Trích trong cuốn Vô Ngã của Thích Trí Siêu

Mục đích chân chính của người tu Phật là cầu giác ngộ, giải thoát. Nhưng giác ngộ cái
gì ? Giải thoát ai ? Và tại sao phải giải thoát ?

Chúng ta khổ nên cầu giải thoát ? Nhưng ai làm chúng ta khổ và ai giam giữ chúng ta chứ? Người đời làm chúng ta khổ, cuộc đời giam giữ chúng ta chăng ? Chính cái Ta làm chúng ta khổ, và cũng chính cái Ta giam giữ chúng ta trong luân hồi sinh tử. Vì nếu không có Ta thì ai chịu khổ, không có Ta thì ai sinh, ai tử ?

Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã. Khi căn bệnh này hết thì sinh tử không còn, gọi là giải thoát. Muốn khỏi bệnh, điều trước tiên là phải ý thức được mình có bệnh, sau đó mới đi tìm thuốc. Thuốc trị bệnh chấp Ngã chính là giáo lý Vô Ngã, bàng bạc trong các bộ A Hàm. Đại thừa chuyên nói về Không, trong đó có hai loại : Ngã Không và Pháp Không. Ngã Không cũng chính là Vô Ngã.

Thông thường, để trị bệnh chấp Ngã chúng ta hay nói đến phương pháp phá Ngã. Khi bị người khác mắng chửi, đánh đập mà không phản ứng, nhịn nhục, cố gắng thản nhiên thì gọi là phá Ngã. Phương pháp này không được bảo đảm cho lắm, vì nhiều khi bề ngoài nhịn nhục nhưng bên trong rất bực tức hoặc nếu không bực tức thì cái Ngã sẽ nói: 'Ta là người nhịn nhục hay nhất !', và như thế cái Ngã không bị phá chút nào mà lại tăng trưởng thêm. Không nên phá Ngã mà chỉ cần hiểu Vô Ngã và tu tập Vô Ngã . Vô Ngã không những vừa là nền tảng vừa là mục tiêu chứng đắc của các bậc A La Hán, mà cũng là nền tảng cho hành giả tu tập Không Tánh của Đại thừa Bồ tát.

Trong tập sách này, tôi sẽ nói sơ về Vô Ngã qua bối cảnh của Tứ Diệu Đế và sau đó, mục đích chính là giới thiệu đến bạn đọc hai phương pháp tu tập Vô Ngã: phương pháp thứ nhất dùng biện chứng phủ định của Trung Quán, phương pháp thứ hai là pháp thiền Tứ Niệm Xứ.

Vì không phải triết gia hay học giả mà chỉ là một du tăng tầm đạo nên lời lẽ trong đây không được văn hoa cho lắm. Kính xin các bậc cao minh thạc đức hoan hỷ lượng thứ cho.

Mong rằng tập sách này sẽ đem lại lợi ích cho mọi độc giả và hành giả.

Ẩn vân lộ, tháng 3 năm 1990
Thích Trí Siêu

KHỔ

Tứ Diệu Đế bắt đầu bằng Khổ Đế, kết thúc bằng Đạo Đế. Khổ là một thực tại ( réalité ), dù ta có ý thức được hay không thì bản chất của cuộc đời vẫn là đau khổ. Có một số người dựa trên lý duy tâm, duy thức của đạo Phật, bảo rằng sướng khổ đều do tâm, nghĩa là nếu tâm nghĩ sướng thì sẽ sướng, cho là khổ thì sẽ khổ, chung quy tâm nghĩ gì thì sự vật sẽ là như thế. Nếu bạn đọc cũng nghĩ như trên thì khi đau răng bạn hãy thử nghĩ sướng xem, răng có hết đau không ? Lửa nóng, nhưng bạn cứ nghĩ là mát và thò tay vào lửa xem tay bạn có bị đốt cháy không ?

Sướng khổ đều do tâm, có nghĩa là hiện thời chúng ta sung sướng hay khổ đau đó là kết quả của những hành động quá khứ, trong đó tâm là chủ nhân tác nghiệp. Từ lúc tâm khởi niệm cho đến khi thọ lãnh quả báo, phải trải qua một thời gian tuân theo luật nhân duyên quả. Duy tâm không nên hiểu là tâm vừa nghĩ gì, liền có cái đó. Nếu đúng như vậy thì khi bụng đói, bạn hãy nghĩ tới một cái bánh xem nó có hiện ra trước mặt bạn hay không ?

Khổ là một thực tại, bản chất của cuộc đời là đau khổ, người tu Phật cần phải nhận rõ điều này. Đức Phật xưa kia vì sao lại rời bỏ cung điện xuất gia tìm đạo ? Không có khổ thì không có đạo Phật. Thấy và nhận định rõ khổ không phải để khóc mà để tìm đường thoát khổ.

Có một số người thấy khổ, biết mình khổ, nhưng lại không tìm đường thoát khổ, vì lầm cho đó là một định nghiệp, một quả báo của nghiệp quá khứ không thể tránh khỏi nên nhẫn tâm chịu đựng, chịu trả nghiệp. Nhưng xưa kia, ai đã trói buộc ta vào cuộc đời để rồi nay ta ngồi chờ giây kia tự đứt ? Đạo Phật dạy Từ Bi nhưng cũng dạy Hùng Lực. Chúng ta khổ vì xưa kia đã tạo nhân xấu, nhưng đời này chúng ta không được thụ động ngồi chờ cho nghiệp hết, mà phải chủ động, vùng vẫy tìm đường giải thoát, phải có hùng lực chặt đứt nghiệp cũ. Chặt một lần chưa xong, phải chặt nữa, chặt hoài, đến khi nào đứt mới thôi.

Khổ không phải được biết một lần, hay quán chiếu một lần rồi để qua một bên. Khổ cần được quán chiếu thường xuyên ngay nơi bản thân, hoàn cảnh và sự vật. Người tu đạo thấy rõ Khổ nhiều chừng nào thì chí nguyện giải thoát mãnh liệt chừng nấy.

Khổ là gì ? Ở đây chắc không cần nói rõ hơn vì ai ai trong chúng ta cũng đều trải qua và biết rõ những gì là khổ. Thông thường trong kinh sách có nêu ra ba hoặc tám thứ khổ :

Ba thứ khổ là :

Khổ Khổ : Cái khổ chồng chất lên cái khổ , bản thân đã khổ mà hoàn cảnh chung quanh lại tạo thêm bao cái khổ khác .

Hoại Khổ : Cái khổ vì bị hoại diệt.

Hành khổ : Cái khổ của sự biến chuyển.

Tám thứ khổ là :

Sanh khổ : Sự sinh sống của con người có 2 phần khổ: khổ trong lúc sanh và khổ trong đời sống.

Lão khổ : Con người đến lúc già, thân thể hao mòn, suy kém, trí huệ lu mờ, khổ cả thể xác lẫn tinh thần.

Bệnh khổ: Hành hạ xác thân con người, làm cho nó khổ sở, không gì hơn là cái đau. Đã đau, bất luận là đau gì, từ đau lặt vặt như đau răng, nhức đầu, đến các bệnh nan y như hủi, lao, ung thư v. v... đều làm cho con người khổ sở, rên siết, khó chịu.

Tử khổ : Khổ của sự chết. Con người sợ nhất là cái chết vì phải xa lìa vĩnh viễn tất cả bà con, của cải.

Ái biệt ly khổ : Khổ của sự chia ly với những gì thân yêu.

Oắn tắng hội khổ : Đây là cái khổ gây ra do sự thù ghét, hiềm khích nhau mà cứ phải gần gũi, chung đụng .

Cầu bất đắc khổ : Khổ của sự mong cầu, hy vọng mà không toại nguyện .

Ngũ uẩn thủ khổ : Khổ do sự bám víu, ái nhiễm của 5 uẩn.

Trên đây chỉ là kể sơ lược, bạn đọc không cần phải học thuộc lòng ba hay tám thứ khổ trên. Hãy nhìn thẳng vào đời sống của bạn và tự nghiệm lấy khổ là gì ? Sự xắp loại trên chỉ là gợi ý mà thôi .



NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ

Sau khi suy nghĩ, quán chiếu, thấy rõ thực tại của đau khổ, chúng ta phải làm thế nào để thoát khỏi sự chi phối của nó. Đây là vấn đề trọng yếu của đạo Phật, và mục đích chân chính của người Phật tử là giác ngộ, giải thoát.

Thông thường khi vào chùa (ở đây không kể những người làm công quả cho vui) để cầu đạo, chúng ta thường thích học Thiền, tu Tịnh Độ hay Mật Tông, v.v... tìm cầu pháp môn này, pháp môn kia để mong sao mau giác ngộ giải thoát. Nhưng giác ngộ cái gì ? Giải thoát Ai chứ ?

Chẳng hay bạn đọc có bao giờ thử chạy ngược dòng chưa ? Ngược dòng ở đây có nghĩa là ngược dòng tư tưởng, ngược dòng ý niệm. Có một lần trong sách " Đại Thủ Ấn " tôi đã nói sơ về 2 loại ý niệm tư tưởng :

1/ Ngược dòng : đây là những ý niệm phân tách tìm tòi nguyên nhân của một việc, nó là một phần của trí tuệ có công năng kéo tâm trở về gần bổn tánh hay thực tại .

2/ Xuôi dòng : Là những ý niệm suy nghĩ tính toán chuyện thế gian liên quan đến cái Ta (Ngã).

Nếu bạn đi xuôi theo dòng tư tưởng thì sẽ thấy nó vô cùng tận, không có chỗ hết, chỉ trừ khi bạn muốn ngừng hoặc chuyển sang một đề mục khác. Nhưng nếu bạn đi ngược dòng tư tưởng thì một lúc nào đó nó sẽ dẫn bạn đến một con đường cùng, bế tắc bởi một bức tường. Bức tường đó chính là bức tường vô minh, mà nếu không dùng trí tuệ soi thủng nó thì bạn sẽ chán nản trở ra đi theo con đường cũ (tức xuôi dòng).

Làm thế nào để đi ngược dòng ? Có một phương tiện đơn giản đó là tự đặt ra nhiều câu hỏi ngược lại với những chữ như: Tại sao ? Vì sao ? Ai ? Cái gì ? v.v...

Để dễ hiểu chúng ta chúng ta có thể lấy thí dụ đề mục "giải thoát" để quán chiếu ngược dòng :

Hỏi: Tại sao muốn tu hành ?

Đáp: Vì muốn giải thoát.

Hỏi: Tại sao muốn giải thoát ?

Đáp: Vì khổ ?

Hỏi: Ai khổ ? Khổ cái gì ?

Đáp: Tôi khổ. Khổ vì sinh, già, bệnh, chết....

Hỏi: Ai sinh, già, bệnh, chết ?

Đáp: Hỏi vớ vẩn ! Tôi sinh, già, bệnh, chết chớ còn Ai vào đây. Chẳng lẽ cục đá sinh, già, bệnh, chết hay sao ?

Hỏi: Thế Tôi là Ai ?

Đáp: Tôi là ờờ .... ơ Tôi ! Tôi là Tôi !

Nếu có hỏi tiếp nữa thì câu trả lời vẫn là: "Tôi là Tôi !". Không biết bạn đọc có bao giờ tự hỏi mình: "Ta là Ai " chưa ?

"Tôi là Tôi ! hoặc Ta là Ta !" chính là bức tường của đường cùng.

Hỡi các bạn phật tử, tại sao chúng ta phải tu hành ? Tu hành vì chúng ta khổ ! Tại sao chúng ta khổ ? Chỉ vì chúng ta có cái "Ta". Nếu không có "Ta" thì Ai khổ ? Nếu không có Ai khổ thì Ai cần tu hành, Ai muốn giải thoát ? Nếu không có "Ta" thì Ai sinh Ai tử?

Tóm lại nguyên nhân của khổ chính là sự có cái Ta .

Trong Đạo Đức Kinh (Chương 13), Lão tử có nói:

Ngô sở dĩ hữu đại hoạn dả, vị ngô hữu thân;

Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn ?

Tức là :

Ta sở dĩ có hoạn nạn lớn vì ta có thân,

Nếu không có thân, làm gì có nạn ( khổ ).

Lão tử cho xác thân chính là nguyên nhân của khổ, nhưng nay nếu bạn hiểu được chính cái Ta là nguyên nhân của khổ thì bạn có thể họa theo Lão tử.

Ngô sở dĩ hữu đại hoạn dả, vị ngô hữu ngô;

Cập ngô vô ngô, hà hoạn chi hữu .

Thông thường khi nói về nguyên nhân của khổ, đa số cho là ba độc: tham, sân, si. Nhưng nguyên nhân của khổ có thể nhìn từ cạn đến sâu. Theo cạn thì nguyên nhân của khổ là ba độc hoặc mười phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Sâu hơn một chút thì ái dục được xem là nguyên nhân của khổ. Sâu hơn và tột cùng thì vô minh chính là nguyên nhân của khổ. Vô minh thường biểu lộ qua hai khía cạnh : chấp ngã và chấp pháp. Chấp ngã là tin có một cái Ta chân thật, hiện hữu tự tánh và bám víu vào nó. Chấp pháp là cho rằng tất cả sự vật thật có tự tánh, thường hằng không thay đổi. Chấp ngã và chấp pháp là hai căn bệnh vô thỉ của chúng sinh mà cũng là nguyên nhân chính của đau khổ luân hồi. Tất cả giáo lý Phật pháp đều nhằm giải trừ hai căn bệnh này. Tuy nhiên giáo lý Tiểu thừa nhấn mạnh về việc điều trị bệnh chấp ngã, còn giáo lý Đại thừa nhấn mạnh về việc điều trị bệnh chấp pháp.
:yb663: