Xem "Chạy đàn phá ngục"...


Có mặt tại Chùa Nền (Hà Nội) trong dịp Rằm tháng Bảy vừa qua, tôi đã được chứng kiến màn “Chạy đàn phá ngục” lạ lùng. Đằng sau đó là một đỉnh cao nghệ thuật về âm nhạc và diễn xướng mà không phải ai cũng biết.
Đàn Mông Sơn tại Chùa Nền, Hà Nội là khoa cúng lớn và lâu đời của Phật giáo để tỏ lòng kính Phật, hiếu thuận với tổ tiên, cha mẹ và cúng thí cho các vong hồn nơi địa phủ.

Sau lễ Thỉnh Phật và Dâng Lục cúng kéo dài suốt ban ngày, chập tối, Lễ Cầu siêu với màn “Chạy đàn phá ngục” theo tích “Mục Liên tầm mẫu” bắt đầu. Khi ấy, giữa tiếng nhạc réo rắt, trống phách rộn ràng đệm cho câu canh tiếng kệ ngân nga đưa đẩy, một nhà sư đạo mạo đội mũ hoa sen, áo cà sa, tay cầm tích trượng, quấn dải khăn trắng dẫn đầu đoàn lễ cung kính diễu qua năm đàn tế tượng trưng cho năm cửa ngục nơi địa phủ. Tiết tấu bỗng thay đổi khi vị sư đứng trước một cửa ngục cùng hai tiểu đồng cầm đèn hoa đăng. Trống, kèn, não bạt, thanh la, tiu cảnh...lập tức rộn lên dồn dập, chuyển sang một khúc nhạc mau hoạt đầy tính vũ điệu. Vị sư tay bắt quyết múa lượn liên hồi, dứt khoát, chân di chuyển theo nhịp trống mõ, khi khoan khi nhặt như vẽ những chữ vô hình lên mặt đất.

​Bỗng ai đó hét lên “Phá cửa ngục!!!”, nhà sư tay cầm trượng múa lên chiếc bát úp dưới đất, dí đầu trượng vào trôn bát, di trên mặt đất giống như viết những mật chú rồi bất thần chọc vỡ tan chiếc bát. “Khóa cửa ngục” coi như đã mở, nhà sư tiếp tục chọc thủng màng giấy trước đàn tượng trưng cho “cửa ngục”. Cứ thế, nghi thức lại tái diễn với các “cửa ngục” còn lại trên nền trống kèn náo nhiệt không ngừng.



Nhà sư, thầy pháp thực sự
là những nghệ nhân cổ nhạc
.

“Phá ngục” chỉ là một phần trong Đàn Mông Sơn - nghi lễ hội tụ đầy đủ các làn điệu đặc trưng của vũ, nhạc nhà chùa. Ở đây, thầy cúng và sư tăng đều thể hiện những phương pháp âm nhạc độc nhất vô nhị như Canh, Kệ, Tụng, Thỉnh, Bạch, Tấu.... hay những chiêu bắt quyết, lướt chân và uốn cổ tay mềm dẻo như rồng bay phượng múa giữa âm điệu biến ảo của dàn lễ nhạc. Quả thực, âm nhạc Phật giáo đã vượt qua những rào cản tín ngưỡng, trở thành một loại hình nghệ thuật đặc sắc.

Một thể loại âm nhạc thực thụ

Đó là nhận định của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền khi bàn về âm nhạc Phật giáo. Ở đó có sự chuyển hóa những giáo lý đồ sộ của nhà Phật thành lời ca với hệ thống âm điệu mang dấu vết dân ca bản địa. Ta có thể thấy âm hưởng của chèo, tuồng và nhiều thể loại dân ca khác trong các giọng nhạc của Phật giáo.

Cũng theo anh Hiền, các nhà sư đã phát triển âm nhạc nhà chùa thành một hệ thống giọng điệu phong phú như Xướng lễ (man mác, tha thiết); Tụng (đọc kinh có nhịp điệu); Thỉnh (nói - hát kinh với âm vực rộng); Bạch (nhẩn nha, bình thản); Tấu (nhịp đọc sớ ngân nga); Chú (thầm thì, nhanh); Kệ (điệu hát – kể trường hơi); Canh (dàn trải, chậm dãi với nhiều đoạn “i, a” kéo dài tối đa) v.v... Những phương pháp âm nhạc chuẩn mực chứng tỏ trình độ nghệ thuật bậc thầy của âm nhạc nơi cửa thiền.

Sự đồ sộ với hơn 350 nghi lễ Phật giáo có xuất hiện âm nhạc và múa cho phép sư tăng đưa kỹ xảo diễn đạt biểu tượng tới mức tinh luyện. Chỉ riêng ý nghĩa của chuỗi động tác thủ ấn (bắt quyết) trong nghi thức múa đã vô cùng tinh tế.


Quang cảnh buổi lễ

Chỉ một câu “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát” các vị sư có thể ngâm nga đến gần 10 phút, còn những bài kinh kệ, thán thì kéo dài khôn cùng. Thử tưởng tượng, để phục vụ cho một Đàn Mông Sơn hoàn chỉnh diễn ra trong 7 ngày liên tục với hàng trăm câu tụng, thán cùng diễn xướng, vũ đạo, các vị sư tăng, thầy cúng phải có nội lực cao sâu đến nhường nào?

Những nghệ nhân cổ nhạc

Đẳng cấp trình diễn của nhà sư, thầy pháp được thể hiện ở độ vang, sâu, đều nhưng biểu cảm, giọng khỏe, dai sức để thực hiện những đàn cúng lớn, kéo dài. Muốn vậy, các vị sư đã trải qua quá trình khổ luyện lâu dài với nhiều kỹ thuật ém hơi phức tạp. Thực tế, những kỹ thuật này không chỉ bắt nguồn từ giới các nhà sư mà còn được đóng góp bởi các nghệ nhân cổ nhạc ngoài dân gian. Nếu trong chùa lưu truyền chiêu ém hơi đẩy lên vòm xoang mũi để tạo giọng đều và tiết kiệm hơi, thì kỹ thuật vận hơi nén bằng cơ bụng nhằm tăng tính biểu cảm với lực “tận thổ can tràng” lại được học từ nghệ nhân dân gian. Trường hợp kỹ thuật âm điệu, vũ đạo trong chùa bị thất truyền, các sư lại tìm học từ thầy cúng bên ngoài. Đó là mối quan hệ khăng khít và gắn bó đã có từ ngàn đời.

Anh Vũ Duy Sinh, một thầy pháp lâu năm với ít nhất ba đời lưu nghiệp cho biết một thầy cúng khi đạt đến trình độ nhất định sẽ được phép hành lễ tại các Trai đàn của Phật giáo như một vị tăng.“Bản thân tôi đã theo cha học nghề từ năm 9 tuổi nên hiểu đây là một pháp môn rất kỳ công. Vừa luyện chữ Hán, thuộc kinh, kệ, lại thêm luyện thanh, trống mõ, múa, bắt quyết...đâu phải ai cũng làm được. Vì thế, mỗi khi cần lập đàn, các sư thường cầu viện đến thầy cúng. Ba đời nhà tôi sống được cũng nhờ lẽ đó”, Sinh tâm sự.

Điều này đã được nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền xác nhận. Anh cho biết, từ bao đời nay, đội thầy pháp và giới sư sãi đã trở thành một “đối tác chuyên nghiệp” trong thực hành nghi lễ chung nhất. Với thầy cúng, đó là một nghề, với nhà sư, đó là các kỹ năng cần thiết gắn liền với những nghi thức trọng đại của cuộc sống tu hành.

Điệp Trần (Thể Thao&Văn hóa