Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 51

Ðề tài: Đồng Tính Có Phải Là Tội Lỗi ?

  1. #1

    Question Đồng Tính Có Phải Là Tội Lỗi ?

    Trong cuộc tranh cử giữa Obama và Romney có rất nhà tài phiệt người do thái tài trợ :skull:

    nguồn
    http://vozforums.com/showthread.php?t=3108827&page=3

    http://vozforums.com/showthread.php?t=3108827&page=3

    Những tỷ phú ủng hộ cho Obama

    - James Simons: 4,1 triệu USD

    người Do Thái
    http://en.wikipedia.org/wiki/James_Harris_Simons


    James Simon - nhà đầu cơ tài chính, giáo viên môn Vật lý và là nhà từ thiện lớn của nước Mỹ

    Nhà đầu cơ tài chính người Mỹ là nhà tỷ phú ủng hộ nhiều nhất cho Obama với khoản tiền dành cho quỹ PAC Ưu tiên hành động vì nước Mỹ lên đến 2 triệu USD và các quỹ của đảng Dân chủ như là Majority PAC và House Majority PAC.

    - Irwin Jacobs : 2,1 triệu USD

    người Do Thái
    http://en.wikipedia.org/wiki/Irwin_M._Jacobs

    Nhà cựu lãnh đạo của hãng sản xuất chip khổng lồ Qualcomm cũng dành 2 triệu USD để ủng hộ quỹ “Ưu tiên hành động vì nước Mỹ”, quỹ lớn nhất hỗ trợ cho hoạt động tái đắc cử của Obama.

    - Jon Stryker: 2 triệu USD


    Jon Stryker - Tỷ phú ngành y tế ủng hộ cho quỹ của Obama số tiền 2 triệu USD

    Nhà tài phiệt ngành thiết bị y tế cũng như Jacobs và Simons, đã gửi số tiền 2 triệu USD cho quỹ “Ưu tiên hành động vì nước Mỹ”. Ông này cũng có một thời gian ủng hộ cho các vấn đề dị tính.

    - Anne Cox Chambers: 1,6 triệu USD

    Tỷ phú 92 tuổi của tập đoàn truyền thông Cox đã “đỡ lưng” cho Obama thông qua quỹ “Ưu tiên hành động vì nước Mỹ”

    - George Soros: 1,275 triệu USD

    Người Do Thái

    Nhà đầu tư huyền thoại này không trực tiếp ủng hộ cho Obama, nhưng ông đã đóng góp cho các quỹ đứng về phía đảng Dân chủ như là Majority PAC, House Majority PAC, và American Bridge Thế kỷ 21.

    - Haim Saban: 1 triệu USD

    Người Do Thái

    http://en.wikipedia.org/wiki/Haim_Saban

    Hiam Saban - một mạnh thường quân đứng về phía đảng Dân Chủ

    Nhà tỷ phú truyền thông này chia đều khoản đóng góp của mình cho quỹ “Ưu tiên hành động vì nước Mỹ” và các quỹ hỗ trợ hoạt động chính trị khác của đảng Dân chủ.

    Những cái tên khác đứng bên cạnh Barack Obama trong cuộc đua tái tranh cử Tổng thống như David Shaw nhà đầu tư quỹ giàu có ở New Jork, nhà đầu tư James Crown,

    nhà đầu tư Marc Lasry

    người Do Thái

    http://en.wikipedia.org/wiki/Marc_Lasry



    Marc Benioff người sáng lập của Salesforce

    người do Thái

    http://en.wikipedia.org/wiki/Marc_Benioff

    , Penny Pritzker nhà thừa kế chuỗi khách sạn Hyatt… Những người này đều ủng hộ cho các quỹ hỗ trợ Obama khoản tiền từ 200.000 USD đến trên 500.000 USD.










    Các nhà tài phiệt ủng hộ Mitt Romney


    người Do Thái - Sheldon và Miriam Adelson: 36,25 triệu USD

    Phần lớn khoản đóng góp ban đầu của ông trùm Las Vegas Sands không phải là dành cho quỹ hỗ trợ tranh cử của Mitt Romney. Chỉ sau khi Mitt Romney dành chiến thắng trong nội bộ đảng Cộng Hòa, gia đình Adelson mới chuyển qua ủng hộ Romney và hứa sẽ chi một khoản tiền lên đến 100 triệu USD cho chiến dịch tranh cử của ông. Với tổng giá trị tài sản lên đến 20,5 tỷ USD thì khoản tiền này không hề là vấn đề với nhà Adelson.

    Có 38 tỷ phú đứng ra hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp cho các quỹ vận động tranh cử của ứng cử viên đảng Cộng Hòa Mitt Romney. Trong khi đó số tỷ phú ủng hộ cho Tổng thống Obama chỉ là 7 người.

    Nhóm vận động tranh cử của Obama cho biết khoản quyên góp được trong tháng Chín đạt ở mức 181 triệu USD, xấp xỉ kỷ lục 190 triệu của chính Obama hồi tháng Chín năm 2008.

    Nhóm vận động tranh cử của Mitt Romney chưa công bố các con số của tháng Chín, tuy nhiên đó không phải là vấn đề lắm. Ông Romney dường như không bận tâm lắm đến các khoản tài trợ không chính thức.

    Theo như các thông tin của Ủy ban vận động tranh cử Super PAC “Khôi phục tương lai” của Romney cho biết thì có đến 38 thành viên trong nhóm 400 người giàu nhất thế giới theo bình chọn của Forbes đã tham gia ủng hộ ông này. Còn theo công bố của Ủy ban vận động tranh cử Obama thì chỉ có 7 tỷ phú ủng hộ cho ông.

    Với những gì đã vẽ ra trước cuộc bầu cử, Romney tạo nên hy vọng vào một sự thúc đẩy dành cho những nhà tài phiệt và có quyền lực trong giới tài chính ủng hộ cho mình. Một trong số đó là Sheldon Adelson, ông trùm đằng sau đế chế casino ở Las Vegas và vợ là Miriam là những nhà tài trợ lớn nhất cho cuộc bầu cử và đã tài trợ khoản tiền 36,25 triệu USD cho đảng Dân chủ, trong đó 10 triệu USD là dành cho quỹ “Khôi phục tương lai” và trả cho các khoản chi quảng cáo chống lại Obama.
    Trong tháng 6 vừa qua, người giàu thứ 12 của nước Mỹ đã nói với các nhà báo rằng ông sẵn sàng chi bất cứ khoản chi nào nhằm đánh bại Obama và gợi ý ông sẵn sàng chi 100 triệu USD hoặc hơn thế nữa. Nếu có người có thể lên được kế hoạch tốt để làm việc đó thì việc hàng triệu USD được chi mà không quan tâm đến việc phải công khai các khoản chi như thế nào.

    Với lý do tương tự như vậy nên 2 ông trùm tỷ phú là các nhà tư bản công nghiệp Charles và David Koch sẽ không xuất hiện trong danh sách dưới đây. Họ được biết đến với mối ác cảm dành cho Tổng thống, và đã tổ chức một bữa tiệc quyên góp được hơn 50.000 USD cho việc làm sao để “lật đổ” được Barack Obama.

    Dưới đây là danh sách những nhà tài trợ lớn nhất cho quỹ bầu cử của các ứng cử viên chức Tổng thống Mỹ


    Harold và Annette Simmons: 15,74 triệu USD

    Nhà tài phiệt dầu khí và vợ ông phát biểu trên tờ thời báo Wall Street rằng họ sẵn lòng chi 36 triệu USD để đưa Obama ra khỏi Nhà Trắng. Gần đây họ đã ủng hộ hơn một nửa số tiền đó cho quỹ “Khôi phục tương lai” của Mitt Romney.

    - Peter Thiel: 4,735 triệu USD


    PETER THIEL là người mỹ gốc Đức

    Peter Thiel - Nhà đầu tư vào Facebook là tỷ phú gián tiếp ủng hộ Mitt Romney

    Nhà tỷ phú sở hữu PayPal và là nhà đầu tư Facebook chỉ là thành viên trong danh sách những người giàu có ủng hộ cho quỹ Ron-Paul đỡ lưng cho quỹ vận động tranh cử của Mitt Romney. Và quỹ này đã cắt một phần số tiền ủng hộ của Peter Thiel sang cho câu lạc bộ Hoạt động vì sự Tăng trưởng – là quỹ đang hỗ trợ cho các ứng cử viên chống lại đảng Dân chủ.

    - Robert Rowling: 4,13 triệu USD

    Một trong những tỷ phú dầu khí giàu nhất thế giới đã ủng hộ cho quỹ vận động tranh cử American Crossroads của Karl Rove.

    -William Koch: 3 triệu USD

    Người mỹ gốc Hà Lan

    http://en.wikipedia.org/wiki/Bill_Koch_(businessman)

    William Koch - 1 trong 3 anh em nổi tiếng nhà Koch

    Một thành viên khác của gia đình nhà Koch, và ít được biết đến hơn so với Charles và David, là một người đã ủng hộ số tiền lớn nói trên cho quỹ “Khôi phục tương lai” của ông Mitt Romney.

    Jerrold Perenchio: 2.6 triệu USD

    Chủ sở hữu một thời của hãng Univision đỡ lưng cho cả quỹ “ Khôi phục tương lai” và quỹ American Crossroads.

