tụng điều giới nầy, thời người ấy không phải Bồ-Tát, không phải Phật-Tử. Bởi vậy Bồ-Tát cần nên học và hết lòng kính-trọng phụng-trì, nếu có người nào phạm Giới thời hiện đời người ấy không thể phát tâm Bồ-Đề, tất cả diệu quả Phật-Tánh đều bị chôn vùi và bị đọa trong ba ác-đạo.
    2). Phân tích và nhận xét:
    Trong 6 Giới Trọng của Hàng Bồ Tát tại gia đều nằm trong 10 Giới Trọng của hàng Bồ Tát xuất gia, không có gì sai biệt để nói.
    Trong 28 Giới Khinh của hàng Bồ Tát tại gia, có 18 điều đều là các Giới thông thường mà người tu hành xuất gia cũng phải giữ nên không thể cho rằng: “Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới là của Bà La Môn khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn và có thâm ý tiêu diệt Phật Giáo”. Chỉ có 10 điều Giới của hàng Bồ Tát tại gia liên quan đến hàng xuất gia, có lẽ cái mà tác giả Thông Lạc gọi là “Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có mục đích khuyến dụ đánh lừa người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho quý Thầy Đại thừa”, đó là các điều sau đây, chúng ta cùng phân tích:
    Giới (1) không cúng dường cha mẹ, sư trưởng: Điều này thuộc về đạo đức mà mọi người Phật tử phải có chứ không riêng gì người thọ Giới Bồ Tát.
    Giới (5) không chào hỏi lễ lạy các bậc tôn trưởng: Điều năm này cũng tương tự như điều một ở trên.
    Giới (6) khinh mạn người phá giới: Đây là điều để ngăn tâm kiêu mạn vì cho rằng mình hơn người tu phá giới.
    Giới (9) thọ dụng đồ dùng của chư Tăng: Đây là để giữ cho sự tự trọng của mỗi con người chứ không riêng gì với chư Tăng vậy.
    Giới (14) bố thí thức ăn thừa cho bốn chúng: Đây là để giữ không cho tâm khinh người tác hại.
    Giới (17) không chứa ba y, bình bát, tích trượng: Nếu chúng Tăng tới nhà thì đó là có phước, nên việc cúng dường cũng như qùa biếu đâu có gì là qúa tốn kém, vả lại cúng dường bố thí Tăng Ni sẽ mang lại nhiều phước hơn là bố thí cho người thường.
    Giới (23) có thực phẩm mới mà không cúng Tam bảo trước: Đây cũng giống như khi chúng ta có trái cây đầu mùa, hái những qủa đầu mùa đem cúng Phật và Tổ tiên Ông bà, đó là lòng hiếu thảo kính trọng vậy.
    Giới (24) Tăng già không cho thuyết pháp mà tự cứ làm: Vấn đề này phải biết tự trọng, vì nếu mình giỏi thì tự nhiên sẽ được mời thuyết pháp không nên tự cao tự đại.
    Giới (25) đi trước năm chúng xuất gia: Vì hàng xuất gia là đại diện cho Tăng bảo luôn luôn được sự kính trọng là lẽ thường.
    Giới (26) phân phối thức ăn cho chư Tăng không bình đẳng: Vì trong giáo điều của Phật có điều bình đẳng, nên phải tôn trong không vị tình riêng mà bất công trong việc bố thí cúng dàng.
    Xem như vậy, 10 điều mà hang Bồ Tát tại gia phải tuân theo đối với hàng tu sĩ xuất gia không có điều nào là qúa đáng. Lại nữa, Giới của Bồ Tát xuất gia cả về Giới Trọng (10 điều) và Giới Khinh (48 điều) đều nhiều hơn Giới của hàng Bồ Tát tại gia chỉ có 6 điều Giới Trọng và 28 điều Giới Khinh; như vậy sự giữ Giới của hàng Bồ Tát xuất gia khó hơn là của hàng Bồ Tát tại gia.
    Mặc dầu vậy, Tu sĩ xuất gia trì giới Bồ Tát xuất gia là điều không mấy khó, nhưng người tại gia trì giới Bồ tát tại gia là điều rất khó; bởi vì Bồ tát tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc nên rất khó hành trì. Do đó Bồ Tát tại gia nào có thể chí tâm thọ trì giới pháp đã thọ một cách hoàn hảo, người ấy là hương thơm vi diệu, là hoa sen trong sạch, là trân báu chân thực và là bậc đại trượng phu trong hàng Bồ tát tại gia.
    Do đó cho rằng: “Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới là của Bà La Môn khuyến dụ người cư sĩ thọ Bồ Tát Giới để góp công góp của xây dựng đạo pháp của Bà La Môn và có thâm ý tiêu diệt Phật Giáo. Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới có mục đích khuyến dụ đánh lừa người cư sĩ thành một tổ chức để phục vụ cho quý Thầy Đại thừa, Bồ Tát Giới là một loại kinh sách với thâm ý diệt Phật Giáo, đó là âm mưu thâm độc của Phật Giáo phát triển Đại Thừa” là nói sai lạc sự thật đã được phơi bày rõ ràng ở trên rồi chứ chẳng phải là nói suông đâu.
    Phật tử tại gia phát tâm tu hạnh Bồ Tát giới là để rộng bề làm Phật sự và hóa độ chúng sinh; mặt khác, Phật tử tại gia có toàn quyền chọn lựa muốn thọ giới Bồ Tát hay không là tùy tâm người Phật tử, không ai có quyền bắt ép hay dụ dỗ người Phật tử thọ Bồ Tát giới; nếu người Phật tử cảm thấy không thể thi hành theo Bồ Tát Giới thì không nên thọ giới này, mà người đó vẫn là Phật tử quy y và thực hành ngũ giới và có thể tu hành bất cứ pháp môn nào thích hợp để đạt mục đích thoát khỏi sinh tử luân hồi.
    X). HT TTL: Kinh Duy Ma Cật là kinh phát triển của Đại Thừa. Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình; nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật. Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ cũng lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....(ĐVXP-Tập 8)
    X). Phản Biện:
    Kinh Duy Ma Cật là kinh của Bắc Truyền; nếu nói “Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” thì không hoàn toàn đúng, vì nếu có đi nữa cũng chỉ như thêm màu sắc cho hợp với từng địa phương, nhưng cốt lõi của các Kinh vẫn giữ đúng những gì đức Phật đã nói và đó là lý do tại sao Bắc Truyền ngày nay đã lan rộng không những chỉ ở Á châu mà ra khắp Âu Mỹ Úc Phi của thế giới. Tại sao như thế, vì Phật giáo Bắc Truyền đi đúng với những tinh hoa mà đức Phật đã dạy, nó thích hợp với khoa học và nhu cầu tâm linh của con người tiến bộ trong giai đoạn hiện tại.
    Muốn biết Kinh Duy Ma Cất có gì đặc biệt, chúng ta phải lược sơ qua nội dung của Kinh, chỉ đề cập tới những gì chúng ta cần phải học phải nhớ và thực hành thì mới biết được sự thật như thế nào:
    - Thứ nhất về Phẩm Phật Quốc Tịnh Độ: Đức Phật giảng về thế nào là sự thanh tịnh của Phật độ, sự thanh tịnh tâm của một vị Bồ Tát; nếu người tâm tịnh bèn thấy cõi tịnh công đức trang nghiêm, còn ngươi tâm uế thì thấy cõi đầy nhơ nhớp xấu xa bất tịnh. Tỉ dụ như Tỳ Kheo tu theo Nam Truyền được qủa dự lưu Tu Đà Hoàn, vì chưa hết cấu uế nên chưa được thanh tịnh, nên vẫn phải tái sinh lại cõi người (7 lần); nếu đã đạt qủa A La Hán thì đạt Niết Bàn thanh tịnh mà không còn tái sinh lại cõi người vậy.
    - Thứ hai: Phẩm phương tiện: Đại Bồ Tát Duy Ma Cật hiện thân cư sĩ giàu có và bị bệnh trong thành Tỳ Da Ly, Cư sĩ hay đến gặp mọi người, tùy duyên giúp đỡ giáo hóa; vì vậy tất cả nhân dân từ vua quan đến hàng cùng đinh đều đến thăm ngài. Nhân dịp này cư sĩ Duy Ma Cật trình bày cho họ những khuyết điểm không thể tránh của thân thể, đặc điểm của thân Phật, và do đó mọi người nên gắng sức tu tập để đạt được thân Phật. Đây là biểu hiện phương tiện của Chư Phật và Chư Đại Bồ Tát trong việc hóa độ chúng sanh
    - Thứ ba: Phẩm chấp thật lời nói và văn tự: Phật biết ý Cư sĩ Duy Ma Cật muốn được Phật đoái tưởng nên Ngài lần lượt bảo 10 đại đệ tử và sau là 4 vị Bồ Tát đại diện Phật đi thăm Cư sĩ, nhưng hết thảy đều hổ thẹn từ chối không dám đại điện đi vì họ đã gặp và tự biết không đủ khả năng đối đầu tài biện luận của vị Cư sĩ. Đây là tài biện luận của Cư sĩ Duy Ma Cật, vì Ngài đã chứng nhập thật tướng, thấu nhập bí tạng Chư Phật, nên khó bì đối đáp. Vì thế: trong phẩm này, các lời nói của Ngài Duy Ma Cật có nhiều điều để học hỏi.
    Chúng ta hãy trích một đoạn Kinh Phật bảo Tôn giả Tu Bồ Ðề đến thăm bệnh để xem cách phá chấp thật của Bồ Tát Duy Ma Cật về lời nói văn tự. Tu Bồ Ðề bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con chẳng xứng đáng đến thăm bệnh Duy Ma Cật. Tại sao? Con nhớ lại khi xưa vào nhà Ngài khất thực. Ngài lấy bát con đựng đầy cơm, bảo rằng: Này Tu Bồ Ðề! Ðối với sự ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng, các pháp bình đẳng thì sự ăn cũng bình đẳng, khất thực như thế mới được lấy ăn.
    Vậy nếu Tu Bồ Ðề chẳng đoạn dứt tham sân si, cũng chẳng cùng với tham sân si, chẳng hoại nơi thân mà tùy nhất tướng (Nhất tướng vô tướng), chẳng diệt si ái mà được giải thoát, dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, chẳng trói cũng chẳng mở, chẳng thấy Tứ Ðế, phi chẳng thấy Tứ Ðế, phi đắc quả, phi bất đắc quả, phi phàm phu, phi lìa phàm phu, phi bậc thánh, phi chẳng bậc thánh, dù thành tựu tất cả pháp mà lìa các pháp tướng, mới được lấy ăn. Nếu Tu Bồ Ðề chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, bọn lục sư (sáu phái) ngoại đạo là thầy của ông, vì họ xuất gia bị đọa, ông cũng đọa theo, mới được lấy ăn.
    LƯỢC GIẢI CỦA HÒA THƯỢNG DUY LỰC:
    Bọn lục sư ngoại đạo là thầy của ông, vì họ xuất gia bị đọa, ông cũng đọa theo:
    1. Thầy có nhiều loại. Thầy Bổn Sư, thầy dạy đạo, thầy y chỉ nuôi cho ăn học, thầy dạy chữ nghĩa thế gian, v.v...,chẳng phải chỉ có thầy Bổn Sư mới được gọi là thầy.
    2. Theo Trí Giả Ðại Sư có ba loại ngoại đạo.
    - Thứ nhất là ngoại đạo chính thức, tu hành thành tựu, được sinh cõi Trời chẳng bị đọa.
    - Thứ hai là ở nơi Phật pháp xuất gia mà hành theo pháp ngoại đạo thì phải bị đọa.
    - Thứ ba là học Phật pháp thành ngoại đạo, vì hiểu lầm ý Phật, cho ý mình hiểu là đúng chính pháp mà dùng để dạy người, củng bị đọa như ngoại đạo thứ hai vậy.
    Theo sự thật, trong Phật pháp có một số người bổn sư bị đọa mà đệ tử được kiến tánh; chẳng phải bổn sư bị đọa thì đệ tử phải đọa theo. Nguyên nhân bị đọa là bởi vì hành tà pháp mà cho là chính pháp, làm cho chúng sanh hiểu lầm nên mới phải bị đọa; đây là lược giải theo có nghĩa lý. Nhưng đoạn này Ngài Duy Ma Cật cố ý nói ra những lời vô nghĩa lý, ấy chỉ là phương tiện dùng để phá những kẻ chấp thật văn tự lời nói của chư Phật chư Tổ mà thôi.(Lược giải hết)
    Nếu Tu Bồ Ðề tâm nhập tà kiến, chẳng đến bờ bên kia, trụ nơi tám nạn (Là tám nơi không lợi cho việc đạt giác ngộ: 1- Địa ngục, 2- Súc sinh, 3- Ngạ Quỷ, 4- Trời trường thọ, 5- Biên giới hẻo lánh, 6- Căn khuyết (mù câm), 7- Tà kiến (thấy sai), 8- Thời không có Phật, không Phật pháp), chẳng ra khỏi nạn, lìa pháp thanh tịnh mà đắc vô tranh tam muội, tất cả chúng sanh cũng đắc tam muội ấy, kẻ bố thí ông chẳng gọi là phước điền, kè cúng dường ông phải đọa tam ác đạo (Địa ngục, Ngạ qủy, Súc sinh). Ông cùng ma chúng bắt tay nhau làm bè bạn, ông cùng ma chúng với những trần lao đồng nhau chẳng khác, nơi tất cả chúng sinh có tâm oán ghét, báng Phật hủy pháp, chẳng nhập tăng chúng, cuối cùng chẳng thể diệt độ, ông nếu như thế mới được lấy ăn.
    Bạch Thế Tôn! Khi nghe lời dạy này, con cảm thấy ngơ ngác, chẳng hiểu Ngài nói gì, chẳng biết trả lời thế nào, liền để bát lại muốn ra khỏi nhà; lúc ấy Ngài Duy Ma Cật bảo: Này Tu Bồ Ðề! Cứ lấy bát đi đừng sợ, ý ông thế nào nếu đem việc này hỏi người huyễn hóa của Như Lai làm ra, người ấy có sợ chăng?" Con đáp: Không ạ! Ngài Duy Ma Cật nói: Tất cả các pháp, tướng như huyễn hóa, nay ông cũng chẳng nên sợ, tại sao? Tất cả ngôn thuyết đều chẳng lìa tướng huyễn hóa, cho nên người trí chẳng dính mắc văn tự, nên chẳng có sợ; vì tánh của văn tự tự lìa văn tự, chẳng chấp văn tự ấy mới là giải thoát, tướng giải thoát đó tức là các pháp vậy; khi ngài Duy Ma Cật thuyết pháp này, hai trăm thiên tử đắc pháp nhãn tịnh, vì thế nên con không xứng đáng đại diện Thế Tôn đến thăm bệnh Ngài.
    L ƯỢC GIẢI CỦA HÒA THƯỢNG DUY LỰC:
    Kinh Kim Cang nói: Nếu có ai nói Như Lai có thuyết pháp là phỉ báng Phật, vì pháp lìa văn tự. Nhưng chúng sanh học Phật đều đuổi theo văn tự để tìm hiểu chân lý, Phật rất sợ chúng sanh nhận lầm như thế, kẹt vào lý chướng nên vừa thuyết xong liền phá. Ðoạn Tu Bồ Ðề thăm bệnh này là chuyên dùng những lời vô nghĩa để phá những người chấp thật vào văn tự lời nói trong kinh điển; Tu Bồ Ðề chẳng phải không biết mà sợ, vì hợp tác với Duy Ma Cật nên thị hiện sợ, để cho Duy Ma Cật giảng rõ văn tự và lời nói là tướng huyễn hóa; chẳng chấp văn tự ấy là giải thoát, tướng giải thoát đó tức là các pháp vậy. (Lược giải hết)
    Đây là bài học qúy giá cho tất cả những người tu theo Phật pháp không phân biệt Nam Tông hay Bắc Tông, không phân biệt tu pháp môn này hay pháp môn kia, không kể nam nữ, già trẻ v.v…, tất cả đều nên học và hành theo những lời dạy này.
    - Thứ tư: Phẩm Tánh Không: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi vâng lời yêu cầu của Phật đi thăm Bồ Tát bệnh. Khung cảnh là một căn phòng nhà của cư sĩ Duy-ma-cật, nhỏ bé nhưng có thể dung nạp vô số Bồ Tát, thiên, nhân và vô số chúng sinh khác đến nghe cuộc đàm thoại qúy hiếm giữa hai vị được tán thán là trí huệ đệ nhất. Cuộc đàm thoại giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật về nhiều đề tài với sự phân tích sâu sắc về bệnh tình của Duy-ma-cật và lĩnh vực hoạt động (sa. gocara) của một Bồ Tát, và bắt đầu là nói về tính không (sa. śūnyatā); chúng ta trích một đoạn Kinh rất hấp dẫn này như sau:
    “Lúc ấy, tám nghìn Bồ-Tát, Thanh-Văn, trăm nghìn Trời Người đều muốn đi theo; do đó Văn-Thù cùng với vô số Bồ-Tát, Trời Người như thế cùng nhau cung kính vào thành Tỳ-Da-Ly.
    Cư-sĩ Duy-Ma-Cật biết Văn-Thù Bồ-Tát cùng đại chúng đến, bèn dùng thần-lực đem đi tất cả đồ đạc và người hầu, trong phòng trống rỗng chỉ còn có một giường nằm bệnh; Văn-Thù đi đầu vừa bước vào, Cư-Sĩ liền nói:
    - Khéo đến Văn-Thù, Tướng (hình dạng) chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy (không mà là có).
    Bồ-Tát Văn-Thù đáp:
    - Đúng thế Cư-Sĩ! Nếu đến rồi thì chẳng đến nữa, nếu đi rồi thì chẳng đi nữa; vì nói đến thì chẳng từ đâu đến, nói đi thì chẳng đi về đâu (ý nói Phật tánh cùng khắp chỗ nào cũng có, lúc nào cũng hiện diện), chỗ được thấy chẳng còn thấy nữa (có mà là không); hãy bỏ qua việc này, nay bệnh của Cư-Sĩ có bớt mà chẳng thêm không? Thế-Tôn gửi lời ân cần vô lượng để hỏi thăm Cư-Sĩ. Bệnh do đâu mà khởi, làm thế nào mới khỏi được?
    Cư-sĩ Duy-Ma-Cật đáp:
    - Từ “Si” có “Ái” thì bệnh “Ngã” sinh, vì tất cả chúng-sanh bệnh nên tôi bệnh, tất cả chúng-sanh không bệnh thì tôi khỏi bệnh, tại sao? Bồ-Tát vì độ chúng-sanh nên vào sinh tử, có sinh tử thì có bệnh; nếu chúng-sanh lià được sinh tử thì Bồ-Tát chẳng còn bệnh, nói bệnh này do đâu khởi, bệnh của Bồ-Tát do đại Bi khởi…”
    Ở đoạn này hai vị Đại Bồ Tát mở màn đã đi ngay vào “tánh không”, nói thân mà dùng tâm, Phật tánh để hiển bày trong câu chuyện, nếu hiểu ra thì rõ ràng là câu chuyện tuyệt diệu có một không hai; như thế mà tác giả Thông Lạc nói rằng: “Kinh này không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ bị lường gạt tưởng là rồng thật” thì cũng lạ cho lời nói bừa bãi thiếu nghiên cứu quán sát của một người học Phật.
    - Thứ năm: Phẩm Bất Khả tư nghị: Nhân việc Tôn giả Xá-lợi-phất suy nghĩ đến chỗ ngồi trong căn phòng nhỏ, Duy-ma-cật biết ý nên nói việc đến là để phát tâm cầu pháp và Ngài giảng ý nghĩa của việc cầu pháp (đây là một bài học qúy giá). Cũng vì vấn đề chỗ ngồi mà Cư sĩ thị hiện cõi Tu-di tướng (san. merudhvāja) để mọi người thấy và được Như Lai Tu-di Đăng Vương (san. merupradīparāja) đưa đến 32 nghìn toà ngồi sư tử to lớn; nhân việc này, Cư sĩ Duy-ma-cật giảng sự giải thoát bất khả tư nghị (những việc không thể nghĩ tới và không thể bàn luận) (sa. acintyavimokṣa) của Chư Phật và đại Bồ Tát (đây cũng là một bài học qúy giá).
    - Thứ sáu: Phẩm Quán Chúng Sanh: Cuộc luận đàm giữa Văn-thù-sư-lợi và Duy-ma-cật được tiếp nối, bây giờ những điểm quan trọng của một Bồ Tát được đề cập đến. Như Duy-ma-cật giảng một trường hợp nghịch lí là Bồ Tát một mặt xem chúng sinh không thật hiện hữu, nhưng mặt khác vẫn phát triển lòng từ bi hỉ xả dành cho chúng sanh; còn đối với sinh tử đáng sợ, Bồ Tát nên y nơi lấy vô trụ làm gốc và từ gốc vô trụ lập tất cả các pháp. (Ở đây có những đều đáng để học và hành, đó là quán chúng sanh không thật mà chỉ là gỉa tạm có thôi, là mở lòng Từ Bi Hỉ Xả với tất cả chúng sanh, và vô sở trụ đối với tất cả các pháp).
    Phần sau đề cập đến một Bồ Tát thị hiện là một Thiên nữ rải hoa, biến hóa nữ thành nam và nam thành nữ, và đối đáp với Tôn giả Xá Lợi Phất để phá chấp ngã chấp pháp, (Ở đây cũng là một bài học hữu ích).
    - Thứ bảy: Phẩm Phật Đạo: Cư sĩ Duy Ma Cật nói rằng: Nếu Bồ Tát hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo; thế nào là hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo? Cư sĩ Duy Ma Cật giải thích rằng: Nếu Bồ Tát gây tội ngũ nghịch mà chẳng có buồn giận, đến nơi địa ngục mà chẳng có tội cấu, đến nơi súc sanh mà chẳng có vô minh kiêu mạn, đến nơi ngạ quỷ mà đầy đủ công đức, đến cõi sắc giới và vô sắc giới mà chẳng cho là thù thắng, thị hiện tham dục mà lìa các nhiễm đắm, thị hiện sân hận mà đối với chúng sanh chẳng có quái ngại, thị hiện ngu si mà dùng trí huệ điều phục tâm mình, thị hiện tham lam bỏn xẻn mà bỏ tất cả của cải, chẳng tiếc thân mạng. Đó là lời giảng của Cư sĩ Duy Ma Cật về hành nơi phi đạo gọi là thông đạt Phật đạo.
    Còn hỏi thế nào là hạt giống Như Lai?
    Cư sĩ trả lời: Có thân là hạt giống Như Lai. Vô minh có ái là giống, tham sân si là giống, tứ điên đảo là giống (Bốn điên đảo: 1. Vô thường chấp thường; 2. Khổ cho là vui; 3. Vô ngã chấp là ngã (ta); 4. Bất tịnh cho là tốt đẹp), ngũ cái là giống (Gồm: Tham ái, sân hận, hôn trầm - thùy miên, trạo hối - phóng dật, nghi ngờ), lục nhập là giống (Sắc với mắt, thanh với tai, hương với mũi, vị với lưỡi, tiếp xúc với thân, pháp với ý), thất thức xứ (5 thức đối với 5 giác quan, ý thức và Mạt Na thức) là giống, bát tà pháp là giống (tám tà là: tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà mệnh, tà nghiệp, tà tinh tấn, tà niệm, tà định), cửu não là giống {Buồn (não), khổ (khổ), đắng cay (tắng), hao tổn (nhuế hại), sợ hãi (kỵ ), ganh ghét (tật), mất mát (suy), nhục nhã (cơ), chê bai (hủy)}, thập bất thiện đạo là giống (10 điều ác). Nói tóm lại, sáu mươi hai kiến chấp và tất cả phiền não đều là hạt giống Phật. Nếu kẻ thấy vô vi vào chánh vị thì chẳng thể còn phát Tâm Vô Thượng Bồ Ðề nữa. Ví như chỗ gò cao chẳng thể sanh hoa sen, mà nơi bùn lầy ẩm thấp mới sanh hoa sen. Cũng thế, kẻ thấy pháp vô vi vào chánh vị thì chẳng còn có thể sanh khởi Phật pháp, trong bùn lầy phiền não mới có chúng sanh sanh khởi Phật pháp thôi. Như gieo giống nơi hư không thì chẳng thể sanh khởi, ở đất phân bùn mới tốt tươi được; cũng thế, kẻ vào vô vi chánh vị chẳng sanh khởi Phật pháp, kẻ có ngã kiến như núi Tu Di còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, sanh khởi Phật pháp. Nên biết: tất cả phiền não là hạt giống Như Lai, ví như chẳng xuống biển cả thì chẳng được bảo châu vô giá; cũng thế, chẳng vào biển phiền não thì chẳng thể đắc ngọc báu Nhất Thiết Trí vậy.
    Lúc ấy Ðại Ca Diếp tán thán rằng:
    -Lành thay! Lành thay! Lời này rất đúng; thật như lời ông nói, bọn trần lao mới là hạt giống của Như Lai, nay chúng tôi chẳng còn có thể phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề. Người mang tội ngũ vô gián còn có thể phát tâm sanh nơi Phật pháp, mà chúng tôi đây trọn chẳng thể phát, ví như những người ngũ căn đã hư, đối với ngũ dục chẳng còn cảm xúc. Cũng thế, hàng Thanh Văn đã dứt phiền não trói buộc, xem Phật pháp chẳng còn ích lợi gì nên chẳng phát nguyện nữa; Cho nên, Phàm phu ở nơi Phật pháp có biến chuyển mà Thanh Văn thì không, tại sao? Phàm phu nghe Phật pháp dược sanh khởi đạo tâm vô thượng, chẳng dứt hạt giống Tam Bảo; dẫu cho Thanh Văn suốt đời nghe Phật pháp và được sức vô úy v.v... chung qui chẳng thể phát đạo tâm vô thượng.
    Chính Phẩm này nói lên một vấn đề mà nhiều người theo Nam Truyền buồn lòng vì không để ý câu chuyện của Kinh Duy Ma Cật có trước khá lâu. Thời nói Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật chưa giảng cho hàng Thanh Văn về Đại thừa, nhưng về sau Ngài mới giảng và sau khi đó thì Ngài thọ ký cho các đệ tử Thanh Văn sẽ thành Phật. Vì vậy cho nên những người không nhận chân vấn đề thì thường hay báng bổ nhau , nếu hiểu rồi thì từ nay trở đi nên bỏ qua mọi chuyện “sĩ diện không phải chỗ” thì đâu còn việc bài bác nhau làm cho tâm vẩn đục khiến không thể tu hành được.
    Một bên thì bảo Nam Truyền là Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ) như hạt giống bị cháy không thể thành Phật được là dựa vào phẩm này, mà không để ý rằng về sau chính Đức Phật đã thọ ký cho hàng Thanh Văn thành Phật thì tiêu nha ở chỗ nào? Còn những người theo Nam Truyền cũng không hiểu rằng kinh Duy Ma Cật đã nói từ trước, mà cho rằng những lời của Ngài Duy Ma Cật là phỉ báng hàng Thanh Văn, do đó đã có những lời rằng “Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” là không hiểu và bóp méo sự thật.
    - Thứ tám: Phẩm Pháp Môn Không Hai (Bất Nhị): Cuộc sống của con người có nhiều đau khổ và mãi quẩn quanh trong luân hồi sinh tử là do chấp trước hai thái cực đối nhau; ví dụ như chấp cái ta nên sinh ra chấp cái của ta. Nếu không còn chấp trước thì không còn dính mắc, không dính mắc thì không còn đau khổ; do đó nhập Pháp Môn không hai là để giải quyết việc vướng mắc của sự đối đãi. Nếu mọi sự đều hết dính mắc ràng buộc như Tám thứ Gió (Bát Phong): Được (Lợi), Mất (Suy), Chê (Hủy), Khen (Dự), Vinh (Xưng), Nhục (Cơ), Buồn (Khổ), Vui (Lạc); tám thứ gió này từng cặp đối đãi nhau, chúng làm cho con người thành điên đảo, nếu hết vướng mắc thì Phật tánh mới có thể hiển lộ.
    Trong phẩm này ba mươi mốt vị Bồ Tát trình bày quan điểm của mình về pháp môn bất nhị, phần Bồ Tát Văn Thù nói: “Nơi tất cả pháp vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp”; còn Cư sĩ Duy Ma Cật im lặng không nói để thể hiện nhập pháp môn bất nhị, vì chẳng có văn tự lời nói mới là chân nhập pháp môn không hai (Đây là một bài học qúy giá mà đã có lần Lục Tổ Huệ Năng trả lời câu của Pháp sư Ấn Tông hỏi “Tại sao Ngũ Tổ không truyền thọ chi cả, chỉ luận môn kiến tánh thành Phật mà không luận pháp thiền định và pháp giải thoát” là vì Phật tánh chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường nên là Pháp chẳng hai).
    Phải nói thẳng ra rằng: chẳng có Tôn giáo nào trên thế giới loài người này có được lý thuyết Không Hai này, mà thuyết Bất Nhị là đặc thù của Phật pháp, nên nói rằng “Kinh Duy Ma Cật bị ảnh hưởng của nhiều Tôn giáo khác nhau và những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của mình” là cố nói cho có nói mà không hiểu ý nghĩa của Kinh. Phẩm Bất Nhị này mọi người tu hành nên học và hành, không kể Nam truyền hay Bắc truyền, không kể tu pháp môn nào, nếu hiểu biết rõ ràng và hành trì miên mật sẽ rất mau thấy đạo vậy.
    - Thứ chín: Phẩm Phật Hương Tich: Nhân tứ chúng sắp tới giờ ăn nên Tôn giả Xá Lợi Phất tự hiện nghĩ đến việc ăn để Cư sĩ có dịp dùng thần thông trong việc thị hiện cõi Chúng Hương và việc thị hiện Bồ Tát huyển đi thỉnh một bát cơm hương đặc biệt của Phật Hương Tích, có vô số Bồ Tát cõi ấy cùng đi theo, mang về cho đại chúng ăn no đủ. Sau đó Cư sĩ trao đổi với các Bồ Tát cõi Chúng Hương về cách dạy của Phật Hương Tích chẳng dùng lời nói văn tự, chỉ dùng mùi diệu Hương khiến các Trời Người được vào luật hạnh; còn cõi Ta Bà này chúng sanh cang cường khó dạy, nào là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, là chỗ tai nạn, là nơi sanh của kẻ ngu. Hễ thân khẩu ý hành việc tà, thì bị quả báo dữ, nên Phật Thích-ca thuyết pháp những lời cang cường để điều phục họ như Lục độ, Tứ nhiếp pháp…
    - Thứ mười: Phẩm Hạnh của Bồ tát: Phẩm này trình bày về việc Cư sĩ Duy Ma Cật đưa các Bồ Tát cõi Chúng Hương và đại chúng tới tham kiến Phật Thích Ca. Nhân việc này Tôn giả A Nan khi ngửi thấy mùi hương thơm đặc biệt và được Cư sĩ giảng ý nghĩa của Cơm cõi Chúng Hương. Tôn giả cũng được Đức Phật giảng dạy về trí huệ biện tài bất khả tư nghị của Chư Phật và các sự giáo hóa khác nhau của các cõi Phật đều tùy duyên mà làm Phật sự để dẫn dắt chúng sinh.
    Và cũng nhân dịp này, Đức Thích Ca giảng cho các Bồ Tát cõi Chúng Hương về pháp môn Hữu tận Vô tận giải thoát bằng cách không tận Hữu vi mà cũng không trụ Vô vi. Không tận Hữu vi là chẳng bỏ đại Từ đại Bi… Không trụ Vô vi là Quán pháp vô thường mà chẳng chán pháp thiện, quán thế gian khổ mà chẳng ghét sanh tử, quán pháp vô ngã mà dạy người chẳng thôi nghỉ…; ở đây cũng là bài học hữu ích cần thiết cho mọi Phật tử chúng ta học và hành chứ không riêng gì các vị Bồ Tát cõi Chúng Hương đâu.
    - Thứ mười một: Phẩm Bất Động Như Lai: Phẩm này Đức Phật hỏi Cư sĩ: Ông muốn gặp Như Lai, mà lấy gì để quán Như Lai? Duy Ma Cật thưa: “Như quán thật tướng tự thân, quán Phật cũng vậy. Con quán Như Lai, việc trước chẳng đến, việc sau chẳng đi, nay cũng chẳng trụ (lúc nào cũng như như). Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như (như tự tánh), chẳng quán sắc tánh; cho đến thọ tưởng hành thức cũng chẳng quán theo như thế (nghĩa là các thứ đó không còn dính mắc nên không phải quán nữa). Tứ đại (đất nước gió lửa) chẳng khởi đồng như hư không, Lục nhập vô tụ (sáu trần đối với sáu căn không nhóm họp chứa chất) siêu việt lục căn; chẳng ở tam giới (Trời, Thần, Người), tam cấu đã lìa (tham sân si), tùy thuận ba cửa giải thoát…”; tóm lại, tức là quán thân Như Lai như thể không hiện hữu. Do đó, nếu người nào thích hợp với Pháp Môn quán này thì nên tu theo thực hành kiên cố nhuần nhiễn cách quán Như Lai mà Cư sĩ trình với đức Phật, thì người đó sẽ thấy Như Lai của chính mình vậy; đây là bài học qúy giá vô cùng.
    Cũng vì việc Tôn giả Xá Lợi Phất thắc mắc về nguồn gốc của Cư sĩ mà Đức Phật cho biết cõi Diệu Hỉ có Đức Phật Bất Động và do đó bốn chúng ước ao thấy cõi ấy, nên Đức Phật yêu cầu Cư sĩ cho đại chúng được thấy. Vâng lời Phật Thích Ca, Cư sĩ thị hiện Thần lực đưa cả cõi Diệu Hỉ có Phật Bất Đông và vô số Bồ Tát, Thanh Văn đến gần, mọi người đều thấy rõ ràng.
    Ở đây, chúng ta thấy Thần lực của Chư Phật và Chư đại Bồ Tát làm các việc bất khả tư nghị như trên cũng ví như ngày nay khoa học tiến bộ có thể chụp hình từ rất xa nhưng chẳng phải xa đâu như sao Hỏa chẳng hạn rồi truyền về trái đất cho mọi người đều thấy vậy thôi, không có gì nghi ngờ cả. Còn các Đại Thánh thì có thể tạm gọi là chụp hình ở cách xa vô lượng giải Ngân hà, xa hàng tỷ năm của tốc độ ánh sáng, rồi đem về cho mọi người thấy chỉ trong giây phút thôi, rõ ràng không thể suy nghĩ bàn luận gì được các việc làm của Phật và Đại Bồ Tát.
    Kết luận: Kinh Duy Ma Cật với những đặc biệt về tâm tịnh thì sinh đến nơi tịnh, tâm uế thì sinh nơi uế, về phá chấp thật lời nói và văn tự; về tánh không để phá ngã chấp và pháp chấp. Ngoài ra Kinh còn dạy Pháp Môn Không Hai để trị đối đãi điên đảo của thế gian, và nhiều vấn đề đã nêu ở trên chứng tỏ những lý thuyết cao siêu của Đạo Phật; như vậy nếu nói “Kinh này, Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ không có gì đặc biệt riêng, mà chỉ khéo dùng những danh từ thật kêu giống như vẽ rắn thêm chân thêm râu, khiến cho mọi người bị lường gạt tưởng là rồng thật, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....” thì thật là bất công vì chẳng hiểu Kinh Duy Ma Cật một chút nào nên tuyên bố bừa bãi như thế.
    Xin lược trích thêm phần Cư Sĩ Duy Ma Cật tại Ấn Độ thời Phật do Hòa Thượng Thích Trí Quang viết trong phần Tổng Quan kinh Duy Ma Cật như sau:
    “Ngài Thái Hư ghi: Đời Đường có Vương Huyền Sách từng đến Ấn độ, bấy giờ nhà của ngài Duy ma vẫn còn. Ông vốn ngờ kinh này nói nhà này nhỏ mà chứa được 900 vạn trời người và 32000 tòa sư tử cao lớn, tòa sư tử thì xác định lớn, mà nhà không biết nhỏ đến đâu. Ông lấy hốt mà đo nhà thì 4 phía đều được 10 hốt, mỗi hốt 1 thước, tức 1 trượng, do vậy mà tán thán thần lực của ngài Duy Ma. Ngài Huyền Trang cũng đến Ấn độ, từng đến nhà ngài Duy ma, nhìn cái nhà nhỏ, bụng nghi kinh nói không thật, muốn viết lên vách nhà để tỏ ý mình. Nào ngờ chấm bút muốn viết thì vách với người cách nhau mãi mà không gần được, sờ cũng không được, gần cả buổi mà không viết được chữ nào; Ngài gác bút mà tán thán di tích còn thế, huống chi thần lực xưa kia (Thái hư toàn thư, 866).
    Tham chiếu các kinh khác, như kinh Nguyệt Thượng Nữ chép: ngài Duy Ma họ Lôi, vợ là Kim Cơ, con trai là Thiện Tư, con gái là Nguyệt Thượng. Vậy ngài Duy Ma là người thật đời Phật (Thái hư toàn thư 903).
    Vài ghi chép trên đây chứng tỏ ngài Duy ma không những là người thật thời Phật, mà còn là vị đại Cư sĩ, đại bồ tát đến có thể gọi là bồ tát bất khả tư nghị. Tuy nhiên, tại sao sách vở của Phật giáo nguyên thỉ ghi về đệ tử tại gia danh tiếng của Phật không thấy ghi về ngài, tất phải có một sự húy kỵ nào đó (xin thưa: húy kỵ vì đời sau hiểu lầm Ngài hạ thấp hàng Thanh Văn nên vứt bỏ Ngài khỏi kinh tạng Nam Truyền cho rảnh mắt (!) vậy thôi, có biết đâu rằng ngài Duy Ma Cật là người quyét dọn dẹp đường xá cho quang đãng sạch sẽ để Phật đi được dễ dàng, vì kinh Duy Ma Cật có trước khi Phật giảng cho hàng Thanh Văn lên một tầng cao hơn và sau đó Phật thọ ký cho hàng Thanh Văn sẽ thành Phật vậy)”
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  3. #3

    Mặc định

    Dự báo thời tiết, sẽ có bão siêu cấp trong vài ngày tới.
    Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ.

  4. #4

    Mặc định

    Dài quá xá là dài luôn @@..Có thêm hình ảnh phân đoạn cho dễ nhìn thì hay hơn nhỉ,hjx hjx
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI CỨU KHỔ CỨu NẠN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
    NAM MÔ ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT

  5. #5

    Mặc định

    HT Thích Thông Lạc có kiến thức đúng về lịch sử Phật Giáo .
    Tuy nhiên về sự kiện này chúng ta cũng đừng nên quá khó khăn . Cứ xem Đại Thừa là một tôn giáo khác đi , cũng có sao đâu .
    Và ngược lại Đại Thừa nên thật sự thận trong khi gọi giáo lý của Đức Phật là Tiểu Thừa, hoặc tu chưa tới , hoặc chưa rốt ráo . Giấy chẳng gói được lửa do vậy chớ có manh động mà lại gần , lúc cháy rồi thì chỉ có thành tro .
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

  6. #6
    Lục Đẳng Avatar của vothuong1978
    Gia nhập
    Dec 2011
    Nơi cư ngụ
    Thánh Địa Tâm Linh
    Bài gởi
    16,168

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    Dự báo thời tiết, sẽ có bão siêu cấp trong vài ngày tới.
    có mới nói nha...để còn hẹn người iêu nấu lẩu....:kiss:
    Thị Trấn Về Đêm...

  7. #7
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    Dự báo thời tiết, sẽ có bão siêu cấp trong vài ngày tới.
    Dư âm hậu tận thế ???object-004
    *BI QUAN LÀ TÂM TRẠNG,LẠC QUAN LÀ Ý CHÍ !

  8. #8

    Smile

    Trích dẫn Nguyên văn bởi zelda Xem Bài Gởi
    HT Thích Thông Lạc có kiến thức đúng về lịch sử Phật Giáo .
    Tuy nhiên về sự kiện này chúng ta cũng đừng nên quá khó khăn . Cứ xem Đại Thừa là một tôn giáo khác đi , cũng có sao đâu .
    Và ngược lại Đại Thừa nên thật sự thận trong khi gọi giáo lý của Đức Phật là Tiểu Thừa, hoặc tu chưa tới , hoặc chưa rốt ráo . Giấy chẳng gói được lửa do vậy chớ có manh động mà lại gần , lúc cháy rồi thì chỉ có thành tro .
    Zelda là sư huynh hay là sư thúc của vấn đạo vây zelda
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  9. #9
    Lục Đẳng Avatar của vothuong1978
    Gia nhập
    Dec 2011
    Nơi cư ngụ
    Thánh Địa Tâm Linh
    Bài gởi
    16,168

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    Zelda là sư huynh hay là sư thúc của vấn đạo vây zelda
    sư tỷ...:batting_eyelashes:
    Thị Trấn Về Đêm...

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    Zelda là sư huynh hay là sư thúc của vấn đạo vây zelda
    Chưa từng gặp VD
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

  11. #11

    Smile

    Trích dẫn Nguyên văn bởi zelda Xem Bài Gởi
    Chưa từng gặp VD
    Mình hiểu theo ý zelda trả lời thì vấnđạo với zelda là một
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  12. #12

    Mặc định

    zenda và vấn đạo là 2 người khác nhau nhưng họ có chung lý tưởng.

  13. #13

    Smile

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Thanh_Nhan Xem Bài Gởi
    zenda và vấn đạo là 2 người khác nhau nhưng họ có chung lý tưởng.
    Cho hỏi bạn thanh_nhan Vậy là zelda với vấnđạo trung 1thầy
    vô minh diệt vô minh tận
    vô lão tử diệt vô lão tử tận vô khổ tập diệt,vô đắc

  14. #14

    Mặc định

    Thích Thông Lạc là tượng đài của những kẻ trước giờ vẫn hô hào tự nhận mình là Phật giáo nguyên thủy, nhưng lão này nhận chiếu hầu tòa Diêm Vương sớm quá, tôi khẳng định 100% chiếu hầu tòa của Diêm Vương đấy, chung thầy hay không cũng không quan trọng, cái tượng đài đổ sụp rồi thì niềm tin của chúng lung lay như cái răng gẫy thôi.

  15. #15

    Mặc định

    ai làm nấy chịu, nghiệp ai nấy lãnh, đừng bình luận thêm gì nữa.
    Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ.

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phanquanbt Xem Bài Gởi
    Cho hỏi bạn thanh_nhan Vậy là zelda với vấnđạo trung 1thầy
    Bạn này nên tập cho tâm thẳng . Tôi nói chưa từng gặp thì y nghĩa là chưa từng gặp . Cớ sao hiểu thành là 1 được ?

    Đạo Phật chỉ duy nhất một giáo chủ đó chính là Đức Phật Thích Ca. Chẳng có Tổ nào cả .
    Giáo lý mà tôi học và thực nghiệm là từ Đức Phật . Chẳng có chia Tông gì cả đâu mà phân ra thầy này thầy nọ dc.
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Thanh_Nhan Xem Bài Gởi
    Thích Thông Lạc là tượng đài của những kẻ trước giờ vẫn hô hào tự nhận mình là Phật giáo nguyên thủy, nhưng lão này nhận chiếu hầu tòa Diêm Vương sớm quá, tôi khẳng định 100% chiếu hầu tòa của Diêm Vương đấy, chung thầy hay không cũng không quan trọng, cái tượng đài đổ sụp rồi thì niềm tin của chúng lung lay như cái răng gẫy thôi.


    Con người mà hay nói sau lưng người khác là hạng người nào ?
    Tôi thầy hạng người đó còn đỡ hơn rất nhiều kẻ nói sau lưng người đã khuất .
    Tượng đại sụp đổ ? Tam Bảo của Chánh Pháp còn đó thì Phật Giáo ngày càng vững mạnh .
    Khi tôi 21 tuổi lăng lộn chốn online này . CHỉ duy nhất mình tôi , nay tôi 28t đã không còn một mình nữa . Và cũng chính nhờ như vậy tôi gặt hái được nhiều thành tựu trong cuộc sống và tâm đạo . Vậy thì phát triển hay sụp đổ .
    Nhưng 7 năm qua sự sụp đổ về niềm tin mà tôi thấy đã quá nhiều . Vậy nên hãy thật thận trọng . Giấy và lửa nên phân định ra , nếu cứ nhào vào tự xưng là Đại thì cháy chỉ còn cái niềm tin mù quáng thôi đấy .
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi zelda Xem Bài Gởi
    Con người mà hay nói sau lưng người khác là hạng người nào ?
    Tôi thầy hạng người đó còn đỡ hơn rất nhiều kẻ nói sau lưng người đã khuất .
    Tượng đại sụp đổ ? Tam Bảo của Chánh Pháp còn đó thì Phật Giáo ngày càng vững mạnh .
    Khi tôi 21 tuổi lăng lộn chốn online này . CHỉ duy nhất mình tôi , nay tôi 28t đã không còn một mình nữa . Và cũng chính nhờ như vậy tôi gặt hái được nhiều thành tựu trong cuộc sống và tâm đạo . Vậy thì phát triển hay sụp đổ .
    Nhưng 7 năm qua sự sụp đổ về niềm tin mà tôi thấy đã quá nhiều . Vậy nên hãy thật thận trọng . Giấy và lửa nên phân định ra , nếu cứ nhào vào tự xưng là Đại thì cháy chỉ còn cái niềm tin mù quáng thôi đấy .
    nên chánh niệm, một lời nói dữ họa đến nhiều đời
    Kẻ nào không thể tiếp nhận cái độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ, kẻ ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí. Giặc cướp công đức không chi hơn giận dữ.

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi DaiBatNha Xem Bài Gởi
    Dự báo thời tiết, sẽ có bão siêu cấp trong vài ngày tới.
    Sẽ là cấp 12 :D

    :D :) ;)
    Tin mà không kiểm chứng, giống như kẻ ngu ngồi trên chiếc xe cạn xăng vậy, ngồi bao lâu tùy thích NHƯNG NÓ CHẲNG ĐƯA ĐI ĐẾN ĐÂU CẢ

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Thanh_Nhan Xem Bài Gởi
    Thích Thông Lạc là tượng đài của những kẻ trước giờ vẫn hô hào tự nhận mình là Phật giáo nguyên thủy, nhưng lão này nhận chiếu hầu tòa Diêm Vương sớm quá, tôi khẳng định 100% chiếu hầu tòa của Diêm Vương đấy, chung thầy hay không cũng không quan trọng, cái tượng đài đổ sụp rồi thì niềm tin của chúng lung lay như cái răng gẫy thôi.


    1 vị sư thầy nào đó tu theo PGNT thì khi người ấy chết đi thì theo ý bạn TN nghĩa là:

    "cái tượng đài đổ sụp rồi thì niềm tin của chúng lung lay như cái răng gẫy thôi."

    Bạn có dùng tư duy hay trí não để suy xét câu này trước khi post lên không vậy bạn ? Nếu bạn cho là đúng thì cái gọi là Phật giáo phát triển, Phật giáo đại thừa gì đấy theo bạn NÓ SỤP BAO NHIÊU LẦN RỒI? Bao nhiêu ông tổ , cụ tổ đại thừa chết rồi ? NGU THẦY CHẠY :) HIhihihi

    Thường người ta nói ngu dốt có ý nghĩa là ngu dốt là ngu đần dốt nát, chẳng hiểu việc phải trái ở đời hay lễ nghĩa xã giao ở đời. Và vì sự kính trọng DÀNH CHO ĐỒNG LOẠI khi cần diễn tả cái ngu, người ta thường dùng thú vật để so sánh ví dụ như "NGU NHƯ BÒ", "NGU NHƯ CHÓ", chứ KHÔNG BAO GIỜ NÓI NGU NHƯ AI ĐÓ.

    Nhưng khi đọc thấy cái lý luận của bạn thì phải nói là ngu dốt, ngu đủ kiểu, từ ngu tuyển tập đến ngu toàn tập, thậm chí “ngu như Thanh Nhan”. LẤY CÁI CHẾT CỦA 1 CON NGƯỜI RỒI KẾT LUẬN RẰNG ĐÓ LÀ SỰ SỤP ĐỔ CỦA CẢ 1 TÔNG PHÁI, 1 GIÁO PHÁI ===============> NGU MADE IN "THANH NHAN"

    Sư ông TTL nói rằng thầy đã vượt qua SINH GIÀ BỆNH CHẾT , nghĩa là sao ? Nghĩa là "KIẾP SAU" Thầy không còn sinh ra, nên không còn già bệnh chết, còn kiếp này ĐÃ SINH RA THÌ PHẢI CÓ BỆNH GIÀ CHẾT, Ngay cả Phật cũng dạy thế, lẽ nào Thầy không biết, CHỈ CÓ NHỮNG KẺ NGU NHƯ BÒ MỚI NGHĨ RẰNG CÓ 1 AI ĐÓ SINH RA THÌ KHÔNG BỊ BỆNH GIÀ CHẾT CHI PHỐI.

    Máu có thể tái tạo hồng cầu, da có thể liền lại, NHƯNG TRÁI TIM SINH RA RỒI RỤNG ĐI, CÓ MỌC TRÁI TIM KHÁC KHÔNG ? BAO TỬ RỤNG ĐI CÓ MỌC LẠI BAO TỬ KHÁC KHÔNG ? GAN RỤNG ĐI CÓ MỌC LẠI GAN KHÁC KHÔNG ? ====================> KHÔNG BAO GIỜ , CHÍNH VÌ VẬY "THEO THỜI GIAN" ===========================> NHẤT ĐỊNH PHẢI CHẾT, còn ai nói rằng sinh ra mà không có chết sống mãi mãi theo thời gian ========> NGU NHƯ BÒ, mặc dù nói vậy là hơi xúc phạm nhân phẩm con bò, nó không biết nó bị mang ví cho những kẻ chậm tiến , não đang mất dần nếp nhăn .

    :D :) ;)
    Tin mà không kiểm chứng, giống như kẻ ngu ngồi trên chiếc xe cạn xăng vậy, ngồi bao lâu tùy thích NHƯNG NÓ CHẲNG ĐƯA ĐI ĐẾN ĐÂU CẢ

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thần học về Chúa Thánh Thần
    By minhthai in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 22-08-2014, 09:56 AM
  2. Đã giải thích được hiện tượng thoát xác
    By ThichMV in forum Sưu Tập Khác...
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 30-06-2013, 07:59 AM
  3. Kinh Vô Lượng Thọ Phật !
    By kinhdich in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 04:26 PM
  4. Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 26-12-2011, 08:01 AM
  5. có ai giải thích nổi hiện tượng này ko ?
    By Tran Dinh in forum Hỏi Đáp, Tư Vấn
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 05-07-2011, 04:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •