Những chuyện

NIỆM PHẬT VÃNG SANH LƯU XÁ LỢI

từ năm 1995 -2000



Tịnh Hải

(sưu tầm)



Tri ơn ấn tống

Vào đầu

Sự tích vãng sanh của HT Quảng-Khâm với hoa sen ngàn cánh

Trái tim Xá-Lợi Bất Diệt của HT Quảng-Đức

Xá-Lợi của HT Tuyên-Hóa

Xá-Lợi của Sư Bà Đàm-Lựu

Xá-Lợi của Sa-Di Thích-Minh-Đạt

Xá-Lợi của Nữ Cư-Sĩ Diệu-Âm

Xá-Lợi của Nữ Cư-Sĩ Diệu-Hưng

Xá-Lợi của Nữ Cư Sĩ Quảng-Khánh

Xá-Lợi của Nam Cư-Sĩ Chúc-Quý

Phần kết

Thông báo









Tri Ơn Ấn Tống



Tịnh Hải
18132 S. Third St.
Fountain Valley, CA 92708
E-Mail: LuuXaLoi@Yahoo.Com

Kính gởi

The Corporate Body of The Buddha Educational Foundation
11 F Hang Chow South Road Sec-1
Taipei, Taiwan, R0C

Kính thưa quí vị,

Tôi là một cư sĩ, tuy không phải là tu sĩ, nhưng tôi đã dành suốt 12 năm còn lại của đời tôi, với mỗi ngày 12 tiếng đồng hồ để học hỏi, nghiên cứu kinh điển Phật giáo. Trong 12 năm này, tôi hầu như chấm dứt sự giao thiệp với bạn bè, hội hè, không đọc báo chí, không xem Tivi và nghe radio.

Trước tiên, tôi theo đuổi Thiền Tông, sau nghiên cứu Mật Tông và sau cùng tôi hiểu được Tịnh Độ Tông là nơi chốn mà 1000 người tu theo một cách nghiêm cẩn, 1000 người sẽ đắc sanh Cực Lạc Thế Giới.

Hai năm gần đây, mỗi ngày tôi chỉ thuần niệm Phật, trừ khi ăn cơm và nói chuyện. Tuy tôi chưa được Nhứt Tâm Bất Loạn, nhưng nhờ hiểu được: chuyên tâm niệm sáu chữ Nam-Mô A-Di-Đà Phật, tâm tôi không còn nhiều vọng tưởng mà tôi thông hiểu được các bộ kinh lớn của Đại Thừa.

Nhờ sự gia hộ của chư Phật, Bồ-Tát, Thiên-Thần Hộ-Pháp, tôi căn-cứ vào Kinh Quán Vô Lượng Thọ soạn ra pháp tu Quán Phật Trì Danh Tịnh-Độ Thiền.

Viết xong pháp tu này, tôi đưa trình cho Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm xem, và Hòa-Thượng đã hiệu đính.

Hẳn quí vị cũng biết, Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm là một Tăng-sĩ Việt-Nam du học tại Đài-Loan, đã đậu hai bằng Tiến-sĩ Phật học.

Tôi không có in pháp tu Quán Phật Trì-Danh Tịnh Độ Thiền thành sách, nhưng một trung-tâm chuyên thâu âm kinh sách Phật, mang tên Lotus Productions đã thâu băng cassette và đã phát hành trên 5000 cuốn. Hiện nay mỗi kỳ lễ Phật đều có người ấn tống để biếu Phật tử.

* * *

Kính thưa quí vị,

Hôm nay, tôi xin gởi đến quí vị bản đánh máy một quyển sách dầy trên 700 trang với trên 20 trang hình mầu, tựa đề "Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu Giải".

Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật được Hòa Thượng Thích-Thiền-Tâm dịch từ Hán văn, vào thập niên 90 và được chùa Đức Viên tại Hoa Kỳ ấn tống đầu tiên vào 1997. Nay Hòa Thượng Thiền Tâm đã viên tịch. (Xin gởi kèm bổn kinh này).

Hiện nay rất ít Phật tử Việt-Nam biết đến Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật nầy. Lần đầu tiên đọc kinh này tôi đã mừng rỡ đến rớt nước mắt và coi như là kinh gối đầu giường của tôi. Đức Bổn Sư Thích-Ca dạy pháp tu Niệm Phật thành Phật ngay trong đời, chứng đắc Niết-Bàn tại thế. Và Ngài huyền ký kinh này sẽ lưu lại 50 năm sau cùng.

Tôi thiển nghĩ, Phật tử Việt-Nam cần biết rõ kinh này để mà học tu. Vì vậy tôi đến thỉnh ý Hòa-Thượng Thích-Đức-Niệm, được Ngài khuyến-khích việc sưu giải kinh này. Trong khi sưu giải kinh, gặp 2 lần bí nghĩa, tôi đến trước bàn Phật thắp nhang cầu nguyện; nhờ sự gia hộ của Chư Phật, Bồ Tát, v.v... sau giấc ngủ tôi đạt ngộ một cách không sao giải thích được. Tôi đã viết rõ điều ấy trong sách này.

Sau khi sách viết xong, tôi mang trình cho Hòa Thượng Đức Niệm, Ngài xem xong và chứng minh. Tôi cũng đã gởi một bổn sách đến Hòa Thượng Thích-Minh-Tâm, Chủ-tịch Giáo-Hội Phật Giáo Việt-Nam Thống-Nhất tại Âu Châu, và lời giới thiệu của Hòa-Thượng Thích-Minh-Tâm được tôi đăng nguyên văn trong sách này.

Thưa quí vị,

Một người bạn của con tôi ở Đài Loan khuyên tôi nên nhờ một tu sĩ viết thơ giới thiệu cho quí vị. Tôi không muốn làm điều ấy. Ngày xưa, khi Ngài Cưu-Ma-La-Thập dịch kinh, Ngài có nguyện rằng, nếu kinh Ngài dịch không sai với chánh pháp thì khi Ngài chết đi, sau khi thiêu xin cho cái lưỡi của Ngài còn nguyên vẹn. Tôi là kẻ hậu học, không sánh với bậc Thánh Tăng. Nhưng tôi đã thầm vái với Đức Từ Phụ A-Di-Đà rằng: "Nếu sách của tôi hữu ích cho chúng sanh thời Mạt pháp" xin cho được sự tiếp sức ấn tống và phát hành rộng-rãi khắp nơi.

Kính thưa quí vị,

Với thư này, tôi chánh thức xin quí vị, nếu được sự chấp nhận cho in, thì xin in với số in tối thiểu là 50.000 cuốn. Từ lâu các chùa Việt Nam, vì quá nghèo chỉ in vài ngàn cuốn. Kinh sách in từ lâu chỉ đủ phát các Tăng Ni và một số người nhiều thiện duyên, do nhờ họ thường xuyên đến chùa. Còn đa số, Phật tử chẳng biết gì về kinh sách Phật. Tôi đã nguyện, nếu sách tôi được in, thì xin cho được in số nhiều khiến khắp Phật tử chúng sanh đều được đọc và học tu. Với con số 50.000, tuy khá lớn, nhưng vẫn không đáp ứng đúng nhu cầu của các từng lớp Phật tử. Sách in quí vị có thể chia làm nhiều đợt gởi đến cho chúng tôi, cứ 6 tháng cho một lần nếu quí vị chấp thuận. Tôi sẽ kêu gọi sự ủng hộ của Phật tử ở hải ngoại giúp cho sự phân phối khi sách quí vị gởi đến.

Và để mọi Phật tử tu theo pháp môn Niệm Phật biết sách này, tôi sẽ nhờ các trang mạng lưới điện toán toàn cầu (internet) đăng lên và nhờ Trung Tâm Lotus Productions thâu vào băng cassettes để phổ biến rộng rãi.

* * *

Và kính thưa quí vị,

Ngoài ra, tôi cũng xin trình bày thêm. Cuối quyển Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu Giải này có một phần phụ lục. Đó là những chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi. Nhờ sự gia hộ của Chư Phật, Bồ Tát, khi viết sách này tôi được biết có nhiều vị tu niệm Phật (từ năm 1995 đến năm 2000) sau khi vãng sanh, làm lễ Trà Tỳ, tìm được vô số xá lợi, và tôi thu thập đầy đủ chứng liệu cùng hình ảnh. Cũng nhờ sự gia hộ mà tôi đã áp dụng kinh để chứng thấy sự đắc quả vãng sanh Cực Lạc của quí vị ấy. Trong số 7 vị này, có Ngài Tuyên-Hóa, cùng Sư Bà Đàm-Lựu và Sa-di Thích Minh Đạt. Cư sĩ có 4 vị, trong số này có 1 nam và 1 nữ cư sĩ Việt gốc Hoa.

Trong khi chờ đợi toàn bộ sách Sưu Giải được quí vị in, thân nhân của quí vị đắc vãng sanh có nhờ tôi lo việc in riêng phần phụ lục với kinh phí do các thân nhân và Phật tử đóng góp. Tôi đang lo phần in này 10.000 ấn bản với tựa riêng là: "Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi".

Thân nhân của vị nam Phật tử người Việt gốc Hoa hiện ở Chicago cho rằng tuân đúng theo hạnh tu của quí vị được kể trong sách phụ lục, thì chắc chắn được vãng sanh, nên họ đang tìm người nhờ dịch sang Anh và Hoa văn để họ ấn tống. Bởi nghĩ đến sự hữu ích ấy, tôi xin gởi kèm theo đây, bản đánh máy quyển "Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi" để tùy quí vị suy xét. Nếu quí vị chấp thuận và cho in bao nhiêu, chúng tôi cũng chấp nhận, dù là cả trăm ngàn quyển.

* * *

Trước khi dứt lời, Phật tử Việt Nam và tôi xin nghiêng mình kính phục trước việc làm cao cả vì Phật pháp của quí tổ chức. Công đức của quí vị quả thật không thể nghĩ bàn.

Trân trọng kính chào
Tịnh Hải

Phụ chú: Nguyên văn thơ này, tôi xin mạn phép đăng trong sách Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Sưu Giải và Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi để Phật tử Việt-Nam hiểu rõ từ tâm của quí vị đã ban pháp thí cao cả đến cho họ.



Vào Đầu

Những năm gần đây bỗng có nhiều tin (có thật) về Người Tu-Niệm-Phật, sau khi chết làm lễ hỏa táng thấy có Xá-Lợi. Quả là chuyện khó tin đối với nhiều người. Tại sao?

Vì từ hồi chúng ta còn ở quê nhà, nghĩa là trước thời kỳ lưu vong 1975, chúng tôi không từng nghe nói, Phật tử tu hành sau khi lâm chung lưu lại Xá-Lợi. Trong thành phần Tăng sĩ thì có, nhưng cũng rất ít. Như trường hợp Xá-Lợi của Đại sư Ấn-Quang (Tổ thứ 13 Liên Tông), sau khi Trà-Tỳ 32 cái răng còn nguyên, Xá-Lợi ngũ sắc được vài ngàn hột. Chuyện nầy được trích trong "Đường về Cực-Lạc" tập 1 của Hòa-Thượng Thích-Trí-Tịnh. Nhưng có một điểm đặc biệt là vào thời trước, những vị tu được vãng sanh đều được Phật A-Di-Đà và Bồ-Tát báo trước ngày giờ. Như trong quyển "Đường về Cực Lạc" tập 2 dày trên 300 trang, đăng toàn những trường hợp vãng sanh biết trước ngày giờ Tây Phương Tam Thánh đến đón, với hào- quang chói sáng hương thơm ngào ngạt.

Theo Kinh Đại-Bát Niết-Bàn lúc Đức Phật nhập Niết-Bàn, sau lễ Trà Tỳ Xá-Lợi của Phật đựng đầy 8 ché vàng. Mỗi ché là một hộc và được phân chia cho 8 nước đem về xây Tháp thờ.

Kinh Đại-Bát Niết-Bàn tập 3 trang 785, Đức Phật bảo ngài A-Nan: "Nầy A-Nan! Nếu thấy Xá-Lợi của Như-Lai là thấy Phật...."

