kết quả từ 1 tới 7 trên 7

Ðề tài: Lời Phật huyền ký

  1. #1

    Mặc định Lời Phật huyền ký

    Cách đây 2555 năm Đức Phật đã từng biết trước, trong thời mạt pháp sẽ xuất hiện rất nhiều đạo sư, giả làm thiện tri thức đưa chúng sinh lầm đường lạc lối không biết đâu là chánh pháp. “Sau khi tôi diệt độ rồi, trong đời mạt pháp có nhiều bọn ma này sôi nổi trong thế gian, gây nhiều việc tham dâm, lại gỉa làm người thiện trị thức. Khiến cho các chúng sinh sa vào hầm ái kiến, bỏ mất con đường bồ đề….” (Kinh Thủ Lăng Nghiêm.)

    Trong Kinh Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận đức Phật đã nói về sáu hạng người sẽ chui vào Phật đạo, mượn danh Phật đạo để phá hoại chánh pháp. Khi Bồ tát Văn Thù hỏi đức Phật: Sao gọi là Lục sư ngoại đạo ? Đức Phật trả lời : “Khi ta nhập diệt rồi, có nhiều thứ Ma ba tuần xen vào trong Pháp ta.
    ...
    1. Ở chùa, cạo đầu, mặc áo Phật, chung lộn với người đời, ăn thịt uống rượu, nhơ bẩn đất Phật. Đấy là ngoại đạo thứ nhất.

    2. Còn có người dắt vợ, đem con vào chùa. Học theo tà thuật, cho là để truyền lại cho đệ tử . Ăn thịt uống rượu . Cũng đi làm chay, tụng kinh cho người. Không phải ông thầy, không phải người tục. Đó là ngoại đạo thứ hai.

    3. Còn có những người tà, trên thì không có thầy truyền, dưới thì không có thầy chứng, bị ma quỷ ám ảnh, mê muội. Trí biết bậy bạ, cho là thông minh. Chẳng có công tu, tự xưng thành đạo. Bên ngoài làm giống theo Phật, trong tâm làm việc tà mị, phỉnh gạt người đời, theo vào đường tà, diệt hạt giống Trí của Phật. Đấy là ngoại đạo thứ ba.

    4. Lại có người làm theo việc hữu hình, học phép hữu vi, vẽ bùa, thỉnh chú, đuổi Quỷ, sai Thần, phỉnh gạt người đời , ác kiến càng nhiều thì chính kiến của Phật càng bị tiêu diệt. Đây là ngoại đạo thứ tư.

    5. Còn có người y theo việc tốt xấu, học theo chiêm quẻ, bàn luận cát hung, xem bói xem tướng, nói trước những điều họa phúc, dối chúng gạt người, tiêu diệt con mắt chính Pháp của Phật. Đây là ngoại đạo thứ năm.

    6. Lại có người sửa soạn hình tướng, bụng trống lòng cao. Mình không có tài năng mà lòng tự cao, cho mình là giỏi ; chưa có chứng ngộ, nói là đã chứng, đã ngộ. Học được một hai câu nói của Phật, cho mình đã thấu lý. Chẳng ăn dầu, muối, trà, quả, tương, dấm. Chấp theo tà tướng, dối gạt người không Trí. Chẳng cần xem Kinh, niệm Phật. Chẳng cần làm Phúc tham Thiền. Chẳng cần xuất gia thụ giới. Chẳng cần tìm Thầy học Đạo. Dám đem sắc thân uyển giả này mà ví cùng Phật không khác. Lừa gạt người không biết vào nơi hắc ám. Dứt đoạn căn lành, tiêu diệt hạt giống Trí Tuệ. Hay chấp trược những sự khờ khạo, ngu si. Đây là ngoại đạo thứ sáu.

    Sáu hạng ngoại đạo này là Ma ba tuần, đến thời mạt Pháp, xen vào giáo Pháp của ta, phá hoại Già Lam, huỷ báng chính Pháp của Phật, chê bai những giáo tướng, nghi thức tụng niệm”.
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  2. #2

    Mặc định

    Người trí giả không tranh biện ( khi nói đã tường...mà người chẳng tin, thế thì thôi, không thể giáo hóa người mà chẳng tin).

    Người tốt không cãi, người cãi thì không tốt.

    “Thắng làm vua, thua làm giặc” là quan niệm của thế tục. Các bậc Giác Giả và trí giả ở thế gian có thể chịu nhục mà không tức giận hay ưu sầu. Họ cũng không tranh cãi hay tranh đấu với người khác. Cảnh giới tinh thần cao thượng khiến họ có thể nhẫn nhượng, không chấp vào được mất nơi thế gian, cũng như duy trì một tâm thái tường hòa và bình thản.

    Khi Khổng Tử chu du liệt quốc, một ngày Ngài gặp hai người thợ săn đang tranh cãi đến đỏ cả mặt. Sau khi hỏi lý do, Khổng Tử mới biết họ đang tranh luận một vấn đề nhỏ về số học. Người thợ săn lùn nói 8 lần 3 là 24, trong khi người thợ săn cao nói là 23. Hai bên đều khăng khăng là mình đúng và tới mức gần đánh nhau. Cuối cùng, họ quyết định phải có một thánh hiền phân giải và người thắng sẽ được tất cả thú săn.

    Hai người nghe nói Khổng Tử là một thánh hiền, do đó họ lập tức nhờ Ngài phán xét. Khổng Tử nói người thợ săn lùn phải cấp thú săn cho người thợ săn cao. Người thợ săn cao chiến thắng và vui mừng rời đi. Người thợ săn lùn tất nhiên không phục. Anh ta hỏi trong giận dữ: “3 lần 8 là 24. Ngay cả một đứa trẻ cũng biết điều đó. Ông là một thánh hiền, vậy mà ông nghĩ nó là 23. Ông chỉ có hư danh!”

    Khổng Tử cười và đáp: “Anh nói không sai. 3 lần 8 là 24 và đây là một chân lý mà ngay cả đứa trẻ cũng biết. Nếu anh biết chân lý và giữ vững nó, thì như vậy là đủ rồi. Tại sao anh lại tranh luận với một người ngốc về một vấn đề đơn giản như thế?” Người thợ săn lùn như bừng tỉnh ra. Khổng Tử vỗ vai anh ta và nói: “Cá nhân này tuy được thú săn, nhưng anh ta ngốc nghếch cả đời. Còn anh tuy thua cuộc, nhưng đã có một bài học sâu sắc”. Sau khi nghe xong, người thợ săn lùn gật đầu lia lịa tỏ vẻ bội phục cảnh giới tinh thần của Khổng Tử.

    Chân lý tuy cần giữ vững, nhưng không nên tranh biện. Đối diện với sự thật, dối trá rồi cuối cùng sẽ bị giải thể. Do vậy khi bị chỉ trích hay hiểu lầm, chúng ta không cần phải quá mất công giải thích hay biện luận. Tốt hơn là lùi một bước và dùng tâm thái bình hòa để đối đãi. Bởi vì chân lý cũng như vàng kim chôn trong đất, nó sẽ tỏa sáng rực rỡ dù sớm hay muộn...
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  3. #3

    Mặc định

    Đức Phật khi ấy liền hỏi Xá Lợi Phất:

    " Ý ông nghĩ thế nào mà kinh này Nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm?

    Xá-Lợi-Phất!
    Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  4. #4

    Mặc định

    Hiền Nhân đáp:

    - Còn bọn ngươi chủ trương tà quấy, bề ngoài giả làm lành, mà bên trong lại uẩn khúc làm việc gian ác. Cũng như vàng giả, bề ngoài thì nước vàng mà trong thì toàn đồng. Bề ngoài diện mạo tốt đẹp, mà trong tâm toàn là sàm tặc. Thiệt chẳng khác gì chó sói lẫn vào bầy dê, ngấm ngầm ăn hết bầy dê mà người giữ dê không hề hay biết. O

    Kẻ ác trong đời lắm khi cũng tự xưng đạo đức, giả khổ hạnh, cùng diễn giải kinh giới, nhưng bên trong chuyên hành tà siểm, dối trá để cầu mong danh lợi.

    Người ngu không biết, quay về tin phục. Rồi như nước sông ngập lụt chảy tràn đầy dẫy, chưa kịp rút về bể cả, làm hại biết bao nhiêu người. Chỉ có bậc thánh nhân mới có thể cứu giúp thiên hạ, cải bỏ ác tục, sửa sang việc lành, ai ai cũng đều nhờ vậy. O

    Nếu cho làm lành không phước, làm ác vô hại, thì các bậc cổ thánh để lại bao nhiêu kinh điển làm chi? Và truyền trao gươm báu cho vua làm chi? Hành nghiệp đều có quả báo rõ ràng. Làm dữ bị tai họa, mọi người đều ghét, không mau thì lâu tai họa ấy sẽ đến. Làm việc ân đức tuy ẩn kín nhưng sau này sẽ bày ra và phước quả sẽ đem lại cho mình.

    Vậy nên trong nước có vua, vua phải thuận theo phép đạo, ủy nhiệm vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành, nghiêm trừng người ác. O

    Bánh xe lăn tròn không ngừng, hành nghiệp cứ tùy theo đấy thọ sanh nơi lành, nơi dữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều gian dối.

    Phải hết sức cẩn thận lánh xa những kẻ ác và biết ăn năn tội lỗi. Nếu mọi người đều lành thì bẩm tánh và quả báo sẽ lành đẹp giống nhau, song vì người làm ác rất nhiều nên nhân quả bất đồng: Kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ nhiều bệnh, người ít bệnh, kẻ xấu xa, người tốt đẹp, kẻ nghèo hèn, người giàu sang. Kìa những người ngu, đui, điếc, câm, ngọng, kẻ mù què, tàn tật trăm điều đều do đời trước gây ác nhân mà nay gặp lấy ác quả. Còn người đức độ, trung chính, hiền từ nên có trí tuệ, sống đời đế vương, hào phú và muôn sự hạnh phúc. Như thế là nhân quả rõ ràng, sao lại bảo rằng không. Xin hãy suy nghĩ kỹ càng, đừng lầm lạc vào tà đạo.
    <Kinh Hiền Nhân>
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  5. #5

    Mặc định

    Có mười hai điều khó:

    Một là làm việc với người ngu;
    Hai là yếu đuối không chống lại được với sức mạnh;
    Ba là thù nhau mà ở chung một nhà;
    Bốn là học ít mà đứng ra nghị luận;
    Năm là nghèo hèn mà trả được nợ;
    Sáu là ra trận không có tướng sĩ;
    Bảy là thờ vua trọn đời;
    Tám là học đạo mà mất tín tâm;
    Chín là làm ác mà muốn quả báo đẹp; mười là sinh ra đời được gặp Phật;
    Mười một là được nghe chánh pháp của Phật;
    Mười hai là làm theo được chánh pháp ấy mà thành tựu.
    <Kinh Hiền Nhân>
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  6. #6

    Mặc định

    Tốt nhất là vào thời buổi này dù bất cứ chuyện gì sãy ra đi nữa thì cứ một câu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, vậy mà bảo đảm an toàn chắc chắn 100%

    Phật Thuyết Kinh Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc dạy:

    Phật bảo A Nan:

    - Chúng sanh trong thế gian chẳng được giải thoát là vì sao? Hết thảy chúng sanh đều do giả nhiều, thật ít, không có lấy một chánh niệm; do nhân duyên ấy địa ngục thì nhiều, giải thoát thì ít. Ví như có kẻ đối với cha mẹ mình và với sư, tăng, bề ngoài ra vẻ hiếu thuận, trong lòng bất hiếu, ngoài hiện vẻ tinh tấn, trong lòng chẳng thật. Kẻ ác như thế, báo tuy chưa đến, tam đồ chẳng xa, không có chánh niệm, chẳng được giải thoát.

    A Nan lại bạch Phật rằng:

    - Nếu là như vậy, nên tu thiện căn nào để được chánh giải thoát?

    Phật bảo A Nan:

    - Nay ông nghe kỹ, ta sẽ nói cho ông, có mười pháp vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hòng được giải thoát. Thế nào là mười?

    Một là quán thân chánh niệm, thường đem lòng hoan hỷ, dùng thức ăn, y phục thí Phật và Tăng, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Hai là chánh niệm, dùng thuốc cam lộ tốt lành, thí cho một vị tỳ-kheo mắc bịnh và hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Ba là chánh niệm, chẳng hại một sanh mạng, từ bi đối với hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Bốn là chánh niệm, từ nơi thầy thọ giới, tịnh huệ tu phạm hạnh, thường ôm lòng hoan hỷ, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Năm là chánh niệm, hiếu thuận cha mẹ, kính thờ sư trưởng, chẳng khởi tâm kiêu mạn, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Sáu là chánh niệm, đi đến tăng phường, cung kính chùa tháp, nghe pháp hiểu một nghĩa, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Bảy là chánh niệm, trong một ngày một đêm, thọ trì Bát Trai Giới, chẳng phá điều nào, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Tám là chánh niệm, nếu có thể trong tháng chay hoặc trong ngày chay, xa lìa nhà cửa, thường đến chỗ thầy lành, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Chín là chánh niệm, thường có thể giữ giới trong sạch, siêng tu Thiền Định, hộ pháp, chẳng ác khẩu. Nếu có thể làm được như thế sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

    Mười là chánh niệm, nếu đối với đạo vô thượng, chẳng khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới, lại dạy kẻ vô trí, lưu truyền kinh pháp này, giáo hóa vô lượng chúng sanh, những người như thế thảy đều được vãng sanh cõi Phật A Di Đà.




    Nguyện con lâm chung không chướng ngại
    A Di Đà Phật rước từ xa
    Quan Âm Cam lồ rưới nơi đảnh
    Thế Chí kim đài trao đỡ gót
    Trong khoảng sát na lìa ngũ trược
    Khoãnh tay co duỗi đến Liên Trì
    Khi hoa sen nở thấy Từ tôn
    Nghe tiếng pháp sâu lòng sáng tỏ
    Nghe xong liền ngộ vô sanh nhẫn
    Không rời an dưỡng lại Ta Bà
    Khéo dùng phương tiện lợi chúng sanh
    Hay lấy trần lao làm Phật sự
    Con nguyện như thế Phật chứng tri
    Kết cuộc về sau được thành tựu.


    (Bài văn này xưa nay có nhiều linh nghiệm, hoặc lúc đương phát nguyện thấy các tướng lành của Phật hoặc trong lúc ngủ thấy A Di Đà Phật phóng đại quang minh. Những điều cảm ứng, không nên khoe nói, hành giả chỉ nên từ đó khuyến khích niềm tin của mình)
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  7. #7

    Mặc định

    "NHẤT NIỆM BẤT SANH, TOÀN THỂ HIỆN
    LỤC CĂN HỐT ĐỘNG, BỊ VÂN GIÁ"

    " MỘT NIỆM KO SANH : CHÂN TÂM HIỂN HIỆN
    SÁU CĂN CHỢT ĐỘNG : MÂY ĐEN PHỦ KHUẤT"
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Tìm kinh!
    By Nhất Niệm in forum Đạo Phật
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 22-10-2012, 09:14 PM
  2. Tịnh Độ Giản Lược
    By Nothing_To_Lose in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 05-06-2012, 02:13 PM
  3. PHẬT HỌC VÀ Y HỌC
    By kristin in forum Đạo Phật
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 24-03-2012, 03:54 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 09-09-2011, 11:38 AM
  5. Dành cho người hữu duyên
    By nguoi_mu in forum Đạo Phật
    Trả lời: 101
    Bài mới gởi: 24-04-2011, 07:54 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •