Hoãn lại phương pháp thiền kudalini, xin đăng một câu chuyện vừa mới sưu tầm được

Mắt Âm Dương và chuyện nhìn thấy Vong Hồn, Ma quỷ
Người có mắt âm dương nhìn thấy vong hồn, ma quỷ là chuyện bình thường. Với người am hiểu Phật pháp thì chuyện ấy vốn chẳng có chi đặc biệt. Nhưng nói chuyện ấy trong thời đại này, nếu chẳng bị cho là chuyện thần thoại, thì cũng sẽ bị gán cái mác huyễn hoặc, mê tín dị đoan. Thời đại “khoa học”, người ta chỉ tin những gì “bốc được bỏ vào mồm” nên tâm thức bị trói chặt trong tà kiến, chẳng biết gì hơn ngoài những thấy biết hạn hẹp, được gán cái mác thời đại của mình, thật đáng tiếc biết bao!
*
Trong một lần đưa thầy đi cầu siêu cho thai nhi ở Sóc Sơn. Vừa bước xuống xe, thầy níu tay tôi, hai mắt đỏ hoe: “Con ơi, “chúng nó” về đây đông quá thể. Chẳng một đứa nào có được cái hình hài nguyên vẹn, thương quá đi thôi!..” Kết thúc lễ hôm ấy, Thầy trầm ngâm nói với tôi: “Giá như ai cũng có đôi mắt âm dương để nhìn thấy được các cảnh giới vô hình. Có lẽ họ sẽ sống thiện lương hơn, không ai còn dám làm ác nữa…”
Dù chẳng có khả năng thấy được gì, nhưng tôi lại hay cảm nhận được những rung cảm nơi thế giới tâm linh. Như những lần cùng Thầy lang thang đặt máy niệm Phật nơi các nghĩa trang. Cứ hễ tụng xong nghi thức, tâm tôi lại trào lên những niềm hỉ lạc. Niềm vui ấy rất lạ lùng, không cách chi diễn tả được. Có lẽ là do cảm ứng với niềm vui giải thoát của các vong linh chăng?
Mắt Âm Dương nghĩa là gì
Mắt âm dương là một thuật ngữ dân gian, dùng để chỉ những người có khả năng dị biệt: Đôi mắt của họ, ngoài khả năng nhìn thông thường như mọi người, còn có thể nhìn được chúng sinh nơi cõi âm và các cảnh giới vô hình khác. Mắt âm dương có ba loại:
Mắt của hạng Đồng Cốt do quỷ thần cho mượn mà có.
Mắt của người do bẩm sinh mà có.
Mắt của người do tu hành mà có.
1. Mắt âm dương của những người Đồng Bóng.
Đồng bóng là những người bị quỷ thần hoặc tinh mị gá nhập. Sở dĩ họ nhìn thấy được ma quỷ là do các thế lực vô hình này cho mượn mắt. Lúc không bị gá nhập thì mắt họ nhìn chẳng khác chi ta, có muốn cũng không nhìn thấy ma quỷ gì. Như trường hợp cô P. Hàm Rồng hay cô B.H trước đây là một điển hình. Họ được một vị khá cao cho mượn mắt để thực hành các nhiệm vụ về tâm linh…
Chừng 20 năm về trước tại Hải Phòng, Thầy tôi cầu siêu cho vong linh các liệt sĩ vô danh, chết trong chiến dịch “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển”. Lúc đó, Bộ QP do bán tính bán nghi nên mời cô H về kiểm chứng. Khi cô về thì khóc bảo: “Con thấy vong hồn liệt sĩ tụ họp về nơi đây đông không kể xiết. Nếu không nhờ Phật lực, các chiến sĩ không cách chi lên bờ để nghe Pháp được…”.
Một lần khác, khi Thầy về một tỉnh phía bắc hộ trì đạo tràng. Lúc vừa xong thời khóa buổi sáng thì có một cụ già đến xin thưa chuyện. Cụ bảo: “Bạch Thầy! Đêm qua con thấy người ta từ bốn phương tám hướng đổ dồn về khu vực này. Họ mặc trang phục của nhiều thời kỳ và đông không kể xiết. Lúc ấy con không biết có chuyện gì, định bụng sáng ra tìm đến đây xem sao. Nay đến đây mới biết là do Thầy về đây hộ trì Đạo Tràng…”
2. Mắt âm dương do bẩm sinh mà có.
Đây là do kiếp trước tu, kiếp này do biệt nghiệp nên có khả năng nhìn thấy các cảnh giới. Ở Việt Nam ta cũng có một số người thuộc trường hợp này. Họ có có thể nhìn thấy và giao tiếp được với chúng sanh nơi cõi quỷ thần. Như ông Hoàng Đồng Sanh trong Phật học tinh yếu là một điển hình:
“Ðôi mắt cư sĩ họ Hoàng rất lạ, có thể thấy được ma quỷ và điện quang của mỗi người. Theo lời ông, những vị tu hành chân chánh, tâm trong sạch, thì xung quanh mình có vòng ánh sáng sắc trắng mát mẻ dịu dàng. Người giàu, có ánh sáng sắc đỏ. Bậc sang quý, có ánh sáng màu tím. Kẻ buồn rầu thất chí, hoặc đau yếu, có ánh sáng màu xám như khói. Hạng người tầm thường, phần nhiều có ánh sáng màu lục.
Ai có điện quang màu đen thì một là người sắp chết, hai đó là kẻ rất độc ác. Và tùy theo tâm niệm tốt xấu, điện quang của mỗi người thay đổi không lường. Ðại khái, người tâm lành ít thì vòng ánh sáng lành nhỏ hẹp; bậc tâm lành hay thanh tịnh nhiều, thì vòng ánh sáng lành rộng lớn. Quang lượng rộng hẹp của kẻ ác cũng như thế. Cho nên khi ta khởi một niệm ác, tuy người ngoài không biết, song mình biết, Quỷ thần biết; còn những bậc thánh đắc đạo thì thấy rõ ràng như nhìn các lằn chỉ trong bàn tay, hay nhìn bóng hiện trong gương sáng…”
3. Mắt âm dương do tu hành mà có.
Gọi là mắt âm dương cho người sơ cơ dễ hiểu, chớ thực ra đây chính là Thiên Nhãn, do người học Phật giữ giới hạnh tinh nghiêm mà tự khai mở. Người đắc được mắt này thì chuyện thấy ma quỷ chỉ là lặt vặt, không đáng kể. Bởi mắt này nhìn đêm cũng như ngày, thấu suốt chúng sanh trong lục đạo không chướng ngại. Tùy thuộc vào Đạo lực sâu hay cạn mà người đắc có thể nhìn được cảnh giới nhiều hay ít.
Đại khái thì trên nhìn thấu chư Thiên Nhân các cõi trời, dưới nhìn thấu cảnh giới chúng sanh nơi địa ngục. Như cố Hòa Thượng Tuyên Hóa và các đệ tử của Ngài là điển hình. Nếu ai từng đọc hồi ký của Ngài sẽ được mở mang với vô số những chuyện linh dị kỳ đặc. Người học Phật nếu không cầu thần thông, chỉ nghiêm trì giới hạnh thì khả năng này tự khai mở. Nhưng nếu học Phật mà khởi niệm tham cầu thần thông thì rất dễ bị ma nhập. Khi đắc thần thông phải đem khả năng ấy ra độ sanh thì không phạm lỗi gì, nhưng nếu dùng biểu diễn hoặc tham danh lợi, khả năng này sẽ bị mất đi.
Dưới đây là một câu chuyện kỳ thú về một người có đôi mắt âm dương. Chuyện này được trích từ “Nhân quả báo ứng hiện đời”, tập 6, Ni Sư Hạnh Doan dịch. Xin trích đăng lên đây cho những ai thích chuyện linh dị kỳ đặc thưởng lãm!
Đôi mắt Âm Dương
Cư sĩ Diệu Thanh kể: “Bà tôi kể hồi nhỏ, những lúc nông nhàn thì bà se nhang. Bà không hề tẩm hóa chất nào vào nhang, để tỏ lòng tôn kính, vì đây là vật phẩm dành để cúng dường.
Vào năm hơn 30 tuổi, bà bị bệnh nặng. Có lẽ nhờ làm nhang bằng tấm lòng thành thuần khiết nên bà được Bồ tát cứu. Trên đường phố bà gặp một cụ già tu Phật giúp chữa cho lành bệnh. Cụ già này đã sắc thuốc cho bà tôi uống. Sau khi uống thuốc xong, bà lành bệnh, nhưng kể từ đó linh nhãn cũng khai mở: Bất kể là ban ngày hay ban đêm, bà đều nhìn thấy một cõi không gian khác. Cõi này mắt phàm chúng ta không thể nào thấy được.
Trước đây, tôi hoàn toàn không tin vào mấy cái thuyết thiên nhãn, cũng chẳng tin chuyện mắt âm dương. Lại do bà luôn nhìn thấy những loài mà tôi không nhìn thấy, nên tôi hay bảo: Bà mắc bệnh thần kinh! Tôi cũng thường không tiếc lời cho rằng bà cổ hủ, phong kiến, mê tín dị đoan.
Sau này tôi có duyên may được nghe Phật pháp. Lúc phát tâm nhập đạo, thì mới hiểu và biết tri ân những gì mà đôi mắt âm dương của bà nhìn thấy. Bởi việc này đã giúp tăng thêm tín tâm cho tôi rất nhiều.
Tôi xin kể ra nguyên nhân khiến mình tu theo Phật.
*
Khoảng mấy năm về trước trên đường về tôi gặp một người bán lươn. Nhìn cảnh họ róc xương lột da lươn quá tàn độc, tôi thấy bất nhẫn nên mua hết số lươn còn sống rồi đem đến ao nước trong công viên để phóng sinh.
Từ nhỏ tôi vốn sợ rắn nên những loài có hình dạng giống chúng tôi đều sợ. Vì vậy mà số lươn nằm trong bao tôi không dám bắt. Tôi rủ em gái đi cùng, nó thả từng con xuống ao, còn tôi chỉ dám đứng xa nhìn. Khi lươn thả hết xuống nước, tôi ngạc nhiên thấy nhiều con bơi lại gần chỗ tôi. Chúng mạnh khỏe, hơn phân nửa ló đầu lên mặt nước, bu lại chỗ tôi, không ngừng gật đầu, cúc cung cảm tạ. Tôi nhận rõ ý chúng là như thế. Ngộ cái là, chúng không hề xúm lại quanh em gái tôi, dù em ở gần hơn. Chúng chỉ bơi đến chỗ tôi và không ngừng cúi chào. Thật lâu sau chúng mới chịu bỏ đi.
Cảnh tượng kỳ lạ này khiến tôi hết sức bất ngờ và cảm động. Tôi ứa nước mắt khi hiểu được thế nào là: “Chúng sinh bình đẳng. Vật và người vốn có linh tính giống nhau!”
*
Trước đây tôi vốn là kẻ mê ăn mặn, luôn phản đối ăn chay. Thường bữa ăn mà không có thịt cá thì tôi nhất quyết không chịu cầm đũa. Nhưng lần phóng sinh lươn ấy khiến tâm tôi thay đổi: Tôi không còn hứng thú với việc ăn mặn nữa. Tôi bắt đầu nghiên cứu kinh Phật để hiểu thêm nhiều hơn về những điều kỳ diệu trong cuộc sống. Tôi cũng thầm cảm ơn những con lươn kia đã dìu tôi bước vào Phật môn.
Mới đầu tôi xem kinh Địa Tạng, sau đó mỗi tháng vào mười ngày trai tôi đều tụng kinh Địa Tạng.(Thập trai: Mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.)
Bà tôi vốn không biết chữ và chẳng biết gì về mười ngày trai này. Nhưng cứ đúng vào mười ngày trai, sau khi tôi tan sở về nhà, bà luôn hỏi: Hôm nay có phải con sẽ tụng kinh Địa Tạng không?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
– Vì sao bà biết?
Bà đáp:
– Làm sao mà không biết được! Bà thấy các chúng sinh cõi quỷ ngay từ hồi chiều đã tụ tập đầy trong nhà. Đông đến hết đếm nổi luôn! Chúng đến để nghe con tụng Kinh mà!
Có những hôm thấy tối quá rồi mà tôi còn làm việc, bà đến gần bảo:
– Đừng làm nữa, lo mà tụng kinh Địa Tạng đi! Không nên để các chúng sinh kia quỳ đợi lâu, rất có tội và không tốt!
Bà còn tả rõ cảnh tượng: Chúng quỷ chỉ tụ tập vào mười ngày trai, là những ngày tôi chọn để tụng kinh. Bà thấy trong số đó có cả động vật và người. Vong người thì mặc y phục thuộc về triều đại của họ.
*
Tôi trước đây mê ăn mặn nên khiến bà phải khổ theo. Bởi vì tôi mà bà phải giết vật, tạo ác nghiệp nhiều. Trong thời gian tôi tụng kinh Địa Tạng, những chúng sinh bị giết ăn kia đều đến nghe kinh, có đủ heo, tôm, gà, cua, cá…Đặc biệt có một lần nguyên một bầy cua tới. Chúng vung vẩy mấy cái càng to, như hướng bà muốn nói là cả nhà tôi từng ăn cua. Chúng nghe tụng kinh với vẻ rất hoan hỉ.
Bây giờ tôi không còn tụng kinh Địa Tạng nữa. Thời khóa chính của tôi là kinh Kim Cang, Tâm kinh, Chú Lăng Nghiêm… Đương nhiên bao giờ cũng có chúng sinh cõi khác tụ tập đến nghe Pháp.
Học Phật vốn là buông bỏ chấp trước, nhưng vẫn có nhiều người càng tu càng chấp. Chấp nơi oan thân trái chủ, sợ oan thân trái chủ làm chướng mình nên muốn bỏ cuộc không tu trì. Ngài Ấn Quang từng giảng: “Quý vị chẳng biết là quỷ cùng người luôn ở chung lẫn lộn hay sao? Không chỗ nào mà không có quỷ! Dù ta không mời quỷ đến, nhưng nhà nào cũng có quỷ. Tính ra, chúng quỷ hiện diện đông hơn người gấp trăm ngàn lần. Nếu người sợ quỷ, thì cần tích đức hành thiện, ắt quỷ sẽ sinh lòng kính trọng mà hộ trì. Nếu người làm việc ám muội, thì quỷ sẽ tranh nhau dè bỉu, nên khó thể sống an.”
*
Nếu đã biết rõ như vậy, thì dù ở một mình trong nhà tối cũng chẳng nên khởi niệm sai quấy, tà vạy. Loài quỷ nếu là quỷ thiện, thì thấy người đến ắt nhường đường, khi người đi khỏi chúng mới chiếm cuộc đất đó. Nếu quỷ ác xuất hiện, ắt có điềm chẳng lành lớn. Phải biết trước mặt mọi người luôn có rất nhiều quỷ. Muốn không sợ quỷ thì nên: Giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Được vậy thì các loài quỷ đang hiện diện đó sẽ biến thành kẻ hộ vệ cho người. Chỉ sợ rằng loài quỷ được ta khiến cho kính trọng không có nhiều, nếu có được nhiều thì càng tốt, sợ mà làm chi?
Giờ tôi xin nói đến việc truyền âm kinh luận. Nhờ may mắn mà tôi biết được công đức này: Nếu có thể, bạn nên sắp đặt trong nhà mình một nơi phát âm quảng bá kinh chú. Được vậy thì môi trường xung quanh nơi bạn ở sẽ chuyển hóa triệt để. Nó sẽ an lành giống như cõi tịnh Phổ Đà Sơn của Bồ tát Quán Thế Âm.
Ích lợi cực lớn thu được là: Ngay trong khu vực phát kinh chú, không chỉ có người, mà bao gồm cả côn trùng đều được lợi ích. Tất cả chúng sinh nơi đó đều được miễn trừ đọa tam ác đạo. Hoặc có thể siêu sinh cõi trời, người, hoặc cõi Tịnh của chư Phật.
*
Trong nhà tôi sắm hai máy, cho phát kinh thường xuyên: Một máy DVD chuyên phát kinh, chú đặt tại Phật đường. Máy còn lại phát “Văn Thù Tâm Chú”, đặt trên bàn nơi thư phòng. Tôi hy vọng có thể giúp chúng sinh đến nghe kinh được thọ ích trong tất cả mọi thời.
Lúc tôi mở DVD phát đĩa kinh, đã chiêu cảm rất nhiều chúng sinh hữu duyên đến nghe. Trong số đến nghe ấy có một con rồng. Lần đầu bà tôi nhìn thấy vóc dáng khổng lồ của nó thì đã kinh hoàng hét lên: Ôi chao! Con rắn này sao mà to khiếp!
Bà còn tả là nó nằm phía ngoài sân thượng của gian thờ Phật. Nó còn lượn tới lượn lui ngoài sân canh trộm. Tôi khuyên bà đừng sợ mà hãy nhìn kỹ xem: Con “rắn” khổng lồ bà tả đó, nó có móng hay không? Bà nhìn kỹ rồi bảo có. Tôi giải thích: Đó không phải là rắn, mà là Rồng ( Tức là Long thần hộ pháp!).
Năm nay con rồng ấy lại hiện thân. Lần này nó nằm trên không, chỗ phát ra Văn Thù Tâm Chú.
*
Trong kinh điển Phật giáo, thường nhắc đến Thiên Long bát bộ, Long Thiên hộ pháp. Nhưng mọi người đều không hiểu ý này: “Phật Thích Ca trước khi nhập niết bàn, đã dặn dò Long Vương, chư Thiên… nhắc nhở họ hộ trì Phật pháp.” Do đã trải qua hơn hai ngàn năm, nên nhiều người cho đây là chuyện thần thoại, không thể nào tin nhận.
Tôi thực cảm ơn chư Thiện tri thức đã chỉ điểm cho trên con đường tu tập hành đạo. Cũng cảm ân đôi mắt âm dương của bà, cảm ân Long Thiên hộ pháp thị hiện… khiến tôi đối với Phật pháp có đủ lòng tin.
Câu chuyện tôi kể ra hoàn toàn có thực. Nếu bạn không tin thì cứ xem như nghe chuyện thần thoại vậy. Còn tôi thì vững tin rằng: Thế giới này thực sự có tồn tại những loài mà mắt thịt của con người không nhìn thấu.
Ngẩng đầu ba thước có thần linh. Cho nên chúng ta giờ phút nào cũng phải quan sát và kiểm điểm từng khởi tâm động niệm của mình. Nguyện hồi hướng công đức này đến tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới. Nguyện tất cả đồng tu hành, đạt đạo.”
* Lời bàn: Nhiều bạn đọc câu chuyện trên đây thì sẽ cho rằng là mê tín, tuy nhiên những chúng sinh ở cõi quỷ luôn hiện diện quanh ta y như Kinh Địa Tạng đã nói. Khi bạn đọc Kinh thì những chúng quỷ này sẽ đến gần bạn chắp tay cung kính mà nghe, đây là những chúng quỷ tốt họ không làm hại bạn. Vì sao vậy ? Bởi vì khi bạn tụng kinh trì chú sẽ có hộ pháp đến, các quỷ ác sẽ không dám đến gần, đến nghe kinh đây đều là chúng quỷ tốt , họ ở cảnh giới đó rất là đau khổ, khi nghe được kinh Phật thì liền được an vui mát mẻ ngay thời khắc đó nhất là Kinh do người ăn chay giữ giới tụng, nghe đủ thời gian họ sẽ được siêu sinh về các cõi lành( cõi người, cõi trời, hoặc các cõi tịnh độ của chư Phật..). Vì thế nếu có điều kiện quý vị nên đặt một máy niệm phật mở 24/24 Kinh Địa Tạng ở một gian phòng trong nhà để bố thí Pháp để các chúng sinh nơi đó đều biết nương theo Phật Pháp tu tập, làm được việc này thì công đức của bạn rất là thù thắng rồi
=====
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
nguồn: FB Khoa Anh, Tuệ Tâm, sưu tầm
____________________
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Xin thường niệm A DI ĐÀ PHẬT, nguyện cầu sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc
Phật pháp không có BẢN QUYỀN
HOAN NGHÊNH CHIA SẺ, TUYÊN LƯU PHẬT PHÁP
Chia sẻ Pháp là cách cúng dường tối thượng

Tôi sẽ đính chính những hiểu biết sai lệch trong câu chuyện trên: Âm dương nhãn chỉ có thể nhìn thấy cõi âm, nhưng không thể nhìn được những bậc quá cao siêu như thánh vì chúng ta không đủ trình độ và họ có thần thông rất lớn mạnh, thiên nhãn là khả năng nhìn xuyên thấu, đột phá không gian. Làm sao để làm những chuyện như biểu diễn thần thông, trổ phép thuật nhưng không làm ác mà thần thông cũng không mất đi? Đó là tu phước giữ giới thiền định để được đại phước báu thần thông cũng tự nhiên khai mở. Thần thông là khả năng của tự tính, Phật tính, bổn tính, chân tâm. Tu hành đắc quả sẽ tự khai mở, nhưng không muốn đắc quả vẫn CÓ THỂ CÓ được đó là tu phước báu làm cho khả năng của tự tính như tướng hảo sắc đẹp, sức khỏe năng lực thần thông tự mình sử dụng được mà không cần đắc quả, như Ma Vương vua trời Dục giới vậy ngũ thông đỉnh cao, tuy nhiên chúng ta không nên làm ác như Ma Vương mà chỉ sử dụng thần thông để lòe thiên hạ có chừng mực, hoặc biểu diễn khả năng siêu nhiên mà người thường không biết, dùng thần thông đi du lịch châu Âu, nhìn thấy hết tài liệu mật, người khác suy nghĩ giấu trong lòng cũng không qua mắt được ta, biến ra vàng bạc ô tô tùy ý... chớ nên có quá nhiều phước mà làm các việc ác hại người, hại mình. Sau khi hướng dẫn cách tu thiền để có âm dương nhãn xong, mình sẽ hướng dẫn các cách để CÓ NHIỀU PHƯỚC đặng cầu mở thần thông. Đây đều là ma sự vì mục đích của nó hơi tào lao, nhưng mình không làm ác thì cũng được thôi không quá ảnh hưởng.