Có lẽ do lời nói trên mà nhiều người cho rằng chỉ có Phật mới có Xá-Lợi. Sự thật chẳng phải vậy. Chẳng những Đức Phật có Xá-Lợi mà bất cứ ai tu tinh-tấn đạt được sức định tốt, dứt được phiền não là dứt được nghiệp quá khứ, đều có Xá-Lợi (chúng tôi sẽ trình bày điểm nầy ở phần cuối bài). Chúng tôi khẳng định như thế vì điều nầy được nói trong tập 3 trang 772 Kinh Đại-Bát Niết-Bàn. Tuy nhiên, riêng đối với Đức Phật, dù khi Ngài chưa nhập Đại Niết-Bàn, móng tay và tóc của Phật vẫn được coi như là Xá-Lợi.

Tương truyền, lúc Đức Thế-Tôn vừa thành đạo dưới cội Bồ-Đề, có hai thương-gia người Miến tên là Đề-Lê Phú-Bà và Bạc-Lê-Ca đang trên đường đi ngang qua chỗ Đức Phật ngồi. Trong đêm, một trong hai người được một vị Trời là quyến thuộc trong kiếp trước, mách bảo rằng: "Đức Thế-Tôn vừa đắc quả Chánh Giác đang ngồi dưới cội Bồ-Đề, hai anh mau lo sắm sửa đồ cúng dường. Phước báu nầy sẽ đem lại cho hai anh sự an vui hạnh-phúc".

Sau lễ cúng dường hai thương-gia Miến qui y Phật. Đấy là hai người quy y Phật đầu tiên. Đức Phật liền cắt tóc và móng tay tặng để lưu niệm. Về sau Phật-giáo Miến-Điện xây Tháp thờ tóc và móng tay Phật coi như là Xá-Lợi Phật.

Theo Đại Đức Thích-Quảng-Chơn, tương truyền ngọc Xá-Lợi của Phật có thể biến hóa từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn, từ đục thành trong và tỏa sáng hào quang. Sự biến hóa kỳ diệu này phải do sự thành tâm lễ bái chí-thành của người có đạo tâm ... Thầy Abhinyana, một vị sư người Anh từng giúp đồng bào tỵ nạn tại Phi-Luật-Tân, khi đến thăm các chùa Phật-giáo Việt-Nam ở Hoa-Kỳ thường cúng dường một viên ngọc Xá-Lợi của Phật. Tôi tò mò hỏi Xá-Lợi ở đâu mà thầy có nhiều thế. Thầy Abhinyana nói rằng trong thời gian tu tập tại Ấn Độ thầy chuyên tâm lễ bái các Tháp Xá-Lợi của Phật và các viên Xá-Lợi đã hiện ra trong bình bát. Thầy có dặn thêm là nếu thờ Xá-Lợi mà không lễ bái thì Xá-Lợi sẽ biến mất (Trích Kỷ yếu Sư Bà Đàm-Lựu).

Trong Đặc San Từ Ân, thầy Đức Viên viết về Xá-Lợi của cố Sa-Di Thích-Minh-Đạt có nói: "Ai ngờ, theo kinh-nghiệm của đạo Phật, chỉ có những bậc Bồ-Tát, thật mới có Xá-Lợi".

Điều nầy Đại-Đức Đức-Viên nói không sai. Người tu Đại Thừa, dù Tăng-sĩ hay Cư-sĩ, như đã nói, tu tinh-tấn dứt hết phiền não là dứt được nghiệp quá khứ, có Xá-Lợi sau khi lâm chung.

Tại sao chúng tôi dám cả quyết Tăng-sĩ lẫn Cư-sĩ tu tinh-tấn và chí thành Niệm Phật sau khi lâm chung có Xá-Lợi!

Bởi trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật (H.T. Thích-Thiền-Tâm dịch, chùa Đức-Viên San José ấn tống) Đức Phật dạy:

Phẩm Thứ Nhứt:

Đức Phật nói: "Không có pháp nào hơn pháp Niệm Phật (trang 17). Đây là môn tu Đại Bát Nhã, Đại Thiền Định ... giúp chúng sanh mau chóng vượt qua địa vị phàm phu và tự chứng Pháp Thân từng phần (trang 19)."

Theo Kinh Đại Bát Niết-Bàn phải tu đến bực Thập Trụ Bồ-Tát mới thấy Pháp Thân. Ở đây Đức Phật nói, tự chứng Pháp Thân từng phần, tức tự chứng Bồ-Tát bực thấp. Phẩm Thứ Hai Phật nói rõ hơn.

Phẩm Thứ Hai:

Đức Phật nói: "Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, thì năng lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho Tâm thể thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng Sơ-Phần Pháp-Thân (trang 29)."

Chứng Sơ-Phần Pháp-Thân là chứng được quả Sơ-địa Bồ-Tát tức bực Hoan-Hỷ-Địa Bồ-Tát. Với Người Tu Niệm Phật do chí thành xưng niệm danh hiệu Phật, tự nhiên chứng quả mà không hề hay biết. Đây là điều đáng lưu ý. Đây là chúng tôi dẫn chứng lời Đức Phật nói trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật để chứng minh cho bài viết của Đại Đức Thích-Đức-Viên đăng trong Đặc San Từ Ân nói về Xá-Lợi của cố Sa-Di Thích-Minh-Đạt.

Bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết ở Dallas tu xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, bà tu chí thành và ráo riết, buông bỏ mọi tình cảm thế gian trong thời gian 1 năm, khi lâm chung có hào quang Phật và Thánh Chúng đến tiếp dẫn, có hương thơm bay tỏa khắp nơi, sau khi làm lễ Trà Tỳ lưu lại nhiều Xá-Lợi, được Pháp sư Tịnh Không (người Trung Hoa) gọi bà Huỳnh-Ngọc-Tuyết là Bồ-Tát.

Bồ-Tát có hai hạng: một là Bồ-Tát Sơ-phát-tâm, người mới tu Bồ-Tát đạo; hai là Bồ-Tát hành đạo. Hành giả bắt đầu tu xưng niệm danh hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật, được Phật và Đại Bồ-Tát gọi là Bồ-Tát Sơ-phát-tâm.

Phẩm Thứ Tư:

Phổ-Hiền Đại Bồ-Tát nói: "Danh hiệu Phật như chiếc xe khổng lồ, vì có thể chuyển vận hết thảy Bồ-Tát Sơ-phát-tâm nhanh chóng tới Phật địa (trang 69). Danh hiệu Phật như hóa thân bất tư nghị, vì luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và tâm người xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật (trang 71)."

Bồ-Tát Sơ-phát-tâm, tuy mới bắt đầu vào Bồ-Tát đạo, nhưng đối với hành-giả tu xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật thì con đường không quá gian nan, vì danh-hiệu Phật có nhiều uy lực, thần lực, nhiều diệu dụng trợ giúp Bồ-Tát Sơ-phát-tâm; vì danh-hiệu Phật là cỗ xe khổng lồ có thể chở tất cả Bồ-Tát Sơ-phát-tâm đến cõi Cực-Lạc. Nếu hành giả chí thành và chuyên tâm xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật trong một thời gian ngắn, từ Bồ-Tát Sơ-phát-tâm sẽ trở thành Bồ-tát hành đạo không khó khăn; vì hóa thân Phật A-Di-Đà luôn luôn hiện nơi thân và tâm của người niệm Phật.

Nếu khi xưng niệm danh-hiệu Phật, hành giả luôn luôn tin tưởng hóa thân Phật A-Di-Đà đang ở trong thân và tâm mình, thì hiệu quả không thể nghĩ bàn.

Phẩm Thứ Năm:

Quán Thế Âm Đại Bồ-Tát nói: " Các pháp ở thế gian đều như huyễn. Tiếp tục xưng niệm danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật mà không phóng tâm theo huyễn cảnh, huyễn sự ... đó là danh-hiệu Phật đang tuôn chảy liên miên bất tận thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc ... tròn đầy chiếu suốt mười phương (trang 89). Nhờ cần mẫn xưng niệm Phật hiệu mà hành giả hiện bày Tự Tâm Quang Minh Hiện Lượng, chuyển phiền não dữ dội thành Bồ-Đề Thật Tướng, đưa hành giả thẳng vào cảnh giới Thánh Trí Tự Chứng ... niệm niệm tương ứng với Đại Địa Bồ-Tát (trang 90)."

Như nơi Phẩm Thứ Nhứt, Đức Phật nói tu niệm Phật là tu Đại Bát-Nhã, Đại Thiền-Định nên phải biết các pháp thế gian đều là huyễn, tất cả đều không thật. Khi niệm Phật, các sự việc, các cảnh xảy ra trước mắt đều đừng phóng tâm theo nó, tự nhiên biết đó là huyễn sự, huyễn cảnh, thì danh hiệu Phật trở thành một dòng tâm tuôn chảy liên miên bất tận trong thân tâm hành giả; lâu ngày trở thành một khối lưu ly sáng rực, vằng vặc. Từ đó hành giả đã có hào quang mà tự mình chưa thấy; những phiền não dữ dội của hành giả đã biến thành Bồ-Đề Thật Tướng (Bồ-Đề là giác, Thật Tướng của giác là Pháp Thân) đưa hành giả vào cảnh giới Tự Chứng của bực Thánh, tương ứng với Đại Địa Bồ-Tát tức Pháp-Vân-Địa Bồ-Tát thuộc bực thứ mười: Thập Trụ Bồ-Tát.

Trong Kinh Đại Bát Niết-Bàn (tập 3 trang 763) Tu-Bạt-Đà-La hỏi Đức Phật:

- Bạch Thế-Tôn! Thế nào là Thật Tướng?

Đức Phật trả lời:

- Nầy Thiện-Nam-Tử! Tướng vô tướng gọi là Thật Tướng!

Pháp Thân không có hình tướng, nên trong Chứng Đạo Ca, Huyền-Giác Đại sư nói: "Thân không huyễn hóa tức Pháp Thân". Đó là cái thân "tướng vô tướng". Đó là Bồ-Đề Thật Tướng vậy!

Tất cả chúng sanh đều có hào quang, nhưng bị Vô-Minh phiền não che mờ, bực giác ngộ hết phiền não hào quang hiện bày.

Khoa-học ngày nay đã chế được máy chụp hình hào quang. Cư-sĩ Minh-Giác Nguyễn-Học-Tài, khi còn sanh tiền, tu niệm Phật mười năm được người con rể dùng máy chụp hình hào quang 6000 do hãng The Progen chế tạo, thấy có hào quang trên đỉnh đầu.

Phẩm Thứ Sáu:

Đại Bồ-Tát Quán-Thế-Âm nói: "Bất cứ chúng sanh nào thậm thâm tin hiểu và hoan-hỷ thọ trì danh-hiệu Nam-Mô A-Di-Đà Phật hoặc một ngày, hoặc bảy ngày, hoặc nhiều lần của bảy ngày, thì sẽ đắc mười pháp quyết định bất khả tư nghị (trang 111)."

Trong mười pháp quyết định có pháp thứ chín, nói: "Quyết định hòa hợp thân và tâm vào Kim Thân của chư Phật" (trang 112). Kim Thân tức là thân màu sắc vàng ròng của chư Phật. Khi niệm Phật hòa hợp thân và tâm vào Kim Thân Phật là hành giả đắc Pháp-Vân-Địa Bồ-Tát, tức niệm niệm tương ứng với Đại Địa Bồ-Tát mà Phẩm Thứ Năm đã nói.

Đến đây hành giả được đầy đủ Bát Nhã và Thiền-định, chắc-chắn được đầy đủ Xá-Lợi. Nếu hành giả hành trì thêm Thần chú tức đắc thêm pháp Tổng Trì Đà-La-Ni thì thật hoàn hảo. (Sư bà Đàm-Lựu vừa trì chú vừa niệm Phật nên Sư Bà đắc được Pháp Thân).

A-La Hán Cũng Có Xá Lợi

Bực Thánh đều có Xá-Lợi. A-La-Hán cũng là bực Thánh, nên A-La-Hán cũng có Xá-Lợi như Bồ-Tát và Phật.

Kinh Đại Bát Niết-Bàn (tập 3 từ trang 753) Đức Phật kể chuyện ông Tu-Bạt-Đà-La, một Phạm Chí, (tức Bà-La-Môn xuất gia), năm 120 tuổi tu tới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng định. Vị nầy tu tới đây, kẹt lại đây, mà tưởng mình đã được Nhứt Thiết Chủng Trí, và tưởng sẽ đắc quả Niết-Bàn.

Lúc đó vào ban ngày, chỉ còn chờ tới nửa đêm là Đức Phật nhập Đại Niết-Bàn. Do duyên quá khứ, Đức Phật muốn độ Ông Tu-Bạt-Đà-La là người cuối cùng trước khi vào Đại Niết-Bàn nên sai A-Nan kêu Tu-Bạt-Đà-La đến.

Nghe Đức Phật nói pháp thậm thâm vi diệu, Tu-Bạt-Đà-La được pháp nhãn thanh tịnh bỏ tà kiến xin xuất gia. Đức Phật chấp nhận. Tu-Bạt-Đà-La vui mừng hớn hở, râu tóc tự rụng, thành tướng Sa-Môn, dứt hết phiền não được quả A-La-Hán.

Ngài Tu-Bạt-Đà-La dứt hết phiền não được quả A-La-Hán. Đây là Kinh Đại-Bát Niết-Bàn. Trong Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật Ngài Quán Thế Âm nói: "Chuyển phiền não dữ dội thành Bồ-Đề Thật Tướng" được Pháp Thân.

Phiền não quan trọng như vậy đó. Xin quí vị lưu ý chữ phiền não, chúng tôi sẽ trở lại ở đoạn sau.

Sau khi được quả A-La-Hán, Tu-Bạt-Đà-La xin Đức Phật nán lại đừng nhập Niết-Bàn. Đức Phật nín lặng chẳng hứa. Tu-Bạt-Đà-La bèn khóc thảm thiết và xin Phật cho được chết trước. Bạch xong Tu-Bạt-Đà-La liền ở trước Phật mà nhập Niết-Bàn.

Đức Phật bảo đại chúng: "Tu-Bạt-Đà-La đây đã từng cúng dường hằng hà sa chư Phật, đã trồng sâu căn lành, do sức đại-nguyện ... Đại chúng phải nên cúng dường thi hài của ông ấy và xây lập tháp miếu".

Đại chúng y lời Phật dạy, dùng gỗ thơm Trà Tỳ thi hài của Tu-Bạt-Đà-La. Trà Tỳ xong, đại chúng tìm thấy Xá-Lợi, dựng tháp cúng dường.

Tu-Bạt-Đà-La đã từng cúng dường hằng hà sa chư Phật, đó là nguyên nhân trước khi nhập Đại Niết-Bàn, Đức Phật ráng độ cho Tu-Bạt-Đà-La được quả A-La-Hán.

Dưới đây là chuyện những vị tu Niệm Phật, tại Hoa-Kỳ và Canada, sau khi lâm chung làm lễ hỏa táng, lưu lại Xá-Lợi trong thập niên 1990 đến năm 2000. Trong hàng Tăng-sĩ có Hòa-Thượng Tuyên-Hóa, Sa-Di Thích-Minh-Đạt và Sư Bà Đàm-Lựu. Cư sĩ có bà Diệu-Âm Huỳnh-Ngọc-Tuyết, bà Diệu-Hưng Nguyễn-Thị-Tân, cụ bà Quảng-Khánh Huỳnh-Thị-Dền và ông Chúc-Quý Lư-Nhiên-Phú.

Nhưng với người Việt-Nam-Tu-Phật, nói đến Xá-Lợi không ai có thể không nhắc đến viên Xá-Lợi độc đáo nhứt trong đạo Phật. Đó là Trái Tim Xá-Lợi Bất Diệt của Bồ-Tát Thích-Quảng-Đức.

Do vậy, chúng tôi xin cống-hiến cho quí vị về viên Xá-Lợi Đặc Biệt của Bồ-Tát Quảng-Đức, đó là Trái Tim Bất Diệt với tài liệu đặc biệt chưa từng công bố. Đây là chứng minh sự đắc quả của một bực chân tu