Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 33

Ðề tài: Cách để mở âm dương nhãn

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Cách để mở âm dương nhãn

    Cách này dùng trong trường hợp không có người chỉ dạy cách luyện âm dương nhãn. Mỗi ngày lạy Phật A Di Đà niệm A Di Đà Phật 1000 lạy, sau 3 năm sẽ có kết quả, nếu không thì lâu hơn. Vậy thôi ai có căn cơ thì mau chứng đắc. Còn phải kiêm tu thiền định, ngồi thiền kiết già thì để cho hiệu quả. Thường tu phóng sinh, bố thí để có phước mà thành tựu mục đích. Nếu có đắc thần thông lạc vào ma đạo làm chuyện bậy bạ như viết dâm thư kể chuyện hoặc làm lộ bí mật, hoặc gây điên đảo thế gian sau này vào địa ngục đời đời thì đừng trách tôi, nếu ai muốn thì tự mình làm mình chịu, còn tôi cầu thần thông để thỏa mãn ham thích có phép thuật và sự tò mò của mình ^.^. Nhưng mục đích chính của niệm A Di Đà Phật là vãng sinh Cực Lạc, còn muốn có thần thông cũng được, sau này sẽ luân hồi nếu không vãng sinh.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  2. #2

    Mặc định

    Lạy xong 1000 lạy đầu óc quay quay, sau đó thấy mắt thích gì là nhìn ra vật đó, thấy cả TPCL luôn, toàn vàng bạc, định toan lấy về thì lại quay về với thực tại. Có hành giả nào có trải nghiệm này không?

  3. #3

    Mặc định

    mình từng ngồi thiền và hôm đấy có lẽ mình thiền đủ sâu, tâm đủ tĩnh không tham sân si vướng mắc... nên đã được tới TPCL, ngồi hoa sen hồng (mà nó lại có tia ánh kim của vàng? nhìn đẹp chưa bao giờ có) lúc đó mình thấy có 4 hoa sen nhưng chỉ có mình ngồi 1 bông, còn 3 bông thì để trống bay vòng quanh bảo tọa của Phật rất từ từ và trang nghiêm nhưng tuyệt nhiên chưa được kiến Phật, và thơii gian đến TPCL lúc đó diễn ra khoảng 3 phút mình có nhận được sự an lạc của tâm mà không phải trú trong định nên có, nó ở cái cấp cao hơn sự định tĩnh của thiền, nhờ có cảm ứng mình tin chắc TPCL có thật, có lẽ Phật cho mình biết một chút để có niềm tin mà chuyên tâm niệm Phật vãng sinh chứ không phải ban cho phép lạ, mấy lần sau muốn nó hiện ra mà không được. Vậy cũng đủ rồi, mình biết mình phải cố gắng niệm Phật thật tốt, giữ tâm ý thanh tịnh, trong tâm cũng niệm A Di Đà Phật, còn lần may mắn về TPCL là Phật nhiếp độ cho để mình có niềm tin thôi chứ không có vụ ngày nào cũng được như thế. Mình cũng nhớ là lần ấy TPCL có vàng bạc thật đẹp lắm, nhưng tâm mình tịnh nên ý muốn lấy về không tồn tại, chỉ có ngắm nhìn và thấy trang nghiêm, thanh tịnh, và niềm an lạc của Phật nhiếp hộ mà thôi. Lần sau nếu bạn thấy TPCL cũng đừng có ý lấy nhé :), mục đích của mình là luyện âm dương nhãn mà.
    Last edited by anhdaden; 19-01-2023 at 10:09 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  4. #4

    Mặc định

    hành giả cẩn thận rơi vào ngũ ấm ma, thấy cảnh giới kỳ lạ không chấp giữ tham đắm tự cao ngã mạn ảo tưởng về bản thân. nguy hiểm!
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  5. #5

    Mặc định

    CÁCH MỚI LUYỆN ÂM DƯƠNG NHÃN MÀ TÔI KHÔNG THÍCH MỘT ĐIỀU ĐÓ LÀ HẦU NHƯ CÁC THẦY GIẤU, CÓ NHIỀU CÁCH LUYỆN, TÔI KHÔNG HIỂU SAO LẠI PHẢI GIẤU VÌ AI MUỐN LUYỆN THÌ CÓ VẤN ĐỀ GÌ ĐÂU, BỊ GÌ TỰ CHỊU, NÊU RA CẢNH BÁO LÀ XONG. VÍ NHƯ NHÌN THẤY MA SUỐT ĐỜI CŨNG CAM LÒNG VÌ ĐÓ LÀ MỤC ĐÍCH CỦA MÌNH MÀ, HOẶC NHƯ CÁCH NÀY THÌ SẼ TIÊU HAO DƯƠNG KHÍ NẾU CHỊU THÌ LUYỆN. TÔI SẼ CHIA SẺ KHÔNG THÍCH GIẤU GIẾM, NHÂN GIẤU GIẾM THÌ QUẢ LÀ TƯƠNG LAI NGƯỜI KHÁC KHÔNG NÓI CHO BIẾT HOẶC KHÔNG TÌM RA BÍ MẬT.

    TIẾT LỘ SỰ THẬT RÙNG RỢN CỦA NGHỀ LUYỆN ÂM BINH.

    Cách đây khoảng gần 20 năm về trước, trong một đêm đông lạnh giá, ngồi trên bếp lửa hồng, ông nội tôi kể cho tôi nghe một câu chuyện mà tới giờ tôi vẫn nhớ rõ vẻ mặt thất thần của ông tôi lúc kể lại.
    Ông nội tôi tên Hương, ông có một người bạn thân lâu năm tên là Lý. Ông Lý ở quê sống rất tốt với mọi người, và thường giúp đỡ bất kì ai gặp khó khăn hoạn nạn trong làng. Chẳng ngại khó ngại khổ, cứ có ai nhờ là ông ấy giúp tận lực, thế nên gần xa ai ai cũng quý mến ông Lý.
    Chẳng hiểu thế nào, người tốt như ông ấy cuối đời lại thê thảm. Năm ấy ông Lý 49 tuổi, bỗng dưng đổ bệnh nằm liệt giường. Bệnh tật hành cho ông đau đớn, lê lết, rên rỉ hết ngày này qua tháng khác, thuốc thang gì cũng chẳng đỡ. Thế rồi sau 3 tháng liệt giường liệt chiếu, ông Lý ra đi trong sự đau xót khóc than của con cháu và hàng xóm láng giềng.
    Trước khi mất, ông Lý có gọi ông nội tôi tới, nắm chặt tay như muốn thầm cảm ơn ông nội tôi, ông tôi chỉ lặng lẽ gật đầu, dường như giữa hai người có một bí mật nào đó.
    Có người thấy ông Lý sống tốt như thế, lại chẳng có lấy một cái chết yên lành, thì ngửa mặt lên trời mà trách than. Còn ông nội tôi thì chỉ chỉ lặng lẽ thở dài, vì chỉ có ông là người duy nhất biết rõ ngọn ngành.
    Chuyện là hồi ông nội tôi còn trai tráng, ông cùng với ông Lý, khi ấy là một chàng trai lanh lợi, tràn trề sức sống. Hai người rủ nhau đi đào vàng ở những vùng núi xa xôi trên Lai Châu. Một thời gian dài đào vàng vất vả ở trên đó, cũng không kiếm được nhiều, nên ông nội tôi và ông Lý có ý định làm hết tháng, lấy tiền công rồi về tìm việc khác để làm.
    Hôm đó khi hết ngày làm việc, mặt trời đã xuống núi, trên đường ra suối tắm, ông Lý gặp một ông già người dân tộc Mông tên là Hoa, không biết hai người nói với nhau những gì, nhưng tối hôm đó, ông Lý có rủ ông tôi đi cùng tới nhà ông Hoa người dân tộc Mông ấy.
    Đó là một căn nhà sàn khang trang, vào bên trong, gặp ông lão người Mông, thấy ông ấy đã pha trà đợi sẵn từ bao giờ.
    Nghe hai người nói chuyện, ông nội tôi mới biết ông Hoa - lão người Mông đó là thầy phù thủy thờ âm binh.
    Khi gặp Lý, thấy tướng của Lý hợp căn với mình, nên ông Hoa muốn truyền nghề lại, một là để không bị thất truyền, hai là nhân đó có thể giúp đỡ cho nhiều người khác nữa.
    Thấy Lý hiền lành, có thiên phú dị bẩm, nên ông Hoa quyết định dạy cho Lý tất cả những gì mình biết.
    Và từ đó, Lý bước vào những chuỗi ngày tu luyện gian khổ, từng bước trở thành thầy phù thủy luyện âm binh, những tháng ngày khó quên trong cuộc đời Lý.
    Nói đến âm binh, có lẽ cũng cần giới thiệu qua một chút, đó là những hồn ma chưa được đầu thai, xong không được ai thờ cúng, vất vưởng đầu đường xó chợ, lang thang khắp nơi từ rừng hoang đến thôn ấp, thị thành… Vì không ai cúng cho ăn nên, chúng đói khổ thê thảm, người đời hay gọi là ma đói, trong kinh Phật gọi là ngạ quỷ. Hễ nơi đâu có cúng thí thực thì tranh nhau đến giành ăn, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu, vì người cúng thì ít mà ma đói thì nhiều.
    Lợi dụng điểm này, các thầy phù thủy triệu hồi chúng về, cho ăn hàng ngày, rồi dần dần sai khiến chúng làm theo mệnh lệnh thông qua các bùa phép.Thông thường, các vong linh được các thầy phù thủy triệu hồi về để làm âm binh, cũng đều là những vong linh rất cang cường, hung dữ. Và từ đó, chúng trở thành âm binh, phục tùng mệnh lệnh của thầy pháp.
    Nhưng nhiều khi chúng cũng sẽ phản lại thầy, khi không được cho ăn đầy đủ, khi thực hiện không đúng quy cách, hoặc khi thầy phù thủy bị suy yếu pháp lực. Cho nên luyện âm binh là con dao hai lưỡi, rất nhiều thầy cuối đời bị âm binh vật ngược trở lại, chết thê thảm.
    Bước đầu tiên luyện âm binh, là luyện mắt. Mắt mà không thấy âm binh, thì nói gì đến điều khiển nữa. Ông Hoa dạy Lý, tối nào cũng ngồi 3 giờ liền, nhìn thẳng vào ngọn nến mà cố gắng không chớp mắt. Nhiều khi nước mắt chảy ròng ròng, hai nhãn cầu đỏ ngầu như muốn nổ ra, Lý chỉ muốn bỏ cuộc …
    Nhưng Lý cũng rất cố gắng để vượt qua, tối nào cũng kiên trì đánh vật với cây nến. Sau khoảng 2 tháng thì thành công, đó là khi Lý có thể nhìn thẳng vào mặt trời mà không chớp mắt.
    Bước thứ hai, là luyện âm khí. Tối tối, sau 10h đêm, theo lời thầy dạy, Lý xách một xô nước đi tới bãi tha ma, cách lán ở khoảng 2km.
    Khi tới nơi đổ nước xuống đất, rồi nằm lên trên. Trước 5h sáng thì trở về, đủ 100 ngày như vậy là thành công. Nhưng trên đường đi hoặc về, không được gặp bất kỳ ai, và không để bất kỳ thứ gì rơi vào trong xô nước đó. Nếu gặp người nào đó, hoặc có cái gì đó rơi vào xô nước thì coi như hôm đó thất bại, phải làm lại.
    Đêm đầu tiên Lý xách xô nước đi tới bãi tha ma, đổ xuống và nằm lên. Một mình giữa bãi tha ma tối tăm, Lý vừa run vừa sợ, nằm xuống không dám mở mắt ra.
    Cả đêm đó sợ không ngủ được. Vài đêm sau thì Lý mới quen dần. Những đêm sau nữa, Lý có thể nằm ngủ ngon lành cho tới trước 5h sáng, rồi thức dậy ra về.
    Chẳng mấy chốc Lý đã ngủ ở bãi tha ma 99 đêm thành công. Tới đêm cuối cùng, Lý có một cảm giác rất lạ. Dường như có ai đó luôn đi phía sau mình, mà khi ngoảnh lại thì chẳng thấy ai.
    Tới bãi tha ma, vừa đổ nước xuống, nằm lên, và nhắm mắt lại. Được một lát, Lý bắt đâu nghe thấy những tiếng kỳ lạ, tiếng khóc, tiếng cười hỗn độn đan xen.
    Lý mở mắt bật dậy, con ngươi muốn nổ ra, toàn thân run rẩy. Trước mắt Lý là những cảnh tượng hãi hùng chưa từng thấy trong đời. Đây thì những đứa trẻ đầu tóc bù rù khóc đòi mẹ, kia thì kẻ cầm bát xin ăn, kia nữa là những thân hình không đủ bộ phận, những hồn ma hình dáng kì dị, ghê rợn, đủ mọi sắc thái, chập chờn thoắt ẩn, thoát hiện trước mắt Lý.
    Đó chính là lúc thành công giai đoạn hai, nằm 100 đêm trên nước ở bãi tha ma, âm khí đã ngấm sâu vào người Lý. Và Lý trở thành người nửa âm, nửa dương, có thể nghe thấy, nhìn thấy những hồn ma, bước vào thế giới của ma quỷ.
    Bước thứ ba, đó là triệu hồi các hồn ma về, luyện chú thuật để điều khiển chúng.
    Lý được ông Hoa dẫn vào trong căn phòng thờ âm binh. Ngước mắt nhìn quanh, thấy trên cao nhất là một chiếc đầu lâu, và hai bên là hai mảnh xương sườn người. Ông Hoa nói, xương đó là ông lấy từ dưới mộ người bị sét đánh chết, bên dưới là một bát hương to.
    Lý rót ba chén rượu, lấy dao trích đầu ngón tay lấy ba giọt máu nhỏ vào, rồi thắp một nén hương, thực hiện nghi lễ gọi hồn ma tới. Mỗi tối một nén hương, khi nào thắp đủ 100 nén, thì âm binh đã được triệu hồi về đầy đủ, và có thể sai đi làm việc được.
    Đủ 100 ngày triệu hồi âm binh, rồi được ông Hoa chỉ dạy thêm tất cả những ngón nghề bắt quyết, phù chú, vẽ bùa…Lý tiến bộ rất nhanh, chẳng phụ công thầy dạy dỗ.
    Sau rất nhiều vất vả, Lý cuối cùng cũng đến ngày chính thức trở thành thầy phù thủy, có thể đi kiếm tiền nhờ khả năng điều khiển âm binh.
    Có một điều quan trọng, mà ông Hoa nhắc đi nhắc lại, đó là 10h tối cho âm binh đi, tới đúng 5h sáng phải gõ chuông gọi quân về. Nếu quá giờ mà quên gọi về, các cửa âm phủ bị đóng lại, âm binh bị chặn không về được, sẽ bị Hắc Bạch Vô Thường cùng quan binh Âm Ty truy đuổi. Như vậy chúng sẽ ghim hận, tìm tới thầy và trả thù.
    Và khi gọi chúng về, phải có sẵn một lễ khao quân gồm nhiều thứ, để thiết đãi cho chúng ăn, không thì chúng đói, sẽ phản lại thầy. Phải đặc biệt chú ý điều này, không được quên.
    Khi mới vào nghề, Lý khởi nghiệp bằng cách gọi những vong hồn mới chết về để người thân hỏi chuyện.
    Có ai thuê, Lý bảo họ ngồi vào điện thờ, thắp hương và viết vào giấy tên tuổi, nơi sinh và nơi mất của vong hồn, rồi cho âm binh đi tìm vong hồn ấy và kéo về, trả lời những câu hỏi của người nhà.
    Cứ thế, mọi thắc mắc của những người thuê Lý đều được trả lời thỏa đáng, mọi người truyền tai nhau. Và dần dần, Lý cũng được nhiều người biết đến.
    Rồi ngày càng đông người tìm tới Lý nhờ gọi hồn hơn. Có những người có thân nhân bị chết không thấy xác, tìm tới Lý nhờ giúp đỡ. Theo lời Lý dặn trong giấy, quả nhiên sau mấy ngày họ tìm được thi thể. Từ đó về sau, danh tiếng của Lý càng nổi. Sự nghiệp tiến triển, Lý chuyển sang tập làm những thứ khó hơn.
    Lý bắt đầu điều khiển quân binh cho đi làm những việc như tát nước, chặt gỗ…mỗi khi có người thuê. Và đoàn âm binh của Lý tỏ ra rất đắc lực. Mọi việc đều được tiến hành từ 10h đêm cho tới 5h sáng.
    Đúng 5h, Lý gõ ba hồi chuông gọi quân về, và không quên làm sẵn một mâm cúng thịnh soạn để khao quân.
    Thành công đến với Lý quá nhanh, quá nguy hiểm. Chỉ ba năm, Lý đã có thể thành thạo đưa quân đi làm những việc mà ông Hoa - sư phụ của Lý phải mất 5 đến 7 năm mới làm nổi, danh tiếng nổi như cồn.
    Lúc này, Lý thấy tự mãn với khả năng của mình. Lý quyết định vượt qua hàng rào những lời răn dạy của sư phụ, bắt đầu nhận lời làm những việc táo bạo hơn như đưa âm binh đi hại người. Đó là điều cấm kỵ của người luyện âm binh.
    Lúc còn học nghệ, ông Hoa đã dặn đi dặn lại, dù thế nào đi nữa cũng không được dùng âm binh để hại người, vì ắt sẽ ặp quả báo. Thầy pháp có cao tay ấn đến mức nào, đứng trước quả báo, cũng chỉ là muỗi mòng mà thôi.
    Lý đã phớt lờ đi những lời răn của sư phụ. Đồng tiền đã che tai, bịt mắt Lý lại, cứ thế càng ngày Lý càng dấn sâu hơn vào những phi vụ đen tối, đem âm binh đi hại người. Lý đâu biết chúng sẽ nhấn chìm cuộc đời Lý sau này.
    Không ít những tên chủ bãi vàng, những tên buôn lậu bỏ ra số tiền không nhỏ, để nhờ Lý triệt hạ các đối thủ cản bước làm ăn của chúng, và Lý đều nhận lời.
    Lý chờ đêm đến, cứ sau 10h là điều âm binh tìm đến những lán trại của những người được thuê để triệt hạ, rồi lệnh cho âm binh đốt lán trại giữa đêm, làm cho những người ấy chạy không kịp đều bị thương.
    Có những chủ bãi vàng khi chạy còn bị âm binh chặn đường, xô cho ngã xuống núi, dù không chết nhưng cũng tàn tật. Lý không có ý định giết họ, mà chỉ làm vừa chừng để họ bị thương tật, và không sức làm gì được mà thôi.
    Những việc làm đen tối của Lý ngày một nhiều, cuối cùng cũng đến tai của ông Hoa. Ông không kìm nén được tức giận, lập tức tìm đến gặp Lý.
    Ông Hoa mắng mỏ hắn một trận. Hắn vẫn lễ phép vâng dạ với thầy, hắn nói là hắn không dùng âm binh giết người, mong thầy hiểu cho.
    Ông Hoa thấy trong đôi mắt của Lý giờ chỉ có tiền. Ông bất lực, biết mình có nói gì cũng vô dụng. Không khuyên ngăn được Lý, ông đành thở dài mà ra về.
    Sau những ngày trầm tư suy nghĩ, không muốn đệ tử mình dấn sâu thêm vào vực thẳm tội lỗi. Ông Lý đã giải nghệ mấy năm, không còn nuôi âm binh nữa. Nên ông đành quyết định tìm tới một thầy phù thủy khác, nhờ ông ấy đem âm binh của mình đến đánh úp quân của Lý. Mục đích là chặn Lý lại, buộc hắn phải dừng tay tạo ác. Và cuộc chiến giữa các thầy phù thủy bắt đầu nổ ra.
    Vì Lý không biết trước, nên khi quân âm binh của thầy phù thủy kia bất ngờ ập đến, bao vây tứ phía. Rồi ào ào xông tới quyết chiến, âm binh của Lý đành chỉ biết đau khổ chống đỡ. Lớp bị chém, bị đâm xối xả, lớp gục xuống gào thét đau đớn…
    Đêm hôm đó, trong làn gió mọi người gần xa đều ngửi thấy mùi tanh của máu. Trẻ con đứa đang nín thì khóc thét lên, còn đứa đang khóc thì tái mét, nín bặt lại. Người ta còn nghe thấy những tiếng kêu thất thanh hòa vào trong gió, rợn hết cả người.
    Sau đêm đó, đoàn âm binh của Lý thương vong rất nhiều. 5h sáng, khi Lý gõ chuông rút quân về, Lý tá hỏa sực nhớ ra, rằng mình đã quên không chuẩn bị lễ khao quân như mọi khi.
    Vừa bị đánh cho thương tích tơi bời, vừa mệt mỏi, đói khát cồn cào. Đã vậy về nhà lại không được cho ăn. Đám âm binh đùng đùng nổi giận. Bao nhiêu bức xúc chúng dồn hết lên đầu Lý. Chỉ chớp mắt, chúng ào ào xông tới tấn công, khiến Lý không kịp trở tay.
    Không biết chúng đã làm gì, nhưng khi sáng ra, ông nội tôi bước vào, chỉ thấy Lý nằm vật trên sàn, mắt nhắm, miệng ú ớ mãi mới nói được một câu : “T..tì…tìm ông Ho…Hoa ! “ Rồi lăn ra bất tỉnh.
    Ông nội tôi lập tức chạy tới nhà ông Hoa để cầu cứu. Nhưng ông lão từ chối. Ông nói Lý đáng bị như vậy, gieo nhân nào gặp quả nấy, có bị thế thì mọi người mới yên được. Nếu cứu Lý thì hắn ắt sẽ ngựa quen đường cũ.
    Không thể ngồi trơ mắt nhìn bạn mình chết, ông nội tôi đã quỳ trước cửa nhà ông Hoa khẩn cầu ông ra tay cứu Lý. Đáp lại ông là vẻ mặt cương quyết của ông Hoa: Không là không!
    Thực ra, ông Hoa có một nỗi khổ dấu kín trong lòng, chứ chẳng phải lòng dạ ông sắt đá. Trong tâm ông khi ấy cũng giằng co dữ dội.
    Một ngày một đêm trôi qua, ông nội tôi vẫn quỳ ở đó, nhất quyết không đứng dậy cho đến khi ông Hoa nhận lời.
    Cuối cùng, ông Hoa cũng mềm lòng, đành phải gật đầu đồng ý. Ông cùng ông nội tôi đi tới nhà của Lý.
    Tới nơi, ông nội tôi thấy toàn bộ khu vực quanh đó âm u, lạnh lẽo đến rợn người. Còn ông Hoa thì thấy rất nhiều âm binh mặt mày hung tợn còn đang bao vây quanh đó, chưa chịu buông tha cho Lý.
    Ông Hoa đứng yên lặng một lát quan sát, nét mặt toát lên sự sợ hãi. Rồi ông bước vào nhà, nhìn thấy Lý nằm bất động trên giường, đôi mắt vẫn nhắm.
    Ông biết, tình hình đã trở nên cực kì nghiêm trọng. Nếu không ra tay sớm, không chỉ Lý sẽ chết mà còn kéo theo bao nhiêu hậu họa về sau, vì lũ âm binh giờ đây đã mất kiểm soát, chẳng ai điều khiển được chúng nữa.
    Để càng lâu, chúng càng trở nên mạnh hơn và lôi kéo đông âm hồn tụ về, biến thành một âm sào quỷ huyệt, tác quái gây hại cho dân.
    Khổ nỗi ông Hoa đã già, lại đã giải nghệ, không còn ở thời kỳ phong độ như xưa, không còn đủ sức mạnh để khống chế đám âm binh hung tợn đó.
    Không còn cách nào khác, ông Hoa phải lặn lội mời tới sư huynh của mình, thủa xưa cùng học pháp thuật chung một thầy, tên là Hoàng. Nể tình đồng môn huynh đệ, cũng vì muốn cứu một mạng người, ngăn chặn hậu họa mai sau, ông Hoàng nhận lời.
    Khi hai người vừa tới trước cửa nhà Lý, ông Hoàng bỗng dừng lại, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào căn nhà đó. Hồi lâu, ông lắc đầu, vẻ mặt nghiêm trọng, từ từ đưa ánh mắt e ngại nhìn sang ông Hoa.
    Dường như đã hiểu được ông Hoàng nói gì, nên ông Hoa chỉ biết nắm chặt tay sư huynh như muốn cầu cứu. Thở dài một hơi, ông Hoàng nói:
    - Đó là nghiệp của hắn, đã gây ra ắt phải chịu quả báo. Cả ta và đệ đều hiểu, nếu muốn cứu hắn, nặng thì mất mạng, nhẹ thì cũng trở thành phế nhân.
    Dù biết điều đó, nhưng ông Hoa vẫn muốn cứu Lý. Dù sao thì ông cũng là người đưa Lý vào nghề, ông cũng có trách nhiệm trong chuyện này. Nhưng ông Hoàng thì không thể mạo hiểm tính mạng của mình vì việc này. Ông quyết định rút lui.
    Nghĩ tới tình nghĩa đồng môn, ông Hoàng rút trong túi đưa cho ông Hoa một quyển sách đã ngả màu, cũ đến mức không thể cũ hơn được nữa. Đó chính là quyển bí kiếp trận pháp trừ tà, do sư phụ hai ông để lại. Theo quy củ môn phái, cuốn bí kiếp này chỉ truyền lại cho đại đệ tử, thế nên chỉ ông Hoàng mới có.
    Nhưng tình thế đã trở nên cấp bách, không lẽ trơ mắt nhìn sư đệ đi vào chỗ chết mà không trợ giúp chút nào, ông Hoàng đành phá lệ giao bí kiếp cho sư đệ mình.
    Dặn sư đệ bảo trọng, rồi quay lưng bước đi.
    Ông Hoa thở dài. Tay lật từng trang sách, mắt chăm chú không rời.
    Mấy ngày trôi qua, sau khi đã nghiên cứu kĩ các loại trận pháp trong cuốn bí kiếp. Ông Hoa quyết định sử dụng trận đồ Bát Quái để phong ấn, nhốt đám âm binh ấy lại.
    Đây là một pháp trận rất mạnh, tuy nhiên, nó đòi hỏi pháp sư phải tổn hao rất nhiều pháp lực để triển khai. Mà ông Hoa thì giờ đã già, lại giải nghệ một thời gian, pháp lực sút giảm đi rất nhiều. Nhưng mặc kệ, ông quyết liều cái mạng già của mình, thế nào cũng phải nhốt đám âm binh đó lại, cứu đệ tử mình thoát khỏi nguy kịch.
    Ông Hoa gọi ông tôi đến để phụ ông chuẩn bị cho trận đồ trấn yểm. Ông sai đào một cái hố bát giác hình mai rùa, rộng chừng 20 mét vuông, sâu nửa mét.
    Lấy 8 chiếc cọc cao tầm đầu người, chiếu theo 8 vị trí của Bát quái, đóng sâu xuống 8 góc, chỉ để nhô lên mặt đất khoảng nửa mét.
    Ông Hoa làm phép gì đó, yểm vào 8 cái cọc, ông tôi xem không hiểu. Tiếp đến, ông lấy ra một loại pháp dược lỏng màu đen, vẽ lên đất nối 8 cái cọc đó với nhau, thành hình Bát quái. Rồi lại tìm hai con mèo một đen một trắng, đặt vào hai điểm tương ứng như hai mắt âm dương trong thái cực đồ.
    Sau nhiều ngày vất vả chuẩn bị, một pháp trận kiên cố đã hình thành, chỉ chờ đúng ngày, đúng giờ để kích hoạt.
    Ông Hoa đợi đến đúng rằm tháng 7, ngày mà âm khí mạnh nhất trong năm, chuẩn bị một mâm lễ cúng thịnh soạn, dặn ông nội tôi nửa đêm sẽ hành động.
    Đêm ấy, dưới ánh trăng mờ ảo, ông Hoa và ông nội tôi đem lễ vật vào trong giữa trận đồ Bát quái, cùng với một bát hương thật to. Ông Hoa đốt đúng 100 nén hương cắm vào đó.
    Ông Hoa giải thích, để dẫn dụ được đám âm binh ấy tiến vào trận đã bày sẵn, cần bày một lễ cúng. Chúng lâu ngày đang đói cồn cào, ta đem đồ ăn thức uống bày ra mời chúng. Thể nào chúng cũng trúng kế mà ào ào tiến vào giữa trận.
    Khi ấy, ông sẽ làm phép kích hoạt trận pháp, nhốt chúng lại, giết chúng thì làm không nổi, nhưng chúng cũng không thể thoát ra khỏi trận, đó gọi là phong ấn.
    Tiến hành trận pháp này hao tổn rất nhiều dương khí. Mà khi luyện thành thầy phù thủy, ông Hoa đã thành người nửa âm nửa dương, dương khí của ông chỉ còn một nửa so với người bình thường. Thế nên sau trận này, ông Hoa sẽ tổn hết dương khí, không thể sống tiếp.
    Giờ tý, đúng nửa đêm, ông Hoa rút ra một tờ giấy màu vàng, dùng bút chấm vào một dung dịch sền sệt màu đỏ, viết lên giấy những kí tự ngoằn nghèo, đầy bí hiểm.
    Chẳng phải giải thích thì ông tôi cũng biết ngay đó là vẽ bùa. Còn cụ thể là bùa gì thì trời biết, đất biết, ông Hoa biết, chứ ông nội tôi còn lâu mới biết.
    Xong xuôi, ông Hoa ngồi xuống, tay bắt quyết, miệng râm râm đọc thần chú bằng một thứ tiếng kì quái mà ông nội tôi chưa nghe thấy bao giờ.
    Lập tức, cảnh vật biến đổi khác thường. Những đám mây đen ùn ùn kéo đến, che kín ánh trăng vằng vặc của đêm rằm tháng Bảy. Bầu trời phút chốc đã chuyển sang tăm tối, mù mịt.
    Những cơn gió bỗng nhiên rít lên từng cơn như những tiếng gào thét đầy ma quái. Cát bụi bị thổi tung mù mịt, những ngọn cây nghiêng ngả như muốn văng khỏi mặt đất.
    Ông Hoa thì thầm vào tai ông tôi, nói rằng đó là đám âm binh đang kéo đến đánh chén. Hai người tiếp tục nằm án binh bất động, đợi một lúc cho chúng đến đông đủ.
    Bất chợt, ông Hoa vùng đứng dậy, vụt đến chỗ trận pháp, lẹ làng như một cơn gió.
    Ông rút ra một lá bùa màu vàng, tay bắt quyết, miệng đọc chú, rồi nhanh tay dán vào một trong 8 cây cọc, kích hoạt trận đồ Bát quái.
    Đám âm binh thấy động, lập tức ào ào xông đến tấn công ông Hoa. Nhưng vừa đến đường kẻ ranh giới của trận pháp, một mãnh lực khủng khiếp đánh văng chúng trở lại. Đau đớn, chúng gào lên điên dại, mắt trợn lên hướng về phía ông Hoa gầm gừ. Rất nhanh, chúng nhận ra mình đã bị vây chặt ở đây.
    Tất nhiên, chúng đâu có dễ dàng chấp nhận. Lớp này đến lớp khác, điên cuồng đem hết sức lực, cố xông ra khỏi kiết giới hình bát giác. Nhưng vô ích, mỗi lần chạm vào kiết giới, chúng giật nảy lên như bị điện giật, đánh bật trở lại. Tất nhiên, cảnh tượng này chỉ có ông Hoa là thấy, ông tôi chỉ là sau này được ông Hoa kể lại.
    Ở bên ngoài, ông Hoa bộ pháp nhanh thoăn thoát, vừa di chuyển quanh 8 chiếc cọc, vừa đọc chú, yểm bùa vào từng cái cọc. Xong rồi đốt bùa. Ngọn lửa bùng lên, lập lòe như ánh ma trơi giữa núi rừng mông quạnh. Khi lá bùa cuối cùng cháy hết, ông Hoa khụy xuống, đổ sụp trên nền đất.
    Ông nội tôi vội lao đến, đỡ ông dậy. Chỉ thấy gương mặt ông Hoa tái nhợt, ánh mắt thất thần, người không còn chút sức lực nào cả, dương khí trong ông đã tiêu hao hết.
    Ông tôi cõng ông Hoa về nhà nghỉ ngơi. Rồi theo lời dặn của ông Hoa, ông tôi quay lại chỗ trận đồ Bát quái. Đóng tất cả 8 cọc ghim sâu xuống, rồi lấy đất lấp bằng cái hố bát giác đó lại. Thu gom mọi thứ, kiểm tra kĩ càng xong mới ra về.
    Theo như lời ông Hoa, nếu có ai đó vô tình đi ngang qua, táy máy rút một cái cọc lên, lập tức trận pháp sẽ sụp đổ, đám âm binh hung tợn ấy sẽ ào ào xông ra. Bao nhiêu căm hận vì bị giam nhốt thời gian dài phát tiết, chúng sẽ điên cuồng tấn công, ám hại dân quanh vùng, hậu quả khôn lường.
    Về đến nhà, ông Hoa lại đưa cho ông tôi một lá bùa, dặn đem đốt, rồi lấy tro hòa vào chén rượu, đem cho Lý uống. Quả nhiên, Lý uống xong, chỉ khoảng một tiếng thì tỉnh lại. Có thể đi lại binh thường, tuy nhiên sức khỏe không còn được một nửa như trước.
    Lý cũng hiểu được, đó chính là quả báo, mình làm thì mình chịu. Còn sống cũng là may mắn lắm rồi. Nghe ông tôi kể lại mọi chuyện, đôi mắt Lý rưng rưng lệ. Lập tức cùng ông nội tôi tới nhà sư phụ, cảm tạ ơn thầy đã liều mạng cứu mình.
    Thấy Lý tới, ông Hoa chậm rãi ngồi dậy, khoát tay ra hiệu không cần cảm ơn. Rồi ông thong thả khuyên Lý vài câu, đại khái là sau này phải cải ác tùng thiện, siêng năng tạo phước thật nhiều, mới có thể hóa giải phần nào những nghiệp chướng lúc trước đã tạo, có thế mới mong sống yên ổn được.
    Sâu trong lòng, Lý đã thực sự hối hận. Lý hứa sẽ làm đúng như lời ông Hoa căn dặn, và đó là những lời nói thật lòng.
    Nhìn gương mặt thầy mình hốc hác, già đi đến cả chục tuổi chỉ trong một đoạn ngắn thời gian. Bằng con mắt của một thầy phù thủy, Lý thấy âm khí đã bao phủ kín trên thân hình gầy guộc ấy, ông Hoa chẳng còn sống được bao lâu. Những giọt nước mắt muộn màng, lặng lẽ lăn dài trên má người đệ tử. Ông Hoa tiếp lời :
    - Thôi, con đừng buồn nữa. Con nhớ lời ta làm như vậy, ta đi cũng an lòng.
    3 tháng sau, ông Hoa mất. Lý, ông nội tôi, cùng bà con khắp bản làng có mặt đầy đủ, tiễn đưa ông Hoa về nơi an nghỉ cuối cùng. Tiếng kèn đám ma bi ai, nặng trĩu tâm can những người có mặt.
    Những ngày sau đó, hàng đêm trong giấc mơ của Lý, luôn văng vẳng những tiếng kêu la, gào thét của lũ âm binh. Vì có một mối liên thông giữa chúng với Lý, nên dù không thoát khỏi trận pháp, chúng vẫn có thể hiện vào giấc mơ của Lý, đòi Lý thả chúng ra, không thì cũng dày vò tâm can Lý bằng đủ mọi cách ma mị mà chúng có thể làm.
    Đêm nào cũng vậy khiến Lý cực kì bất an. Cuối cùng, Lý cùng ông tôi từ biệt mảnh đất Lai Châu ấy, lên đường trở về quê nhà.
    Lý cố gắng xóa đi cái quá khứ bi thương ấy, bằng cách nỗ lực làm thật nhiều việc thiện. Ai nhờ gì là hăng hái giúp ngay, mà không nhờ Lý cũng giúp, chẳng bao giờ cần một sự báo đáp nào cả. Thế nên làng xóm ai cũng thương, cũng quý, mà mấy ai biết được hết ẩn tình đằng sau. Cho tận đến những ngày cuối đời, bệnh tật hành hạ ông Lý liệt giường chiếu, người đời cho rằng trời bất công. Còn ông nội tôi chỉ lặng lẽ thở dài, ông biết, luật Nhân quả một ly cũng không có sai, chỉ là không phải ai cũng tỏ tường sự thật đằng sau mà thôi.
    Kể tới đây đôi mắt ông nội tôi đỏ ngầu rưng rưng lệ. Ông quay sang nhìn vào mắt tôi, chậm rãi nói:
    - Cháu à, đừng bao giờ vì cái lợi của mình mà hại người khác. Thay vì thế, hãy giúp đỡ mọi người mỗi khi có thể…
    Đã nhiều năm trôi qua, nhưng câu nói của ông vẫn còn văng vẳng trong tâm trí tôi, luôn dẫn bước soi lối cho tôi trên những nẻo đường đời.
    Last edited by anhdaden; 27-01-2023 at 08:48 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  6. #6

    Mặc định

    Cách trên luyện sẽ tiêu hao một dương khí người sống, đệ tôi đây chỉ đăng lên tham khảo thôi chứ mình không dám làm đâu ngu gì :)), còn có nhiều cách mà không tiêu hao dương khí nhưng tiếc là chưa phải Thánh nên không thể dùng đại trí tuệ và năng lực để tổng hợp được 😔 hoặc dùng thần thông quán sát khắp nhân gian để biết bí kíp luyện nhãn. Chúc mọi người thành công trên con đường mình chọn.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  7. #7

    Mặc định

    Cúng dường đèn cho Phật, Tổ để hỗ trợ khai mở thiên nhãn/âm dương nhãn. Xem Google: cúng dường đèn. Để tìm hiểu ý nghĩa và cách cúng dường đèn, cách đơn giản là thắp một ly nến mỗi ngày dâng lên Phật hoặc tổ tiên.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  8. #8

    Mặc định

    Luyện âm dương nhãn/thiên nhãn qua thiền định. Không tiêu hao dương khí, mình sẽ tổng hợp sau. Nhưng hiện tại cách tốt nhất và chắc chắn phải có để luyện nhãn là thiền định, nên ai chưa thiền được thì phải tập thiền và tham gia khóa thiền. Có người mở được âm dương nhãn bằng cách uống thuốc, uống 1 chén nhìn thấy vong hồn ngạ quỷ tiên nhân rồng..., chắc thuốc được yểm bùa trì chú gì đó có điều mình không biết cách làm, nếu biết mình sẽ CHIA SẺ NGAY.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  9. #9

    Mặc định

    Luyện Bùa Thần của Hạ sư Hùng Sơn tìm kiếm trên diễn đàn này luyện âm dương nhật nguyệt hấp thu linh khí nên tuổi thọ sức mạnh chỉ có tăng chứ không giảm, ai được điểm đạo Lâm Kinh Thần Võ (có học thần quyền) mới làm được, giờ kiếm ai ngoài Hạ Sư HS ra là đệ tử của Lâm Kinh Thần Võ Đạo đây? Giờ hạ sư đang ở Mĩ hoặc ở Sài Gòn và mình không có bà con họ hàng gì chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt muốn tầm sư học đạo, hix. Làm sao để được điểm đạo vào môn phái đây? Vả lại hạ sư tuổi tác đã cao không biết sức khỏe bây giờ như thế nào mà đòi điểm đạo đây. Có nhiều phái Thất Sơn Thần Quyền nhưng Bùa Thần là của Lâm Kinh Thần Võ Đạo chứ không phải nhánh Thất Sơn Thần Quyền khác Thần Võ Đạo. Nhánh khác không có luyện món này.
    Last edited by anhdaden; 27-01-2023 at 10:03 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  10. #10

    Mặc định

    Thiền kudalini hoặc thiền hỏa xà cũng là một phương pháp để khai mở năng lực tâm linh. Đó là luyện luân xa 1 thức tỉnh hỏa xà, luân xa Gốc. Nhiều người bảo nó nguy hiểm thật ra nó chẳng có gì gọi là nguy hiểm, gây chết người??? thật là tức cười 1 là cố ý nói vậy để che giấu sự thật 2 là chẳng hiểu biết gì. Sự thật: luyện luân xa 1 dòng hỏa xà đi lên không hề gây chết người 100% an toàn, nó sẽ thiêu đốt tất cả ô uế làm sạch cơ thể, khai mở các khả năng tâm linh đưa bạn vào một cuộc sống tâm linh. Bạn phải chuẩn bị tinh thần và chấp nhận cuộc sống đó vì khi thực sự luyện được bạn phải sống cuộc sống hơi khác người vì bạn có khả năng đặc biệt. Tổng cộng có 7 luân xa, người bảo luân xa 1 nguy hiểm nên không luyện được mà đi luyện các luân xa khác tôi thấy thật là phí công vô ích, luyện luân xa 1 là luyện tất cả luân xa dòng hỏa xà đi lên đỉnh đầu đi qua tất cả luân xa và khai mở khả năng đặc biệt. Luân xa 7 không có luyện được nó chỉ là sự giác ngộ hay mê hoặc vô minh ngu si. Cách luyện luân xa 1 như nào mình sẽ tổng hợp rồi đăng lên sau. Như mình đã nói các bạn phải học thiền, mà luyện luân xa 1 cần một người thiền thuần thục, ngồi thiền vài tiếng trở lên. Luyện luân xa 1 cũng như khí công ít xảy ra sự cố đó là tẩu hỏa nhập ma hoặc là bị thần kinh, tổn thương cơ thể thì nếu làm đúng cách sẽ chẳng bị gì. Cảnh báo thêm: dành cho những người biết thiền sâu, tốt hơn hết là đã có vợ con, sức định cao, cao tay ấn,... vì luyện cái này bạn sẽ rất Dâm, không được dính líu quan tâm suy nghĩ tới dâm mới được, nếu không thì bạn bị nó hành vô tà dâm cơ thể tàn tạ thân tàn ma dại ráng chịu. Người cao tay ấn căn cơ cao mới nên luyện, nhưng khi nào nó xảy ra hẵn tính, nhưng người tà dâm thủ dâm chắc không luyện được loại này tổn thương âm đức phúc báu tinh khí cơ thể là nguyên liệu cho hỏa xà và loại người tà dâm thủ dâm thì khó nhập định nên khả năng là không thành công. Ehe nên muốn tu cũng phải là hạng người cao tay ấn, cần có sự kỉ luật cao, quyết tâm v.v nên mấy loại tép riu thì chẳng làm nên trò trống gì. Ai thấy mình không luyện được cũng đừng buồn cứ kiên trì nâng cao trình độ của mình, phép màu sẽ tới. Mình cũng là loại người kém cỏi đây, chỉ là một kẻ đang tìm cầu thần thông, mặc dù biết là lãng phí thời gian tu hành và làm việc có ích, hành thiện nhưng vẫn cố chấp chẳng bỏ được đam mê thần thông phép thuật.
    Last edited by anhdaden; 27-01-2023 at 09:58 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  11. #11

    Mặc định

    Hoãn lại phương pháp thiền kudalini, xin đăng một câu chuyện vừa mới sưu tầm được

    Mắt Âm Dương và chuyện nhìn thấy Vong Hồn, Ma quỷ
    Người có mắt âm dương nhìn thấy vong hồn, ma quỷ là chuyện bình thường. Với người am hiểu Phật pháp thì chuyện ấy vốn chẳng có chi đặc biệt. Nhưng nói chuyện ấy trong thời đại này, nếu chẳng bị cho là chuyện thần thoại, thì cũng sẽ bị gán cái mác huyễn hoặc, mê tín dị đoan. Thời đại “khoa học”, người ta chỉ tin những gì “bốc được bỏ vào mồm” nên tâm thức bị trói chặt trong tà kiến, chẳng biết gì hơn ngoài những thấy biết hạn hẹp, được gán cái mác thời đại của mình, thật đáng tiếc biết bao!
    *
    Trong một lần đưa thầy đi cầu siêu cho thai nhi ở Sóc Sơn. Vừa bước xuống xe, thầy níu tay tôi, hai mắt đỏ hoe: “Con ơi, “chúng nó” về đây đông quá thể. Chẳng một đứa nào có được cái hình hài nguyên vẹn, thương quá đi thôi!..” Kết thúc lễ hôm ấy, Thầy trầm ngâm nói với tôi: “Giá như ai cũng có đôi mắt âm dương để nhìn thấy được các cảnh giới vô hình. Có lẽ họ sẽ sống thiện lương hơn, không ai còn dám làm ác nữa…”
    Dù chẳng có khả năng thấy được gì, nhưng tôi lại hay cảm nhận được những rung cảm nơi thế giới tâm linh. Như những lần cùng Thầy lang thang đặt máy niệm Phật nơi các nghĩa trang. Cứ hễ tụng xong nghi thức, tâm tôi lại trào lên những niềm hỉ lạc. Niềm vui ấy rất lạ lùng, không cách chi diễn tả được. Có lẽ là do cảm ứng với niềm vui giải thoát của các vong linh chăng?
    Mắt Âm Dương nghĩa là gì
    Mắt âm dương là một thuật ngữ dân gian, dùng để chỉ những người có khả năng dị biệt: Đôi mắt của họ, ngoài khả năng nhìn thông thường như mọi người, còn có thể nhìn được chúng sinh nơi cõi âm và các cảnh giới vô hình khác. Mắt âm dương có ba loại:
    Mắt của hạng Đồng Cốt do quỷ thần cho mượn mà có.
    Mắt của người do bẩm sinh mà có.
    Mắt của người do tu hành mà có.
    1. Mắt âm dương của những người Đồng Bóng.
    Đồng bóng là những người bị quỷ thần hoặc tinh mị gá nhập. Sở dĩ họ nhìn thấy được ma quỷ là do các thế lực vô hình này cho mượn mắt. Lúc không bị gá nhập thì mắt họ nhìn chẳng khác chi ta, có muốn cũng không nhìn thấy ma quỷ gì. Như trường hợp cô P. Hàm Rồng hay cô B.H trước đây là một điển hình. Họ được một vị khá cao cho mượn mắt để thực hành các nhiệm vụ về tâm linh…
    Chừng 20 năm về trước tại Hải Phòng, Thầy tôi cầu siêu cho vong linh các liệt sĩ vô danh, chết trong chiến dịch “đường mòn Hồ Chí Minh trên biển”. Lúc đó, Bộ QP do bán tính bán nghi nên mời cô H về kiểm chứng. Khi cô về thì khóc bảo: “Con thấy vong hồn liệt sĩ tụ họp về nơi đây đông không kể xiết. Nếu không nhờ Phật lực, các chiến sĩ không cách chi lên bờ để nghe Pháp được…”.
    Một lần khác, khi Thầy về một tỉnh phía bắc hộ trì đạo tràng. Lúc vừa xong thời khóa buổi sáng thì có một cụ già đến xin thưa chuyện. Cụ bảo: “Bạch Thầy! Đêm qua con thấy người ta từ bốn phương tám hướng đổ dồn về khu vực này. Họ mặc trang phục của nhiều thời kỳ và đông không kể xiết. Lúc ấy con không biết có chuyện gì, định bụng sáng ra tìm đến đây xem sao. Nay đến đây mới biết là do Thầy về đây hộ trì Đạo Tràng…”
    2. Mắt âm dương do bẩm sinh mà có.
    Đây là do kiếp trước tu, kiếp này do biệt nghiệp nên có khả năng nhìn thấy các cảnh giới. Ở Việt Nam ta cũng có một số người thuộc trường hợp này. Họ có có thể nhìn thấy và giao tiếp được với chúng sanh nơi cõi quỷ thần. Như ông Hoàng Đồng Sanh trong Phật học tinh yếu là một điển hình:
    “Ðôi mắt cư sĩ họ Hoàng rất lạ, có thể thấy được ma quỷ và điện quang của mỗi người. Theo lời ông, những vị tu hành chân chánh, tâm trong sạch, thì xung quanh mình có vòng ánh sáng sắc trắng mát mẻ dịu dàng. Người giàu, có ánh sáng sắc đỏ. Bậc sang quý, có ánh sáng màu tím. Kẻ buồn rầu thất chí, hoặc đau yếu, có ánh sáng màu xám như khói. Hạng người tầm thường, phần nhiều có ánh sáng màu lục.
    Ai có điện quang màu đen thì một là người sắp chết, hai đó là kẻ rất độc ác. Và tùy theo tâm niệm tốt xấu, điện quang của mỗi người thay đổi không lường. Ðại khái, người tâm lành ít thì vòng ánh sáng lành nhỏ hẹp; bậc tâm lành hay thanh tịnh nhiều, thì vòng ánh sáng lành rộng lớn. Quang lượng rộng hẹp của kẻ ác cũng như thế. Cho nên khi ta khởi một niệm ác, tuy người ngoài không biết, song mình biết, Quỷ thần biết; còn những bậc thánh đắc đạo thì thấy rõ ràng như nhìn các lằn chỉ trong bàn tay, hay nhìn bóng hiện trong gương sáng…”
    3. Mắt âm dương do tu hành mà có.
    Gọi là mắt âm dương cho người sơ cơ dễ hiểu, chớ thực ra đây chính là Thiên Nhãn, do người học Phật giữ giới hạnh tinh nghiêm mà tự khai mở. Người đắc được mắt này thì chuyện thấy ma quỷ chỉ là lặt vặt, không đáng kể. Bởi mắt này nhìn đêm cũng như ngày, thấu suốt chúng sanh trong lục đạo không chướng ngại. Tùy thuộc vào Đạo lực sâu hay cạn mà người đắc có thể nhìn được cảnh giới nhiều hay ít.
    Đại khái thì trên nhìn thấu chư Thiên Nhân các cõi trời, dưới nhìn thấu cảnh giới chúng sanh nơi địa ngục. Như cố Hòa Thượng Tuyên Hóa và các đệ tử của Ngài là điển hình. Nếu ai từng đọc hồi ký của Ngài sẽ được mở mang với vô số những chuyện linh dị kỳ đặc. Người học Phật nếu không cầu thần thông, chỉ nghiêm trì giới hạnh thì khả năng này tự khai mở. Nhưng nếu học Phật mà khởi niệm tham cầu thần thông thì rất dễ bị ma nhập. Khi đắc thần thông phải đem khả năng ấy ra độ sanh thì không phạm lỗi gì, nhưng nếu dùng biểu diễn hoặc tham danh lợi, khả năng này sẽ bị mất đi.
    Dưới đây là một câu chuyện kỳ thú về một người có đôi mắt âm dương. Chuyện này được trích từ “Nhân quả báo ứng hiện đời”, tập 6, Ni Sư Hạnh Doan dịch. Xin trích đăng lên đây cho những ai thích chuyện linh dị kỳ đặc thưởng lãm!
    Đôi mắt Âm Dương
    Cư sĩ Diệu Thanh kể: “Bà tôi kể hồi nhỏ, những lúc nông nhàn thì bà se nhang. Bà không hề tẩm hóa chất nào vào nhang, để tỏ lòng tôn kính, vì đây là vật phẩm dành để cúng dường.
    Vào năm hơn 30 tuổi, bà bị bệnh nặng. Có lẽ nhờ làm nhang bằng tấm lòng thành thuần khiết nên bà được Bồ tát cứu. Trên đường phố bà gặp một cụ già tu Phật giúp chữa cho lành bệnh. Cụ già này đã sắc thuốc cho bà tôi uống. Sau khi uống thuốc xong, bà lành bệnh, nhưng kể từ đó linh nhãn cũng khai mở: Bất kể là ban ngày hay ban đêm, bà đều nhìn thấy một cõi không gian khác. Cõi này mắt phàm chúng ta không thể nào thấy được.
    Trước đây, tôi hoàn toàn không tin vào mấy cái thuyết thiên nhãn, cũng chẳng tin chuyện mắt âm dương. Lại do bà luôn nhìn thấy những loài mà tôi không nhìn thấy, nên tôi hay bảo: Bà mắc bệnh thần kinh! Tôi cũng thường không tiếc lời cho rằng bà cổ hủ, phong kiến, mê tín dị đoan.
    Sau này tôi có duyên may được nghe Phật pháp. Lúc phát tâm nhập đạo, thì mới hiểu và biết tri ân những gì mà đôi mắt âm dương của bà nhìn thấy. Bởi việc này đã giúp tăng thêm tín tâm cho tôi rất nhiều.
    Tôi xin kể ra nguyên nhân khiến mình tu theo Phật.
    *
    Khoảng mấy năm về trước trên đường về tôi gặp một người bán lươn. Nhìn cảnh họ róc xương lột da lươn quá tàn độc, tôi thấy bất nhẫn nên mua hết số lươn còn sống rồi đem đến ao nước trong công viên để phóng sinh.
    Từ nhỏ tôi vốn sợ rắn nên những loài có hình dạng giống chúng tôi đều sợ. Vì vậy mà số lươn nằm trong bao tôi không dám bắt. Tôi rủ em gái đi cùng, nó thả từng con xuống ao, còn tôi chỉ dám đứng xa nhìn. Khi lươn thả hết xuống nước, tôi ngạc nhiên thấy nhiều con bơi lại gần chỗ tôi. Chúng mạnh khỏe, hơn phân nửa ló đầu lên mặt nước, bu lại chỗ tôi, không ngừng gật đầu, cúc cung cảm tạ. Tôi nhận rõ ý chúng là như thế. Ngộ cái là, chúng không hề xúm lại quanh em gái tôi, dù em ở gần hơn. Chúng chỉ bơi đến chỗ tôi và không ngừng cúi chào. Thật lâu sau chúng mới chịu bỏ đi.
    Cảnh tượng kỳ lạ này khiến tôi hết sức bất ngờ và cảm động. Tôi ứa nước mắt khi hiểu được thế nào là: “Chúng sinh bình đẳng. Vật và người vốn có linh tính giống nhau!”
    *
    Trước đây tôi vốn là kẻ mê ăn mặn, luôn phản đối ăn chay. Thường bữa ăn mà không có thịt cá thì tôi nhất quyết không chịu cầm đũa. Nhưng lần phóng sinh lươn ấy khiến tâm tôi thay đổi: Tôi không còn hứng thú với việc ăn mặn nữa. Tôi bắt đầu nghiên cứu kinh Phật để hiểu thêm nhiều hơn về những điều kỳ diệu trong cuộc sống. Tôi cũng thầm cảm ơn những con lươn kia đã dìu tôi bước vào Phật môn.
    Mới đầu tôi xem kinh Địa Tạng, sau đó mỗi tháng vào mười ngày trai tôi đều tụng kinh Địa Tạng.(Thập trai: Mùng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.)
    Bà tôi vốn không biết chữ và chẳng biết gì về mười ngày trai này. Nhưng cứ đúng vào mười ngày trai, sau khi tôi tan sở về nhà, bà luôn hỏi: Hôm nay có phải con sẽ tụng kinh Địa Tạng không?
    Tôi ngạc nhiên hỏi:
    – Vì sao bà biết?
    Bà đáp:
    – Làm sao mà không biết được! Bà thấy các chúng sinh cõi quỷ ngay từ hồi chiều đã tụ tập đầy trong nhà. Đông đến hết đếm nổi luôn! Chúng đến để nghe con tụng Kinh mà!
    Có những hôm thấy tối quá rồi mà tôi còn làm việc, bà đến gần bảo:
    – Đừng làm nữa, lo mà tụng kinh Địa Tạng đi! Không nên để các chúng sinh kia quỳ đợi lâu, rất có tội và không tốt!
    Bà còn tả rõ cảnh tượng: Chúng quỷ chỉ tụ tập vào mười ngày trai, là những ngày tôi chọn để tụng kinh. Bà thấy trong số đó có cả động vật và người. Vong người thì mặc y phục thuộc về triều đại của họ.
    *
    Tôi trước đây mê ăn mặn nên khiến bà phải khổ theo. Bởi vì tôi mà bà phải giết vật, tạo ác nghiệp nhiều. Trong thời gian tôi tụng kinh Địa Tạng, những chúng sinh bị giết ăn kia đều đến nghe kinh, có đủ heo, tôm, gà, cua, cá…Đặc biệt có một lần nguyên một bầy cua tới. Chúng vung vẩy mấy cái càng to, như hướng bà muốn nói là cả nhà tôi từng ăn cua. Chúng nghe tụng kinh với vẻ rất hoan hỉ.
    Bây giờ tôi không còn tụng kinh Địa Tạng nữa. Thời khóa chính của tôi là kinh Kim Cang, Tâm kinh, Chú Lăng Nghiêm… Đương nhiên bao giờ cũng có chúng sinh cõi khác tụ tập đến nghe Pháp.
    Học Phật vốn là buông bỏ chấp trước, nhưng vẫn có nhiều người càng tu càng chấp. Chấp nơi oan thân trái chủ, sợ oan thân trái chủ làm chướng mình nên muốn bỏ cuộc không tu trì. Ngài Ấn Quang từng giảng: “Quý vị chẳng biết là quỷ cùng người luôn ở chung lẫn lộn hay sao? Không chỗ nào mà không có quỷ! Dù ta không mời quỷ đến, nhưng nhà nào cũng có quỷ. Tính ra, chúng quỷ hiện diện đông hơn người gấp trăm ngàn lần. Nếu người sợ quỷ, thì cần tích đức hành thiện, ắt quỷ sẽ sinh lòng kính trọng mà hộ trì. Nếu người làm việc ám muội, thì quỷ sẽ tranh nhau dè bỉu, nên khó thể sống an.”
    *
    Nếu đã biết rõ như vậy, thì dù ở một mình trong nhà tối cũng chẳng nên khởi niệm sai quấy, tà vạy. Loài quỷ nếu là quỷ thiện, thì thấy người đến ắt nhường đường, khi người đi khỏi chúng mới chiếm cuộc đất đó. Nếu quỷ ác xuất hiện, ắt có điềm chẳng lành lớn. Phải biết trước mặt mọi người luôn có rất nhiều quỷ. Muốn không sợ quỷ thì nên: Giữ tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt. Được vậy thì các loài quỷ đang hiện diện đó sẽ biến thành kẻ hộ vệ cho người. Chỉ sợ rằng loài quỷ được ta khiến cho kính trọng không có nhiều, nếu có được nhiều thì càng tốt, sợ mà làm chi?
    Giờ tôi xin nói đến việc truyền âm kinh luận. Nhờ may mắn mà tôi biết được công đức này: Nếu có thể, bạn nên sắp đặt trong nhà mình một nơi phát âm quảng bá kinh chú. Được vậy thì môi trường xung quanh nơi bạn ở sẽ chuyển hóa triệt để. Nó sẽ an lành giống như cõi tịnh Phổ Đà Sơn của Bồ tát Quán Thế Âm.
    Ích lợi cực lớn thu được là: Ngay trong khu vực phát kinh chú, không chỉ có người, mà bao gồm cả côn trùng đều được lợi ích. Tất cả chúng sinh nơi đó đều được miễn trừ đọa tam ác đạo. Hoặc có thể siêu sinh cõi trời, người, hoặc cõi Tịnh của chư Phật.
    *
    Trong nhà tôi sắm hai máy, cho phát kinh thường xuyên: Một máy DVD chuyên phát kinh, chú đặt tại Phật đường. Máy còn lại phát “Văn Thù Tâm Chú”, đặt trên bàn nơi thư phòng. Tôi hy vọng có thể giúp chúng sinh đến nghe kinh được thọ ích trong tất cả mọi thời.
    Lúc tôi mở DVD phát đĩa kinh, đã chiêu cảm rất nhiều chúng sinh hữu duyên đến nghe. Trong số đến nghe ấy có một con rồng. Lần đầu bà tôi nhìn thấy vóc dáng khổng lồ của nó thì đã kinh hoàng hét lên: Ôi chao! Con rắn này sao mà to khiếp!
    Bà còn tả là nó nằm phía ngoài sân thượng của gian thờ Phật. Nó còn lượn tới lượn lui ngoài sân canh trộm. Tôi khuyên bà đừng sợ mà hãy nhìn kỹ xem: Con “rắn” khổng lồ bà tả đó, nó có móng hay không? Bà nhìn kỹ rồi bảo có. Tôi giải thích: Đó không phải là rắn, mà là Rồng ( Tức là Long thần hộ pháp!).
    Năm nay con rồng ấy lại hiện thân. Lần này nó nằm trên không, chỗ phát ra Văn Thù Tâm Chú.
    *
    Trong kinh điển Phật giáo, thường nhắc đến Thiên Long bát bộ, Long Thiên hộ pháp. Nhưng mọi người đều không hiểu ý này: “Phật Thích Ca trước khi nhập niết bàn, đã dặn dò Long Vương, chư Thiên… nhắc nhở họ hộ trì Phật pháp.” Do đã trải qua hơn hai ngàn năm, nên nhiều người cho đây là chuyện thần thoại, không thể nào tin nhận.
    Tôi thực cảm ơn chư Thiện tri thức đã chỉ điểm cho trên con đường tu tập hành đạo. Cũng cảm ân đôi mắt âm dương của bà, cảm ân Long Thiên hộ pháp thị hiện… khiến tôi đối với Phật pháp có đủ lòng tin.
    Câu chuyện tôi kể ra hoàn toàn có thực. Nếu bạn không tin thì cứ xem như nghe chuyện thần thoại vậy. Còn tôi thì vững tin rằng: Thế giới này thực sự có tồn tại những loài mà mắt thịt của con người không nhìn thấu.
    Ngẩng đầu ba thước có thần linh. Cho nên chúng ta giờ phút nào cũng phải quan sát và kiểm điểm từng khởi tâm động niệm của mình. Nguyện hồi hướng công đức này đến tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới. Nguyện tất cả đồng tu hành, đạt đạo.”
    * Lời bàn: Nhiều bạn đọc câu chuyện trên đây thì sẽ cho rằng là mê tín, tuy nhiên những chúng sinh ở cõi quỷ luôn hiện diện quanh ta y như Kinh Địa Tạng đã nói. Khi bạn đọc Kinh thì những chúng quỷ này sẽ đến gần bạn chắp tay cung kính mà nghe, đây là những chúng quỷ tốt họ không làm hại bạn. Vì sao vậy ? Bởi vì khi bạn tụng kinh trì chú sẽ có hộ pháp đến, các quỷ ác sẽ không dám đến gần, đến nghe kinh đây đều là chúng quỷ tốt , họ ở cảnh giới đó rất là đau khổ, khi nghe được kinh Phật thì liền được an vui mát mẻ ngay thời khắc đó nhất là Kinh do người ăn chay giữ giới tụng, nghe đủ thời gian họ sẽ được siêu sinh về các cõi lành( cõi người, cõi trời, hoặc các cõi tịnh độ của chư Phật..). Vì thế nếu có điều kiện quý vị nên đặt một máy niệm phật mở 24/24 Kinh Địa Tạng ở một gian phòng trong nhà để bố thí Pháp để các chúng sinh nơi đó đều biết nương theo Phật Pháp tu tập, làm được việc này thì công đức của bạn rất là thù thắng rồi
    =====
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    nguồn: FB Khoa Anh, Tuệ Tâm, sưu tầm
    ____________________
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Xin thường niệm A DI ĐÀ PHẬT, nguyện cầu sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc
    Phật pháp không có BẢN QUYỀN
    HOAN NGHÊNH CHIA SẺ, TUYÊN LƯU PHẬT PHÁP
    Chia sẻ Pháp là cách cúng dường tối thượng

    Tôi sẽ đính chính những hiểu biết sai lệch trong câu chuyện trên: Âm dương nhãn chỉ có thể nhìn thấy cõi âm, nhưng không thể nhìn được những bậc quá cao siêu như thánh vì chúng ta không đủ trình độ và họ có thần thông rất lớn mạnh, thiên nhãn là khả năng nhìn xuyên thấu, đột phá không gian. Làm sao để làm những chuyện như biểu diễn thần thông, trổ phép thuật nhưng không làm ác mà thần thông cũng không mất đi? Đó là tu phước giữ giới thiền định để được đại phước báu thần thông cũng tự nhiên khai mở. Thần thông là khả năng của tự tính, Phật tính, bổn tính, chân tâm. Tu hành đắc quả sẽ tự khai mở, nhưng không muốn đắc quả vẫn CÓ THỂ CÓ được đó là tu phước báu làm cho khả năng của tự tính như tướng hảo sắc đẹp, sức khỏe năng lực thần thông tự mình sử dụng được mà không cần đắc quả, như Ma Vương vua trời Dục giới vậy ngũ thông đỉnh cao, tuy nhiên chúng ta không nên làm ác như Ma Vương mà chỉ sử dụng thần thông để lòe thiên hạ có chừng mực, hoặc biểu diễn khả năng siêu nhiên mà người thường không biết, dùng thần thông đi du lịch châu Âu, nhìn thấy hết tài liệu mật, người khác suy nghĩ giấu trong lòng cũng không qua mắt được ta, biến ra vàng bạc ô tô tùy ý... chớ nên có quá nhiều phước mà làm các việc ác hại người, hại mình. Sau khi hướng dẫn cách tu thiền để có âm dương nhãn xong, mình sẽ hướng dẫn các cách để CÓ NHIỀU PHƯỚC đặng cầu mở thần thông. Đây đều là ma sự vì mục đích của nó hơi tào lao, nhưng mình không làm ác thì cũng được thôi không quá ảnh hưởng.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  12. #12
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,404

    Mặc định

    Đừng có mơ mở âm dương nhãn. Vì một khi đã nhìn thấy người âm thì sau 1 thời gian sẽ chẳng biết ai là người âm, ai là người dương. Lúc bấy giờ sẽ thành người tưng tửng (gặp người dương cũng nói chuyện, gặp người âm cũng nói chuyện, người ngoài nhìn vô thấy mình nói chuyện có 1 mình).

    Các bậc thầy người ta có tu tập người ta có thể phân biệt người âm với người dương, còn người bình thường mà nhìn thấy người âm lâu ngày sẽ thành người điên.
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  13. #13

    Mặc định

    Âm dương nhãn (loại ấn chứng mắt thứ 3) theo tôi được biết thì ban đầu đắc sau đó một thời gian sẽ bị mất không còn nữa, Và tu luyện để đạt "âm dương nhãn" Ko phải là mục đích cuối cùng và cũng Ko đưa đến Giác ngộ.

  14. #14

    Mặc định

    Mình cũng tự biết niệm A Di Đà Phật để cầu sinh Cực Lạc, và không hề chưng hửng thử mở âm dương nhãn mà là đã tìm hiểu nhiều, biết rất nhiều và đam mê nhiều, có mở sẽ không bao giờ hối hận trái lại còn đắc ý thỏa mãn, có thể dùng vào nhiều việc kể cả việc tầm bậy 👹. Và nó chỉ như môn trò chơi cho cuộc sống đỡ tẻ nhạt, vô dụng của mình
    CĂN NGUYÊN CỦA TAI NẠN VÀ BỆNH TẬT
    A: Thưa Pháp Sư, hai ngày trước, báo chí Ấn Độ đã đăng một câu chuyện, là người thật việc thật.
    Có một người đi vào rừng hái thuốc, không cẩn thận bị ngã vào một cái hang sâu, rơi vào trong cái hố khoảng ba mươi mét, vật vã hai ngày hai đêm cũng không thể leo lên được, thấy là chết chắc vì đói và khát.
    Bỗng nhiên có một con mãng xà dài hơn mười mấy mét, dùng phần đuôi to dài của nó đưa vào cái hố sâu để kéo người này lên, con mãng xà dùng hết sức để kéo anh ta lên, nhờ đó mà anh ta thoát chết.
    Nhưng người này sau khi được cứu, anh ta không hề biết ơn, ngược lại còn báo với chính quyền địa phương.
    Chính quyền cử một nhóm người đi bắt con mãng xà này, cuối cùng cũng bắt được nó nhốt vào một cái lồng. Người này cũng không biết rõ hình dáng con mãng xà như thế nào, anh ta cũng muốn đi xem xem con mãng xà đã cứu mạng anh ta.
    Khi anh ta sắp đến gần cái lồng thì con mãng xà đột nhiên phun thẳng về phía trước một loại nước bọt đục ngầu, phun vào ngay người của anh hái thuốc. Chỉ trong chốc lát da của người hái thuốc liền bị thối rữa, lan từ đầu đến chân, đi chạy chữa bệnh viện ở khắp nơi, mời bác sĩ chữa bệnh nhưng vô ích, sau khi chịu đủ sự giày vò thì anh ta chết.
    Xin hỏi Pháp Sư, Ngài xem con mãng xà này nó biết được, tại sao nó lại không phun nước dãi vào người khác? Nó có thể nhận ra được anh ta đúng không ạ?
    B: Đúng, đây là nó trả thù anh ta đó.
    A: Ơn nghĩa trở thành thù hận.
    B: Nó cứu anh ta, là do quá khứ anh ta có ơn với nó, nó đến trả ơn. Bây giờ anh ta lại tìm người bắt giết nó, cái ơn này đã biết thành thù hận rồi, phun nước dãi vào người anh ta là nó trả thù đó.
    A: Nó phun ra oán thù vô tận, oán hận đối với anh ta, có nghĩa là nói rằng “Tôi cứu mạng anh, ngược lại anh lại hại tôi”, hận anh ta đến thấu xương.
    B: Đúng vậy, chính là như thế.
    A: Người này thật quá ngu si, thưa Pháp Sư, người ta cứu mạng anh ta, anh ta lại…
    B: Người hiểu chuyện chắc chắn sẽ cảm ơn, không biết ơn lại còn báo cho người đi bắt giết nó. Việc này làm sao có thể nuốt trôi được, oán hận này nó chắc chắn sẽ không tha thứ cho anh ta. Cho nên tội lỗi này là do tự mình tạo ra, tự mình phải nhận lấy.
    A: Thưa Pháp Sư, con nghĩ là tâm sân hận của loài rắn sâu nặng như thế, kiếp này nó làm việc này để trả thù trước, kiếp sau…, con cảm thấy đời đời kiếp kiếp sau đó nó vẫn sẽ đeo bám theo người này, Pháp Sư nói có đúng không? Nó vẫn sẽ muốn lấy mạng của anh ta.
    B: Không sai. Con người, bất kỳ một người nào, vì chúng ta không có thiên nhãn, nếu chúng ta có thiên nhãn thì bạn đều sẽ thấy được, những con vật bị giết bị ăn đều không tha thứ cho bạn. Rất nhiều cái gì? Rất nhiều đều bám trên người bạn, vì bây giờ bạn vẫn còn phước báo, họ không có cách nào; đợi khi bạn hưởng hết phước báo rồi, bệnh của bạn sẽ bộc phát.
    A: Sẽ phát bệnh.
    B: Đúng thế, nó ở trên người bạn, những oan gia trái chủ này ở trên người của bạn.
    A: Chính là linh hồn của những con vật mà mình ăn, nó đi vào trong người của mình.
    B: Không sai, đúng thế, nhập vào người của mình.
    A: Ngài nói làm sao chúng có thể vào được ạ?
    B: Chúng có thể vào được.
    A: Chúng có thể vào được.
    B: Đúng vậy, có thể vào được. Vì chúng không có hình tướng, chúng vào bạn không nhìn thấy được, bạn dùng thiết bị khoa học cũng không tìm thấy chúng, cũng không nhìn thấy chúng.
    A: Mình kiểm tra không thấy nhưng chúng vẫn tồn tại.
    B: Chúng tồn tại, khi bạn có phước báo, chúng ở đó chờ cơ hội. Chúng ở trong người bạn, nhưng chúng không làm gì cả nên bạn không cảm nhận được, không hề hấn gì cả. Đợi đến khi bạn hưởng hết phước báo rồi, hoặc là bạn tạo tội thì chúng sẽ phát tác. Tức là trên người của chúng ta, xung quanh chúng ta đều có cả. Người học Phật tốt ở chỗ là mỗi ngày tụng Kinh hồi hướng cho oan gia trái chủ, giúp họ vượt lên, hóa giải oán thù. Đặc biệt là chúng ta muốn đến thế giới Cực Lạc, chúng ta cũng hy vọng họ đến thế giới Cực Lạc, chúng ta giúp đỡ lẫn nhau, cùng tồn tại và tiến lên, phải có ý nghĩ như thế, tuyệt đối không làm tổn hại họ. “Trước kia làm hại các vị là do tôi không học Phật, tôi chưa từng nhận được sự giáo dục này, không biết đây là vô tri”, thành tâm xin sám hối thì họ đều sẽ tha thứ. Họ cũng biết oan oan tương báo thì cả hai đều đau khổ, không phải chỉ một phía mà cả hai phía đều đau khổ, mong rằng oán thù đều có thể hóa giải trong một đời này.
    Theo tư liệu của tổ chức Lương Nông Thế Giới (FAO) công bố vào năm 2010, số lượng động vật trên trời, dưới đất, dưới sông và dưới biển bị con người ăn và giết hại đã lên đến con số 330, 7 tỉ. Toàn thế giới mỗi năm có 1,8 tỉ gia súc chết dưới tay con người, 22,5 tỉ chim, gà và những gia cầm khác, cộng với 1 triệu tỉ con cá.
    HÃY TRÂN TRỌNG SINH MẠNG, XIN ĐỪNG GIẾT HẠI ĐỘNG VẬT
    (TẬP 1)
    Người phỏng vấn: Cô Đinh Gia Lệ (A).
    Khách mời: Lão Pháp Sư Thượng Tịnh Hạ Không (B).
    Ngày: 21/4/2012.
    Tại: Hiệp Hội Giáo Dục Phật Đà Hồng Kông.
    nguồn: FB Ngoc Phan Thi
    ____________________
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Xin thường niệm A DI ĐÀ PHẬT, nguyện cầu sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc
    Phật pháp không có BẢN QUYỀN
    HOAN NGHÊNH CHIA SẺ, TUYÊN LƯU PHẬT PHÁP
    Chia sẻ Pháp là cách cúng dường tối thượng
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi timbanbonphuong Xem Bài Gởi
    Âm dương nhãn (loại ấn chứng mắt thứ 3) theo tôi được biết thì ban đầu đắc sau đó một thời gian sẽ bị mất không còn nữa, Và tu luyện để đạt "âm dương nhãn" Ko phải là mục đích cuối cùng và cũng Ko đưa đến Giác ngộ.
    vì giác ngộ là chuyện xa, không thể một sớm một chiều. chúng ta còn phải sống nữa, tâm phàm tục làm sao chết dí một chỗ tu hành được. người thì tối ngày đi làm nuôi miệng, người dư dả có cuộc sống thì mong được thưởng thức những thứ chưa biết, mua vàng đeo cho chán, mua kim cương, ô tô v.v còn mình thì không giàu và ưa thích việc có phép thuật thần thông hơn nhưng cố gắng nhịn dục thiểu dục để thiền định, trú trong định. nó hơn là đi hưởng phước, làm việc vô bổ không có ích cho giác ngộ, mình ăn, sống, đơn giản mọi việc nhất giản dị nhất tiết kiệm nhất để dễ thiền định, thiền định chưa đủ cao hơn nữa là thần thông phép thuật. Đặc biệt là không thể thiếu môn niệm Phật vì mình vẫn coi trọng việc thoát ly sinh tử chứ không phải vui thú hay dục lạc, thần thông trong luân hồi. Nhưng thời gian rảnh, hàng ngày vẫn là tu tập thiền định, tu các pháp để mở thần thông, sau này có điều kiện còn học và luyện thêm thần quyền (phụ), bùa thần ( nếu được điểm đạo vào Lâm kinh thần võ) đạt được nhiều khả năng thông thần thuật phép.
    Last edited by anhdaden; 11-02-2023 at 12:11 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  16. #16

    Mặc định

    Người có phước nghiệp thì sẽ không bị mất âm dương nhãn phải chờ hết phước mới mất, người tu hành đắc quả sau khi có âm dương nhãn mà không giữ được quả vị nên mất là đúng. Còn người có âm dương nhãn do nghiệp phước mà chẳng cần tu hành gì như mấy ông tiên hay thiên nhân trên trời, Ma Vương có đầy đủ 5 thần thông chẳng cần tu luyện gì hết, chẳng cần đắc quả. Nên là tôi muốn có thần thông thông qua tu phước cúng dường đèn đọc thần chú hoặc dùng phép thuật để mở, tâm vẫn còn điên đảo. Chứ để có thần thông khi đắc quả thì khó lắm, vả lại khi tâm hết định quả vị mất thì thần thông mất luôn, có mấy ông thầy dọa là có nhãn mà làm việc xấu thì nhãn sẽ mất, thực ra có nhãn mà mất là do đắc quả-tâm định mà ra nên khi làm việc xấu thì sẽ thối quả mất định, còn như Ma Vương có thần thông quảng đại do phước nghiệp mình tu được làm bất cứ chuyện xấu nào, hủy diệt Phật Pháp cũng không mất thần thông, khi nào ông này hết phước thì thần thông mới mất được, sau đó đọa địa ngục A Tỳ vĩnh viễn.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  17. #17

    Mặc định

    Người có đam mê thần thông ắt hiểu rất rõ và rất cần những diệu dụng của thần thông phép thuật mang lại, chẳng để ý tới bất kỳ lời cảnh báo nào làm cản đường họ. Sự diệu dụng của nó chẳng hạn như: tôi có thần thông, ông làm sao giấu giếm được tôi? tôi không cần đi bộ nữa tôi cũng không cần bay, chỉ cần biến ra ngay tại nơi tôi muốn đến. Ngay cả nấu cơm, ăn uống cũng xong trong 1 ý niệm. Trong đời sống, hãy tưởng tượng nếu ai đó cố tình giấu bạn cái gì mà bạn không có cách gì để biết thì sao? Hoặc muốn nhìn thấy bên trong tủ bí mật có gì mà lại không được? Những thiên nhân đều có thần thông, chẳng có gì nguy hiểm mà còn rất tự do, sung sướng, nhiều quyền phép. Phép thuật như là những thứ trong tưởng tượng của con người, mang lại cho con người những khả năng cao giúp cho đời sống dễ dàng hơn, còn làm cho hiểu biết và nhận thức của con người tăng lên. Nhưng nếu ai cũng có thần thông thì thế giới đã hủy diệt rồi, vì con người đẳng cấp quá kém, làm sao so bằng những vị tiên thiên thần nhân? làm người thì lắm kẻ ác, dục vọng, tham sân si... đầy dẫy nếu càng nhiều phép thuật càng làm ác nhiều. Nhưng may mắn là con người không phải ai ai cũng có thần thông, cũng là do đẳng cấp, tâm địa, phước báu không đủ nên tự mình hết cách, không có thần thông. Thần thông nó vốn là khả năng của con người có sẵn, nên tu hành để đạt được là điều bình thường.
    Nói về quỷ và cõi âm, những chúng sinh ở cõi âm đều có ngũ thông nhưng từ hạng du hồn trở xuống địa ngục thì tuy có nhưng thần thông rất kém và nó ở cõi âm, âm dương cách biệt, không quá ảnh hưởng đến cõi dương, có ngũ thông nhưng rất khổ và đầu óc thì chấp nhặt ngu si hơn con người, con người thông thoáng hơn nhiều. con người và loài vật, chính xác thân sinh ra làm cản trở thần thông của ta. vì vậy mới cần phải tu luyện để có thần thông. tâm chưa khai ngộ mà có thần thông là dựa vào nghiệp phước, xác thân (về thân thể nghiệp phước, ví dụ ở con mắt thứ ba đa số huyệt vị tại đây bị tắc nghẽn từ lúc sinh ra), thiền định thì tâm địa thanh tịnh và có phước nên có thể mở thần thông hoặc sinh lên trời, hễ người nào nhập định là chứng sơ thiền và có thể sinh lên trời do thiền định, điều kiện 1 là sức định phải đủ mạnh bình thường không ngồi thiền cũng gần như thiền, tâm không lay chuyển bị nhiễu loạn để lúc chết được sinh lên trời hoặc 2 là ở trong định cho tới chết không bị mất thiền định nếu tâm điên đảo thì đọa 3 đường như thường. còn tâm khai ngộ, ví dụ đắc quả thánh a na hàm (nhập lưu) thì luôn luôn có thần thông trừ khi thối quả trở thành người thường. Ở cõi người thì có thể luyện các thần thông cơ bản như thiên nhãn, xuất hồn là dễ luyện nhất, gọi là dễ đạt được nhưng cũng khó luyện được, nếu gặp được thần chú, bùa, phép thì có ngay. hoặc tu bên tiên cô, cậu, cửu thiên huyền nữ,... luyện pháp môn bên ấy để cầu, thì được ban cho như ý (nhanh hơn so với tu luyện, thiền định: tính theo ngày, tuần hoặc tháng tùy trường hợp). Như vậy thì Phật ban cho ngay cũng được, quá dễ nhưng nó làm cản trở giác ngộ nên các ngài không có làm vậy, nên mơ thôi.. tuy biết nó cản trở giác ngộ Phật không chủ trương làm nhưng may thay cũng có những vị tiên, thần (không phải Phật nhé) có pháp môn ban cho thần thông hoặc sở cầu, ngoại trừ việc ác ra như thiên nhãn, thiền mà nhanh được lửa tam muội của hỏa xà, xuất hồn thì nếu luyện đúng thì khoảng tuần, 2 3 tháng là toại nguyện. Mấy cái khó như bay, tàng hình, làm cho con có 1 tỷ thì mấy vị ấy chịu, không giúp được. hehe. Tuy nói Phật không làm vậy nhưng vẫn được nhé, chẳng hạn lạy Phật 1000 lạy mỗi ngày vừa cầu mở nhãn cầu sanh Cực Lạc sau tầm 3 năm là mở nhãn, vì Phật cũng phương tiện cho người ấy, người ấy tự tu tự tạo phước có thiên nhãn, sau rốt là có duyên với Phật tu hành về với Phật. Nhưng không tu theo cái pháo mà chuyên để cầu như vậy thì lâu, trong Phật môn cũng có cả những phép tu để cầu cho được như ý, có thần chú như ý, thập bát diện, chú đại bi, tụng kinh địa tạng, dược sư... trừ thần chú như ý ra các môn khác không có nói là cầu cái gí nhưng thực hành nó vẫn có hiệu quả nhanh trong việc cầu cạnh, như cầu con, cầu hết bệnh, cầu tài. đem so với niệm Phật thì niệm Phật để vãng sinh thành Phật là chính, nên có thần thông là phụ nên hơi lâu nhưng lợi ích cực lớn. Còn các môn mình đã kể ra thì lâu thành Phật, chủ yếu là môn tu trong lục đạo luân hồi để bản ngã được tốt lên.
    Last edited by anhdaden; 11-02-2023 at 01:09 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  18. #18

    Mặc định

    hiện tại mình vẫn chưa tổng hợp được cách thiền luyện hỏa xà cho ra hồn. nên là kể chuyện thần tiên ma quỷ để tăng thêm hứng thú vậy

    CHUYỆN NGỠ HOANG ĐƯỜNG NHƯNG CÓ THẬT

    Ni sư Hạnh Đoan thuật

    Hồi hai mươi mấy tuổi tôi rất kiêu ngạo, ưa bắt bẻ.

    Năm đó chắc khoảng 8X (1984 – 86…gì đó tôi nhớ không rõ), nghe đài khí tượng báo tin “Cần Giờ đêm nay sẽ có bão to khủng khiếp”…

    Nhưng rồi Cần Giờ vẫn bình yên. Sau đó mấy tháng khi vào thành phố sực nhớ đến chuyện này, tôi cười bảo chị tôi:

    Đài khí tượng của mình dự báo dở ẹt! Nghe nói Cần Giờ sẽ bị bão to, vậy mà có thấy gì đâu?

    Chị tôi đáp: Chèn ơi em không biết gì hết hả! Đêm đó dân Cần giờ họ lập bàn hương án, lạy dài, cầu nguyện suốt đêm, nhờ vậy mà bão không tới đó!

    Tôi nghe xong xúc động, hết dám hó hé.

    Gần đây, mấy năm trước tôi nghe tin Đà Nẵng sắp có bão to giáng, nhưng chư Tăng Ni và Phật tử đã cùng nhau ra bờ biển, tụng chú cầu nguyện… kết quả bão không vào Đà Nẵng mà chuyển hướng dạt qua bên Phi Luật Tân.

    Chứng tỏ lời cầu nguyện, lễ bái, trì kinh chí thành nhất là của tập thể… rất hữu dụng.

    Năm tôi 34-35 vẫn kiêu kỳ, dù chứng kiến ma nhập, thần nhập nhiều, tôi vẫn không tin, nhất là gặp mấy kẻ xưng thần hay hoàng đệ long vương.

    Ma quỷ… dễ nhập người và binh cua tướng tép cũng dễ nhập người, nên rồng nhập vào người cũng là chuyện đương nhiên, nhưng chúng ta không nên dễ tin quá, vì dễ tin sẽ bị gạt.

    Đầu tiên tôi kể chuyện tiên nhập nhé. Tiên nhập thì tôi không chứng kiến, chỉ nghe người thân kể lại thôi.

    MA VÀ TIÊN

    Năm 1976. Tôi chỉ độ mười bảy. Nhà hàng xóm chỗ tôi có một chị tên Thu, cao khoảng 1m62, dáng gầy ốm cũng thuộc loại giai nhân.

    Mẹ chị dòng dõi Ngô Đình, nhưng nhà chị theo đạo Phật.

    Trước 75 nhà chị rất giàu, nhưng sau 75 lâu đài biệt thự không còn, chị phải đi thanh niên xung phong để tồn sinh.

    Nhưng chị đi một thời gian thì bị trả về với lý do bị bệnh tâm thần.

    Chị về nhà với trạng thái kỳ lạ, theo y khoa thì gọi là bịnh tâm thần phân liệt đa nhân cách, còn dân gian thì gọi là bị… ma nhập.

    Biết ba tôi hay trì chú Lăng Nghiêm cũng giỏi giao lưu với ma, nên người nhà dẫn chị qua gặp ba tôi và nguyên nhân là thế này:

    Lúc công tác trên rừng, tối tối chị thường hay ngồi một mình ngắm trăng, chị thấy từ xa có một quân nhân đi tới mỉm cười chào làm quen.

    Anh xưng là Đại Uý VNCH, sau đó mời chị đi khiêu vũ.

    Người ngoài chỉ nhìn thấy chị vô bụi tre nhảy nhót trong đó, cười nói một mình, bịnh ngày càng nặng nên họ phải trả chị về nhà.

    Khi ba tôi hỏi người nhập trong chị, anh ta xưng tên Vinh, nói rõ số quân, nơi công tác và ngày giờ chết.

    Khi được yêu cầu lìa xa chị Thu, anh không chấp nhận và nói:

    Tôi thương Thu, tôi vô xác là cũng để bảo vệ Thu. Vì hiện thời Thu rất yếu, ai cũng nhập được. Nếu tôi bỏ đi thì mấy tên côn đồ nhập vào, sẽ càng khổ cho Thu hơn. Để chứng minh tôi sẽ rời khỏi Thu và quý vị hãy xem, tôi không nói dối.

    Vinh vừa rời khỏi năm phút thì lập tức một tên du đãng nhập vào, chửi thề như bắp nổ, bộ điệu vô cùng hung dữ, khác hẳn phong cách tao nhã lịch sự đàng hoàng của Vinh.

    Thế là tên du đãng được trục ra. Vinh vào xác lại. Nhưng một hiện tượng kỳ lạ xảy ra, đánh bật Vinh ra khỏi xác chị Thu. Và người nhập này xưng là tiên nữ cõi Tứ thiên vương, xuống để cứu và bảo vệ Thu.

    Cô Tiên này kể Thu vốn là tiên trên trời, thuộc nhóm 12 cô tiên, vốn là chị em với họ.

    Do Thu lầm lỗi nên bị đoạ xuống nhân gian. Các cô tiên này giải thích vì ba tôi có tay phục dược nên họ muốn hợp tác với ba tôi, cùng chữa bịnh từ thiện để hồi hướng phúc cho Thu.

    Lúc đó tôi đang tu ở chùa, quy luật nghiêm không được về nhà, nên mọi chuyện đa phần tôi chỉ nghe người thân kể rồi góp nhặt viết lại… nên chuyện sẽ không rõ bằng đích thân chứng kiến.

    Do Vinh rất ngoan cố, không chịu rời xa Thu nên các cô tiên đã đấu phép bắt nhốt Vinh. Thứ mẫu tôi kể đêm đó dậy trời dậy đất, họ đấu phép nhau giống như phim chưởng… Và sau đó vĩnh viễn không còn thấy Vinh nhập vào Thu nữa.

    Thứ mẫu tôi là người chất phác thật thà, không biết nói thêm bớt, thấy sao thì kể vậy. Tôi tiếc là mình không mục kích để nhìn cho mãn nhãn và bây giờ không phải kể cho bạn nghe mơ hồ như vầy.

    Phần mấy cô tiên họ thay phiên nhau xuống vào xác chị Thu để làm thiện, tạo phúc cho chị.

    Khi tiên nhập vào, mặt Thu rất hồng, hồng như hoa đào và người có mùi thơm, mắt Thu một mí bật thành hai mí, đôi má bình thường bỗng thành má lúm đồng tiền trông rất duyên dáng.

    Điểm đặc biệt là tiên rất thích cài hoa lên tóc, mỗi khi nhập vào, họ thường ra trước nhà tôi, hái một đoá hoa cài lên tóc rồi mới làm việc.

    Nhóm tiên này tính rất trầm, ít nói; chỉ im lặng ngồi xếp bằng làm việc. Riêng có cô tiên út (cả nhà tôi thường gọi cô Út) là hay nói chuyện và dễ dụ khai ra các bí mật, vì cô còn rất nhỏ tuổi). Mấy cô tiên mỗi lần thấy hình Phật là tỏ vẻ rất tôn kính. Cô Út thấy hình Phật nằm trong bao nhang bị gió thổi bay cô vội lượm để lên đầu. Cô nói nhạc cõi trần nghe nặng quá, nó “giựt gân” và hông thanh bai như cõi trời. Thấy cái gì cô cũng tò mò vì cô còn nhỏ, có lần cô bị anh chị tôi dụ ăn trái ớt đỏ, nói là ngon lắm, cô liền cắn ăn thử, sau đó cô… khóc quá chừng.

    Cô Út cũng rất nghịch phá, khi không nhập vào chị Thu cô vẫn có thể xuống nhà tôi trêu ghẹo trong dung mạo vô hình, nên ba má tôi không biết được.

    Có đêm đang nằm thấy đèn sáng tắt liên hồi, thứ mẫu tôi rất ngạc nhiên.

    Sáng ra gặp cô (qua xác chị Thu) cô nói:

    – Gia gia! Đêm qua con bật tắt đèn lia lịa đó, gia gia thấy không?

    Hoặc có ngày ba tôi làm vườn, ông thấy khát và uống nước liên hồi.

    Sau đó cô Út khai:

    – Con bấm huyệt khát trên người gia gia khiến gia gia uống nước không ngừng đó!

    Tôi có xem hình cô tiên út vẽ tả người cõi cô, thấy mặc đồ cổ trang giống như phim Tàu hay cải lương, tóc cũng giống vậy. À, giống như tiên trong Tây Du Ký ấy.

    Các cô tiên luân phiên nhập vào Thu ( có lẽ ai rảnh thì xuống) cô tiên cả ít nói nhất, khi vào có thể ngồi xếp bằng suốt bốn tiếng để trị bịnh (mỗi lần cô xuất ra chị Thu đều khóc và than nhức chân quá). Ba tôi nói:

    Cái chảo nóng như vậy mà các cô tỉnh bơ rang thuốc bằng tay, nhúng tay vào chảo mà không lộ vẻ bị nóng phỏng gì, họ có thể cầm ly nước tụng chú đại bi vào là nước nguội hoá sôi.

    Họ phối hợp với ba tôi (vốn rành thuốc lẫn châm cứu để cùng trị bịnh rất hiệu quả). Dạo đó nhà tôi bịnh nhân đến rất đông. Việc trị bịnh này vang động đến chính quyền, khiến ba tôi và Thu bị công an nhốt, vì truyền “mê tín dị đoan”

    Nhưng sau đó do người thân của bên chức quyền (ở Tây ninh) bị bịnh nặng, ba tôi và Thu được họ nhờ chữa trị thành công, thế là họ thả ba tôi và chị Thu ra.

    Các cô tiên chỉ xuống nhập xác Thu trong thời gian ngắn vài tháng, họ nói mục đích là tạo phúc cho Thu. Sau đó họ từ biệt không nhập nữa. Trước khi đi họ khoá huyệt nơi đỉnh đầu chị Thu để không còn ai có thể nhập vào. Họ nói, theo luật nhập thì người cùng huyết thống, cha mẹ, anh em, thân nhân có thể nhập, nhưng vong cà lơ phất phơ thì không.

    Nhưng từ lúc đó trở về sau, chị Thu không bao giờ bị nhập nữa. Chị sống vững vàng, an định.

    Thường thường người cõi trên nhập, chị Thu sẽ thấy mặt họ áp sát mặt mình nơi trán (tôi không rành lắm, chỉ nghe kể mà thuật lại e có khi thiếu và sai). Còn người cõi dưới nhập họ sẽ vào từ chân.

    Các cô tiên còn dạy chị Thu tụng chú Đại bi tiếng Phạn. Họ nói cõi họ toàn xài và tụng tiếng Phạn. Chị Thu tụng Chú Đại Bi tiếng Phạn cũng rất hay. Ba tôi thì quen tụng chú tiếng Việt rồi nên ông không chuyển sang tụng Phạn làm chi. THỰC RA CHÚ TỤNG SẼ LUÔN LINH NẾU BẠN ĂN CHAY VÀ TỤNG BẰNG TÂM THÀNH. Nên ai quen tụng chú âm Việt thì cứ tụng Việt, ai thích tụng âm Phạn thì tụng. (Trên mạng có đầy, tuy có khác nhau chút nhưng tụng vẫn linh).

    (Ghi chú: Tất cả tên thật trong chuyện đã được đổi)
    LĂNG NGHIÊM KHAI TUỆ
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  19. #19

    Mặc định

    KHAI MỞ MẮT ÂM DƯƠNG
    VÀ NHỮNG CHUYỆN KÌ LẠ TRONG CÕI ÂM
    (Chuyện có thật của Phật tử Phổ Minh - Nghệ An).
    Âm thanh của kinh Địa tạng được phát ra, vang vọng khắp bốn phía. Khi ấy, từ đâu rất nhiều chúng sinh cõi vô hình tới để lắng nghe. Phía trên bầu trời, có bóng dáng các vị chư thiên. Phía dưới mặt đất, có rất nhiều các vị hương linh mang thân người, và vô số các vong linh mang thân súc sinh. Còn có hai vị hộ pháp tới để hộ kinh. Tất cả đều trang nghiêm, cung kính, chắp tay lắng nghe kinh pháp…..Đó là cảnh tượng mà tôi vẫn nhìn thấy, khi mở Kinh Địa Tạng cho chúng sinh khắp mười phương tu tập.
    Tôi là một cư sĩ tại gia, được quy y Tam Bảo tại chùa Phúc Mỹ, Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Lấy pháp danh là Phổ Minh. Năm năm trở về trước, tôi vẫn chưa biết đến Phật Pháp. Nhưng có lẽ vì nhân duyên gì đó trong tiền kiếp, mà bỗng nhiên, ngoài cảnh vật bình thường ai ai cũng thấy, tôi còn có thể nhìn thấy được nhiều cõi vô hình, cùng chúng sinh cõi ấy. Ngoài ra, tôi cũng nghe được âm thanh của các chúng sinh đó. Sau này, biết đến Phật Pháp rồi, tôi mới hay đó là hiện tượng khai mở được thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông.
    Trở thành một Phật tử, tôi tinh tấn tu hành, ngày ngày mở kinh Địa Tạng cho chúng sinh tới nghe. Cứ tối đến trước khi đi ngủ, là tôi lạy Phật, tụng kinh, sám hối. Mỗi thời khóa công phu như vậy, tổ tiên trong dòng họ nhà tôi đã khuất, lại về nương theo tu tập. Các vị ăn vận rất đẹp đẽ. Nét mặt lộ rõ vẻ hoan hỷ, vui mừng.
    Sau khi chết đi, nhiều vong linh hướng thiện luôn mong muốn được tu hành. Nhưng khi không còn mang thân thể vật chất nữa, vọng tưởng của họ trở nên vô cùng mạnh mẽ. Vì vậy, dù rất muốn, nhưng họ không thể nào tự mình niệm Phật, lạy Phật v.v… Vốn dĩ họ không thể định tâm được, nên chỉ có thể nương theo người trên thế gian mà tu tập thôi. Nhờ tu tập như vậy, họ mới có thể giảm bớt được đau khổ, tiêu trừ chướng nghiệp, mà siêu thoát tới cõi an lành.
    Vì được khai mở thiên nhãn, thiên nhĩ, nên một lần, tổ tiên trong dòng họ đã về báo cho tôi được biết: trong dòng họ nhiều đời nhà tôi, có vài người bị đọa địa ngục, chịu cảnh xiềng xích tra tấn vô cùng đau đớn. Bởi sinh thời, vào khoảng 200 năm về trước, người thì làm địa chủ cậy quyền cậy thế bức hại người khác. Người thì không coi trọng mạng sống, mắc tội tự sát; cộng thêm một số tội khác nữa.
    Vì thương xót gia tiên chịu cảnh thống khổ nơi đường ác, tôi đã phát tâm lạy Phật để siêu độ cho tổ tiên. Khi đó, tôi có quen thầy Huệ Nghiêm ở chùa Phúc Trí, Tân Sơn, Nghệ An. Tôi đã cùng thầy lạy 1500 danh hiệu chư Phật mười phương để sám hối ngay tại chùa. Nhờ ơn đức của Chư Phật, nhiệm màu làm sao, sau khi các khóa lễ lạy được hoàn thành, các vị đã trở về báo cho tôi biết: tất cả xiềng xích đều biến mất rồi, họ đã thoát được cảnh giới địa ngục, nay đang được ở cảnh giới trung gian. Thấy vậy, tôi vui mừng khôn xiết, đã giúp được thân quyến thoát cảnh cực hình đau đớn.
    ***
    Một thời gian, tôi nhìn thấy ngay sát bên nhà, có một vong linh ngày nào cũng lặp đi lặp lại hành động thắt cổ tự tử. Thần hồn, tay chân của vong linh đó đều bị sưng phù lên, vô cùng đau đớn. Hương linh trước cũng là người quê ở Đô lương, Nghệ An. Sinh thời, do nhiều nguyên nhân mà dẫn đến tự thắt cổ chết. Ngày qua ngày, tôi đều thấy hương linh đó hiện về vào ban đêm kêu cứu với gia đình trong nỗi đau khổ tuyệt vọng.
    Vì gia đình này không có sự tín tâm, nghĩ rằng chết là hết, chứ còn gì đâu. Nên họ không mảy may biết gì về nỗi thống khổ của người thân đã quá cố. Chứng kiến cảnh tượng đó nhiều lần, tôi sinh lòng trắc ẩn, bèn nói với hương linh rằng:
    -Nhân duyên cháu và bác có lẽ đã đến nên cháu mới thấy bác như vậy.
    Rồi tôi phát tâm làm công đức hồi hướng cho bác ấy. Vì người này mắc tội tự sát, là tội rất nặng, cứ phải quanh quẩn nơi mình đã tự tử mà diễn lại cảnh đó mỗi ngày, họ chẳng thể đi đâu được.
    Vì vậy tôi đã xin chư Phật, thần hộ pháp, thần thổ địa, thổ công cai quản mảnh đất đó, xin các vị cai quản cõi âm, cho phép vị này được theo tôi ra chùa, cùng tôi phát tâm sám hối và lạy 1500 danh hiệu chư Phật khắp mười phương.
    Sau hôm đó, tôi ra chùa lạy Phật, thì thấy vị đó được đi theo và cùng lạy với tôi. Mỗi ngày chúng tôi lạy 150 lạy. Mỗi ngày lạy phật trôi qua, thần hồn họ cũng giảm sưng được một chút, cảm giác đau đớn cũng theo đó mà giảm dần.
    Sau mười ngày lạy Phật, thì thần hồn không còn sưng phù nữa, đau đớn cũng chấm dứt. Đặc biệt, kể từ đó trở đi, tôi không thấy họ phải lặp lại hành động thắt cổ thêm nữa.
    Tất cả là nhờ ân đức của chư Phật. Tôi vô cùng biết ơn. Trước kia, họ không thể đi đâu. Thì nay đã được về phần mộ của mình, trước kia, mộ cũng vẫn ở đó, mà họ có đi lại được đâu mà tới.
    Từ đó về sau, vị này có thể về nhà thờ của dòng tộc và bàn thờ của gia đình mỗi khi có cúng giỗ. Sau lần đó, họ về cảm tạ tôi, nói từ nay không làm phiền tôi nữa.
    Trong kinh Địa Tạng, có chỉ dạy rằng: những chúng sinh trong cõi vô hình, chịu đau khổ, vất vưởng, đói khát, luôn mong ngóng hàng quyến thuộc trên dương thế làm công đức hồi hướng cho, để họ được tiêu trừ nghiệp chướng, siêu thoát cõi an lành.
    Vậy mà trên thế gian, nhiều người chẳng chịu tin nhân quả, luân hồi. Nhiều vong linh về cố gắng báo cho người nhà biết qua giấc mơ hay bằng nhiều cách khác nhau, trông mong họ cứu giúp. Nhưng khổ nỗi, người nhà chẳng hay biết, hoặc biết mà cũng mặc kệ, vì cho đó không phải là thật. Làm các vong linh phải chờ đợi trong tuyệt vọng, khổ cực muôn phần không tả hết.
    ***
    Đặc biệt, trong gia đình tôi, không phải chỉ mình tôi khai mở được thiên nhãn, thiên nhĩ. Mà còn có cả mẹ tôi.
    Cuộc đời bà vô cùng vất vả, phải trải qua những trận ốm đau, bệnh tật liên miên. Bà còn bị mắc chứng khó ngủ suốt hơn 15 năm trời. Mỗi ngày bà chỉ ngủ được từ 20h tối đến 1h sáng, vỏn vẹn 5 tiếng đồng hồ. Vì vậy mà bà thường xuyên bị chứng đau đầu hành hạ.
    Mẹ tôi cũng khai mở được thiên nhãn, thiên nhĩ vào cùng thời điểm với tôi, cách đây 5 năm. Vì muốn biết tại sao bản thân lại hay ốm đau, bệnh tật như vậy, nên bà bắt đầu để ý, và phát hiện ra trên thân thể mình toàn là “đầu cá”.
    Lúc này, bà mới nhận ra bệnh của mình là do nghiệp sát sinh, do các oan gia trái chủ tìm đến mà báo oán. Vì trong cuộc sống thường ngày, mẹ tôi rất hay làm cá, rồi đập đầu cá. Nhưng lúc đó bản thân bà cũng chưa biết làm cách nào để hóa giải.
    May mắn sau này, khi biết đến Phật Pháp rồi, hằng đêm trước khi ngủ, mẹ tôi đều phát tâm niệm Phật xin sám hối với oan gia, hồi hướng công đức niệm Phật cho họ được siêu thoát.
    Tôi lúc đó cũng góp sức cùng mẹ, cầu siêu cho họ, cầu xin họ tha thứ cho bà. Vậy là trong suốt một tháng, hai mẹ con tôi tụng kinh, lạy 1500 danh hiệu Phật, phóng sinh, và làm nhiều việc thiện khác nữa… cùng hồi hướng cho các vị oan gia trái chủ của mẹ tôi cả.
    Được một tháng, thì các vị oan gia về báo rằng: họ đã tha thứ cho bà và họ cũng sắp được siêu thoát đầu thai lên cõi người, từ nay sẽ không đi theo báo oán mẹ tôi nữa.
    Từ đó trở đi, mẹ tôi không còn đau đầu, ăn và ngủ đủ giấc, cuộc sống trở lại bình thường sau hơn 15 năm khổ sở.
    ***
    Vậy đó, cuộc sống này còn nhiều điều mà chúng ta không thể nhận biết bằng các giác quan thông thường. Nếu như không phải tôi và mẹ mình, do nhân duyên gì đó, mà khai mở được thiên nhãn, thiên nhĩ, thì làm sao chúng tôi biết được: ngoài cõi người mà chúng ta đang sống đây, hóa ra còn có những cõi giới khác, ở một chiều không gian, thời gian khác với chúng ta. Hóa ra, những thứ mà con mắt chúng ta không nhìn thấy được, không phải không tồn tại.
    Ở cõi giới vô hình kia, còn có vô số chúng sinh đang đau khổ, họ trông ngóng chúng ta thương cảm mà giúp đỡ họ. Vì vậy, hãy khởi lòng từ bi thương xót, cứu họ khỏi cảnh bi thương cùng cực. Bằng cách tu tập tinh tấn, làm các việc phước thiện, rồi hồi hướng công đức đó cho các chúng sinh đang đau khổ. Nhờ vậy mà họ được tiêu trừ ác nghiệp, siêu thoát cõi lành.
    Nhân quả thực sự tồn tại, làm việc ác ắt sẽ bị quả báo, quả báo không trổ ngay trong đời, thì cũng sẽ trổ ở những kiếp sau. Đừng ai nghĩ có thể trốn chạy được. Nếu như không chịu tu sửa kịp thời, để đến lúc chết đi, phải tái sinh vào địa ngục thì khổ sở hết chỗ nói.
    Đức Phật đã dạy, thân người khó được, Phật Pháp khó nghe. Nay chúng ta đã may mắn được thân người, lại biết tới Phật Pháp, thì còn gì hạnh phúc hơn nữa. Phải biết tiếc quý từng giây từng phút của đời người, gấp rút tu hành, để được an lạc tự tại về sau.
    Lời chia sẻ của Ni Sư Hạnh Đoan (dịch giả của các tuyển tập Báo Ứng Hiện Đời nổi tiếng) về bài viết:
    "Đọc bài này tự dưng nhớ tới Quả Khanh trong bài dịch mới của tôi, ông tài đến nổi ai muốn khai mở thiên nhãn ông đều có thể khai mở cho. Nhưng sau đó người mở được thiên nhãn chạy đến khóc lóc xin ông thu hồi đóng lại giùm. Vì những cái thấy vượt qua mắt thịt quá khủng khiếp.
    Ông nói nếu bạn nhát tính bạn đừng mơ có thiên nhãn vì bạn sẽ không chịu nổi những gì mình nhìn thấy.
    Con trai con gái Quả Khanh đều có thiên nhãn, có thể nhìn thấu thiên đường, xuống cả địa ngục…"
    Nguồn: Trang Nhân quả
    copy FB Ni Sư Hạnh Đoan
    ____________________
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Xin thường niệm A DI ĐÀ PHẬT, nguyện cầu sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc
    Phật pháp không có BẢN QUYỀN
    HOAN NGHÊNH CHIA SẺ, TUYÊN LƯU PHẬT PHÁP
    Chia sẻ Pháp là cách cúng dường tối thượng
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

  20. #20

    Mặc định

    không có thần thông thì cũng phải trách mình không có phước, không có đắc quả. Mà có phước hoặc đắc quả thì hầu hết lên trời sống rồi, không ở nhân gian làm con người phàm phu đâu các bạn ạ. Trước hết để có âm dương nhãn phải tu phước, trong đó hiếu thảo cha mẹ phước ngang cúng dường Phật, trong đời ai cũng có song thân cả, phải tận dụng. Cúng dường tỷ tỷ La Hán không bằng cúng dường 1 Bồ tát, cúng dường tỷ tỷ Bồ tát không bằng cúng dường 1 Như Lai, cúng dường tỷ tỷ Như Lai không bằng cúng dường Phật tâm Phật tính chân như bổn tính chính mình, tức là tu hành khai ngộ chính mình. Nên ai còn cha mẹ thì đây là may mắn rất lớn, hãy mau mau phụng dưỡng, tu hành thật tốt, giúp cha mẹ cũng tu hành niệm Phật vãng sinh hoặc không được thì mình tu hành hồi hướng cho cha mẹ, những ai hiếu thảo thì công phu thiền định rất sâu dễ thiền định, nên rất có lợi cho việc tu luyện âm dương nhãn của ta. Ngoài hành thiện tạo phước ra chúng ta cần vượt lên chính mình, bền bỉ để thiền định tốt hơn, khi thiền định bạn chỉ cần tập trung kĩ mạnh lâu sâu vào hơi thở của mình, không để mất tập trung như vậy sẽ vô được định, nếu tâm suy nghĩ lung tung nghe ngóng bên ngoài phóng dật ra ngoài thì kéo trở lại tập trung hơi thở. Cũng không nên điều khiển hơi thở cứ để tự nhiên là tốt nhất, vào định rồi dù có cảnh giới gì hiện ra cũng vẫn là hơi thở bản thân. Luyện sức bền cũng giúp bạn thiền định tốt, sẽ nói trong bài viết sau

    Ý chí khác với sức bền, bền bỉ là một chuyện. Ý chí có hạn, là vọng tưởng mãnh liệt, còn sức bền thì khác (không biết giải thích sao). Cách luyện sức bền: plank, treo xà, đứng tấn. Người mới tập lúc đầu nên chỉ 5 phút mỗi lần, mỗi ngày chia làm 2 lần sáng tối hoặc hơn, vì vậy đây là cách ĐẶC TRỊ dâm dục để chúng ta bền bỉ vượt qua dâm dục. Ý chí là điên đảo vọng tưởng ảo tưởng sức mạnh vượt qua, sức bền là tịnh tĩnh nhẫn nhục tinh tấn vượt qua. LƯU NGAY VÀ THỰC HÀNH NGAY NẾU CHƯA BỎ ĐƯỢC THỦ DÂM.
    Đã khám phá ra một trong những điều vĩ đại để bỏ được thủ dâm, người xưa khổ và người xưa cũng hay rèn dũa bản thân lắm. Ngày nay hiện đại quá nên lười biếng, tâm lực yếu, nên đây là một khám phá vĩ đại có thể giúp cho nhân loại bỏ dâm mà chưa ai nói, nay tôi nói lần đầu.
    Có ham muốn mà người khác chẳng hề gì, còn bạn thì đi thủ dâm ngay, vấn đề là ở chữ tâm lực yếu, định lực yếu và không có đủ trí tuệ. Nguồn: trên mạng
    Last edited by anhdaden; 02-04-2023 at 09:58 AM.
    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH
    _/\_A Di Đà Phật !_/\_

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •