QUẶN LÒNG TRƯỚC MỘ GIÓ

Phóng sự của PHẠM NGỌC DƯƠNG

Những nấm mộ hoang hoải trên cát trắng. Biển động, gió thổi mòn nấm mộ đắp bằng cát. Trong ráng chiều vàng vọt, khi tán dừa đổ dài vắt qua hòn đảo, người đàn bà trẻ vẫn quỳ lạy bên nấm mồ với khói hương nghi ngút. Thi thoảng chị lại nhìn ra phía đại dương. Những ngọn sóng bạc đầu vẫn đuổi nhau đến bất tận. Trên đầu sóng ngọn gió, chồng chị cùng với hàng ngàn người đã ra đi mà không trở về. Nấm mồ chị đang vái lạy là mộ gió. Hài cốt chồng chị không biết ở phương nào. Đó là hình ảnh của những câu chuyện bi hùng của con người trước biển cả mênh mông.



Ngày nào ông Tỉnh cũng nhổ cỏ trên mộ gió của cai đội Phạm Quang Ảnh

Tôi ra đảo Lý Sơn (huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi) mùa biển động. Con tàu gỗ hai tầng cũ nát đậu bên bến tanh nồng tôm cá chờ khách. Khắp tàu chất chứa các loại hàng hóa, phục vụ cho 20 ngàn cư dân trên đảo. Người nằm nghiêng, người nằm ngửa, người bám thành tàu đu như khỉ. Ngoài đám thanh niên đi biển, ăn sóng nói gió vẫn cười đùa rôm rả, nói năng hào sảng, tôi và những người đàn bà đều say sóng vật vã. Còn tàu chồm lên ngọn sóng, rồi lại như hút xuống địa ngục. Cứ dập dềnh như vậy suốt gần 3 giờ mới ra đến đảo Lý Sơn. Người đàn bà gầy héo gầy hắt nằm cạnh chỗ tôi ngồi mắt nhắm nghiền, tay khư khư ôm chặt tấm di ảnh người con trai mới ngoài 20 tuổi, một thuyền viên bị sóng gió nhấn chìm ngoài biển Đông. Thỉnh thoảng bà lại phải đặt ảnh con xuống, nôn thốc nôn tháo vào túi nilon. Chờ con suốt hai năm, không thấy con về, bà đã tuyệt vọng, coi như con đã chết. Bà lặn lội từ huyện Bình Sơn ra đảo để nhờ thầy cúng làm mộ gió, nặn tượng, làm lễ chiêu hồn cho con về đất liền. Chỉ có đứa con duy nhất, vậy mà bị biển cả cướp đi, không một dấu vết gì. Bà muốn có một nấm đất để ngồi bên đó mà vật vã khóc, để đặt lễ, cắm hương nhớ ngày con từ biệt mẹ xuống thuyền ra đi kiếm sống.

CHUYỆN QUANH NGÔI MỘ GIÓ TẬP THỂ


Những ngày ở đảo Lý Sơn, tôi được trung úy Trần Đức Vinh, cán bộ an ninh Công an huyện Lý Sơn chở đi mấy vòng quanh đảo. Phóng xe máy chừng 20 phút thì hết đường trên đảo. Trên những bãi cát trắng, trên những ruộng tỏi, bên bãi biển, có rất nhiều mộ gió. Những ngồi mộ nằm cạnh nhau, thẳng hàng, hướng ra đại dương. Phía Nam đảo, dưới những hàng dừa tỏa bóng mát, những ngôi mộ gió vừa được các gia đình đắp lại còn mới nguyên. Phía Bắc đảo là nghĩa trang của huyện, ngay đầu nghĩa trang cũng có mấy ngôi mộ gió còn rất mới. Người thân làm khung tre, lợp mái đàng hoàng cho ngôi mộ, để linh hồn người thân bớt lạnh lẽo, nắng nôi. Hoa cúc vẫn vàng rói, khói hương vẫn nghi ngút.
Sau ngôi miếu thờ linh thiêng, nấm mộ gió của cai đội Phạm Quang Ảnh và lính hải đội Hoàng Sa từ thời vua Gia Long vẫn còn đó. Người trông nấm mồ tập thể, ngôi nhà thờ, miếu thờ những chiến binh biển cả này là ông Phạm Quang Tỉnh, 77 tuổi.
Ngôi mộ kỳ lạ có tuổi ngót hai trăm năm, nhưng lúc nào cũng mới tinh. Ngôi mộ dài hơn chục mét, vắt ngang vườn tỏi nhà ông Tỉnh. Suốt 50 năm nay, ngày nào ông cũng nhổ cỏ, vun đắp cho mộ vuông vắn. Cứ sau trận mưa, cát sỏi trôi tuột, ông lại cực nhọc hót cát đắp, nện. Không ai trả lương cho việc làm của ông. Ông Tỉnh làm việc này với một thái độ trân trọng, bởi cai đội Phạm Quang Ảnh xưa chính là cụ tổ thuộc hàng ngũ đại của ông.
Ông Tỉnh mở cửa nhà thờ, lần sau bức tượng trên bàn thờ để lấy tài liệu kể cho tôi nghe về xuất xứ ngôi mộ gió khổng lồ này. Năm 1815, khi vua Gia Long trị vì, muốn khẳng định chủ quyền biển, đã phái Phạm Quang Ảnh ra đảo Cù Lao Ré (đảo Lý Sơn bây giờ) để giám sát khu vực Hoàng Sa, Trường Sa.
Khi đó, đảo Cù Lao Ré đã có dân cư đông đúc. Dân cư đã sống trên đảo này từ 200 năm trước khi Phạm Quang Ảnh ra cai quản. Việc đầu tiên khi ra đảo là ông làm tường trình gửi vua Gia Long đề nghị vua miễn thuế cho người dân ở đảo vì cuộc sống rất thiếu thốn, nghèo đói.
Hải đội của Phạm Quang Ảnh có 70 suất lính, được gọi là hải đội Hoàng Sa, có nhiệm vụ trấn giữ biển Đông và tìm kiếm sản vật. Cứ đến tháng 3, cai đội Phạm Quang Ảnh lại cùng 25 lính với 5 chiến thuyền, do ông làm chỉ huy, dong buồm chạy ra khu vực Hoàng Sa. 25 người lính này được chọn từ 25 họ tộc trên đảo. Cứ mỗi họ tộc phải đóng góp một suất đi biển. Ngoài nhiệm vụ chính là trấn giữ hòn đảo, khẳng định chủ quyền biển Đông, hải đội Hoàng Sa còn làm nhiệm vụ đo đạc thủy trình, tìm kiếm, khai thác những sản vật quý, đặc biệt là hải sâm. Mỗi chuyến về đất liền, những con thuyền của hải đội chứa ngập hải sâm, những loài ốc đặc biệt, rùa quý cùng nhiều sản vật hiếm, cung tiến cho triều đình. Hải đội này cũng cứu sống không biết bao nhiêu ngư dân của nước ta và những nước khác bị bão gió đánh dạt vào đảo Hoàng Sa.
Mỗi chuyến đi Hoàng Sa rồi ngược xuống Trường Sa kéo dài khoảng 7 tháng. Ra đi tháng 3 thì đến hết tháng 8 mới về để tránh mùa biển động. Khi đi, họ mang theo đầy đủ lương thực, nước uống dùng trong 7 tháng. Mỗi người lính được cấp phát một tấm chiếu, 7 đòn nẹp tre, 7 dây mây buộc và thẻ bài ghi rõ họ tên, quê quán, phiên hiệu. Nếu bệnh tật, bão gió làm chết giữa biển thì đồng đội bó chiếu, nẹp tre và dùng dây mây buộc xác lại. Sau khi làm lễ an táng thì thả xác xuống biển. Người ta tin rằng làm như vậy linh hồn người chết sẽ tìm về nhà, xác thân sẽ trôi về đất liền.
Phương tiện hải hành khi đó chỉ là những chiến thuyền nhỏ. Chuyến đi dài ngày, sóng to gió lớn, bão gió thường xuyên, lại không ít lần gặp cướp biển, nên nhiều chuyến thuyền đã ra đi mãi mãi, không một người trở về. Đoàn thuyền của cai đội Phạm Quang Ảnh sau nhiều chuyến đi về thành công, cũng đã không tránh được phận bạc đời biển.
Lần ấy, nhiều người can ngăn ông không nên ra biển. Ông trông trời nhìn đất, tâm trạng cũng thấy bất an, nhưng ông coi nhiệm vụ canh giữ biển trời quan trọng hơn mạng sống, nên ông nhất quyết dong buồm ra khơi. Đoàn thuyền đi được mấy ngày thì sấm dậy đất trời, bão tố mù mịt. Những con sóng hung dữ như muốn nuốt chửng Cù Lao Ré. 6 tháng không thấy đoàn thuyền của hải đội Hoàng Sa về, nhân dân Cù Lao Ré ra biển đứng trông. Bao nhiêu nước mắt đã chảy xuống đại dương mênh mông. Biền biệt mấy năm liền không thấy đoàn thuyền cập bến. Không một xác thân nào trôi dạt về, một mẩu thuyền cũng mất tích dưới đáy đại dương.
Vua Gia Long đau lòng, nhỏ nước mắt khóc thương các tử sĩ của hải đội Hoàng Sa. Ông cùng đoàn tùy tùng ra đảo làm lễ chiêu hồn cho các tử sĩ. Trong đoàn tùy tùng phục vụ lễ chiêu hồn, có một thầy phong thủy nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Thầy phong thủy sai dân chúng lên núi Giếng Tiền lấy đất sét về, nhào nặn cho nhuyễn rồi tự tay ông ta nặn đất thành hình các tử sĩ. Ông ta cứ nặn đến khi nào những người thân thấy giống người chết mới thôi. Nặn xong 25 tử sĩ của hải đội, ông lập đàn cúng chiêu hồn ròng rã suốt một đêm, gọi linh hồn các tử sĩ nhập vào tượng đất, sau đó đem an táng như người chết bình thường, cũng quần dài, áo the, khăn xếp, cũng quan quách đầy đủ. Cai đội Phạm Quang Ảnh được chôn đầu tiên, sau đó là 24 chiến sĩ, xếp thành một hàng gồm 25 nấm mộ. Sau này, qua nhiều lần mưa gió, xói mòn, đắp lại, 25 ngôi mộ riêng biệt đã biến thành một ngôi mộ lớn, dài hơn chục mét. Tôi hỏi ông Tỉnh: “Bên dưới nấm mồ này liệu có còn tượng đất sét không?”. Ông Tỉnh bảo: “Chưa có nhà khảo cổ nào về khai quật, nghiên cứu, nhưng chắc chắn vẫn còn”.
Hồi vua Gia Long ra đảo Lý Sơn làm lễ chiêu hồn tử sĩ, vua còn sai thầy phong thủy đi tìm nguồn nước cho cư dân trên đảo. Thầy phong thủy đã rất nhanh chóng chỉ một địa điểm ngay cạnh bãi biển. Nhân dân đào đất đá, một nguồn nước trong vắt, mát lành trồi lên. Và cái giếng 200 năm tuổi đó vẫn tồn tại đến ngày nay. Cả huyện Lý Sơn dùng nước ở giếng này làm nước uống. Nước trong và tinh khiết đến nỗi người ta toàn múc lên uống luôn. Các cơ quan Nhà nước cũng chở từng can nước về dùng làm nước uống trực tiếp.
Từ hai trăm năm nay, năm nào cũng vậy, cứ đến tháng hai âm lịch, nhân dân đảo Lý Sơn lại tổ chức lễ khao lề, tế lính Hoàng Sa kéo dài suốt mấy ngày với thuyền cúng, cờ, linh vị, và các hình nhân bằng bẹ chuối, bột gạo, rơm rạ hoặc giấy điều. Trong thuyền cúng có đầy đủ mọi thứ như củi, muối, gạo, mắm… những thứ mà người lính hải đội Hoàng Sa ngày xưa thường mang theo trong chuyến đi biển. Sau đó, thuyền được đưa ra khơi cho trôi tự do trên biển Đông. Trong những ngày này diễn ra lễ hội đua thuyền rất độc đáo. Những người tham gia đua thuyền tượng trưng cho những người lính hải đội Hoàng Sa khi xưa. Nhưng đường đua không phải ra đảo Hoàng Sa mà chỉ một vòng quanh đảo Lý Sơn.
Sau khi cai đội Phạm Quang Ảnh hy sinh, những hải đội khác tiếp tục ra khơi, bất chấp bão gió để bảo vệ chủ quyền đất nước. Đã có hàng trăm người lính không trở về, đã có thêm rất nhiều đoàn thuyền lạc vào bão biển và mất tích giữa đại dương. Người thân ở nhà gạt nước mắt, làm đám tang theo nghi lễ chiêu hồn và an táng tượng trưng trong mộ gió để vong linh họ có thể an nghỉ nơi quê nhà.
Ngoài phần mộ của cai đội Phạm Quang Ảnh và binh lính, còn có mộ gió của ông Võ Văn Khiết, cũng là một chỉ huy đội thuyền đi Hoàng Sa thời chúa Nguyễn. Ngôi mộ này nằm ở thôn Tây, xã An Hải và được người dân ở đây thờ cúng như Thành hoàng. Ông cũng đã được phong Thượng đẳng thần. Tộc họ ông Ảnh và ông Khiết làm nhà thờ, miếu cúng tôn nghiêm cạnh mộ gió để thờ cúng. Lịch sử xuất hiện mộ gió bắt đầu từ đó…
Qua câu chuyện về hải đội Hoàng Sa của cai đội Phạm Quang Ảnh, có thể khẳng định chủ quyền của nước ta đối với đảo Hoàng Sa là rất rõ ràng. Hiện tại, huyện đảo Lý Sơn đang xây dựng một khu tưởng niệm hải đội Hoàng Sa thời vua Gia Long ngay bên bãi biển nhìn ra phía quần đảo Hoàng Sa. Khi khu tưởng niệm này hoàn thành, các hiện vật chứng minh đảo Hoàng Sa là của nước ta sẽ được trưng bày. Du khách sẽ hiểu hơn về lịch sử của quần đảo này đã gắn với nước ta như thế nào.



NGƯỜI NỐI NGHIỆP THẦY PHONG THỦY XƯA
Xưa kia, khi cai đội Phạm Quang Ảnh và binh lính chết ngoài biển khơi, được thầy phù thủy nặn tượng làm lễ chiêu hồn. Giờ những người đi biển chết thì được ông Võ Văn Toại nặn tượng, cúng chiêu hồn. Ông là người duy nhất trên đảo Lý Sơn làm công việc kỳ quặc này. Người dân trên đảo đồn rằng, ông là người nối nghiệp của thầy phong thủy xưa. Tôi hỏi ông lời đồn đó có đúng không, ông chỉ cười. Rồi ông kể miên man những câu chuyện cứ như duyên nghiệp, định mệnh đã rơi trúng đầu ông.
Từ ngày có tập tục làm mộ gió, đảo Lý Sơn luôn có một người duy nhất làm công việc này. Trước khi ông thầy cúng chết, bao giờ họ cũng gọi một người tin cậy nhất, không nhất thiết là người thân đến bên cạnh và trao lại tất cả những tài liệu hướng dẫn cách nặn tượng, cúng chiêu hồn. Người được giao phó trọng trách này đều dốc hết tâm sức làm việc. Theo ông Toại, hồi ông nhận trọng trách kỳ lạ này, cứ như thể ông là người khác, ngày đêm ông miệt mài vùi đầu vào đống sách cúng và không hiểu sao cái đầu của ông khi ấy sáng suốt đến vậy, cứ đọc đâu thuộc đấy.
70 tuổi với 30 năm làm thầy cúng, ông Võ Toại đã là chủ tế của vài trăm ngôi mộ gió, chết từ Hoàng Sa đến Trường Sa. Trung bình, mỗi năm ông làm lễ an táng cho trên dưới chục ngôi mộ. Năm 2007 cũng có đến 10 ngôi mộ gió mọc lên ở rải rác các bãi biển trên đảo Lý Sơn do ông làm chủ tế. Thế mới biết biển nghiệt ngã thế nào. Đau lòng nhất là sau những trận bão lớn, có khi ông Toại phải làm lễ an táng một lúc cho cả chục ngư dân chết chìm ngoài biển khơi. Người ta dựng lều trước biển, sắp cả dãy quan tài. Ông Toại thâu đêm suốt sáng nặn tượng trong khói hương nghi ngút và gió biển lồng lộng. Tiếng khóc ai oán như tiếp thêm cho ông sức mạnh, khiến ông có thể làm việc liên tục mấy ngày đêm không ngã.
Việc nặn tượng thay hình người chết cũng lắm nhiêu khê, phức tạp. Ông phải lên đỉnh núi Giếng Tiền, là miệng núi lửa đã nằm im từ hàng triệu năm trước để lấy đất sét. Số lượng đất sét lấy được phải đủ để đắp một hình nhân có kích thước như người thật. Cũng chính vì thế mà người dân đảo Lý Sơn không bao giờ dùng đất sét làm nhà.
Cây dâu, con tằm là biểu tượng kỳ lạ của cuộc sống thiên biến vạn hóa, sự xoay vần của trời đất. Con tằm ăn dâu, nhả ra tơ, đan thành kén, đẻ ra nhộng, sinh ra bướm, mới hóa con tằm. Cũng chính vì vậy mà thầy chủ tế dùng tơ tằm làm những sợi gân cho hình nhân. Cành dâu chẻ đôi xếp vào bụng tượng đất làm xương sườn. Đàn ông có 7 nhánh, đàn bà có 9 nhánh xương sườn mỗi bên. Xương sống, xương ống tay, ống chân đều được làm bằng thân cây dâu. Một vốc đất đen lấy ở chỗ ngã ba đường được nhào nước cho dẻo rồi nặn thành lá gan. Đem đốt cây Thụ đao, một giống cây bông trắng, trái chùm mọc nhiều trên đảo để lấy than làm phổi. Than củi Thụ đao rất lạ, cứ quánh vào nhau, lỗ rỗ trông như cái phổi bị ung thư vì hút nhiều thuốc lá. Mọi bộ phận của con người, từ mắt, mũi, miệng, tai, đến cả hậu môn, bộ phận sinh dục cũng có đầy đủ. Số đất sét lấy về phải được nặn bằng hết, bởi người ta tin rằng, đất sét còn thừa, rơi vãi, cũng như xương thịt của người chết vẫn còn thất lạc. Những nét cơ bản của người chết phải được thể hiện rõ trên tượng. Bước cuối cùng là dùng lòng đỏ trứng gà quét lên khắp hình nhân. Khi trứng khô, trông da tượng như da người thật. Tượng nặn xong, được mặc quần áo, đồ liệm giống như người thật, linh vị đặt trên mặt, rồi người ta khiêng đặt vào quan tài.
Tượng nặn xong, ông Võ Toại làm lễ chiêu hồn. Lễ cúng chiêu hồn diễn ra rất dài. Ông toại phải đọc hết mấy cuốn sách cúng. Lời cúng rù rì trước sóng biển ào ào như những áng văn đầy mộng mị: “Cõi u minh khó lòng tưởng tượng/ Chất trong chất đục phong hóa từ đầu/ Ngoảnh sang Đông, ngóng về Tây/ Hướng đi mơ màng dễ lạc bến/ Ôi sắc nước hương giời xa đôi nẻo, lòng dễ mến yêu/ Thủy phủ khiến sức nước ngưng/ Buổi sáng trong veo như trang điểm/ Cho hồn các vị tựa hàng tiên/ Tiếng sóng động đông đài/ Tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt/ Ngóng hồn thiêng xa vời vợi mong được hàm ơn…”.
Một cỗ thuyền mô hình, với những mâm lễ ăm ắp vàng bạc, lương thực được thả xuống biển cúng linh hồn cùng các vị thần ngự ngoài biển khơi.
Cúng chiêu hồn xong, người ta tin rằng linh hồn người chết mất xác đã trở về nhập vào hình nhân để an nghỉ, phù hộ cho những người thân còn sống. Người ta thả quan tài xuống huyệt và lấp đất, đắp mồ. Ngày giỗ, người thân ra mộ thắp hương, lễ thanh minh cũng đi tảo mộ như những ngôi mộ khác.
Ông thầy cúng Võ Toại khẳng định rằng, những ngôi mộ gió rất linh thiêng. Ông đã chứng kiến nhiều trường hợp người thân đến trình bày với ông rằng, nhiều đêm họ mộng thấy người chết về kêu đau và trong giấc mơ họ nhìn rõ tay, chân, hoặc cơ thể người đã chết có vết rách, rỉ máu. Gặp những trường hợp đó, ông Toại lại phải đào mộ lên và lần nào cũng thấy vết nứt trên tượng, đúng như mô tả của người gặp mộng. Khi đó, ông Toại phải vá những vết thương cho hình nhân, rồi đắp lại mộ. Với khí hậu khô nóng, mưa ít, nắng nhiều, nên những tượng đất dưới mộ ở đảo Lý Sơn được bảo vệ rất tốt. Theo ông Toại, nhiều nấm mộ gió được chôn từ hàng trăm năm trước, khi cải táng ra chỗ khác, tượng hình nhân vẫn nguyên vẹn.
Đi khắp đảo Lý Sơn, đến bãi tha ma nào cũng gặp mộ gió. Không có đất, người ta đắp mộ gió cả trong ruộng tỏi, ngay trong vườn nhà. Những buổi chiều sóng yên bể lặng, tôi gặp rất nhiều đàn ông thắp hương quỳ lạy trước mộ gió. Họ tưới rượu trắng lên nấm mồ để cầu vong hồn phù hộ cho chuyến đi biển lúc rạng đông. Những ngày biển động, sóng to gió lớn, những người đàn bà quỳ lạy trước mộ từ chiều đến nhọ mặt người mới đứng lên. Họ cầu linh hồn phù hộ cho chồng, con về được đất liền…

Phóng sự Phạm Ngọc Dương