    Ngoài những tỷ phú nói trên, danh sách những người ủng hộ cho việc tranh cử chức Tổng thống Mỹ của Mitt Romney còn bao gồm những cái tên như: Nhà tài phiệt bất động sản Harlan Crow 2,5 triệu USD,

    Paul Singer 2,2 triệu USD

    người Do Thái

    http://en.wikipedia.org/wiki/Paul_Singer_(businessman)






    Ken Griffin 2,08 triệu USD,…
    nguồn
    http://vozforums.com/showthread.php?t=3030288


    Đa Số Các Nhà Tài Phiệt Người Do Thái ủng hộ OBAMA cũng như ủng hộ cho phép người Đồng Tính được kết hôn


    250 giáo sĩ lên tiếng ủng hộ hôn nhân đồng tính

    250 giáo sĩ tiểu bang Illinois , những giáo sĩ thuộc khu vực Chicago đã ủng hộ dự luật hôn nhân đồng tính đã bỏ phiếu thông qua dự luật này ở Springfield sớm hơn dự kiến ngày 9/1/2013 tới đây.
    Vào ngày chủ nhật vừa qua, các giáo sĩ đến từ các giáo phái Do Thái và các mục sư Tin Lành đã lên tiếng ủng hộ quyền kết hôn của người đồng tính ở các mức độ khác nhau và công bố sẽ ủng hộ cho bình đẳng hôn nhân. Động thái này xuất phát từ việc tuyên truyền đức tin, công lý và lòng từ bi là một trong những mục đích hoạt động của các giáo phái.

    Theo tuyên bố "Trên cơ sở niềm tin, về mặt đạo lý , các giáo phái cần phải đảm bảo các quyền bình đẳng cho hôn nhân và người đồng tính". "Không thể biện minh và dùng pháp luật , để điều chỉnh nhằm tạo ra sự khác biệt trong việc đối xử chỉ vì định hướng hay bản sắc giới tính".

    Đầu tháng này, Thượng nghị sĩ Heather Steans và Hạ nghị viên Greg Harris nói rằng sẽ thúc đẩy nhanh quá trình đưa dự luật này thông qua Hội đồng vào ngày 9/1/2013.

    Pháp luật cho phép hôn nhân đồng tính và bảo vệ các giáo phái nếu như họ không mong muốn tổ chức hôn nhân đồng tính.

    Trong khi đó, phe đối lập cho rằng dự luật Hôn nhân đồng tính là văn bản vi phạm vào Kinh Thánh, vi phạm quy luật tự nhiên và nền tảng đạo đức.

    dịch từ bài này
    http://www.usatoday.com/story/news/n...eorge/1805193/



    Đám Cưới Đồng Tính trong Nhà Thờ



    Lễ cưới trang trọng của Stig Ellins và Steen Andersen được tổ chức tại nhà thờ Frederiksberg ở Đan Mạch.


    nguồn http://vozforums.com/showthread.php?t=3106317&page=14

    http://vozforums.com/showthread.php?t=3106317&page=17

    Dạy về tình dục đồng giới ngay từ... mẫu giáo!
    Các trường học và các trường mẫu giáo ở châu Âu có thể sẽ cấm sử dụng những cuốn sách hay truyện cổ tích cho trẻ em trong đó mô tả gia đình truyền thống. Đây là yêu cầu của Ủy ban Quốc hội châu Âu về Nữ quyền.


    Theo ủy ban này thì truyện cổ tích nên nói về sự đa dạng về giới. Các chuyên gia Na Uy tin rằng trẻ em sẽ hiểu biết nhiều hơn nhờ xem sách báo khiêu dâm.

    Ủy ban về Nữ quyền và Bình đẳng giới thuộc Quốc hội châu Âu đã chuẩn bị một bản báo cáo yêu cầu một lệnh cấm các cuốn sách nói về kiểu gia đình truyền thống, mà ở đó người cha luôn là trụ cột gia đình còn người mẹ thì chăm sóc những đứa con, ở các trường học và nhà trẻ ở châu Âu. Theo nhóm tác giả, những cuốn sách này gây ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống tương lai của bọn trẻ, nhất là các bé gái, và chúng khuyến khích khuôn mẫu hành vi sai lệch. Thậm chí trong tương lai nó ảnh hưởng đến khả năng xây dựng một sự nghiệp tốt.

    Các nhà hoạt động vì nữ quyền lo lắng một vấn đề là trẻ em ở độ tuổi rất nhỏ liên tục phải đối mặt với "khuôn mẫu giới tính tiêu cực” trên các chương trình truyền hình và quảng cáo. Nhưng đầu tiên họ đã quyết định bắt đầu áp dụng với những cuốn sách và truyện.

    Cuốn sách mang tựa đề "King and King”
    Tác giả của báo cáo trên mạnh mẽ khuyến cáo áp dụng những biện pháp lập pháp khẩn trương trong mảng văn học cho trẻ em. Họ đặc biệt đề nghị một chính sách "bình đẳng tất cả mọi bộ phận trong xã hội”. Họ đưa ra một ví dụ thay thế trong văn học cho trẻ em là cuốn sách mang tựa đề "King and King” với hình ảnh hai vị vua đang hôn nhau ở trang bìa. Theo bản báo cáo, biện pháp này sẽ giúp trẻ em học được thế nào là "sự đa dạng về giới thật sự trong xã hội”.

    Trước đây từng có một nhà sản xuất đồ chơi của Thụy Điển phát hành một bản catalo trước lễ Giáng sinh trong đó có hình ảnh các cô gái bắn kẻ thù bằng súng laser còn các cậu con trai lại đang chơi búp bê.

    Đây là yêu cầu của tổ chức quản lý quảng cáo cáo buộc hãng sản xuất đồ chơi vì phân biệt giới tính và áp đặt các khuôn mẫu giới tính tiêu cực. Vào năm 2010, các nhà trẻ ở Na Uy đã đưa vào một chương trình giáo dục giới tính bắt buộc tập trung vào số ít có giới tính không bình thường.

    Bản báo cáo của Quốc hội châu Âu cũng nhấn mạnh rằng: "Tình dục đồng giới nên được dạy ở các trường mẫu giáo theo dạng kinh nghiệm và hiểu biết”. Theo họ, việc này sẽ mở rộng khái niệm về "nhận dạng giới tính” cho trẻ em. "Sự đa dạng giới tính đối với trẻ em là rõ ràng. Trẻ em cần được biết đó là bình thường khi cha mẹ của chúng là gay hay đồng tính nữ”.

    "Các bậc cha mẹ không nên lo sợ về bản năng dục tính của con em mình. Trái lại, từ góc nhìn về sức khỏe, việc xem các nội dung khiêu dâm là có lợi ở thời điểm khi cha mẹ và con cái có thể nói chuyện cởi mở với nhau về vấn đề của mình”, nhà tâm lý học và nghiên cứu tình dục Andres Lindskog nói.

    Ông đang bình luận về một tuyên bố gần đây của một chuyên gia của tổ chức Save the Children, đã bày tỏ sự lo lắng về sự thật là đang ngày càng có nhiều trẻ em nghiện xem các trang web khiêu dâm trên mạng internet.

    Anders Lindskog tin chắc là không có hiện tượng nghiện và nguy hại từ việc này. "Điều quan trọng với các bậc cha mẹ là phải hiểu rằng con cái họ khi sinh ra đã có dục tính và chúng chỉ làm theo bẳn năng sinh học của chúng thôi. Trẻ con có cùng cảm nhận như người lớn”, chuyên gia này nói.

    Thái độ đối với người đồng tính trên thế giới:




    Ở những nước có nhiều người theo đạo Kito giáo , do thái giáo thì có nhiều người ủng hộ đồng tính , mấy nước Tư bản châu âu , bắc mỹ , nam mỹ ( công giáo đa số ) ủng hộ người đồng tính rất nhiều

    Còn ở những nước có nhiều người theo đạo Hồi Giáo thì rất là khắc khe , thậm chí còn bị gọi là phạm tội hình sự , tử hình , chung thân

    nguồn http://vozforums.com/showthread.php?t=3106317&page=21
    Last edited by nothing0k; 04-01-2013 at 03:58 PM.

  2. #2

    Mặc định

    http://vozforums.com/showthread.php?t=3106317&page=28

    Pháp: Tổng thống Hollande yêu cầu LHQ kêu gọi toàn cầu hợp pháp hóa đồng tính luyến ái

    Trong một bài phát biểu tại Liên Hiệp Quốc, François Holland, Tổng thống Pháp, đã kêu gọi toàn cầu hợp pháp hóa đồng tính luyến ái.

    Trong một bài phát biểu chưa có tiền lệ trước Đại hội đồng Liên hợp quốc, Tổng thống Pháp, François Holland kêu gọi toàn cầu hợp pháp hóa đồng tính luyến ái.

    Đây là lần đầu tiên một nguyên thủ quốc gia lên tiếng về đồng tính luyến ái tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

    Lời kêu gọi lịch sử hấp dẫn dài 15 phút được thực hiện ngày hôm qua (25 tháng 9), trong đó ông Hollande nói rằng nước Pháp cần phải lãnh đạo Liên Hiệp Quốc chiến đấu cho "tự do cơ bản của con người", cuộc chiến không thuần là cuộc chiến nhưng vì danh dự của cuộc chiến".

    Tổng thống Pháp, Francois Hollande


    "Đây là các lý do mà Pháp sẽ tiếp tục để thực hiện tất cả những cuộc đấu tranh cho việc bãi bỏ hình phạt tử hình, tôn trọng quyền bình đẳng và phẩm giá phụ nữ, hủy bỏ hình sự hóa đồng tính luyến ái, không nên xem họ như là như là tội phạm nhưng,trái lại, công nhận đó là một khuynh hướng tính dục.

    'Tất cả các nước thành viên có nghĩa vụ bảo đảm an ninh cho các công dân của họ, và nếu một quốc gia không tuân thủ nghĩa vụ này, đó là nhiệm vụ Liên Hiệp Quốc chúng ta, ra tay với các phương tiện cần thiết, để đưa quốc gia đó vào đúng vị trí của nó.

    "Đây là những vấn đề mà Pháp sẽ dẫn dắt và bảo vệ trong Liên Hợp Quốc. Tôi nói điều này với sự nghiêm túc, nơi nào có sự đình trệ lơ là, khoanh tay nhìn, thì sau đó bất công và bất khoan dung có thể xãy ra ở đó.

    "Những gì tôi muốn hội đồng thấu hiểu là chúng ta cần có phản ứng, nhận trách nhiệm của chúng ta ... luôn luôn cùng nhau phản ứng vì lợi ích của nhân dân, đây là thông điệp của Pháp".

    Một nhà ngoại giao Pháp nói với Reuters, khi Pháp không ngần ngại thắp sáng ngọn đuốc cho việc bãi bỏ hình phạt tử hình khắp nơi, sau đó François Hollande cam kết cho quyền đồng tính tại Liên Hiệp Quốc là một tín hiệu quan trọng.

    Một số nhà bình luận dự đoán Pháp sẽ dẫn đầu một cuộc đấu tranh trên toàn thế giới để hợp pháp hoá ĐTLA như kêu gọi nhà ủng hộ nhân quyền Pháp, Louis-Goerges Tin, người gần đây đã tuyệt thực vì lý do này.

    Đồng tính luyến ái vẫn là tội hình sự trong nhiều nước thành viên của Liên Hiệp Quốc, và bị hình phạt tử hình trong tám quốc gia bao gồm cả Iran, Saudi Arabia, Yemen, Sudan và Mauritania.
    Thanh Bình

  3. #3

    Mặc định

    Obama kêu gọi Illinois hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính

    Tổng thống Obama kêu gọi các nhà lập pháp tiểu bang nhà của ông, Illinois, hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và thống đốc đang sẵn sàng để ký thuận cho dự luật.

    Luật có thể được bỏ phiếu tại Đại hội đồng Hạ viện ở Springfield, thủ phủ tiểu bang Illinois vào đầu tuần tới , một phát ngôn viên Nhà Trắng nói với Chicago Sun-Times rằng ông Obama hy vọng họ sẽ thông qua dự luật.

    "Trong khi tổng thống không dẫm chân trong mọi biện pháp đang được xem xét bởi cơ quan lập pháp tiều bang, ông tin rằng đối xử với tất cả mọi người một cách công bằng và bình đẳng, với phẩm giá và tôn trọng", phát ngôn viên Shin Inouye nói.



    "Theo quan điểm cá nhân của ông thì biện pháp ngăn chặn các cặp trong mối quan hệ yêu thương, cam kết và muốn kết hôn là sai. Đã được Tổng thống vẫn còn ở tại quốc hội tiểu bang Illinois, ông sẽ ủng hộ luật này nhằm đối xử bình đẳng với tất cả các cặp ở Illinois.

    Obama là Nghị sĩ tiểu bang Illinois từ năm 1997 cho đến năm 2004 trước khi được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ đại diện cho Illinois năm kế tiếp.

    Cả hai viện của quốc hội Illinois đang do Đảng Dân chủ kiểm soát và của thống đốc Pat Quinn đã cho biết ông sẽ ký một dự luật hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính nếu nó xuất hiện ở văn phòng của ông.

    Trước đó, Tổng thống Obama đã kêu gọi cử tri ủng hộ sáng kiến hôn nhân đồng tính tại Maine, Maryland và tiểu bang Washington - cả ba đều được thông qua tại cuộc bầu cử vừa qua của Mỹ.

    Nếu Illinois thông qua một dự luật, nó sẽ trở thành tiểu bang thứ 11 của Mỹ cộng với thủ đô Washington DC đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.

    Hôn nhân đồng tính cũng được công nhận và được thực hiện trên lãnh thổ của các bộ lạc da đỏ Coquille và Suquamish Mỹ tại Oregon và tiểu bang Washington.

    Thanh Bình

  4. #4

    Mặc định

    Chúa JESUS không hề nói gì về đồng tính

    Chúa JESUS chỉ dạy chúng ta yêu thương nhau , đặc biệt là yêu thương kẻ thù


  5. #5

    Mặc định

    Quan điểm của mình về chuyện này
    _Đồng tính tự bản thân không phải tội, nhưng nên giữ đức khiết tịnh. ( khó lắm đấy nhưng cầu nguyện là được thôi). Thánh Kinh không lên án tình cảm trong sáng nhưng lên án những hành vi..........(Côrintô 1)
    _Nếu giữ được tình cảm trong sáng thì giống như tình bạn ở 1 mức độ sâu sắc vượt bậc, càng tốt thôi
    _ Nếu bạn nói sao tôi phải chịu khổ vì đồng tính phải nhịn chuyện xác thịt...bla...bla ko đc như người thường, thì nhìn vào những người mới sinh ra đã bị khuyết tật.
    _Nếu bạn nói "tôi sinh ra đã có xu hướng........ đồng giới, tôi cứ làm, sao phải nhịn" thì nhìn vào những người sinh ra đã có bản tính hung bạo, thậm chí tự nhiên thích gây gổ đánh nhau, không lẽ họ cũng nói sinh ra tính đã vậy, cứ làm hay sao?
    _Cuối cùng và quan trọng nhất, hãy sống Vì Chúa và hãy dâng tất cả cho Ngài


    Và đừng có ai nói tui chỉ giỏi nói suông, nói được mà ko làm đc nhé nhé.........:D
    ”Vì Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.”

  6. #6
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Đức Giáo Hoàng gì đó ở thế kỷ 16 đã khen ngợi những người đồng tính tự nhiên nhưng giữ sự khiết tịnh và chê trách những người đồng tính tự muốn là những người bệnh hoạn,thích đi trái với lẽ thường luân lý.
    haiz...........................

  7. #7
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    có lẽ đối với người Tin Lành ở Mỹ {chiếm đa số Tin Lành} thì đồng tính không phải là tội lỗi. Nhưng với người Công Giáo thì tuy không kỳ thị hay sợ hãi,nhưng đối với Công Giáo là phạm tội.
    haiz...........................

  8. #8

    Mặc định

    Nguồn http://vietyo.com/forum/khoa-hoc-lic...cua-dong-tinh/

    [New York Times] Ghét dân đồng tính có thể là biểu hiện của đồng tính

    GHÉT BỎ DÂN ĐỒNG TÍNH? CÓ LẼ BẠN LÀ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH!
    *Bài dịch nhân ngày Tổng tống Hoa Kì - Barack Obama lên tiếng ủng hộ hôn nhân đồng tính, 9/5/2012

    Vì sao nhiều lãnh đạo chính trị và tôn giáo - những người tổ chức vận động cấm đồng tính, thường dính líu đến những quan hệ tình dục đồng tính?

    Ted Haggard,
    http://en.wikipedia.org/wiki/Ted_Haggard

    một nhà lãnh đạo Tin lành, người truyền bá đồng tính là tội lỗi, đã rút lui sau rắc rối liên quan đến một mại dâm nam. Larry Craig, một thượng nghị sĩ chống nghị quyết cấm đối xử bất bình đẳng với người đồng tính, đã bị bắt vì hành vi tình dục không đứng đắn trong nhà vệ sinh nam.Glenn Murphy Jr., một lãnh đạo của Hội nghị người Cộng hòa trẻ (Young Republication National Convention), người chống đối hôn nhân đồng tính, đã nhận tội khi bị kết án hành hung tình dục một người đàn ông (sexually assault).


    Một học thuyết cho rằng sự kiềm chế bản năng tình dục đồng giới có thể được thể hiện bằng nỗi sợ hãi hay chống đối quan hệ đồng tính. Sigmund Freud


    http://en.wikipedia.org/wiki/Sigmund_Freud
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Sigmund_Freud
    Sigmund Freud gọi hiện tượng này là "sự hình thành phản ứng" (reaction formation), Đây là sự chống lại những cảm giác muốn được thể hiện ra ngoài bằng cách bóp nén các cảm xúc này. Ngay cả Ted Haggard, khi đưa ra lời xin lỗi sau vụ rắc rối đồng tính của mình, dường như cũng thể hiện điều này: "Tôi nghĩ tôi đã một phần trở nên thái quá vì chính trận chiến của mình (I think I was partially so vehement because of my own war)".

    Học thuyết đầy thu hút này giờ đây đã có bằng chứng khoa học. Trong số tháng này của Tạp chí Tính cách và Khoa học Xã hội (Journal of Personality and Social Psychology), tôi và các đồng nghiệp chứng minh sự sợ hãi đồng tính một phần xuất phát từ những kiềm chế dục vọng đồng tính. Bài viết miêu tả sáu nghiên cứu được thực hiện tại Hoa Kì và Đức trên 784 sinh viên. Những người tham gia đánh giá định hướng giới tính (sexual orientation) trên thang điểm 1-10 bao gồm "gay" (đồng tính) đến "straight" (người chỉ quan hệ với người khác giới - dị tính luyến ái). Sau đó, họ tham gia một bài kiểm tra trên máy vi tính về định hướng giới tính ngầm (implicit sexual orientation). Trong bài kiểm tra này, người tham gia được xem những hình ảnh và từ ngữ gợi ý về sự khác giới và đồng giới (ví dụ: hình ảnh của cặp đôi đồng giới, cặp đôi khác giới, từ ngữ như "đồng tính" và "gay". Các sinh viên được yêu cầu sắp xếp các từ ngữ và hình ảnh này vào nhóm thích hợp: đồng tính hay dị tính. Máy vi tính sẽ ghi lại thời gian các sinh viên thực hiện việc sắp xếp này.

    Điều đặc biệt ở nghiên cứu này là ở điểm, khi mỗi từ và hình ảnh hiện ra, từ "tôi" và "họ" được nháy trên màn hình 35 giây trước đó. Khoảng thời gian này đủ lâu để người tham gia xử lí thông tin trong não nhưng cũng đủ nhanh để họ không nhận thức được mình đã thấy những từ đó. Đây là “sự liên kết ngôn ngữ” (semantic association). Giả thuyết này cho rằng khi từ "tôi" nháy trước những từ hoặc hình ảnh phản ánh hướng giới tính, một người sẽ phân loại những hình ảnh này vào nhóm thích hợp nhanh hơn là những từ không phản ánh đúng về họ (ví dụ, một người đồng tính sẽ nhanh chóng phân loại hình ảnh về "đồng giới" vào nhóm "đồng tính" nhanh hơn là phân loại hình ảnh về "khác giới" vào nhóm "dị tính". Phương pháp này tương tự với những phương pháp từng được sử dụng để phản ánh thái độ ngầm về chủng tộc. Đồng thời, nó có thể phân biệt một cách đáng chính xác những người tự cho mình là straight và những người tự cho mình là đồng tính nữ (lesbian), đồng tính nam (gay) hoặc lưỡng tính (bisexual).

    Trong nghiên cứu này, hơn 20% thể hiện họ cảm nhận được sự hấp dẫn từ người đồng giới cho dù nhóm này tự nhận bản thân là straight. Họ liên kết "tôi" với những từ và hình ảnh liên quan đến đồng giới nhanh hơn là liên quan đến "khác giới". Một điểm đáng chú ý là những đối tượng này có xu hướng ủng hộ các chính sách chống đồng tính hơn những người tham gia khác. Họ sẵn lòng đưa ra những hình phạt nặng hơn cho những phạm nhân đồng tính và thể hiện sự ghét bỏ ngầm những đối tượng đồng tính.

    Nghiên cứu này cho thấy những người chống lại đồng tính có thể bị hấp dẫn bởi người đồng tính. Điều gì đã dẫn tới sự kiềm nén này? Những người tham gia có phụ huynh cảm thông thường nhận thức định hướng giới tính của mình rõ ràng và không thể hiện sự kỳ thị đồng tính. Trong khi đó, những người tham gia thuộc nhóm 20% thể hiện mình bị lôi cuốn từ người đồng giới trong khi cho rằng mình là straight, thường được nuôi dạy bởi các phụ huynh hay điều khiển và có thành kiến với người đồng tính.

    Cũng cần nhấn mạnh: Không phải ai vận động chống đồng tính cũng là những người ngầm cảm nhận được sự thu hút từ những người đồng giới. Tuy nhiên, it nhất một bộ phận những người chống đồng tính có khả năng là những đối tượng đang đấu tranh với bản thân, và chính họ đang trở thành nạn nhân của sự đè nén và thiếu hụt khả năng chấp nhận. Cái giá phải trả rất đắt đối, không chỉ đối với những người chống đồng tính mà còn với những người đồng tính. Chúng ta cần nhớ rằng tất cả mọi người đều đáng nhận được sự cảm thông.


    Nguồn từ New York Times, do giáo sư tâm lý học tại ĐH Rochester và sinh viên tiến sỹ tại ĐH UC,Barbara viết:
    http://nytimes.com/2012/04/29/opinio...-gay.html?_r=0


    Dịch bởi nhóm du học sinh Mỹ chuyên ngành tâm lý học (VIET Psychology):
    http://vietpsy.blogspot.de/2012/05/g...-la-nguoi.html

  9. #9

    Mặc định

    Nguồn

    http://vozforums.com/showthread.php?t=3157512


    Trưng cầu dân ý ở Ireland, hôn nhân đồng tính chiếm ưu thế
    Trong một cuộc khảo sát gần đây cho thấy, xu hướng người dân ủng hộ hôn nhân đồng tính ngày càng tăng cao, hiện đã lên đến 3/4 dân số Ireland sẽ tiến hành bỏ phiếu ủng hộ hôn nhân đồng tính.

    Hiệp hội Bình đẳng hôn nhân ở Ireland đã tiến hành ủy quyền cho Millward Brown tổ chức cuộc thăm dò ý kiến dư luận từ năm 2006 đến nay, theo kết quả mà nhóm thăm dò đưa ra cho thấy từ năm 2008 đến nay tăng 12% số người ủng hộ và đến năm 2012 số người ủng hộ là 75%.

    Vào năm 2008, có khoảng 63% người dân Ailen ủng hộ bình đẳng hôn nhân, ủng hộ cho hôn nhân đồng tính. Trong hai đợt tiến hành thăm dò số người ủng hộ chiếm tỷ lệ cao rơi vào người dân là nữ và số người trong độ tuổi từ 18-34; cha mẹ và người sống không đăng ký kết hôn.

    Theo Giám độc Hiệp hội bình đẳng hôn nhân, bà Moninne Griffith cho biết: Bà rất vui khi thấy tỷ lệ người dân ủng hộ ngày càng tăng.

    Bà đã nói trên tờ Thời bái Aillen "Chúng tôi rất vui trong phiên họp cuối tuần này sẽ đưa ra quyết định Ngày trong tháng 4 để quyết định về vấn đề này".

    "Thông tin về sự hỗ trợ của dân chúng cho vấn đề hôn nhân bình đẳng làm cho chúng tôi thấy tin tưởng hơn. Chúng tôi bắt đầu công việc này vào năm 2006 lúc đó có 52% dân chúng tin tưởng người đồng tính sẽ được kết hôn. Sau 6 năm, con số này đã tăng lên 25% và nay là 3/4 dân số".

    Số liệu khảo sát cho thấy, không cho phép hôn nhân đồng tính chính là sự phân biệt đối xử và đa số phụ nữ, cha mẹ và người ở độ tuổi 18-34 cho rằng sẽ ủng hộ bình đẳng. Trong đó, 90% số người ở độ tuổi 25-34 và 88% số cha mẹ cho biết người đồng tính phải có quyền bình đẳng.

    3/4 số người dân Aillen cho biết, xã hội Aillen là một xã hội dân chủ thì cần phải đảm bảo bình đẳng hôn nhân, cho phép người đồng tính kết hôn. Trong số 5 người tham gia trả lời, có 3/5 người cho biết xã hội cần bao dung hơn.

    Trong nhóm độ tuổi từ 65 tuổi trở lên, đây là nhóm có định kiến bảo thủ nhưng cũng tăng số người ủng hộ. Nếu trong năm 2008 là 27% thì năm 2012 là 43%.

    Đối với tầng lớp nông dân tỷ lệ này cũng tăng đáng kể, nếu vào năm 2008 là 32% thì đến năm 2012 là 60%.

    Trong ý kiến tham gia trả lời, có 69% số người được hỏi cho rằng, trẻ em trong gia đình điều quan trọng là được sống trong môi trường được yêu thường, đùm bọc và nuôi dưỡng.

    Đồng thời, có 54% số người được hỏi cho rằng nên cho cặp vợ chồng đồng tính được nhận nuôi con nuôi.


    http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%...BA%BFn_%C3%A1i

    Mặc dù đồng tính luyến ái đã không bị coi là phạm pháp nhiều nơi ở phương Tây, chẳng hạn như[134][135] Ba Lan 1932, Đan Mạch 1933, Thụy Điển 1944 và Anh 1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa có quyền hợp pháp dẫu chỉ là hạn chế cho đến giữa những năm 70. Một bước ngoặt quan trọng là vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đưa đồng tính luyến ái ra khỏi Danh sách các rối loạn tâm thần.[136][137] Năm 1977, Quebec tại Canada đã trở thành bang đầu tiên cấm kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dục.[137] Những năm 80 và 90, nhiều nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng tính trong công việc, cư trú và dịch vụ. Tính tới năm 2012, trong tổng số 207 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, có 11 quốc gia đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, 21 nước chấp nhận hình thức đăng ký sống chung.
    Vì những lý do văn hóa-xã hội,[cần dẫn nguồn] không có quốc gia Châu Á nào công nhận hôn nhân đồng tính hoặc đăng ký sống chung. Tại Thái Lan có cộng đồng LGBT sôi nổi nhưng chỉ có ở ngành kinh doanh giải trí thu lợi nhuận tách biệt với chính trị và xã hội Thái bảo thủ.[138] Ở những quốc gia Hồi giáo như Indonesia đã ban hành luật cấm nghiêm khắc chống lại người đồng tính. Quan hệ tình dục đồng tính có thể bị phạt 20 năm tù và bị đánh roi ở Malaysia. Ở Singapore, quan hệ tình dục đồng tính nam là bất hợp pháp tuy nhiên luật này thường không được thực thi. Năm 2003 ở Đài Loan, một dự luật được đưa ra để công nhận hôn nhân đồng tính đã không đạt đủ số phiếu để thông qua.[138]

    Ở Nhật Bản, văn hóa và những tôn giáo lớn không có thái độ thù ghét những cá nhân đồng tính, nước này không có luật nào chống lại đồng tính luyến ái nhưng hôn nhân đồng tính thì không được công nhận.

    [139]
    Ở khu vực Trung Đông vốn tập trung nhiều nước đạo Hồi, đồng tính luyến ái bị pháp luật cấm nghiêm khắc.

    Duy nhất ở Israel, quyền của người đồng tính được pháp luật hỗ trợ.[140]
    Israel là nước có tỉ lệ ủng hộ hôn nhân đồng giới cao nhất thế giới với 61% người dân ủng hộ.
    [141]

    Ý kiến cá nhân của mình :coffee:

    Những dân tộc được coi là "thông minh" thường có tư tưởng thông thoáng cởi mở và thông cảm với người đồng tính


    eatdrink004 hug007
    Last edited by nothing0k; 02-02-2013 at 05:36 AM.

  10. #10
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    haha NT cũng là ng` đồng tính mà. Nhìn vậy chứ ở đâu cũng kỳ thị hết
    haiz...........................

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi trieuvy Xem Bài Gởi
    @Andrew: TV không có làm thống kê tỷ lệ người Do Thái gay . Nhưng andrew sẽ thấy người Do Thái là người tiên phong trong việc nghiên cứu về người đồng tính và đấu tranh cho luật chống kỳ thị người gay.
    Vào cuối thế kỹ 19 các bác sĩ Đức góc Do thái như Sigmund Freud , Kraft-Ebing,Ulrichs ...cũng đã nghiên cứu về tình dục học của người đồng tính. Bác sĩ Do thái Magnus Hirschfeld (1897 )là gay . Ông ta còn thành lập Viện nghiên cứu khoa học tình dục và thường hay tổ chức party cho mấy người đồng tính và người thích mặc áo quần nữ -mà thời đó được gọi chung dưới cụm từ "the third sex", giới tính thứ ba.
    Thời Đức Quốc Xã (Hitler) người Do Thái bị người Đức bắt giam vào trại tập trung để sau đó bị thiêu đốt trong hỏa lò . Đồng thời với người Do Thái ,người gay cũng bị Đức bắt giam .Trong tù người Do Thái sẽ mang "hình sao 5 góc". Để phân biệt Đức dùng hình tam giác trên áo người gay .(Sau này gay mới dùng tam giác hồng -pink triangle làm biểu tượng cho tụi mình). Gay thời Đức Quốc Xã bị bắt (điều luật 175 cho DTLA là tội phạm ) để làm thí nghiệm , họ muốn tìm hiểu tại sao con người trở thành gay . Gay thời đó bị cắt phần não bộ (lobotomy)hay bị đốt điện -electroshock để xem có thể điều trị hết bệnh đồng tính không . Hơn vài chục ngàn người gay bị hành hạ và bị giết dưới thời Hitler .

    Chính vì bị kỳ thị ngay trong vùng Trung đông và dưới thời Hitler ,người Do Thái luôn luôn mang mặc cảm ấy khi họ di cư sang Anh Quốc và sang Mỹ. Tại các nước tự do này họ tranh đấu cho có những luật chống kỳ thị màu da , sắc tộc và khuynh hướng tính dục. Ngày nay tại Mỹ cũng như tại Anh Quốc họ đứng đầu ở các đại học luật và y khoa. Ngay tại Jerusalem người Do Thái còn tổ chức hội LGBT tại Đại Học gồm có giáo sư và sinh viên gay. Ở Hollywood nhiều tài tử màn bạc , nhiều nhà sản xuất phim và đạo diễn phim/TV cũng đều là người Do Thái gay .
    http://www.vuontinhnhan.net/forum/sh...-minh&p=577029

  12. #12
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    chà chà đấu tranh để không bị những ánh mắt kì thị đó ah`. Đó là chuyện trời tây,chứ nhìn lại phương đông mình đi,chắc không đấu tranh đc lun
    haiz...........................

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kiếp mù lòa Xem Bài Gởi
    chà chà đấu tranh để không bị những ánh mắt kì thị đó ah`. Đó là chuyện trời tây,chứ nhìn lại phương đông mình đi,chắc không đấu tranh đc lun
    phương Đông thì cũng tùy đất nước

    ví dụ như ở Nhật Bản , Hàn Quốc , Israel và Thái Lan thì không có vấn đề gì
    Last edited by nothing0k; 02-02-2013 at 11:23 AM.

  14. #14
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    hahahahahahahaha
    không phải cứ văn minh hiện đại là không vấn đề gì
    tiêu biểu là nhật bản. Một quốc gia mà đàn ông rất trọng danh dự . Vì thế một người đàn ông "không hoàn chỉnh" sẽ rất bị xem thường.
    Last edited by kiếp mù lòa; 02-02-2013 at 12:06 PM.
    haiz...........................

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kiếp mù lòa Xem Bài Gởi
    hahahahahahahaha
    không phải cứ văn minh hiện đại là không vấn đề gì
    tiêu biểu là nhật bản. Một quốc gia mà đàn ông rất trọng danh dự . Vì thế một người đàn ông "không hoàn chỉnh" sẽ rất bị xem thường.
    nói chuyện chán thật ....

  16. #16

    Mặc định



    Một Samurai đang được kagema (trai mãi dâm) của mình thủ dâm
    Bản in ukiyo-e sớm theo phong cách shunga (tình dục). Moronobu Hishikawa, khoảng 1680; Bộ sưu tập cá nhân.

    Đồng tính không có gì mới mẻ ở Nhật Bản

    ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NHẬT BẢN

    http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-92_...luoc-dich.html

    ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI
    TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NHẬT BẢN
    Dharmachari Jñanavira - Talawas lược dịch

    “Lạc thú cũng phải được học như bổn phận vậy” Ruth Benedict
    Từ đầu lịch sử tới nay, tín ngưỡng bản địa Nhật Bản, đạo Shinto, đã giữ một ý thức hệ tích cực đối với tình dục, đặc biệt với vai trò của tình dục trong việc duy trì nòi giống. Tới tận bây giờ người ta vẫn có thể chứng kiến những ngày hội làng có những dương vật tạc bằng gỗ khổng lồ được đem ra khỏi điện thờ và rước quanh ruộng đồng để cầu xin sự mầu mỡ. Khác với huyền thoại trong Đạo Thiên chúa, khi mà sự ý thức về giới tính của con người cũng đánh dấu sự sa ngã của họ, dẫn đến việc họ bị đuổi khỏi Thiên đường, thì trong thần thoại Nhật Bản, hai vị tổ thần của dân tộc Nhật, izanagi và izanami đã tỏ ra rất tò mò và thích thử nghiệm về tình dục. Mặc dù đạo Shinto không có một hệ thống thần học và lý luận về tình dục, nhưng khi bàn luận về tình dục thì bao giờ cũng coi đó là một điều tốt, một “con đường/đạo” (do) xuất phát từ tổ tiên.

    Sự nhập môn của Phật giáo ở thế kỷ thứ bảy là thử thách đầu tiên đối với tín ngưỡng nguyên thủy của Nhật Bản. Chính vì để phân biệt với Phật giáo, hay "đạo của Phật", nên các tín ngưỡng bản địa đã được gọi là Shinto, hay "đạo của thần thánh”. Tất nhiên, ta không thể định nghĩa một cách nhìn duy nhất của Phật giáo đối với tình dục, bởi Phật giáo luôn biến đổi qua những văn hóa và thời đại khác nhau, tiếp nhận và định nghĩa lại những yếu tố của những văn hoá mà nó du nhập vào. Tuy nhiên, cũng giống như trong Thiên chúa giáo, người ta có thể nêu ra một số đường nét và đặc điểm chung đúng cho mọi thời kỳ và có thể làm nền tảng cho một sự tổng quát hoá. Trước hết, Phật giáo thời kỳ đầu chia ra hai cách sống thích hợp cho người theo đạo: là tu sĩ và là cư sĩ. Tu sĩ không được phép sinh hoạt tình dục, còn cư sĩ thì tuân theo năm giới, trong đó giới thứ ba là không được tà dâm. Khác với sách xưng tội ở thời kỳ Trung Cổ của Thiên chúa giáo, các văn bản Phật giáo không giải thích tỉ mỉ và rõ ràng thế nào là “đúng” và thế nào là “sai”. Cũng giống như trong những lĩnh vực khác, khoái lạc tình dục nên được giữ đúng mực. “Hành động đem lại khổ đau và sầu não trong tương lai là hành động không nên làm. Hành động đem lại niềm vui và hạnh phúc là hành động nên làm” (Dhammapada). Thay vì gán cho một hành động bản chất tốt (punna) hay xấu (paapa), Phật giáo dùng mục đích của nó để đánh giá hành động ấy là khôn ngoan (kusala) hay không khôn ngoan (akusala). Đánh giá một mục đích là khôn ngoan hay không không phải dựa vào một danh sách có sẵn của một vị Chúa Trời, mà dựa vào khả năng giảm đi hay tăng lên dục vọng của nó. Trong Phật giáo, dục vọng là một vấn đề, không phải vì nó mang tính xấu, mà bởi vì nó tạo ra vướng mắc, và qua đó, khổ đau.

    Về cơ bản Phật giáo không đề cao việc duy trì nòi giống, bởi qua đó chúng sinh chỉ một lần nữa đầu thai vào thế giới trần tục (samsara) mà thôi. Điều này xung khắc với những văn hoá gốc của Đông Á, những văn hoá mà, dưới ảnh hưởng của Đạo Khổng, coi việc nối dõi tông đường như một nghĩa vụ đối với tổ tiên. Nhưng, mặc dù Phật giáo không coi trọng việc duy trì nòi giống và chưa bao giờ đề cập đến chủ đề này một cách cụ thể, Phật giáo Mahayana đã sử dụng những hình tượng mạnh mẽ xung quanh hành động làm tình như một công cụ. Từ thế kỷ thứ năm, ở bắc Ấn Độ, nhiều Phật phái đã sử dụng những hình ảnh tình dục để truyền tải giáo lý, ví dụ như về sự đồng nhất (non-differentiation) giữa samsara và nirvana (niết bàn). Những vị Phật và Bồ tát nam được diễn tả trong lúc đang giao hợp với partner nữ của mình. Tu sĩ và cư sĩ đôi khi vượt qua ranh giới của sự tượng trưng và đưa tình dục vào trong nghi lễ của mình. Nhưng cũng giống như những bài tập mang tính tình dục–yoga của Đạo Giáo chỉ có mục đích kéo dài tuổi thọ, những thực hành nói trên không dụng ý dẫn đến việc xuất tinh mà là để chuyển hóa năng lượng tình dục sang năng lượng tâm linh. Giáo phái Shingon của Phật giáo Nhật Bản, do Kuukai(774-835)sáng lập, đã xây dựng nên một dạng Tantra riêng của mình gọi là Tachikawa Ryu. Giáo phái này dậy rằng sự quên đi bản thân trong khi làm tình có thể dẫn đến giác ngộ. Quá trình phát triển này nói lên một khác nhau cơ bản giữa quan niệm về tình dục của Phật giáo và của Thiên chúa giáo. LaFleur nhận xét: “Ở châu Âu có lẽ không có một điều gì tương tự như việc Phật giáo Nhật Bản sử dụng tình dục như một hình tượng tôn giáo, thậm chí coi chính nó như một hành vi tôn giáo”. Điều nổi bật là có một số xu hướng trong Phật giáo Nhật Bản coi tình dục như một chuyện tính cực, tách khỏi nhiệm vụ sinh sản của nó. Việc tách tình dục ra khỏi nhiệm vụ duy trì nòi giống đã cho phép tình dục trở thành một biểu tượng tôn giáo và được nâng lên khỏi phạm trù gia đình.

    Ở Nhật Bản, ảnh hưởng của những hình tượng tình dục Tantric mô tả sự giao hợp giữa nam và nữ thực ra là không đáng kể. Quan trọng hơn là ảnh hưởng của những hình tượng cảm dục đồng giới và thậm chí tình dục đồng giới trong những tổ chức Phật giáo nam, nơi mà những chú tiểu đẹp được coi như hiện thân của nguyên tắc nữ giới. Việc Đạo Phật cho phép thậm chí tu sĩ cũng có những sinh hoạt tình dục đồng tính được thể hiện rõ qua huyền thoại nổi tiếng về người sáng lập trường phái Shingon, Kooboo Daishi (Kuukai), người đã nhập môn tình dục đồng giới vào Nhật sau khi đi tu học ở Trung Quốc về vào đầu thế kỷ thứ chín. Huyền thoại này nổi tiếng tới mức thậm chí Gaspar Vilela, một nhà du hành Bồ Đào Nha cũng nghe đến. Ghi chép vào năm 1571, ông phàn nàn về thói nghiện “kê gian” (sodomy) của những tu sĩ tại núi Hiei. Những ghi chép của những người truyền đạo Jesuit chứa đầy những ca thán về sự hiện diện khắp nơi của ham mê tình dục đồng tính trong chùa chiền Nhật Bản. Điều làm những nhà truyền đạo bực dọc là xem ra những thói quen này được chấp nhận rất rộng rãi. Cha cố Francis Cabral ghi lại trong một bức thư viết năm 1596 rằng “sự ghê tởm của da thịt” và những “thói quen ma quỷ” được “coi là danh giá tại Nhật Bản. Các ông bố có chỗ đứng trong xã hội giao phó con trai mình cho những vị sư để được dạy những việc như vậy và đồng thời để thoả mãn dục vọng của họ. Một cha cố Jesuit khác nhận xét rằng điều “ma quỷ này” lan truyền “rộng rãi” tới mức người ta “không kinh lạ mà cũng chẳng sợ hãi”, và chỉ ra rằng tình dục đồng giới trong tu sĩ Phật giáo không phải là điều gì đặc biệt.

    Những tu viện Phật giáo là những cộng đồng thuần về giới tính và thường hay ở nơi hẻo lánh và núi non. Điều này đã khuyến khích sự phát triển của một dạng dục cảm đồng giới nhất định liên quan tới những chú tiểu trẻ hay chigo. Những chú tiểu ít tuổi nhất, gọi là kasshiki, có thể chỉ năm tuổi và không cạo đầu mà để “tóc dài tới vai và rất đúng thời trang”. Chúng trang điểm mặt bằng phấn và “mặc quần áo bằng tơ tằm mịn và vận đồ bên trong với nhiều mầu sặc sỡ”. Colcut chỉ ra những vấn đề trong những tu viện ở thời Muromachi (1333-1568), bị gây ra bởi quan hệ tình dục với nam thiếu niên. “Sự có mặt của nhiều trẻ em trong thiền viện có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới mức độ kỷ luật”. Kết quả là “những thiếu niên đẹp và quyến rũ trở thành trung tâm của sự ngưỡng mộ trong những buổi lễ xa hoa. Điều này xa rời sự tìm kiếm bản thể giản dị được dạy bởi các bậc Thiền sư ngày xưa”. Những người phụ trách kỷ cương trong các thiền viện vất vả trong vấn đề này, hệt như triều đình Shogun không cấm được các nhà hát kabuki ăn mặc phô trương. Các điều luật ra đời hồi đó cấm sử dụng một số loại vải hay mầu sắc nhất định đều không mấy hiệu lực.

    Môi trường dục cảm đồng tính ở các nhà chùa thậm chí đã tạo ra hẳn một thể loại văn học, Chigo monogatari (chuyện chú tiểu), lấy tình yêu giữa chú tiểu và sư thầy làm đề tài. Những quan hệ dục cảm đồng tính này bắt nguồn từ cấu trúc gia đình của cuộc sống tu viện. Một trong những đề tài thông dụng của những tích này là chuyện một vị Phật, thường là Kannon, Jizoo hay Monjuschiri, hoá thân thành một chú tiểu trẻ đẹp. Chú tiểu dùng sự quyến rũ cơ thể của mình để gần gũi một vị sư già và giúp vị sư đạt được giác ngộ. Trong tích Chigo Kannon engi ở thế kỷ thứ muời bốn, Kannon biến thành một chú tiểu và trở thành người tình của một nhà sư đang khao khát có một người bạn đồng hành trong tuổi già. Sau một số năm khăng khít, chú tiểu qua đời, để lại nhà sư già tuyệt vọng. Lúc đó Kannon hiện ra, tiết lộ rằng mình chính là chú tiểu và giảng cho nhà sư về tính phù vân của vạn vật.

    Một số học giả cho rằng sự ngợi ca mang tính dục cảm đồng tính đối với những chú tiểu trẻ, quyến rũ cũng ảnh hưởng đến cách thể hiện những vị Bồ tát trong tranh và tượng. Dần dần Kannon, Monjuschiri, Jizoo, cũng như những nhân vật lịch sử khác như Kuukai và Shootoku Taishi (một hoàng tử được coi là đã đem Đạo Phật vào nước Nhật) được thể hiện là những “vị thần thiếu niên”, phản ánh những chú tiểu trẻ và đẹp trong các chùa chiền.

    Phản ứng của Phật giáo Nhật Bản trước môi trường dục cảm đồng tính nảy sinh khi tu sĩ và thanh thiếu niên sống chung nhau thật khác với phản ứng của Thiên chúa giáo trước những thể hiện dục cảm đồng tính trong môi trường tu viện, coi đó còn tội lỗi hơn là loạn dâm và truy phạt hết sức khắc nghiệt. Cách nhìn thoáng của Đạo Phật đối với tình dục, cũng như với những khía cạnh khác của bản chất con người, bắt nguồn từ quan niệm upaaya (các biện pháp khôn khéo). Upaaya không đánh giá bản thân các hành động, mà đánh giá mục đích và kết quả của chúng. Vì vậy, sự hấp dẫn tình dục, mặc dù trong thời kỳ đầu của Phật giáo bị coi là không trong sạch, có thể được sử dụng như một công cụ để truyền tải Đạo. Qua đó tu sĩ, mặc dù không được phép quan hệ tình dục với phụ nữ, có thể biện minh (hoặc giải thích) được cho quan hệ của mình với thiếu niên là để tạo nên một gắn bó tâm linh sâu sắc và lâu dài.

    Ngoài những chú tiểu đi tu để trở thành nhà sư, còn có nhiều thiếu niên khác lui tới môi trường tu viện, bởi tu viện cũng thường được dùng là trường học cho con cái của tầng lớp trên. “Những trẻ em này thường được sư thầy yêu mến. Chúng mặc quần áo đẹp đẽ, tỉa lông mày và trang điểm như con gái. Chúng là niềm tự hào của tu viện, và những đứa đẹp nhất và tài hoa nhất thì được khoe khắp trong vùng” (Frederic). Nhưng sự chiêm ngưỡng mang tính dục cảm đồng giới với một cậu bé học trò và việc cùng chăn gối với cậu là hai việc khác nhau. Vậy với mức độ nào thì cái không khí dục cảm đồng giới ở trong tu viện thực sự dẫn đến những hành động đồng tính luyến ái? Leupp dẫn ra một loạt những nguồn tư liệu văn học và nghệ thuật, chứng tỏ rằng quan hệ tình dục đồng tính giữa các sư và chú tiểu là rất phổ biến. Để dẫn chứng, ông trích một bản tuyên thệ với năm điều hứa của một tu sĩ 36 tuổi ở chùa Todaiji tại Nara, viết vào năm 1237:

    Điều: Tôi hứa sẽ tu tại chùa Kasaki tới khi 41 tuổi
    Điều: Đã ngủ với 95 đàn ông rồi, tôi hứa sẽ không dâm dục với quá 100 người.
    Điều: Tôi sẽ không cặp kè với bất cứ cậu nào ngoài Ryou-Maru.
    Điều: Tôi sẽ không giữ con trai lớn tuổi trong giường.
    Điều: Tôi sẽ không làm nenja (vai người lớn trong một quan hệ đồng tính luyến ái) cho bất cứ ai trong số con trai lớn và nhỡ tuổi.

    Đáng tiếc Leupp không chú giải bản tuyên thệ này dựa trên quan hệ với những bản tuyên thệ khác cũng được giữ trong chùa. Mặc dù đây có thể là một ngoại lệ (có 95 người bạn tình vào tuổi 36 thật không phải là ít, nhất là đối với một nhà sư), nhưng giọng văn của những lời hứa rõ ràng là nhẹ nhàng chứ không cực đoan. Ví dụ, nhà sư cho phép mình có thêm 5 người tình nữa, đó là ngoài quan hệ vẫn được giữ với Ryuo-Maru. Nhà sư cũng ghi thêm là những lời hứa này chỉ đúng cho kiếp này, chứ không áp dụng cho kiếp tới.

    Một dẫn chứng khác là truyện tranh Chigo no sooshi, gồm một loạt năm truyện có minh hoạ, ra đời khoảng thế kỷ 14 và được giữ trong chùa Daigo-ji. Chuyện diễn giải và vẽ tỉ mỉ cảnh một chú tiểu trẻ đang được người phục vụ thoa phấn và kem trơn vào hậu môn để giúp đỡ vị trưởng chùa già làm tình. Tác giả bài viết này đã được xem một bản copy của cuộn tranh này tại Thư viện quốc gia Anh, và xem ra nó gần với những tưởng tượng dâm đãng hơn là miêu tả sự thật: có một lúc người giúp việc bị kích khích tới mức anh ta van xin chú tiểu cho phép mình làm tình trước, và chú tiểu đồng ý. Điều này không thực tế lắm, bởi trong xã hội Nhật thì sự phân biệt đẳng cấp và coi trọng tôn ti trật tự là rất lớn. Tuy nhiên, việc cuộn tranh này được giữ tại một ngôi chùa như một báu vật quốc gia (tôi khó hình dung Vatican có thể giữ một tác phẩm tương tự trong kho của mình) nói lên rằng trong ý thức hệ của phật tử Nhật Bản tình dục có một chỗ đứng khác với quan niệm của Thiên chúa giáo. Một ý thức hệ không đánh giá một hành động là “đúng” hay “sai” về bản chất, mà dựa vào hoàn cảnh và mục đích của nó. Sự khác nhau về văn hoá này được ghi chép lại qua nhiều cuộc gặp gỡ giữa những người truyền đạo Jesuit và những nhà sư Nhật, trong đó tu sĩ Nhật bị chỉ trích là có những tập tục “không thể diễn tả nổi”. Đạo đức tình dục của xã hội Nhật tiền hiện đại không đàn áp và lên án đồng tính luyến ái như ở châu Âu, nơi mà đồng tính luyến ái bị ma quỷ hoá và bị truy đuổi bởi Nhà thờ bắt đầu từ thời Aquinas.

    Mặc dù việc săn đuổi sắc đẹp thiếu niên có thể là một trò tiêu khiển thông dụng của một số nhà sư Nhật thời trung cổ, nhưng trong một số văn bản, tình yêu con trai đã được bàn tới trên phương diện siêu hình (metaphysical). Shin’yuuki hay “Ghi chép của những người bạn tâm huyết”, một văn bản Phật giáo của thế kỷ 17, đưa ra lời giải thích siêu hình tường tận nhất cho tình yêu nam nam. Bản văn được viết như một sách giáo lý, trong đó một sư thầy trả lời câu hỏi của một chú tiểu về “đạo làm thiếu niên”. Trong đó, sắc đẹp của một thanh niên được coi là có một ý nghĩa siêu hình nếu như cậu bé đáp lại tình yêu do sắc đẹp của cậu mang lại ở một người lớn tuổi. Trong khi Thiên chúa giáo coi một quan hệ tình dục như vậy là mang tính quỷ Sa tăng, thì ở Nhật Bản thời đó, việc một người đàn ông cao tuổi yêu một thiếu niên được coi là một gắn bó mang tính nghiệp chướng (karma) tốt cho cả hai người. Ý niệm cơ bản ở đây là nasake, hay “đồng cảm”, một chữ quan trọng trong cả khái niệm đạo đức lẫn cái đẹp của Nhật Bản.

    Nếu một thiếu niên cảm nhận được sự thành thực trong tình cảm của một người đàn ông cao tuổi hơn, và qua đồng cảm đáp lại tình cảm đó một cách không vụ lợi thì được coi là gương mẫu. Người thầy lý luận rằng thoả mãn dục vọng là cần thiết cho đời sống tình cảm và việc chống lại tình cảm còn đem lại nhiều vấn đề hơn là nghe theo tình yêu của mình.

    Tuy nhiên, ta cũng không nên quên rằng những quan hệ dục tính đồng giới được tác phẩm trên ca ngợi kia chỉ xẩy ra trong một tình huống rất cụ thể: giữa một nam giới lớn tuổi và một thiếu niên trong vòng mấy năm trước khi thiếu niên trưởng thành. Sau đó, quan hệ đó sẽ mất đi tính tình dục và trở thành một quan hệ tinh thần và được coi là sẽ kéo dài vượt qua cả ranh giới của kiếp hiện tại. Ý nghĩa siêu hình của quan hệ này xuất phát từ ý thức của cả hai người về sự giới hạn thời gian của nó. Vẻ đẹp của tuổi trẻ chỉ kéo dài có vài năm và sẽ mất đi vĩnh viễn, vì vậy việc mong muốn thiết lập một quan hệ chỉ dựa trên sự hấp dẫn thể xác là vô ích. Nhưng vai trò của sự hấp dẫn thể xác trong việc làm khăng khít mối quan hệ hoàn toàn không bị phủ nhận, ngược lại, nó được coi là một điều hết sức tự nhiên. Faure có lý khi ông cho rằng quan hệ tình dục giữa sư và chú tiểu không chỉ giới hạn trong “làm tình”, mà còn đóng vai trò của một “đối thoại”. Phật giáo Nhật Bản là nơi tình yêu nam giới lộ diện rõ ràng nhất, là nơi nó đã trở thành một biểu tượng của người đàn ông lý tưởng (chứ không chỉ đơn giản là một mẫu hành động). Điều này rất gần với cái mà Foucault gọi là “kỹ thuật của bản thân” (technologies of the self), khi ông nói về quan hệ đồng tính nam giữa già và trẻ ở thời Hy Lạp cổ:

    “Đó là những thực hành (practices) được suy nghĩ chín chắn và tự nguyện mà qua đó nam giới không những đặt cho mình luật ứng xử, mà còn phấn đấu chuyển đổi mình, thay đổi bản thân, và biến cuộc sống của mình thành một tác phẩm nghệ thuật [une oeuvre] mang những giá trị thẩm mỹ và đạt được những tiêu chuẩn về phong cách nhất định”

    Về mặt ý thức hệ và thẩm mỹ thì quan hệ giữa chú tiểu và nhà sư tuân theo những nguyên tắc nhất định, và không chỉ đơn thuần là quan hệ (đồng tính) luyến ái.

    Nhiều con trai của samurai được đào tạo trong các tu viện Phật giáo. Qua đó, mô hình tình bạn vượt thế hệ và mang tính chất tình dục của Phật giáo đã ảnh hưởng đến quan hệ nam nam trong môi trường thuần giới của samurai. Điều này đặc biệt xảy ra vào thời Tokugawa (1600-1857), khi phần lớn samurai tập trung ở những thành phố lớn như Edo (Tokio bây giờ), những nơi có ít phụ nữ. Có một mảng văn học rất lớn nói đến “giá trị đạo đức quan trọng của quan hệ tình dục nam nam của những samurai”. Những tuyển tập truyện ngắn như Nanshoku ookagami của Ihara Saikaku (“Tấm gương lớn của tình yêu nam giới”), tuyển tập thơ và truyện như Iwatsutsuji của Kitamura Kigin (“Hoa Azeleas dại”) và những sách đạo đức hướng dẫn sử sự trong tình yêu nam giới như Shin’yuuki (“Ghi chép của những người bạn tâm huyết”) hay Hagakure (“Dưới bóng lá”) vẽ nên một bức tranh cụ thể về cách làm tình lý tưởng trong tình yêu nam giới thời bấy giờ.

    Tương tự như sự diễn tả truyền thống của tình yêu nam nam trong chùa chiền giữa một chú tiểu trẻ và thầy của mình, những bài văn trên lãng mạn hóa tình yêu giữa một wakashu trẻ (một thiếu niên trước khi tới lễ thành niên của mình, vẫn còn tóc trước trán) và một người tình già, nenja (nghĩa đen là người nhớ đến người tình của mình). Những thiếu niên thường được miêu tả là đẹp, duyên dáng và quyến rũ, trong khi đó người tình cao tuổi thường được thể hiện là giận dữ, trung thành và dũng cảm. Mặt tình dục của những quan hệ này không được chú trọng, mà những yếu tố giáo dục và dạy giỗ được đề cao. Schalow viết “Những quan hệ này không phải chủ yếu là quan hệ tình dục, mà gồm cả những yếu tố giáo dục, chỗ dựa trong xã hội và hỗ trợ về tinh thần. Hai người cùng thề tôn trọng lý tưởng samurai. Vị trí samurai được tăng sức mạnh nhờ một quan hệ được lựa chọn kỹ càng”. Tình yêu cùng giới giữa một samurai và một thiếu niên cũng giống như tình yêu giữa chú tiểu và sư thầy ở chỗ tình dục được coi là một pha ngắn trong một quan hệ tình bạn kéo dài cả cuộc đời (sự thương mến của hai người thường được coi là số mệnh bắt nguồn từ duyên nợ của kiếp trước). Những quan hệ này không bị giấu diếm mà xảy ra công khai và phải tuân theo những quy ước nhất định.

    Lịch sử của dục tính đồng giới trong Phật giáo Nhật Bản thú vị bởi nó chỉ ra rằng “giới tính” cũng như “tình dục” không phải là đặc điểm cố định của cơ thể sinh học. Hơn thế, sex và giới tính là những biến cố văn hóa phức tạp xảy ra với cơ thể, ngược lại với những thực tại “sinh học” phát sinh từ bên trong cơ thể. Nhà tâm lý học Nhật nổi tiếng Doi Takeo cho rằng sự khác biệt quan trọng nhất giữa xã hội phương Tây và xã hội Nhật Bản là ở xã hội phương Tây, quan hệ nam nữ là quan hệ được đánh giá cao nhất, trong khi đó Nhật Bản nhấn mạnh đến quan hệ nam nam cũng như nữ nữ. Ông cho rằng đàn ông phương Tây phải chứng minh rằng mình là đàn ông qua khả năng cặp đôi với phụ nữ. Trong khi đó, quan hệ với những đàn ông khác thường đi kèm với sự cẩn thận và lo lắng bởi sự gần gũi thường hay được coi là biểu hiện của đồng tính luyến ái. Chính điều này cản trở đàn ông phương Tây có những quan hệ sâu kín với người cùng giới. Doi cho rằng ở Nhật Bản “cảm giác đồng tính luyến ái” phát triển rộng rãi hơn. Đồng tính luyến ái ở đây không hiểu theo nghĩa hẹp, mà theo nghĩa “khi gắn bó về tình cảm giữa người cùng giới mạnh hơn là với người khác giới”. Sự gắn bó tình cảm mật thiết này ít khi xẩy ra giữa những người bạn bình đẳng, mà thường mang tính cách mạnh/yếu, ví dụ giữa thầy và trò, giữa thành viên cao tuổi và thành viên trẻ tuổi của một tổ chức, thậm chí giữa bố và con trai hay mẹ và con gái.

    Tôi thấy ý kiến của Doi thú vị bởi những người hoạt động trong phong trào giải phóng phụ nữ và những nhà lý thuyết về giới ở phương Tây đều cho rằng “cái chết” của tình bạn nam nam trong lịch sử hiện đại và sự kỳ thị đồng tính luyến ái liên quan chặt chẽ với nhau. Doi cho rằng sự đề cao quan hệ khác giới, và cái mà Ueno Chizuko, người đấu tranh cho bình đẳng phụ nữ Nhật, gọi là “văn hoá cặp đôi” của phương Tây hiện đại, đã dẫn đến vị trí chủ đạo của quan hệ hôn nhân và sự xuống dốc của những quan hệ cùng giới. Michel Foucault cũng cho rằng trong thế giới của chúng ta quan hệ giữa người với người đã “nghèo nàn” đi bởi sự quan trọng quá mức của quan hệ gia đình:

    “Chúng ta sống trong một thế giới mà luật pháp, xã hội và hiến pháp làm cho những quan hệ của chúng ta trở nên rất ít ỏi, rất nghèo nàn và rất đơn giản. Tất nhiên, chúng ta có những quan hệ cơ bản về hôn nhân và gia đình, nhưng ngoài ra còn có biết bao nhiêu những quan hệ khác nữa có thể tồn tại…”.

    Talawas lược dịch
    http://www.talawas.org/talaDB/showFi...s=1066&rb=0503
    ___________________________________

    Tài liệu tham khảo

    Arntzen, Sonja, ikkyuu and the Crazy cloud Anthology, Tokyo University Press, Tokyo 1986.
    Bech, Henning, When Men Meet: Homosexuality and Modernity, Polity Press, Cambridge 1995.
    Benedict, Ruth, The Chrysanthemum and the Sword: Patterns of Japanese Culture, Routledge & Kegan Paul, London 1967.
    Bloch, R. Howard, The Scandal of the Fabliaux, University of Chicago Press, Chicago, 1986.
    Blofeld, John, Bodhisattva of Compassion: the Mystical Tradition of Kuan Yin, Shambala, Boston 1988.
    Blomberg, Catharina, The Heart of the Warrior: Origins and Religious Background of the Samurai System in Feudal Japan, Japan Library, Sandgate 1974.
    Blomberg, Catharina, Samurai Religion: Some Aspects of Warrior Manners and Customs in Feudal Japan, Uppsala University Press, Uppsala 1976.
    Boxer, C.R., The Christian Century in Japan 1549-1650, University of Californian Press, Berkeley, 1951.
    Brundage, James A., Law, Sex and Christian Society in Medieval Europe, University of Chicago Press, Chicago, 1987.
    Childs, Margaret, 'Chigo Monogatari: Love Stories or Buddhsit Sermons?' in Monumenta Nipponica, 35:2, 1980.
    Colcutt, Martin, Five Mountains: Rinzai Zen Monastic institutions in Medieval Japan, Harvard University Press, Harvard 1990.
    Czaja, Michael, Gods of Myth and Stone: Phallicism in Japanese Folk Religion, Weatherhill, New York 1974.
    Doi, Takeo, Amae no koozoo (Anatomy of dependence), Tokyo: Kobunsho 1985 [see John Bester for an English translation from Kodansha international 1973].
    Dollimore, Jonathan, Sexual Dissidence and Cultural Change: Augustine to Wilde, Freud to Foucault, New York & Oxford, Oxford University Press 1991.
    Faure, Bernard, The Red Thread: Buddhist Approaches to Sexuality, Princeton, Princeton University Press 1998.
    Foucault, Michel, The History of Sexuality Volume 1, Penguin, London 1990.
    Foucault, Michel, The History of Sexuality Volume 2, Penguin, London 1984.
    Frederic, Louis, Daily Life in Japan at the Time of the Samurai, George Allen & Unwin, 1972.
    Guth, Christine, 'The Divine Boy in Japanese Art' in Monumenta Nipponica, 42:1, 1987
    Halperin, David, Saint Foucault: Towards a Gay Hagiography, New York & Oxford, Oxford University Press 1995.
    Harootunian, H.D., Things Seen and Unseen: Discourse and ideology in Tokugawa Japan, University of Chicago Press, Chicago 1988.
    ikegami, Eiko, The Taming of the Samurai: Honorific individualism and the Making of Modern Japan, Harvard University Press, Cambridge MA 1995.
    Keene, Donald (transl.) Essays in idleness: Tsurezuregusa of Kenkoo, Columbia University Press, New York, 1967.
    Kim, insook, 'A comparison of the Buddhist monastic communities of Korea, Taiwan and Japan and the sexism of the "Eight Rules"' in U.S.-Japan Women's Journal English supplement, no. 8, 1995.
    LaFleur, William, R., Liquid Life: Abortion and Buddhism in Japan, Princeton University Press, Princeton 1992.
    Leupp, Gary, Male Colors: The Construction of Homosexuality in Tokugawa Japan, University of California Press, Berkeley 1995.
    Levering, Miriam, 'The Dragon Girl and the Abbess of Mo-Shan: Gender and Status in the Ch'an Buddhist Tradition', The Journal of international Association of Buddhist Studies, vol. 5, no. 1, 1982.
    Levering, Miriam, 'Doogen's Raihaitokuzui and Women Teaching in Sung Ch'an', The Journal of international Association of Buddhist Studies, vol. 21, no. 1, 1998.
    Levy, Howard, Japanese Sex Jokes in Traditional Times, Washington DC, Warm-Soft Village Press 1973.
    Leyland, Winston, Queer Dharma: Voices of Gay Buddhists, San Francisco, Gay Sunshine Press 1998
    Leysler, Conrad, 'Cities of the Plain: the rhetoric of sodomy in Peter Damian's 'Book of Gomorrah'' in The Romantic Review, 86:2, 1995.
    Miller, Stephen D. (ed.), Partings at Dawn: An Anthology of Japanese Gay Literature, Gay Sunshine Press, San Francisco 1996.
    Minamoto, Junko, 'Buddhism and the Historical Construction of Sexuality in Japan' in U.S.-Japan Women's Journal English Supplement, no. 5, 1993.
    Paul, Diana, Women in Buddhism: images of the Feminine in the Mahayana Tradition, University of California Press, Berkeley 1985.
    Schalow, Paul, translation of ihara Saikaku's Nanshoku ookagami (The great mirror of manly love), Stanford University Press, Stanford 1990.
    Spence, Jonathan, D., The Memory Palace of Matteo Ricci, Faber and Faber, London 1985.
    Sanford, James H., 'The Abominable Tachikawa Skull Ritual' in Monumenta Nipponica, 46:1, 1991.
    Sedgwick, Eve, The Epistemology of the Closet, London, Penguin 1990.
    Sponberg, Alan, 'Attitudes toward women and the feminine in early Buddhism' in Jose ignacio Cabezon (ed.), Buddhism, Sexuality and Gender, State University of New York Press, Albany 1992.
    Watanabe, Tsuneo and Jun'ichi iwata, The Love of the Samurai: A Thousand Years of Japanese Homosexuality, GMP, London 1989.
    Wilson, William, translation of Yamamoto Joochoo's Hagakure (in the shade of leaves), Tokyo, Kodansha international 1979.

  17. #17

    Mặc định

    chuyện gì đang xảy ra vậy? bộ hết chỗ để pót mấy cái này rồi hả?
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

  18. #18

    Mặc định

    Mình chỉ đăng các tài liệu về chủ đề đồng tính để các bạn tham khảo thôi mà

    Chủ đề đồng tính là một chủ để tranh luận đáng quan tâm trong các tôn giáo

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Vitxiem Xem Bài Gởi
    chuyện gì đang xảy ra vậy? bộ hết chỗ để pót mấy cái này rồi hả?
    người khác pót nhầm chuồng thì hướng dẫn cho người ta pót lại . chứ có gì đau mà vx hà tất phải như thế :sleepy:
    -Người Đời Cười Ta Quá Điên Khùng†Ta Cười Người Đời Nhìn Không Thấu- :D

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi HungGiuse Xem Bài Gởi
    người khác pót nhầm chuồng thì hướng dẫn cho người ta pót lại . chứ có gì đau mà vx hà tất phải như thế :sleepy:
    thì bạn làm người hướng dẫn đi, vx không thấy bạn hướng dẫn mà chỉ thấy bạn xuất hiện sau vx để hướng dẫn vx :) bạn hướng dẫn mấy bạn khác pót đúng đi cám ơn bạn đấy:)
    Miễn nc với santanas.kratos666,kael,nhatnam;phanquanbt,1288,qu angcom

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. NHẪN NHỤC BA LA MẬT
    By MuaDong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-10-2012, 11:39 AM
  2. DÒNG CHẢY MIÊN VIỄN CỦA THIỀN
    By bichthuybt in forum Thiền Tông
    Trả lời: 176
    Bài mới gởi: 28-07-2012, 06:22 PM
  3. Trả lời: 10
    Bài mới gởi: 14-04-2012, 07:14 AM
  4. Thiền học
    By The_Sun in forum Thiền Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 03-09-2011, 08:52 AM
  5. Đạo gì?
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 10:42 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •