Trang 1 trong 13 123456711 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 259

Ðề tài: 5 BÀ NGŨ HÀNH

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định 5 BÀ NGŨ HÀNH







    NA-MÔ NGŨ-HÀNH THÁNH-MẪU NƯƠNG-NƯƠNG


    ( Mỗi khi có việc cần gặp, thì tôi chỉ việc Niệm Danh Hiệu này đôi 3 câu; thì Phần Xác có Linh Điển 5 Bà Ngũ Hành sẽ đến gặp tôi ngay ! )

    Last edited by phoquang; 30-11-2015 at 05:55 AM.

  2. #2
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định



    Các bạn thấy rằng ẩn phía sau 5 Bà Ngũ Hành luôn là thấp thoáng của Hình bóng Đức Diêu Trì Địa Mẫu - Diêu Trì Thánh Mẫu. Vâng đúng vậy đó ! Tôi có Người bạn có Linh Điển 5 Bà Ngũ Hành, mỗi khi ai cần cầu xin giúp đỡ cho việc gì đó, thì Cầu Điển của 5 Bà Về ( Mà nói thiệt nha 5 BÀ, mỗi BÀ trụ điển ở một nơi đồng không mông quạnh cô tịch lắm ! Mỗi Miếu ở trong sâu hút có 1 Nguồn Điển của 1 BÀ ngự trị ). Tôi có dự các buổi lễ Cầu Điển này, tôi thấy mỗi lần Các Bà về đều Khấn Nguyện và Xin Lệnh của bề trên cả: Đó chính là LỆNH của Đức Tây Cung Vương Mẫu; chính là Đức VÔ CỰC DIÊU TRÌ KIM MẪU ĐẠI THIÊN TÔN - DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC TỪ TÔN ( Mặc dù, Bà KIM trong 5 Bà Ngũ Hành ban về Tài Lộc; Nhưng Bà cũng chẳng dám cho Tài Lộc nữa.....Khi xuống Điển, tôi thấy Bà KIM đều Cầu Xin Lệnh của Đức Diêu Trì Kim Mẫu, và mọi việc đều thĩnh lệnh theo ý chỉ của Đức Tây Cung Vương Mẫu cả, làm việc đều theo Lệnh Tây Cung Vương Mẫu cả, cũng chẳng dám tác ý tự cho riêng; và chỉ báo tin mọi việc sẽ xãy ra khi nào, và khi nào có TÀI LỘC thôi ah!..........Làm việc đều theo Lệnh Tây Cung Vương Mẫu không ah ! )




    *P/S:
    Mỗi lần Các Vị này về, thường gọi nhau là: Đại Tỷ, Nhị Tỷ, Tam Tỷ......và không bao giờ xưng danh mạo nhận hay tỏ ra là gì cả.....chỉ nói tên ta là ai thôi.....và Phần Xác khi có Điển về luôn hướng vào bàn thờ, không có xoay ra ngoài trước ( ngồi, mặt đối tượng BÀ, mắt nhắm, và tay kiết Ấn, tùy theo mỗi Vị về đôi khi là: Ấn Phật Đảnh Tôn Thắng, Ấn Đại Bi Liên Hoa Bộ......)

    Last edited by phoquang; 30-11-2015 at 09:03 AM.

  3. #3
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    SỰ TÍCH NĂM BÀ

    ( Nguồn: http://thienduyen1956.blogspot.com/2...ch-nam-ba.html )




    Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ
    Phần hương chí kính chí thành
    Tấu văn cung thỉnh ngũ hành tiên nương
    Từ xưa ở cõi thượng thiên
    Năm bà tiên nữ giáng miền trần gian
    Đức Đệ Nhất Kim Tinh thần nữ
    Giáng cõi trần gìn giữ báu châu
    Bạc vàng chì kẽm đồng thau
    Tiên bà chỉ vẽ đuôi đầu cho dân
    Đức Đệ Nhị Mộc Tinh thần nữ
    Giáng cõi trần gìn giữ xanh hoa
    Bốn mùa qua lại lại qua
    Trăm cây đua nở trái hoa dân dùng
    Cây gì dùng lá dùng bông
    Cây gì ăn trái ra công vẽ bày
    Đức Đệ Tam Thủy Tinh thần nữ
    Giáng cõi trần gìn giữ non sông
    Tiên bà công quá dày công
    Vẽ cho dân biết nước đục trong mà dùng
    Đức Đệ Tứ Hỏa phong thần nữ
    Giáng cõi trần gìn giữ công ly
    Tiên bà dùng phép lạ kỳ
    Lấy tre cưa lại tức thì lửa ra
    Vẽ dân đem lửa về nhà
    Lấy cây làm củi để mà nấu ăn
    Đức Đệ Ngũ Thổ đức tiên nương
    Khâm sai giáng hạ kiếm đường vẽ dân
    Gian nan khăn khó không cần
    Làm nồi làm trách cho dân về dùng
    Nồi xong bà lại làm vung
    Lưu truyền vạn cổ mà dùng ngày nay
    Tứ dân cảm đức cao dày
    Đời đời hương khói bốn mùa cúng dâng
    Lệnh triều thánh đế hàn ân
    Sắc phong ngũ vị binh thần đền ơn
    Một bầu nước trí non nhơn
    Tháng ngày dưới Thủy tiên sơn chơi bời
    Khi vui dạo khắp mọi nơi
    Khi lên trung giới khi lên thiên đình
    Năm bà hiển hách anh linh
    Bốn phương đều cũng phục đình kim chương
    Lễ thường đến biết đoạn trường
    Năm bà dạo khắp năm phương dưới trời
    Nhìn xem phong cảnh nơi nơi
    Kiếm trời thang dược cứu người trần gian
    Nhiệm màu phép thánh ai đang
    Giúp dân hồng lạc an lành dưới trên
    Dốc lòng thành kính nào quên
    Đến ngày Đoan Ngọ đáp đền chẳng sai
    Cúi nhớ thượng cổ cao dày
    Chứng lòng thành kính giáng nơi điện này
    Bảo hộ đệ tử gái trai
    Được nhờ đức cả đời đời khang ninh./-


    Sưu tầm : THIỆN DUYÊN.
    Last edited by phoquang; 30-11-2015 at 06:31 AM.

  4. #4
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    *Hôm nay, Lần đầu tiên mình sẽ tiết lộ Danh Tính của 5 BÀ NGŨ HÀNH ( Việc này do Phần Xác Bạn Mình có Linh Điển 5 Bà Ngũ Hành tiết lộ cho mình ). Nay vì để hiểu rõ hơn, mình sẽ nói Danh Tính từng Bà:



    1. Bà KIM ( mặc Áo Trắng ): KIM Y THÁNH MẪU.

    2. Bà MỘC ( mặc Áo Xanh ): MỘC HOA CUNG CHỦ / LIÊN HOA CUNG CHỦ.

    3. Bà THỦY ( mặc Áo Đen / Áo Tím ): LỤC CUNG THỦY KIỀU THÁNH MẪU.

    4. Bà HỎA ( mặc Áo Đỏ ): HỎA VÂN THÁNH MẪU.

    5. Bà THỔ ( mặc Áo Vàng ): QUẢNG TRẠCH TÔN NƯƠNG / HẬU THỔ NƯƠNG NƯƠNG.



    Last edited by phoquang; 30-11-2015 at 08:05 AM.

  5. #5
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    *Ngày Vía 5 Bà Ngũ Hành:



    1) Theo Link: http://dongnai.vncgarden.com/dhia-ch...g-xa-hoi/1-4-2

    Ngày mùng 5 / 5 âm lịch ( Tết Đoan Ngọ ): Chánh Vía Ngũ Hành Nương Nương


    2) Theo Link: http://www.vanchuongviet.org/index.p...etail&id=15297

    Ngày mùng 8 / 5 âm lịch: Vía Ngũ Mẫu - Ngũ Thiên ( Ngũ mẫu tức năm Bà: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ (Ngũ hành). Quan niệm của các nghệ nhân múa Bóng cho rằng Ngũ Mẫu rất quan trọng. Mẫu lấy đất nặn Phật, đất để cây cối sinh sôi, con người sống trên đất, thác về nằm ngủ yên trong lòng đất của mẹ )


    3) Theo Link: http://www.trietvan.com/phamviethung/tucthonguhanh.htm

    Ngày 19 / 3 âm lịch: Vía Ngũ Hành Nương Nương




    Last edited by phoquang; 30-11-2015 at 12:45 PM.

  6. #6
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    *Có 1 điều xin chia sẻ, kinh nghiệm thông qua những người chung quanh mình ( tôi nói trước, tôi không phải là kẻ nghiện nhak ! vì có 1 bằng chứng sống làm tôi sợ....! ):


    .Ông Địa ( Thổ Địa ): thường cho trúng có 2 con thôi ( 2 số ).

    .5 Bà Ngũ Hành: thường cho trúng Xiểu Chủ ( 3 con ); nhưng mà họ dị đoan không ah ! Chứ BÀ không cho trực tiếp..... Nhất là mỗi khi đi CÚNG BÀ về, Bạn tôi Phần Xác có Linh Điển 5 Bà Ngũ Hành về là dị đoan đánh số: 759; Riết biệt danh gọi là CẬU 759 luôn đó ( Mỗi lần trúng như vậy là mấy chục chai - mấy chục triệu không ah !; cứ canh là cứ đánh không ah! Vì BÀ cho trúng còn có tiền dâng lễ cúng BÀ và cúng 8, 18, 28 nữa.....Đó là quy luật qua lại mà ! )




  7. #7

    Mặc định

    A di đà Phật! Cảm ôn chia sẻ của đạo hữu phổ Quang. Trong môn phái của mình cũng có thờ mẹ Diêu trì kim mẫu, năm mẹ ngũ hành, quan tướng quan trạng. Thường thì chúng tôi giao tiếp với các vị bề trên thông qua tâm qua thiền định, qua khấn nguyện, thường thì các bà không về xác trừ trường hợp hiếm hoi người đó có linh căn nhiều đời nhieu kiếp tu tập tốt tâm rất từ bi cứu giúp chúng sanh thì có mẹ diêu trì kim mẫu về xác, còn 5 bà thì mình chưa thấy lần nào về xác, còn quan tướng thì thỉnh thoảng, quan trạng thì nhiều hơn.
    Nhưng điều đặc biệt là không có 1 vị nào mà về cho số đề mà toàn về vì phật sự cứu độ chúng sanh. Trong việc độ sanh có gì đó không giải quyết được thì quan trạng mới về còn không thì chỉ giao tiếp qua tâm. Nhưng không có trường hợp nào về cho số đề cả. Cho số đề thường là các chư vị vong linh âm binh họ cho. Mình nghe kể lại khi mới thành lập chùa ngôi chùa còn nghèo quá chỉ là mái lá tường đất mùa mưu là dột nát bá gia bá tánh đến xin số hay cầu khấn điều gì đó thì được linh ứng họ mới phát tâm cúng dường thành ngôi chùa cấp 4 đơn sơ thấp bé bé và nhỏ xíu. Sau đó thì bề trên không cho trúng số nữa vì đã có một chổ che mưa che nắng rồi, lúc này bề trên tập trung việc cứu độ chúng sanh dẫn dắt chúng sanh vào con đường tu tập thoát khổ an vui. Nên hôm nay nghe nói 5 bà về cho số thì mình ngạc nhiên quá vì bề trên không bao giờ làm chuyện này mà có làm thì chỉ là vong linh xung quanh miếu thờ hoặc các chư vị binh của các bà làm mà thôi. Và be tren chỉ cho đủ nhu cầu tối thiểu thôi chứ không có cho thường xuyên và mỗi lần mấy chục triệu như vậy.
    Nếu vậy bề trên khác nào dẫn dắt chúng sanh vào con đường mê tín, không lo làm ăn mà lo đánh đề, không lo tu tập mà lo đánh đề. Thường mình tu tốt thì bề trên xoay chuyển nhân duyên các phật tử tới cầu nguyện chuyện gì đó như không có con, chuyện làm ăn, chuyện tình duyên được linh ứng sẽ phát tâm cúng dường, chứ không phải cho trùng đề để có tiền dnag6 cúng bà vì các bà là tiên là thánh rồi đâu có cần những thứ trần tục hình tướng của trần gian mà chỉ có những vong linh chưa tu tập họ cần những thứ hình tướng đó. Nói tóm lại bề trên chỉ cứu độ chúng sanh chứ ko có dẫn dat chúng sanh đi vào con đường mê tín.
    Lên hệ trao đổi phật pháp qua nick sky: hieubuikhuong hoặc facebook https://www.facebook.com/profile.php?id=100009987160842

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phapchieumt Xem Bài Gởi
    A di đà Phật! Cảm ôn chia sẻ của đạo hữu phổ Quang. Trong môn phái của mình cũng có thờ mẹ Diêu trì kim mẫu, năm mẹ ngũ hành, quan tướng quan trạng. Thường thì chúng tôi giao tiếp với các vị bề trên thông qua tâm qua thiền định, qua khấn nguyện, thường thì các bà không về xác trừ trường hợp hiếm hoi người đó có linh căn nhiều đời nhieu kiếp tu tập tốt tâm rất từ bi cứu giúp chúng sanh thì có mẹ diêu trì kim mẫu về xác, còn 5 bà thì mình chưa thấy lần nào về xác, còn quan tướng thì thỉnh thoảng, quan trạng thì nhiều hơn.
    Nhưng điều đặc biệt là không có 1 vị nào mà về cho số đề mà toàn về vì phật sự cứu độ chúng sanh. Trong việc độ sanh có gì đó không giải quyết được thì quan trạng mới về còn không thì chỉ giao tiếp qua tâm. Nhưng không có trường hợp nào về cho số đề cả. Cho số đề thường là các chư vị vong linh âm binh họ cho. Mình nghe kể lại khi mới thành lập chùa ngôi chùa còn nghèo quá chỉ là mái lá tường đất mùa mưu là dột nát bá gia bá tánh đến xin số hay cầu khấn điều gì đó thì được linh ứng họ mới phát tâm cúng dường thành ngôi chùa cấp 4 đơn sơ thấp bé bé và nhỏ xíu. Sau đó thì bề trên không cho trúng số nữa vì đã có một chổ che mưa che nắng rồi, lúc này bề trên tập trung việc cứu độ chúng sanh dẫn dắt chúng sanh vào con đường tu tập thoát khổ an vui. Nên hôm nay nghe nói 5 bà về cho số thì mình ngạc nhiên quá vì bề trên không bao giờ làm chuyện này mà có làm thì chỉ là vong linh xung quanh miếu thờ hoặc các chư vị binh của các bà làm mà thôi. Và be tren chỉ cho đủ nhu cầu tối thiểu thôi chứ không có cho thường xuyên và mỗi lần mấy chục triệu như vậy.
    Nếu vậy bề trên khác nào dẫn dắt chúng sanh vào con đường mê tín, không lo làm ăn mà lo đánh đề, không lo tu tập mà lo đánh đề. Thường mình tu tốt thì bề trên xoay chuyển nhân duyên các phật tử tới cầu nguyện chuyện gì đó như không có con, chuyện làm ăn, chuyện tình duyên được linh ứng sẽ phát tâm cúng dường, chứ không phải cho trùng đề để có tiền dnag6 cúng bà vì các bà là tiên là thánh rồi đâu có cần những thứ trần tục hình tướng của trần gian mà chỉ có những vong linh chưa tu tập họ cần những thứ hình tướng đó. Nói tóm lại bề trên chỉ cứu độ chúng sanh chứ ko có dẫn dat chúng sanh đi vào con đường mê tín.
    cảm ơn bạn Pháp Chiếu đã chia sẽ. XIn cho mình hỏi sự khác nhau giữa quan trạng và quan tướng được không? Mình biết quan trạng là như thế nào nhưng quan tướng thì dây là lần đầu mình nghe nói. Có phải quan tướng là cấp cao hơn so với quan trạng? Xin bạn chỉ bày cho mình được rõ. Xin cảm ơn

  9. #9
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định


    Uh! Mình có đọc trang nhà của bạn !



    Cảm ơn những chia sẻ của bạn
    Kính chúc bạn và gia quyên luôn an lạc
    NAMO AMITUOFO
    Phổ Quảng
    thân




    *P/S:


    .Vậy là bạn đọc ko kỹ lời mình rồi! 5 BÀ có trực tiếp cho họ số bao giờ đâu ??? ( BÀ ko hề cho 1 con số nào cả ); Họ tự dị đoan và mà đánh đó thôi; nhưng được CÁC BÀ thương tình phò hộ độ trì, theo mình nghĩ là BINH GIA của CÁC BÀ giúp cho thì phải ??? Bỡi vì họ có thể can dự vào 1 số việc trần gian, mà BINH GIA do BÀ quản lý theo như trang nhà của Huynh Atoanmt là những người tử nạn......nên họ có thể làm nhiều điều mà ta ko thể ngờ.....Một Người Bạn khác của mình kể Vong Linh thường hay giựt số, giành số trước giờ sổ; và chúng thường về kể với bạn của mình là chúng thường giành ko lại và đôi khi bị đánh nữa......Ngay từ đầu, mình nói CÁC BÀ làm việc theo lệnh của TÂY CUNG VƯƠNG MẪU rồi, há biết luật mà còn Phạm Luật Sao ???

    .Còn Ông Địa ( Thổ Địa ) cho số là vầy nè: Mình có Người Dì Bạn Đạo Người Hoa, Dì ấy có con: ban đêm, thì con gì ấy hay thắp hương nến dâng hương đăng trà quả trước bàn thờ Thổ Địa - Thần Tài trong nhà và lấy Ống Xâm ra lắc xin số, và sáng mai đi đánh. Có lần mình trì An Thổ Địa Chơn Ngôn và mua vế số, thế là chiều mình trúng số được 200k........Nhưng hãy luôn luôn nhớ lấy câu, mà Ông Địa ( Thổ Địa ) báo mộng cho Vị Nữ kia: " TÀI theo NHÂN QUẢ mà hưởng "; tôi luôn luôn nhớ lấy nằm lòng câu này ! Còn về chuyện ÔNG THẦN TÀI nhập xác và cho số, xin hãy đọc chuyện TÔI GẶP THẦN TÀI của Huynh Atoanmt.

    .Mình chẳng tin việc Các Vị Thánh Thần nhập vào xác Người Phàm cả ! Nhưng hiển nhiên nó có vậy đó, không thừa nhận và cũng chẳng bát bỏ; như Ngày và Đêm, mọi việc cứ tự nhiên diễn ra ấy thôi. Còn việc Vong nhập vào Người là có thật......Do nhiều nguyên nhân mà khó nói hết lời.

    .Xin nói Lời thành thực với tất cả mọi Người là đã tu theo Phật, thì đừng để cho ai mà nhập vào xác của mình cả, hãy tự làm chủ lấy mình, tự tu tự tiến.......Tui có Căn Điển bên Tiên nek! Nhiều khi Điển muốn tá về tui để khôi phục Nguyên Căn; Nhưng tui tu theo Phật, tui quyết ko cho Điển hay ai tá nhập vào tui cả......Vì thế, tui vẫn muốn mình là 1 Người bình thường như bao Người khác, học Phật tu nhân đúng theo Lời Đức Phật thôi !

    Last edited by phoquang; 01-12-2015 at 09:45 AM.

  10. #10
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định


    *Sẵn đây, mình cũng xin chia sẻ vài điều về Các nơi có thể Cầu Khấn với Đức Bồ Tát Quán Thế Âm Lộ Thiên - Đức Bồ Tát Quán Thế Âm Đứng Ngoài Trời ( Mình chỉ tầm nơi của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm mà thôi; còn bạn mình tầm Điển 5 BÀ nên mới có Linh Điển 5 BÀ nhập Xác như đề cập ở trên ):


    .Nếu ai muốn Cầu xin việc gì đó cho sớm thành tựu, hay khổ quá; thì xin hãy lên QUÁN ÂM ở Chùa Phổ Quang, Q. Tân Bình mà Khấn Nguyện, và Cầu Xin nhé !


    .Nếu muốn Cầu xin có Tiền trả nợ và làm vốn, để cuộc sống đỡ vất vả, mà hành thiện bố thí tu tập; thì xin hãy đến QUÁN ÂM ở Chùa Kim Liên Q.4 mà Khấn Nguyện, và Cầu Xin nhé !


    .Nếu ai muốn Cầu xin cho hết các bệnh tật về Mắt; thì xin hãy đến QUÁN ÂM ở Chùa BỬU ĐÀ Q.10 mà Khấn Nguyện, và Cầu Xin nhé !




    *P/S: Xin nói lời thành thật, mình đã nhiều lần có xin TIỀN với Đức QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, Ngài có trả lời rằng: " Ngươi đừng có xin TA, mà hãy xin SA ĐẠI TƯỚNG đó ! " ; Sau này, mình mới biết VỊ SA ĐẠI TƯỚNG mà Ngài nói đây, chính là 1 hóa thân khác của Ngài, đã cứu giúp Tam Tạng Pháp Sư Trần Huyền Trang ở giữa sa mạc khi mà đi thỉnh Kinh vậy ( Đối với những ai biết Đạo rồi, thì Ngài hay ban cho sự Từ Bi & Trí Tuệ hầu như ai cũng đạt được điều này thì phải ???; còn xin TIỀN thì đừng có mơ giữa ban Ngày, bạn mình nói Quan Âm về không có cho Tiền ( Nhiệm vụ của Ngài là Cứu Khổ Cứu Nạn mà thôi. Còn những ai chưa biết gì về Đạo, thì Ngài hay huyền hóa như: cho trúng số có tiền trả nợ, và tu học như nhiều vị Cầu Khấn Quán Âm ở Chùa KIM LIÊN Q4 mà đạt vậy, nói chi xa lạ Người đó chính là Mẹ mình; như việc Người kia và trụ trì Chùa Nghèo ở Quê mình cùng Cầu Khấn Ngài trúng liền 1 lúc bao nhiêu tờ Vé Số vậy đó ! Nhưng do Lòng tham mà Người ấy không thực hiện y lời với trụ trì Chùa Nghèo ở Quê mình.....Thật sự, Ngài ko có cho TIỀN đâu, mà mọi việc đều do Hộ Pháp của Ngài cả thôi.....Tục lệ hằng năm, Ngày 26 tháng giêng ( 1 ) âm lịch; Quán Âm mở Kho; cái này là theo Tín Ngưỡng Dân Gian theo Link: http://bandantoc.hochiminhcity.gov.v...ntent/id/38135..... Nếu ai khổ quá, thì hãy bền trí trì tụng BẠCH Y LINH CẢM CHƠN NGÔN, và tu thiện bố thí......thì sẽ tiêu Nghiệp, và Thượng Đế sẽ rót Phước xuống cho. Đó là Lời Ngài dạy rất hay, mà mình quên mất lời hay của Ngài rồi, mình chỉ nhớ đại khái thế thôi ! )



    Last edited by phoquang; 01-12-2015 at 03:06 PM.

  11. #11
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định





    Theo bước thăng trầm của cuộc sống và sự thay đổi của xã hội, đòi hỏi công việc, trình độ năng lực cũng phải đáp ứng theo, tôi được chuyển công tác sang đơn vị mới tiếp nhận chức vụ cao hơn, cũng từ đây thời gian dành cho công việc cũng nhiều hơn và đi chùa trì niệm kinh cũng ít đi, cho tới một lúc tôi như chợt tỉnh cơn mê, nếu như vợ tôi không nhắc nhở chắc có lẽ thuận cảnh làm tôi thay đổi và trượt dốc.

    Vào năm 1994, tôi được phân công chuyển về công ty mới, một buổi trưa như thường lệ sau khi ăn cơm xong, thay vì tôi sẽ ngồi tám với bạn bè, thì hôm nay tôi lang thang đi dạo phía sau công ty gần bờ sông, nơi mát mẻ mà thường ngày công nhân hay nghỉ trưa ở đó, bởi vì ở đó có một cây đa rất to, tàng cây rộng che phủ cả một khoảng không gian, và công nhân hôm nay cũng không có đi làm vì hết nguyên liệu sản xuất.

    Tôi rảo bước theo đường mòn nhiều cỏ lau sậy mọc um tùm, ra đến nơi, tôi mới phát hiện có một ngôi miếu cũ, khoảng chừng 06 mét vuông, tường gạch và ngói đã hư hỏng nhiều rêu bám chặt, tôi bước đến dùng những cành cây làm chổi quét dọn xung quanh, tôi phát hiện ra đây là miếu của Năm Bà hay thường gọi là miếu 5 Bà Ngũ Hành, được xây dựng từ năm 1959 được ghi trên cửa trước, trên bàn thờ chỉ có một bát nhang và hai chân đèn bằng cây do cặm đèn cầy đốt bị cháy xém, không có tượng thờ chỉ có dòng chữ được đắp phù điêu tên Năm Vị.

    Tôi tìm quanh xem có nhang không, thật là buồn chẳng có một cây, tôi đứng trước điện và khấn nguyện “Con tên là… được chuyển về đây gần một tháng, nhưng con không biết nơi đây thờ Chư Vị, hôm nay con thành tâm lễ bái và nguyện cầu xin Chư Vị gia hộ giúp cho công việc con làm nơi đây được bình an, thuận lợi… và con hứa sẽ trùng tu lại ngôi miếu”. Tôi trở vào phòng làm việc, tôi nói lại chuyện này cho mọi người nghe, mọi người đều nói Miếu 05 Bà linh lắm, tụi công nhân hay ra xin số đề hoài hà! và kể từ hôm đó tôi hay ra quét dọn cúng bái mỗi khi rãnh hoặc có việc chi nan giải cầu xin tất cả đều vượt qua.

    Ba tháng sau, Giám Đốc Công ty kế bên quyết định bán toàn bộ đất đai cho một công ty khác (Ngôi miếu nằm trên phần đất của công ty này), nhưng tất cả không ai dám đến mua, họ đều nói là có ngôi miếu họ không dám tháo dở, Ông Giám Đốc này tức quá không biết nói gì hơn, tối về ông ta nghĩ là mướn người đến để tháo dở thì mới bán được, ông ta chưa quyết định làm thì tối hôm đó, ông ta nằm mơ thấy Chư Vị bảo là không được tháo dở bằng không sẽ…

    Sáng ra ông ta ôm bụng đau lăn lộn phải đưa đi cấp cứu, cho đến khi như sực tỉnh ông ta hứa sẽ không quyết định làm như thế nữa và bình an trở về nhà. Về đến nhà ông ta mua bông hoa, trái cây, nhang đèn ra cúng sám hối và kể lại sự việc cho chúng tôi nghe, sợ quá thay vì tháo dở thì ông ta cho người đến quét dọn, tu sửa lại ngôi miếu và ông ta cũng bỏ qua ý định bán đất luôn.
    Thời gian trôi qua nhanh từ khi tôi về công ty này tiếp nhận,tôi lao vào học tập từ ngoại ngữ, vi tính, bằng quản lý… tất cả nhằm đáp ứng cho công việc, tôi trượt dài theo thời gian gần hai năm, mọi công việc hàng ngày gần như bị xáo trộn, tôi không có thời gian đến chùa và thăm Thầy thường xuyên hơn, thay vào đó tôi phải giao tiếp với khách, các cơ quan ban ngành…
    Tôi thường về đến nhà trong hơi men của những bữa tiệc đãi khách hay cấp trên, vợ tôi phàn nàn rất nhiều sợ tôi đi đường lỡ gặp tai nạn khi đang say… Rồi tôi như sực tỉnh cơn mê, tôi quyết định không làm cho công ty này nữa mà sẽ chuyển sang làm cho công ty nước ngoài, tôi ra miếu khấn nguyện cùng 05 Bà gia hộ xoay chuyển cho tôi được chuyển công ty khác, để có thể dành nhiều thời gian lo cho gia đình và tu tập.

    Tôi nhớ hôm đó, tôi về nhà sớm hơn trong lòng có cảm giác nao nao và như linh tính có cái gì đó sắp xảy ra với tôi. Trong mơ tôi thấy mình đang có mặt ở công ty, rảo bước ra Miếu và chợt giựt mình vì có hai con rắn thật to bò ngang lối đi, tôi thụt lùi định chạy nhưng không hiểu sao tôi lại không chạy mà cứ tiến bước vào ngôi miếu, chưa kịp định thần thì bổng từ xa một luồng gío mạnh làm cho cây đa như run chuyển, cành lá rơi xuống như những bông hoa rải xuống từ không trung, tôi bất chợt ngẩng nhìn lên, năm màu ngũ sắc xuất hiện trên không đang từ từ xà xuống và phía sau nữa là một tốp nữ.
    Họ nhìn tôi một khắc, và bước vào ngôi miếu tôi nhìn theo sau, thật lạ lùng trước mặt tôi không còn là ngôi miếu cũ nát hư hỏng nữa, mà thay vào đó là một cung điện nguy nga với lối kiến trúc như vua chúa mà trong phim hay gặp, tôi thấy 05 Vị ngồi ngay giữa và hai bên là các tiên nữ hầu cận, trang phục của họ cũng khác nhau về cả màu sắc, có một Tiên nữ tiến về phía tôi và ra hiệu cho tôi bước vào, Tiên nữ giới thiệu cho tôi biết đây là cung của 05 Bà, được gọi là Ngũ Hành Nương Nương

    Thể hiện qua 05 màu sắc đó là kim, mộc, thủy, hoả, thổ, biểu hiện cho càn khôn vũ trụ và các chất tạo thành con người chúng ta, Tiên Nữ dạy tôi nghi thức thi lễ xong, Tiên Nữ lùi sang đứng một bên còn mình tôi đứng giữa, một không khí lạnh cả người bởi sự uy nghi choáng ngợp, cộng với bao nhiêu cặp mắt đang nhìn mình như thấu hiểu hết những suy nghĩ trong đầu tôi, tôi bất giác rùn mình. Một giọng nói phát ra từ 05 Vị thật êm dịu, hiền hoà như người mẹ nói với đứa con yêu, nhưng uy lực như chuông, thật sự tôi không biết diễn tả thế nào cho chính xác.
    “Con có biết là tại sao hôm nay con đến đây để làm gì?”

    Vị mặc áo màu vàng ngồi giữa hỏi, tôi trả lời: “Thưa, thưa, con không biết”.

    Tôi như bị lạc giọng, nói không ra lời bởi vì tôi quá sợ không thể trấn tĩnh được, im lặng một lúc có lẽ Người hiểu được tâm trạng của tôi, Tiên Nữ hồi nảy bước ra và giới thiệu cho tôi biết đây là 05 Bà Ngũ Hành ở cung trời thường phóng quang tiếp điển xuống ngôi miếu này, những lúc Chư Vị giáng điển xuống, đã bắt gặp tôi dọn dẹp cúng bái, Chư Vị khen ngợi và muốn dẫn cho tôi được diện kiến, bởi vì tôi có duyên với các Vị trong muôn kiếp trước, nhiệm vụ của tôi là phải đi trùng tu các am miếu, và Tiên nữ nói cho tôi biết tôi từ đâu xuống trần gian, xuống trần gian để làm gì?... rất nhiều và rất nhiều tôi không tài nào nhớ ra hết. Cuối cùng có lẽ thấy tôi đã trấn tĩnh bình thường.

    Bà mặc áo vàng (Kim) lại nói tiếp: “Trần gian trong thời mạt pháp này, ma giáo hoành hành, nhiều phái lập ra dẫn dắt chúng sanh, chúng sanh vô minh sẽ dễ rơi vào ma đạo, con hãy cố gắng tu hành để sau này con sẽ giúp đời…”.

    Tôi nghe chăm chú từng lời như sợ quên đi, tôi nói: “con sợ con không có khả năng làm được, bởi vì con không biết vì cả làm sao cứu đời được”.

    Bà tiếp lời: “Con đừng lo không lâu nữa con sẽ thấy và sẽ tìm được minh sư chỉ dạy”

    Tôi hỏi: “vậy khi nào con sẽ gặp minh sư?”

    Bà trả lời: “khi trái cây đã chín thì con sẽ được hái và ăn, thiên cơ bất khả lộ”.

    Tôi hỏi: “Người có thể cho con biết minh sư của con sau này là ai? và như thế nào không?”.

    Bà trả lời: “sau này Bồ Tát Quan Âm sẽ chỉ cho con biết, Ta chỉ có thể cho con biết, người đó cũng hành trì tu tập pháp môn giống như con, pháp Mật Tông vi diệu nhiệm màu”.
    Tôi hỏi: “Dạ, pháp Mật Tông là gì? con chưa nghe qua lần nào? Người có thể cho con biết được không?”

    Bà không trả lời ra hiệu cho Tiên Nữ hồi nãy đến gần, trao một quyển sách dày, và Tiên Nữ đó đến trao lại cho tôi, tôi thấy đó là quyển sách nhưng không thấy chữ nào bên trong.

    tôi hỏi: “Sao con không thấy chữ nào hết?”

    Bà trả lời: “Khi tới lúc hành trì chữ sẽ hiện ra, nếu con hành trì tốt thì toàn bộ quyển sách sẽ hiện ra từ từ cho tới hết, ngược lại quyển sách sẽ tự đóng lại nếu con đi sai đường”.

    Tôi hỏi: “con có thể hỏi không?”

    Bà trả lời: “Con cứ nói”.

    Tôi hỏi: “con muốn biết minh sư của con sau này là ai không? nam hay nữ?”

    Bà trả lời: “Người này tiền kiếp là Thầy của con ở cõi Trên, các con xuống Hạ Giới theo sắc lệnh Thiên Đình, Ta không thể nói mấy người cho con biết được, và Người này sẽ phải chỉ dẫn các con tu hành, mỗi người một nhiệm vụ ở Hạ Thế, các con sẽ phải tìm gặp lại nhau cùng tu hành và cứu dân độ thế, một trọng trách lớn được giao con chỉ có thể biết được đến đây thôi”.

    Tôi hỏi: “Con có thể biết vị đó hiện ở đâu không? làm cách nào con có thể tìm gặp được”.

    Bà trả lời: “Duyên đến sẽ gặp, thôi con về đi”.

    Tôi như sực nhớ một chuyện vội hỏi: “con muốn sang công ty khác làm, vậy con có thể chuyển được không?”

    Một âm thanh vọng lại từ xa: “khi nào con học xong sẽ được”, như một tấm màn vừa kéo qua, tất cả biến mất và ngôi miếu cũ nát đang sừng sững trước mặt, từ xa hai con rắn khi nảy đang bò đến, tôi hoảng hốt chạy nhanh cũng là lúc tôi tỉnh giấc, thì ra đây là một giấc mơ.

    Đúng như giấc mơ sau khi tôi cầm chứng chỉ trong tay thì cũng là lúc tôi được người bạn giới thiệu tôi chuyển sang làm cho công ty nước ngoài. Ngôi miếu này toạ lạc tại Bình Dương, thuộc đất Vĩnh Phú huyện Thuận An, tôi đã trùng tu và thỉnh cốt tượng 05 Bà về an vị khi tôi nhận tháng lương đầu tiên từ công ty mới, được biết chuyện này nhiều khách thập phương đến viếng rất đông, ngày vía chính thức cúng là ngày 27 tháng 08 hàng năm, nếu có dịp xin mời các bạn đến chiêm bái.



    Last edited by phoquang; 01-12-2015 at 02:09 PM.

  12. #12
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    Ngũ hành nương nương
    (五 行 娘 娘)








    Ở Bình Dương, trong khoảng 180 ngôi miếu thì có khoảng 136 miếu thờ và khoảng 5 miếu có phối thờ Ngũ hành nương nương, phân bố ở tất cả 7 huyện, thị. Trong tất cả các văn cúng mà chúng tôi sưu tầm được, trong lễ cúng đình hàng năm cũng đều có mời các bà về phối hưởng. Điều đó chứng tỏ văn hoá thờ bà, vị trí của 5 bà trong tín ngưỡng của cư dân Bình Dương phổ biến đến như thế nào. Ở những miếu thờ 5 bà phần nhiều không có linh tượng, có những miếuchỉ ghi đơn giản: "Ngũ hành nương nương" hoặc bằng tiếng Hán: 五 行 娘 娘 viết thẳng lên tường hay trên bài vị đặt chính giữa miếu và trong miếu có thờ tranh vẽ trên kiếng. Một số ít miếu có linh tượng của 5 bà được mặc năm bộ quần áo khác nhau theo ngũ hành: màu đỏ (bà Hoả), màu vàng (bà Thổ), màu đen/tím (bà Thuỷ), màu xanh (bà Mộc), màu trắng (bà Kim). Ngày vía bà ở các miếu không thống nhất, được tổ chức rải rác từ tháng 1 đến tháng 11 do tập quán những miếu gần nhau thường tổ chức lễ vía bà không trùng nhau để còn giao lưu nhưng thông thường nhất là vào tháng 2 và tháng 3.

    Trong văn cúng, một số đình ghi: Ngũ hành nương nương (五 行 娘 娘) hoặc ghi: " Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ ngũ hành thần nữ" (今 木 水 火 土 五 行 神 女) (đình Tân An, xã Tân An, thị xã Thủ Dầu Một) hoặc có nơi ghi rõ mỹ hiệu và cấp bậc của từng bà: "Thuỷ đức thánh phi tôn thần, gia tăng dương trạch hiển kinh trung đẳng thần (水 德 聖 妃 孫 神 加 贈 陽 宅 顯 惊 中 等 神); Mộc đức thánh phi tôn thần, gia tặng thanh tú kim trực trung đẳng thần (木德 聖 妃 孫 神 加 贈青秀 金 直 中 等 神); Hoả đức thánh phi, gia tặng bổn ôn hậu quang ứng trung thần (火德 聖 妃 加 贈 本 溫 厚光 應 中 神); Thổ đức thánh phi, gia tăng hoàng đại quản tế trung đẳng thần (土德 聖 妃 加 贈皇 大 管 祭中 等 神), Kim đức thánh phi tặng chiếu hiển hiệu ứng trung đẳng thần (金 德 聖 妃 贈 照 顯 斆 應 中 等 神)" (đình thần Dầu Tiếng, thị trấn Dầu Tiếng, Dầu Tiếng) thì cũng đều chỉ 5 loại vật chất cấu thành nên vũ trụ theo quan điểm ngũ hành: Kim (kim loại), Mộc (cây), Thuỷ (nước), Hoả (lửa), Thổ (đất). Đây là một loại tín ngưỡng vạn vật linh tiêu biểu ở Á Đông, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tín ngưỡng này xuất phát từ việc tiếp thu học thuyết âm dương trong kinh Dịch và ngũ hành trong kinh Thư, phản ánh sự nhận thức sơ khai của người Trung Hoa cổ đại. Người Việt tiếp thu học thuyết này và ứng dụng "trong mọi mặt của đời sống con người, không kể người làm những nghề nghiệp khác nhau như ngư nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán; không kể cư dân sống ven biển, dọc sông hay vùng đất bán sơn địa"[2]. Người ta thờ Bà Ngũ hành và cầu mong Bà phù hộ độ trì trong công việc làm ăn, cầu sức khoẻ, cầu may mắn, tránh rủi ro, hoạn nạn...

    Ở Bình Dương còn có trường hợp chỉ thờ riêng một bà Hoả tinh thần nữ (火 精 神 女) ở ấp 7, xã Tương Bình Hiệp, thị xã Thủ Dầu Một. Miếu có kiến trúc cũ, tựa như chùa một cột, được biết trước kia ở nơi này thường có hoả hoạn nên bà con chung nhau dựng miếu bà và từ đó tới nay ở đây không có hoả hoạn nữa.




  13. #13
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    Tín ngưỡng dân gian






    Tiếng Việt là Ngũ hành miếu, nhưng dòng chữ Nho ở dưới là Ngũ Hành Nương Nương

    Có bạn hỏi Ngũ hành Nương Nương là ai? Vì sáng bạn đi ngang qua một ngôi miếu thấy có lễ vía Ngũ hành Nương Nương. Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam chúng ta thường thấy người Việt có tục thờ Nữ thần (thờ Mẫu). Nếu ở miền Bắc chúng ta thấy thờ những hiện tượng tự nhiên trong cuộc sống do Mây - Mưa - Sấm - Chớp, được hệ thống hóa thành Tứ Pháp: Pháp Vân (Thần Mây), thờ ở chùa Bà Dâu. Pháp Vũ (Thần Mưa) thờ ở chùa Bà Đậu. Pháp Lôi (Thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng. Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dán. Hoặc thờ Tam Phủ, Tứ Phủ. Tam Phủ có Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (Mẫu Thủy). Tứ Phủ có thêm Mẫu Địa.

    Ở miền Trung khu vực Thừa Thiên có tục thờ Thiên Mụ, Thiên Yana nguyên là một nữ thần của người Chăm đã được Việt hóa... Vào miền Nam chúng ta thấy việc thờ các hiện tượng tự nhiên khái quát như không gian và thời gian qua hình ảnh của các nữ thần có biến đổi. Thần không gian được hình dung theo Ngũ hành, dưới dạng Ngũ Hành Nương Nương. Thờ Thần thời gian là Thập Nhị Hành Khiển, là mười hai vị nữ thần điều khiển sự sống, có trách nhiệm coi sóc việc sinh nở, đó là Mười hai Bà Mụ. Ở đây tôi xin nói qua về Ngũ Hành Nương Nương, để bạn có thể nắm bắt được phần nào.



    Tượng Ngũ Hành Nương Nương ở chùa Thiền Lâm, quận 8 - Saigon.


    Ngũ hành, không chỉ là năm yếu tố mà là năm loại vận động trong cuộc sống, nhất là trong cuộc sống từ xa xưa. Đất để trồng trọt, cây nuôi sống con người, nước tưới cho cây, lửa đốt tro nuôi đất, đá, sắt để làm ra công cụ lao động... Năm yếu tố ấy là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Thủy sinh Mộc (nước giúp cây cối tươi tốt). Mộc sinh Hỏa (gỗ làm nhiên liệu cho lửa cháy). Hỏa sinh Thổ (lửa đốt tro làm cho đất màu mỡ. Kim sinh Thủy (kim loại nóng chảy trở về thể lỏng). Đấy là quan hệ tương sinh của Ngũ hành. Ngũ hành còn có quan hệ tương khắc, như Thủy khắc Hỏa (nước dập tắt lửa). Hỏa khắc Kim (lửa nung chảy kim loại). Kim khắc Mộc (dao chặt cây). Mộc khắc Thổ (cây hút chất màu của đất). Thổ khắc Thủy (đắp đê ngăn nước).

    Trong Ngũ hành Thủy và Hỏa mang tính đối lập âm/dương rõ rệt nhất, tương ứng với màu đen và đỏ, tượng trưng cho hai phương bắc - nam. Mộc và Kim cũng đối lập âm/dương nhưng kém hơn tương ứng với màu xanh và trắng. Thổ tương ứng với màu vàng ở trung ương.

    Các bạn nào ở miền Nam, ngay ở Saigon chứ không phải đi đâu xa, thường thấy rải rác đây đó những ngôi miếu nhỏ đề Miếu Ngũ Hành (hoặc Ngũ Hành Miếu). Đây chính là nơi thờ Ngũ Hành Nương Nương, là một nữ thần phát xuất từ quan niệm Ngũ hành. Tuy nhiên người Việt Nam có tục thờ đa thần, nên trong miếu thường thờ thêm những vị thần khác như thần Xã Tắc, Thần Nông, Thổ địa, thần Tài... Ngũ Hành Nương Nương thường được thờ nơi những miếu, đình, đền, điện... là nơi thờ phượng của tín ngưỡng dân gian, như ở đình Phong Phú (quận 9), đình Phú Nhuận (quận Phú Nhuận)... Nhưng cũng có những chùa thờ Phật có ban thờ Ngũ Hành Nương Nương, như chùa Thiền Lâm (quận 8), chùa Vạn Thọ (quận 1)... Tục thờ Ngũ Hành Nương Nương ở miền Nam có lẽ có sau tục thờ các vị nữ thần khác, như thờ Bà Chúa Xứ (Châu Đốc), Linh Sơn Thánh Mẫu (Điện Bà - Tây Ninh), Cửu Thiên Huyền Nữ, Bà Chúa Ngọc...

    Vía Ngũ Hành Nương Nương thường được cử hành vào ngày 19 tháng 3 âm lịch hằng năm, cũng có nơi cử hành vào ngày 23 tháng 3. Thoạt đầu người ta thờ bằng bài vị viết bằng chữ Nho, nhưng dần dần bài vị được thay bằng tượng của năm vị nữ thần, được sơn màu hay khoác y phục với năm màu tương ứng với Thủy (màu đen), Hỏa (đỏ), Mộc (xanh), Kim (trắng), Thổ (vàng). Theo sách vở chép đời vua Duy Tân thứ 5 (1911), triều đình đã sắc phong cho Ngũ Hành Nương Nương là "Đức Thánh Nương, Trứ Phong Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần), gồm Thủy Đức Thánh Phi, Hỏa Đức Thánh Phi, Mộc Đức Thánh Phi, Kim Đức Thánh Phi, Thổ Đức Thánh Phi.

    Như vậy chúng ta đã thấy, Ngũ Hành Nương Nương bao gồm năm vị nữ thần phát xuất từ thực tại của cuộc sống, được thờ như những vị thần bảo trợ cho con người, những gì liên quan đến đất đai, cây cỏ, củi lửa, nước nôi, kim khí, cũng chính là những yếu tố trong công việc, nghề nghiệp của những nông dân, ngư dân, thợ tiểu thủ công từ ngày xưa... Thờ Ngũ Hành Nương Nương là người dân mong muốn cho cuộc sống của họ luôn được trôi chảy, sung túc, an lành...


    Tham khảo:

    - Cơ sở Văn hóa Việt Nam, PGS. TS. Trần Ngọc Thêm, NXB Giáo Dục - 1998.
    - Lễ hội Dân gian Nam bộ, TS. Huỳnh Quốc Thắng, NXB Văn hóa - Thông tin - 2003.
    - Các thông tin trên trang mạng.
    Last edited by phoquang; 02-12-2015 at 05:13 AM.

  14. #14
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545
    Last edited by phoquang; 02-12-2015 at 07:28 AM.

  15. #15
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    Tín ngưỡng thờ Bà Thủy của cộng đồng ngư dân AnThủy (Huyện Ba Tri-Tỉnh Bến Tre)




    ThS. Dương Hoàng Lộc

    (Trường Đại học KHXH&NV.TpHCM)




    Dũng xuất ba đào hạm đội hải thuyền du khủng khiếp

    Thần thông biến hóa Thủy nương cứu độ đắc bình an

    (Câu đối ở võ ca Miếu Bà An Thạnh)






    Trên con lộ đá đi về phía Bãi Ngao thuộc xã An Thủy (huyện Ba Tri- tỉnh Bến Tre) có ngôi miếu tên là Miếu Bà An Thạnh. Hỏi thăm những bậc cao niên ở đây thì biết rằng ngôi miếu có từ lâu đời và thờ Bà Thủy để độ cho ngư dân đi chài lưới và đánh bắt nơi biển khơi. Ngôi miếu khá lớn và khang trang, sạch sẽ vì được bà con ngư dân thường xuyên đóng góp, tôn tạo, đặc biệt là trong những năm gần đây. Điều đó cho thấy rằng, Bà Thủy được người dân nơi này tôn kính, sùng bái bởi vì vị thần này gắn bó với quá trình mưu sinh nơi biển cả của họ. Không chỉ vậy, càng đi sâu vào tìm hiểu việc thờ Bà Thủy của ngư dân thì càng có nhiều thú vị, mới mẽ. Ở đó, tín ngưỡng Bà Thủy không chỉ dừng lại ở niềm tin, hoạt động cúng bái mà còn phản ánh những yếu tố lịch sử, kinh tế-xã hội và cả thế giới quan, nhân sinh quan của ngư dân An Thủy qua nhiều thế hệ.

    1.Bà Thủy là ai?

    Vậy, một câu hỏi đặt ra: Bà Thủy là ai? Trong quan niệm của người Việt nói riêng và phương Đông nói chung, năm hành chất cấu tạo vũ trụ: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ được nhân hóa thành 5 Bà Ngũ Hành với quyền năng khác nhau. Cùng với Bà Chúa Xứ, Chúa Ngọc, Chúa Tiên….Bà Ngũ Hành hay còn gọi Mẹ Ngũ Hành là nữ thần được thờ phổ biến ở Trung bộ và Nam bộ. Trong một số ngôi miếu, người ta tạc tượng 5 bà để thờ : Kim Đức Thánh Phi (áo màu trắng), Mộc Đức Thánh Phi (áo màu xanh), Hỏa Đức Thánh Phi (áo màu đỏ), Thủy Đức Thánh Phi (áo màu đen) và Thổ Đức Thánh Phi (áo màu vàng). Sách Đình Nam bộ xưa và nay ghi: “Ngũ Hành Nương Nương được nhà Nguyễn tặng mỹ tự Tư Hóa Mặc Vận Thuận Thành Hòa Tự Tư Nguyện Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần (sắc Duy Tân thứ V)” [6: trang 135]. Tuy nhiên, ở một số nơi, người ta còn tách Bà Thủy và Bà Hỏa ra thờ riêng. Bà Hỏa được thờ ở những nơi chợ búa, đô thị với chức năng trông coi hỏa hoạn và cháy nổ. Riêng, ở các nơi có nhiều sông nước, ao hồ, Bà Thủy là vị thần được thờ cúng phổ biến. Thủy Đức Thánh Phi hay Thủy Long Nương Nương, Thủy Long Thần Nữ…là các tên gọi phổ biến của Bà. Trong quan niệm dân gian, Bà là nữ thần giếng, thần sông rạch, thần cù lao, thần hải đảo, tức vị thần cai quản vùng sông nước [9: trang 295]. Ngô Đức Thịnh cho biết thêm: “Vị thần này thể hiện tính lưỡng diện, một mặt, Bà là nơi ngư dân gửi gắm sự bảo trợ của mình trong mỗi chuyến đi biển đầy thách thức và may rủi, mặt khác, nếu làm điều gì “xúc phạm” tới Bà, như thả các vật dụng xuống “thủy cung”, cứu người đã bị Bà dìm chết để trừng phạt, không làm các nghi lễ “vớt vong” hay “chuộc vong”…thì Bà lại trở thành vị ác thần đáng sợ!” [9: trang 96].
    Đặc biệt, đối với các nghề liên quan đến sông nước và biển cả ở Nam bộ, người ta thường vái van Bà Cậu để cầu mong độ trì qua cơn sóng gió. Chắc vì thế mà người ta thường hay gọi dân làm nghề thương hồ hạ bạc là “dân Bà Cậu”. Bà Cậu chính là Bà Thủy và hai người con trai: Cậu Tài và Cậu Quí. Nơi ở của Bà Thủy dưới sông nước, biển cả gọi là “Lục cung thủy triều”. Mặt khác, người ta còn có quan niệm Bà Thủy chính là hóa thân của Thiên Y Ana. Trong văn bia của Phan Thanh Giản tại Tháp Bà Nha Trang, có đoạn kể về Thiên Y Ana đã hóa phép nổi sóng gió nhấn chìm thuyền của thái tử Trung Quốc, biến chiếc thuyền này thành tảng đá. Do đó, Thiên Y Ana và 2 người con của Bà (Cậu Tài, Cậu Quí) được xem là vị thần của sông biển, cù lao. Lê Quang Nghiêm, trong Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa, cho biết chi tiết: “Ngày xuất hành ra biển làm mùa vào mùng 4 hoặc mùng 6 tháng giêng âm lịch, khi đoàn ghe đi ngang Tháp Bà Ponagar gần cầu Bóng, người ta làm lễ lệnh Bà Tiên Chúa” [7: trang 64].

    Ngược ra Bắc bộ, người dân ở đây từ lâu đời đã thờ vị thần cai quản miền sông nước và biển cả, đó là Mẫu Thoải cai quản Thủy phủ trong hệ thống Tam phủ, Tứ phủ.

    Như vậy, vị thần cai quản vùng sông nước, biển cả ở nước ta được gắn cho người phụ nữ và có sự khác biệt theo dọc chiều dài đất nước. Tín ngưỡng thờ Bà Thủy có nguồn gốc từ việc sùng bái tự nhiên, đồng nhất yếu tố sông nước và biển cả với vị thần có quyền năng phù hộ, độ trì cho ngư dân với những mùa cá nặng đầy khoang, bình yên trước sóng gió. Người viết tạm đưa ra giả thuyết như sau: Việt Nam là quốc gia có chiều dài bờ biển khoàng 3200 km và có hệ thống sông ngòi dày đặc. Vì thế, ngay từ lâu đời, người dân Việt Nam tôn sùng yếu tố tự nhiên biển cả, sông nước. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa các vùng, miền. Ở Bắc bộ, Mẫu Thoải trong hệ thống Tam phủ, Tứ phủ phản ánh tư duy trừu tượng về thế giới quan của người dân nơi đây. Vào đến miền Trung, hệ thống Tam phủ, Tứ phủ không còn nữa, rồi Bà Thủy- vị thần có nhiệm vụ cai quản sông nước, biển cả được tách ra khỏi hệ thống này trở thành độc lập. Thêm vào đó là sự tôn sùng mạnh mẽ Thiên Y Ana, nên có nơi Thiên Y Ana và hai người con Cậu Tài, Cậu Quí giữ luôn vai trò bảo hộ cho dân làm nghề sông nước, biển cả, thay thế cho Bà Thủy. Vì vậy, có quan niệm Bà Thủy là hóa thân của Thiên Y Ana. Khi vào đến Nam bộ, dân thương hồ hạ bạc thường vái van Bà Cậu để độ trì cho họ. Lúc này, Bà Thủy lại có thêm 2 cậu, thể hiện dấu vết của sự ảnh hưởng tín ngưỡng Thiên Yana ở miền Trung. Phải chăng đây là quá trình thay đổi và khác biệt văn hóa, mà tín ngưỡng thờ Bà Thủy là điển hình, theo dọc chiều dài đất nước? Tuy nhiên, vấn đề này cần tiếp tục đi sâu tìm hiểu hơn nữa.

    2. Tín ngưỡng thờ Bà Thủy trong đời sống cộng đồng ngư dân An Thủy
    Qua hồi cố từ một số ngư dân cao tuổi, Miếu Bà An Thạnh được thành lập từ lúc nơi đây còn hoang vu. Một ngư dân từ miền Trung vào buôn bán, khai thác nghề đáy rạo- một hình thức đánh bắt tôm cá nơi cửa sông đã lập ngôi miếu nhỏ thờ Bà với sự cầu mong được bình an giữa nơi sông nước, biển cả bao la. Từ đó, ngôi miếu được ngư dân qua các thế hệ thờ cúng và xây cất khang trang như ngày nay. Ở An Thủy, ngoài Miếu Bà An Thạnh, còn có Miếu Bà An Lợi- thờ Bà Chúa Xứ và Miếu Bà An Thuận- thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Qua bài văn tế ở Miếu Bà An Lợi cho thấy Bà Chúa Xứ ở đây chính là Thiên Y Ana. Như vậy, có thể nhận định rằng, nếu tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ gắn liền với quá trình khẩn hoang, lập làng và nguồn gốc dân cư, tín ngưỡng thờ Bà Thuỷ gắn với quá trình phát triển nghề chài lưới, đáy rạo….của ngư dân Việt, thì tín ngưỡng thờ Thiên Hậu gắn với quá trình có mặt và đóng góp của ngư dân Hoa trên lĩnh vực nghề đáy sông cầu, phát triển kinh tế của ngư dân An Thủy.

    Trong quá trình điền dã, một số ngư dân cao tuổi ở An Thủy đã kể lại một số giai thoại khá thú vị và ý nghĩa. Có thể kể lại như sau:

    Bà Thủy hiển linh cứu dân
    Năm đó, bọn lính Pháp đóng bốt ở Ba Tri tiến hành trận càn ở An Thủy để tìm bắt Việt Minh. Trên đường đi, chúng tha hồ bắn phá, đốt nhà dân, tạo nên cảnh thảm thương. Người dân An Thủy chỉ còn biết chạy trốn ra phía cồn, nắp vào những cây bần, cây đước. Bọn Pháp được bọn chỉ điểm báo, nên hành quân về phía cồn để bắn giết. Trên đường đi, bỗng nhiên tên chỉ huy cho bọn lính ghé vào miếu Bà Thủy (ấp An Thạnh-xã An Thủy) để nghỉ ngơi. Chúng lục lạo, bắn phá bừa bãi trong miếu. Khi ra khỏi miếu, tên chỉ huy còn bắn vào ban thờ Bà mấy phát súng. Bỗng nhiên, hắn bị hộc máu mồm, giãy giụa thảm thiết, đau đớn kêu la. Thấy vậy, bọn lính vô cùng lo sợ, vội chuyển hắn về Ba Tri để chữa trị. Trận càn kết thúc và bà con An Thủy hết sức vui mừng đã thoát nạn. Nếu không thì người chết sẽ rất nhiều. Từ đó, họ càng tin tưởng vào Bà hơn.

    (Nguồn: Ban Khánh tiết Miếu Bà An Thạnh cung cấp-2008)

    Câu chuyện này thể hiện tín ngưỡng thờ Bà Thuỷ có sự pha trộn với yếu tố lịch sử, góp phần cho biết vùng ven biển Bến Tre là nơi chịu nhiều sự mất mát và đau thương qua 2 cuộc kháng chiến. Ở đây, thần linh cũng không thể “làm ngơ” trước sự đau khổ của người dân mà phải ra tay để cứu dân độ thế. Do vậy, tín ngưỡng thờ Bà Thủy của ngư dân An Thủy mang nội dung lịch sử nhất định.

    Bà Thủy trừng trị pháp sư

    Ngày trước, trong làng An Thủy có vị pháp sư khá nổi tiếng. Ông này có tài bắt ấn, bùa chú hết sức hiệu nghiệm. Vì tài cao, nên ông xem thường các vị thần trong làng. Ông hay làm phép trục các vị thần về nhập đồng để hỏi han công việc. Đối với Bà Thủy ở Miếu Bà An Thạnh, ông tỏ thái độ khinh thường, thậm chí chửi rũa thậm tệ khi say xỉn. Điều này làm cho một số người dân bất mãn, nhưng không dám nói ra. Mỗi khi lệ cúng kì yên miếu, Bà Thủy thường hiển linh bằng cách xuất hiện nhiều quầng lửa bay vào miếu. Nhiều lần, ông này khoe tài mình bằng cách bắt ấn cho quầng lửa đứng lại giữa không trung, làm Bà không thể về chứng lễ của ngư dân. Một lần, trên đường đi đến miếu, thấy Bà Thủy hiển linh, ông bắt ấn cho bà đứng lại để khoe tài trước người dân. Nhưng vì quên làm bùa trấn đất hộ thân, Bà Thủy không những đứng lại, mà còn làm ông hộc cả máu mồm. Người ta đưa ông về nhà. Mấy ngày sau ông mất. Con cháu sau này không ai dám nối nghề.

    (Nguồn: Ban Khánh tiết miếu bà An Thạnh cung cấp-2008)

    Câu chuyện cho biết mối quan hệ giữa Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian: Đạo giáo (vị pháp sư) ở vị trí cao hơn tín ngưỡng dân gian (Bà Thủy). Chi tiết pháp sư nhiều lần dùng pháp thuật trấn áp Bà Thủy và sự phản công của Bà phản ánh sự xung đột giữa Đạo giáo và tín ngưỡng vai trò quan trọng,. Ngoài ra, sự thắng lợi của Bà Thủy thể hiện ngư nghiệp bắt đầu giữ chủ đạo trong đời sống kinh tế của người dân địa phương.

    Trong tín ngưỡng cũng có sự thâm nhập khá sâu sắc của Phật giáo, như trường hợp tín ngưỡng thờ Bà Thuỷ ở đây. Các cụ cao niên ở Miếu Bà An Thạnh cho biết: Trưóc kia, vào ngày 15 tháng 4 âm lịch, trước ngày cúng chánh tế lễ kì yên miếu (16 tháng 4), Ban Khánh tiết cử người mang xôi chè qua ngôi chùa Bửu Sơn gần đó để cúng tạ chư Phật. Họ quan niệm rằng: “Có trời phật mới có thánh thần”. Hay vào lệ cúng kì yên hiện nay, ngư dân mang heo quay, gà, vịt….đến tạ Bà thì chỉ được phép cúng ở phía ngoài võ qui, không được mang vào trong. Những lễ vật này dành cho “binh tướng” của Bà, riêng Bà thì ăn chay vào những ngày cúng kì yên. Do vậy, lễ vật cúng Bà là trầu cau, hoa quả, trái cây, xôi chè…

    Không dừng lại ở đó, mỗi khi ghe ra khơi đánh bắt, đóng ghe mới hoặc sửa chữa lại, ngư dân thường cúng tạ Bà Cậu với lễ vật không thể thiếu cặp vịt. Bởi vì họ quan niệm: “Ông cúng gà, bà cúng vịt”. Đối với những ghe đánh bắt trúng mùa, mỗi khi về bờ, họ thường tổ chức cúng heo quay để tạ ơn và cầu mong cho những chuyến ra khơi tiếp theo được như thế. Có những lúc biển cả nhiều sóng gió hay thất mùa, thậm chí khi có người bỏ mình, họ thường vái van “Tiên sư Bà Cậu” để cầu cho sóng yên biển lặng, gặp luồng cá chạy và để tìm được thi thể người đã mất. Theo ngư dân ở đây giải thích rằng: Tiên sư chính là những người đi biển lâu năm, nay đã quá cố hay là những người chẳng may bỏ mình giữa biển cả. Họ vái van để các “cô bác “ này giúp đỡ khi đánh bắt trên biển.

    Vậy tín ngưỡng thờ Bà Thủy của ngư dân An Thủy thờ là nữ thần hay Mẫu? Ở Nam bộ, có thể tạm phân chia về Mẫu (Bà Chúa Xứ, Thiên Hậu, Linh Sơn) và nữ thần (Ngũ Hành, Bà Hỏa, Bà Thủy, Bà Cố Hỉ…). Tuy nhiên, Ngô Đức Thịnh - một chuyên gia nghiên cứu về thờ Mẫu ở Việt Nam đã phân vân: “Nếu như ở Nam bộ, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc (Thiên Y A Na), Linh Sơn Thánh Mẫu-Bà Đen được coi là những Mẫu Thần và được tôn xưng là Thánh Mẫu, thì Bà Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) trong đó đặc biệt là Bà Thủy Long, Bà Hỏa là nữ thần hay Mẫu thần ?” [11: trang 164]. Ngoài ra, ông cũng giải thích về tình trạng khó phân lớp giữa Mẫu và nữ thần ở Nam bộ: “Tình trạng khó phân lớp giữa nữ thần và Mẫu thần này ở Nam bộ so với Bắc bộ là hoàn toàn có thể giải thích được vì Nam bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây, họ mang các truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng của cư dân sinh sống từ trước, tạo nên bức tranh không chỉ đa dạng văn hóa nói chung mà còn cả tín ngưỡng nữa. Theo tôi, đây cũng là một trong các đặc thù của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ” [11: trang 164]. Ở đây, theo quan điểm người viết, việc phân lớp này đòi hỏi có quan điểm lịch sử cụ thể. Thứ nhất, đó là sự tôn xưng của người dân địa phương. Hiện tại, trong ban thờ chính của ngôi miếu Bà An Thạnh có bài vị khá cổ, được xem là của ngôi miếu ngay từ buổi đầu thành lập, và khắc chữ Hán: “Thủy Long Thánh Mẫu Thiên Nương chi thần vị”. Thứ hai, việc tôn sùng và thờ cúng phổ biến Bà Thủy của ngư dân ở đây qua hình thức “Tiên Sư Bà Cậu”. Căn cứ vào sự tôn vinh và ảnh hưởng lớn này, có thể khẳng định rằng, Bà Thuỷ mà ngư dân ở đây thờ là Mẫu. Có thể sẽ khác nơi khác, Bà Thủy chỉ là nữ thần, vì đối với ngư dân ở đây, Bà gắn chặt với nghề nghiệp, quá trình mưu sinh của họ. Ở khía cạnh rộng hơn, Bà Thủy có vai trò quan trọng đối với vùng ven biển và nghề đánh bắt thủy sản so với các nơi khác. Tại đình Tân Thạch (Xã Tân Thạch- Huyện Châu Thành-Tỉnh Bến Tre), qua bài vị thờ khá đơn giản đặt tại võ qui, Bà được gọi là “Thủy Long Nương Nương”. Hay trong Lăng Ông Bình Thắng ( Xã Bình Thắng- Huyện Bình Đại-Tỉnh Bến Tre), Bà Thủy được phối thờ trong chánh điện với tên gọi “Thủy Long Thần Nữ”. Căn cứ vào tên gọi mà biết rằng Bà Thủy ở các nơi này được gọi là nữ thần, chứ không là Mẫu.

    3. Hoạt động thờ cúng Bà Thủy của cộng đồng ngư dân An Thủy
    Các hoạt động thờ cúng Bà Thủy của ngư dân An Thủy nhằm thể hiện sự tôn vinh và ngưỡng vọng thần linh. Qua đó, phần nào hiểu được ảnh hưởng của Bà trong đời sống của ngư dân tại đây. Dưới góc nhìn folklore học, tín ngưỡng mang tính nguyên hợp. Do vậy, bên cạnh việc khảo sát tín ngưỡng, buộc phải tìm hiểu các hoạt động thờ cúng như : Miếu bà, lễ hội, sinh hoạt nghệ thuật,...là các bộ phận không thể tách rời khỏi tín ngưỡng và cùng tồn tại như một tổng thể.
    3.1. Miếu Bà An Thạnh
    Miếu Bà An Thạnh nằm trên khuôn viên đất tương đối rộng, có dạng “xếp đọi” hay “xếp bát”, tức những mái nhà nối tiếp theo nhau, bao gồm: Võ ca, võ qui, chánh điện (nhà chánh), hậu điện, nhà khách, nhà trù. Đó là những ngôi nhà vuông làm bằng 4 cây cột cái, có 4 cây trính xuyên qua. Loại nhà này có diện tích mở rộng ra 4 phía bằng bộ kèo đấm và kèo quyết đều nhau vuông vức, thường chỉ làm nơi thờ tự (đình, chùa, miếu) chứ không để ở. Đây là kiểu nhà xuyên trính hay đâm trính, có nguồn gốc từ nhà rường từ miền Trung mang vào. Võ ca là nơi dùng để ca hát, võ qui là nơi qui tụ cho dân làng cúng bái, chánh điện là nơi thờ Bà, hậu điện dùng thờ Tiền Hiền - Hậu Hiền, Tiên Sư, nhà khách dùng tiếp đãi khách mỗi khi tế lễ, nhà trù là nơi để nấu ăn. Ngôi miếu này qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, đặc biệt là giai đoạn gần đây, cho nên phần lớn được làm bằng chất liệu xi măng. Trong khuôn viên miếu bà An Thạnh, nhìn từ phía ngoài vào, ở giữa là bia Long Mã Hà Đồ có chức năng trấn trạch, hai bên có 2 ngôi miếu nhỏ thờ Sơn Quân và Thổ Thần.
    Bài trí của ngôi miếu này có phần long trọng. Đó là hệ thống các câu đối, hoành phi sơn son thếp vàng được treo ở nhiều nơi, nhằm làm cho ngôi miếu thêm phần thâm nghiêm và trang trọng. Nội dung các câu đối và hoành phi ca ngợi công đức, uy linh của Bà Thủy, công lao của Tiền Hiền - Hậu Hiền:

    - “ Đức Thánh Minh”

    - “ Hiển Oai Linh”

    - “Dũng xuất ba đào hạm đội hải thuyền du khủng khiếp

    Thần thông biến hóa Thủy nương cứu độ đắc bình an”

    - “An hưởng định dân nghệ tính thành y cựu

    Thạnh hành tư thủy đức nghệ thuật duy tân”
    Trong phần chánh điện được bài trí với lọng, bát bửu, trưng bày áo và mão của Bà. Ngôi miếu này đều có 2 lớp hương án, được trang trí chạm nổi hình Long Mã Hà Đồ, Long – Phụng, Hổ,... Phía trong chánh điện, ban thờ Bà được đặt ở giữa, hai bên là ban thờ Tả Ban, Hữu Ban. Trong miếu bà An Thạnh có đặt tượng Bà Thủy. Tượng này được nghệ nhân dân gian địa phương làm trong thời gian gần đây. Ở hậu điện có ban thờ Tiền Hiền-Hậu Hiền, Tiên Sư và ban thờ Tổ Nhạc. Đặc biệt, có thêm ảnh Bác Hồ được đặt ở hương án hậu điện, mang ý nghĩa với tấm lòng luôn nhớ ơn, tri ân Bác có công giải phóng dân tộc, đem lại hạnh phúc ấm no cho nhân dân.

    Miếu Bà An Thạnh ngày nay được trùng tu khang trang, kiên cố hơn so với trước đây. Điều này phản ánh sự sung túc của đời sống kinh tế ngư dân, tấm lòng ngưỡng vọng và cảm tạ thần linh đã độ trì cho họ. Ngoài ra, ngôi miếu này là nơi gắn liền với tín ngưỡng thờ Bà Thủy, gắn liền với hoạt động lễ hội, với đời sống xã hội và lịch sử của cộng đồng ngư dân An Thủy. Do vậy, nó là một biểu tượng của văn hóa, gắn kết cộng đồng ngư dân lại với nhau, là tâm thức của những người lênh đênh trên biển cả bao la hay ở một góc bể xa xôi trong những chuyến đánh bắt dài ngày. Đây là một không gian thiêng của họ.

    3.2. Lễ hội
    Lễ hội Miếu Bà An Thạnh được tổ chức vào ngày 16/4 âm lịch hằng năm, và được ngư dân gọi là lễ kì yên với mục đích “ phong điều võ thuận, quốc thới dân an”. Ở đây, chính là sự cầu mong biển cả lặng yên, đời sống ngư dân sung túc, giàu mạnh. Lễ hội ở đây bao gồm các nghi lễ theo trình tự chung: Nghi múa bóng rỗi Bà - nghi nghinh Bà -nghi tế Tiền Vãng - nghi xây chầu đại bội - nghi chính tế - nghi đưa khách. Mỗi nghi lễ có một chức năng và ý nghĩa văn hóa riêng biệt. Có thể đi vào chi tiết các nghi này như sau:
    _ Nghi múa bóng rỗi Bà: Nghi này được tiến hành vào tối trước ngày chính tế, tức ngày 15/4 âm lịch. Đây là phần thuộc về bà bóng múa dâng các phẩm vật như: Hoa, hương, trà, mâm vàng…để chầu mời Bà Thủy về chứng lễ cho người dân. Nghi này được diễn ra ở võ qui, thu hút khá nhiều người đến tham gia và thưởng thức tài nghệ của bà bóng. Tiếng trống cùng với kèn, nhạc đi theo từng nhịp múa, các động tác lắc lư dâng bông, dâng mâm…tạo nên một không gian sôi động và pha lẫn yếu tố thiêng, đưa cảm giác con người theo các động tác múa. Có thể nói, điều không thể thiếu được của lễ kì yên Miếu Bà An Thạnh chính là nghi múa bóng.

    _ Nghi nghinh Bà: Nghi này được diễn ra vào sáng sớm ngày hôm sau, tức ngày chính lễ ( ngày 16/4 âm lịch). Toàn bộ Ban Khánh tiết, gồm những ngư dân cao tuổi, bắt buộc phải tề tựu đầy đủ, làm lễ tại chính điện. Sau ba hồi chuông trống, học trò lễ đứng hai bên và tiến hành điều khiển nghi lễ cho bộ phận tế tự trong Ban Khánh tiết. Các ông Chánh bái, Phó bái, Bồi bái…quì ở hương án ngoài, tiến hành dâng trà, rượu, hương để nghinh Bà về chứng lễ cho ngư dân. Sau đó, lần lượt các thành viên khác tiếp tục quì lạy. Ngoài ra, còn có múa lân để báo hiệu cho dân làng lễ hội đã bắt đầu. Xưa kia, nghi này bắt buộc phải ra biển làm lễ nghinh Bà về, bởi vì họ quan niệm: Bà Thủy vốn ở ngoài biển.

    _ Nghi tế Tiền Vãng: Nghi này diễn ra ở hậu điện ngay sau nghi nghinh Bà. Sau ba lần dâng trà, rượu, bộ phận tế tự trong Ban Khánh tiết sẽ lần lượt quì lạy bàn thờ Tiền Hiền-Hậu Hiền. Ông Hương văn sẽ đọc văn tế Tiền Vãng, tức các vị Tiền Hiền - Hậu Hiền có công khai khẩn và tạo dựng, phát triển xóm làng, ngư nghiệp. Nội dung bài văn tế nhằm ca ngợi công đức của tiền nhân. Đây là một nghi lễ chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Lễ vật dâng cúng thường là đầu heo, lòng heo và hoa quả, thức ăn...

    _ Nghi xây chầu đại bội: Nghi này được diễn ra vào tối ngày chính tế và gồm có 2 phần: Xây chầu và đại bội. Xây chầu còn gọi là lễ khai tràng, mang ý nghĩa cầu quốc thái dân an, khai thông thái cực. Sau lễ xây chầu là đại bội. Tùy vào yêu cầu của Ban Khánh tiết, đoàn hát bội sẽ thực hiện các nghi này và có phần giản lược. Lễ đại bội bao gồm: Khai thiên - tịch địa, Xang nhật nguyệt, Tam tài, Ngũ hành, Tứ Thiên Vương dâng liễn, Ông Địa gia quan tấn tước.

    _ Nghi chính tế: Nghi này được tổ chức vào 12g đêm ngày chính lễ. Đây là nghi thức quan trọng nhất của lễ kì yên, được tổ chức tại chính điện với thời gian từ 2 - 3 giờ. Ban Khánh tiết có mặt đầy đủ. Sau 3 hồi chuông, trống, bộ phận tế tự quì lạy, có họ trò lễ và đào thài xướng lễ. Trước đó, ông Chánh bái đến trước ban thờ Bà làm động tác “ẩm phước thọ tợ”. Vì họ quan niệm rằng: Ông này là người cao tuổi, có đức độ nên được hưởng phước lộc của thần. Ẩm phước là uống ly rượu cúng Bà, thọ tợ là hưởng được miếng thịt ba chỉ hoặc nạc vai. Vì không ăn liền miếng thịt này, nên ông chỉ làm động tác tượng trưng ăn miếng trầu thay thế. Trong nghi chính tế, ông Hương văn đọc văn Chánh tế để tế Bà Thủy. Nội dung ca ngợi công đức, cầu nguyện Bà độ trì cho bà con ngư dân. Nghi chính tế kết thúc vào giữa khuya.

    _ Nghi tống ôn: Nghi này là nghi cuối cùng của lễ kì yên, tổ chức vào đêm ngày cuối cùng (ngày 17/4 âm lịch), được bày cúng ngoài sân miếu. Xưa kia, nghi này dùng bè thả lễ vật cúng ra ngoài sông và có pháp sư theo cùng. Thực chất, đây là nghi thức có ảnh hưởng từ Đạo giáo. Tống ôn là tống tiễn ma quỉ, ôn dịch, xui rủi…đi xa để trong làng không còn bệnh tật, ôn dịch, thất bát. Lễ vật tống ôn thường có muối, gạo, vàng bạc, bánh kẹo, củi và thực phẩm…Ban Khánh tiết tề tựu đầy đủ, bộ phận tế tự quì lạy và khấn nguyện. Nghi này có sử dụng văn tế, gọi là văn Tống ôn. Hiện nay, ở một số miếu còn gọi là nghi đưa khách. Ngày nay, đời sống của người dân đã tiến bộ và văn minh hơn, không còn ôn dịch, bệnh tật hoành hành như trước. Do vậy, quan niệm của họ đã thay đổi, kết thúc lễ kì yên là lễ đưa tiễn khách gồm các vị thần linh, cô hồn, ma quỉ…ra về, sau khi về chứng lễ và phối hưởng tại miếu.

    Trong những ngày lễ kì yên Miếu Bà An Thạnh, ghe đánh bắt phải tề tựu về dự lễ cúng. Họ mang những lễ vật đến miếu cúng tạ ơn Bà Thủy, ghe nào trúng mùa thì tạ lễ bằng heo quay, ngoài ra còn có xôi, chè…Xung quanh miếu không khí nhộn nhịp, đông vui với các hàng quán buôn bán. Mỗi gia đình đều cử người đến miếu cúng. Sau đó, họ ngồi bên nhau để lai rai và tâm tình về nghề biển, về những chuyến đánh bắt tiếp theo. Các món ăn do Ban Khánh tiết đãi là những lễ vật mà ngư dân đem đến cúng. Ngoài ra, họ còn có thêm các món cá đuối tái giấm hay xào nghệ, mắm cá, mắm tép ăn với thịt phay…Đây là những món ăn riêng có của vùng biển. Đặc biệt, không chỉ ngư dân, những người làm nghề khác như: Buôn bán, trồng giồng, nuôi tôm, làm muối…cũng tin tưởng vái van. Phải chăng đó là quá trình “cộng hưởng và lan truyền” từ đời sống tâm linh của ngư dân vốn là những người có vai trò chủ chốt trong đời sống kinh tế - xã hội và đông đảo tại địa phương? Mặt khác, trong đời sống hiện tại, chức năng của vị thần này được mở rộng hơn trước kia.
    3.3. Sinh hoạt nghệ thuật
    Có 2 hình thức sinh hoạt nghệ thuật trong lễ kì yên Miếu Bà An Thạnh là : Hát bội và múa bóng rỗi.

    Trong lễ kì yên Miếu Bà An Thạnh, hát bội trước giúp vui cho thần thánh, sau cho bổn hội và bà con xem. Ngày nay, Bến Tre chỉ còn lại một số đoàn hát bội hoạt động trong dịp kì yên ở đình, miếu, lăng như: Đoàn Lâm Tiến và Tâm Đồng (Thị xã Bến Tre), đoàn Thanh Điền (Huyện Thạnh Phú), đoàn Kim Phụng và Ngọc Quí (Sở Văn hóa- Thể thao-Du lịch Bến Tre), đoàn Đào Đửng (Huyện Ba Tri)…Tùy vào từng năm mà Ban Khánh tiết Miếu Bà An Thạnh có thể mời một trong các đoàn này. Ở đây, hát bội thường được diễn với 3 xuất hát vào 2 ngày 16 và 17/4 âm lịch. Lúc diễn có người cầm chầu và đại diện Ban Khánh tiết ngồi xem. Ngoài ra, người dân địa phương ngồi xung quanh để thưởng thức. Vào buổi tối, cả võ ca chật ních người, bao gồm nam nữ, già trẻ cùng ngồi xem cho đến hết tuồng hát. Do vậy, hát bội ngày nay vẫn còn trong mạch sống của ngư dân nơi đây. Người xem có quyền bình phẩm, góp ý, thậm chí chê trách nếu nội dung tuồng hát hoặc diễn xuất của diễn viên không đúng, không đạt. Đó là cơ sở cho Ban khánh tiết tham khảo có nên mời tiếp đoàn hát vào năm sau hay không. Đoàn hát phải cố gắng để trình diện tài năng của mình trên sân khấu. Người nghệ sĩ phải vào vai như chính nhân vật mà mình thể hiện, như câu đối ở phía ngoài võ ca của Miếu Bà An Thạnh:

    “ Giả diện hí trường thùy thức yên chỉ thành thánh chúa

    Chơn hình phòng nội hà tri tu phát thị thường dân”
    (Tạm dịch là: Nơi sân khấu hí trường phải giả thành vua chúa

    Chốn nội phòng bỏ râu tóc chỉ còn là thường dân)

    Qua khảo sát, một số tuồng hát bội được yêu thích và trình diễn cho ngư dân xem là vở Tiết Cương tảo mộ, Tiêu Anh Phụng loạn trào, Quan Công phò nhị tẩu, Cao Lan Anh, Bao Công xử án Quách Hòe, La Thông tảo bắc, Lưu Bị cầu hôn Giang Tả, Thạch Kim Huê đả hổ, San Hậu,…Các tuồng này không nằm ngoài thể loại tuồng truyện và tuồng đồ, được người dân yêu thích qua bao thế hệ. Nó góp phần vun bồi tính cách cho người dân nơi đây. Sau nghi thức xây chầu đại bội, người cầm chầu thúc trống, tuồng hát đầu tiên được trình diễn trong sự chờ đợi của mọi người. Sân khấu được trang hoàng rực rỡ, nhân vật mặc quần áo sặc sỡ, không khí sôi động hẳn lên với trống, nhạc và lời ca tiếng hát, góp phần làm cho các lễ hội thêm náo nhiệt, thu hút khá nhiều người tham gia. Kết thúc cả 3 tuồng hát bội là lễ tôn vương. Ở đây, ông bầu hay bà bầu của đoàn hát sẽ đứng ra đại diện cầu chúc đất nước, cho bổn hội, cho bà con ngư dân được một mùa ra khơi bình an, đời sống phát triển. Lễ tôn vương phản ánh rõ nét ý thức hệ phong kiến đã ảnh hưởng sâu sắc vào hát bội. Ngoài võ ca, 3 hồi trống chầu vang lên, đoàn hát bội quay vào buồng hát. Hát bội kết thúc giữa đêm khuya. Mọi người lại hẹn nhau vào mùa lễ năm sau.

    Bên cạnh hát bội là hình thức múa bóng rỗi. Múa bóng rỗi là điệu múa, bài hát mà con người dâng lên cho thần thánh để cầu nguyện. Hình thức múa bóng rỗi đã trở thành sinh hoạt văn hóa vừa mang tính nghi lễ, vừa mang tính giải trí trong lễ hội kì yên các miếu bà ở Nam bộ. Trước đó, Ban Khánh tiết miếu bà có nhiệm vụ đi mời bà bóng để múa cho ngày cúng kì yên. Ở An Thủy, họ thường mời các bà hay nhóm bóng ở xã An Bình Tây, xã Phú Ngãi, xã Phước Tuy…để làm lễ. Như vậy, các địa phương này thuộc huyện Ba Tri là nơi còn tồn tại loại hình múa bóng rỗi. Năm 2007, người viết có tham gia lệ cúng kì yên ở Miếu Bà An Thạnh. Biểu diễn múa bóng là bà bóng Năm ở xã Phú Ngãi. Đây là bà bóng khá nổi tiếng ở Ba Tri, được truyền nghề từ nhỏ, có hiểu biết về nghệ thuật múa bóng. Theo bà, múa bóng không phải mê tín dị đoan mà chỉ là diễn xướng nghệ thuật dân gian, có kết hợp múa và hát, là biểu hiện của truyền thống văn hóa dân tộc. Bà chỉ múa một mình. Đầu tiên, bà bóng Năm cùng ban nhạc làm lễ ở bàn thờ Tổ Nhạc. Sau đó, bà làm lễ Tổ tại bàn thờ trước võ ca. Bà múa và hát theo trình tự: Hát rỗi Bà Thủy, múa dâng hương, dâng bông và dâng mâm. Nội dung bài rỗi của bà bóng Năm như sau: Hằng Nga, Tiên Đồng, Ngọc Nữ là 3 người hầu của Lê Sơn Thánh Mẫu. Họ đang đi chơi và nghe mùi hương phảng phất thấu đến thiên cung. Bà Lê Sơn cùng Thái Ất Chân Nhân bắt ấn và biết được trần gian đang tổ chức hội miễu nên sai 3 người cùng xuống để dâng bông, dâng hương và dâng mâm vàng cho Bà Thủy. Khi họ xuống tới cõi trần, chị trước em sau để đi tìm miếu Bà thì bị ông Địa Tiên làm phép giăng nhện, không cho đi. Cả 3 người cùng niệm Phật, dùng phép thiên tiên để phá trận đồ. Sau đó, họ cùng nhau đến miếu để giúp vui cho Bà Thủy và cầu chúc cho “quốc thới dân an, gia gia phước thọ”. Như vậy, điều này phản ánh được sự thâm nhập của Phật giáo và Đạo giáo vào nội dung múa bóng rỗi. Mỗi khi vào vai, bà bóng Năm phải xưng danh tánh như: “Như ta đây là Hằng Nga cung nữ…”. Điệu múa của bà thật chuẩn, phù hợp với tiếng nhạc. Để diễn tả cảnh tiên giáng trần dâng bông, đôi mắt của bà bóng Năm nhắm lại, hai tay giang ra và vẫy như cánh chim đang bay từ trên không trung xuống trần. Diễn tả khi xuống trần, đôi mắt của bà mở ra, hai tay giơ cao lắc mạnh và đội lễ vật múa. Do vậy, bài múa bóng rỗi của bà có nội dung và kết hợp điệu bộ khá nhuần nhuyễn. Đó còn là lời rỗi lúc thì tha thiết, sâu lắng và lúc thì vui vẻ, rộn ràng, đi kèm theo tiếng nhạc bổng trầm, khoan nhặt. Vì thế, không gian của ngôi miếu lúc này vừa mang tính trang nghiêm nhưng cũng không kém phần sinh động trước sự thưởng thức của người xem. Khi múa, đôi tay làm động tác quay tơ, đan tơ: Buông ra rồi quay vô để cầu no ấm phú quí. Chân phải bước theo chữ Công, chữ Thọ để cầu chúc trường sinh, phú quí. Mỗi lần kết hợp tay và chân được xem là một bộ. Kết thúc một bộ là động tác nhún người, được gọi là rụp. Theo bà bóng Năm, mỗi nghệ nhân múa bóng đều có một bài rỗi riêng, không giống nhau, được thầy truyền lại và sáng tác thêm cho phù hợp. Đặc biệt, nếu rỗi mời Bà Chúa Xứ và Cửu Thiên Huyền Nữ thì có lời giống nhau:

    “Mời bà giáng tạ bàn trung

    Mời bà hưởng nước với hương ăn trầu”
    Riêng đối với Bà Thủy thì khác:

    “Ai đi ai đứng ngoài sông

    Tức là Bà Thủy dạo chơi biển hồ”
    Cuối cùng, Bà bóng Năm đưa mâm lộc (trầu cau) cho ông Chánh bái và cầu chúc Ban Khánh tiết và bà con ngư dân được một năm bình an, tài lộc, sức khỏe.

    Nói tóm lại, tín ngưỡng thờ Bà Thủy là hình thức tín ngưỡng tôn sùng giới tự nhiên, ở đây là yếu tố sông nước và biển cả. Việc tôn sùng này được gắn liền với vai trò của vị thần linh- Bà Thủy nhằm phù hộ độ trì cho ngư dân chài lưới và đánh bắt ở An Thủy qua nhiều thế hệ, mà cuộc sống của họ giữa sông nước và biển cả vốn có nhiều bất trắc hay xảy ra. Từ đó, các hoạt động cúng bái vị thần này được diễn ra thường xuyên và đều đặn với qui mô khá lớn, góp phần tạo nên một đời sống văn hóa khá phong phú, đa dạng của ngư dân An Thủy. Tất cả như một tổng thể văn hóa và là những di sản quí báu mà các thế hệ ngư dân ở đây tôn tạo và gìn giữ. Do vậy, việc mở rộng nghiên cứu và bảo tồn tín ngưỡng Bà Thủy ở Miếu Bà An Thạnh là một việc làm cần thiết. Đây không chỉ là một gạch nối giữa con người và thần linh, giữa con người với con người, giữa truyền thống và hiện tại mà còn là cơ sở cho sự tiếp tục gắn bó của ngư dân An Thủy với bờ biển Bến Tre, góp phần cho việc bảo vệ và khai thác một phần biển Đông nước ta.


    Tài liệu tham khảo:
    1. Đinh Bằng Phi 2005: Nhìn về sân khấu Hát bội Nam bộ- Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Văn nghệ.
    2. Đinh Gia Khánh 1992: “Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam”. Tạp chí Văn học, số 5/1992.
    3. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 2006: Những vấn đề nhân học tôn giáo- Đà Nẵng: Tạp chí Xưa và Nay- Nxb. Đà Nẵng.
    4. Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Sở Văn hóa-Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học Nghệ thuật Kiên Giang 2008: Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam bộ- Hà Nội: Nxb.Từ điển Bách Khoa.
    5. Huỳnh Ngọc Trảng 1993: “Tìm hiểu nguồn gốc và đặc điểm của múa bóng Nam bộ”. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 5/1993.
    6. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường 1999: Đình Nam bộ xưa và nay- Đồng Nai : Nxb.Đồng Nai.
    7. Lê Quang Nghiêm 1970: Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa- Sài Gòn: Trung tâm Văn bút Việt Nam.
    8. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) 2001: Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng Việt Nam- Hà Nội: Nxb.Khoa học Xã hội.
    9. Ngô Đức Thịnh 2007a: Đạo Mẫu (tập 1)- Hà Nội: Nxb.Khoa học Xã hội.
    10. Ngô Đức Thịnh 2007b: Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận- Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb.Trẻ.
    11. Ngô Đức Thịnh 2007c:Về tín ngưỡng lễ hội cổ truyền- Hà Nội: Viện Văn hóa- Nxb.Văn hoá Thông tin.
    12. Nguyễn Chí Bền 1997: Tìm hiểu một số hiện tượng văn hoá dân gian Bến Tre- Hà Nội: Nxb.Khoa học Xã hội.
    13. Thạch Phương, Đoàn Tứ (chủ biên)2001: Địa chí Bến Tre (tái bản lần 2)- Hà Nội: Nxb.Khoa học Xã hội.
    14. Trần Hồng Liên (chủ biên) 2004: Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam bộ- Hà Nội: Nxb.Khoa học Xã hội.
    15. Trương Thìn 2005: Tôn trọng tự do tín ngưỡng, bài trừ mê tín dị đoan-Hà Nội: Nxb.Văn hóa Thông tin.
    16. Sơn Nam 2006: Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam- Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb.Trẻ

    Nguồn: Tạp chí Nguồn sáng Dân gian, số 2/2010


  16. #16
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định




    Giản giới tục thờ Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa

    ( Nguồn: http://www.ninhhoatoday.net/stbkky76-2.asp )




    Trong tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần ở Việt Nam nói chung thì Ngũ Hành thần nữ mà dân gian thường gọi là mẹ Ngũ hành hay bà Ngũ hành được thờ tự phổ biến ở các làng xã đặc biệt là tại các tỉnh ở Nam Trung bộ và Nam bộ. Đối với vùng đất Khánh Hòa, tục thờ này vẫn đang được bảo lưu và thực hành rộng rãi. Vậy tục thờ Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa biểu hiện cụ thể ra sao? Các triều đại quy định điển lễ và ban tặng sắc phong đối với Ngũ Hành thần nữ như thế nào?... đó là những vấn đề cần tìm hiểu mà bài viết này mong muốn đề cập ngõ hầu góp phần nhỏ vào công tác nghiên cứu tục thờ nữ thần nói riêng và tín ngưỡng thờ mẫu nói chung.

    Trước hết cần tìm hiểu một cách giản lược về khái niệm về Ngũ hành 五 行. Ngũ hành theo quan niệm triết học của người Trung Quốc cổ đại để chỉ năm hành (đi, sự vận động) cơ bản của vũ trụ bao gồm hành Thủy 水 (biểu trưng cho yếu tố nước, chất lỏng), hành Hỏa 火 (biểu trưng cho yếu tố lửa), hành Mộc 木 (biểu trưng cho yếu tố cây, gỗ), hành Kim 金 (biểu trưng cho yếu tố kim loại), hành Thổ 土 (biểu trưng cho yếu tố đất đai, thổ nhưỡng). Các hành này tương sinh tương khắc, chế hóa lẫn nhau tuân theo những quy luật nhất định. Cũng từ quy luật lý thuyết đó, Ngũ hành có ứng ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như trong Y học, ẩm thực, âm nhạc, phương vị, màu sắc, thiên văn, thời gian…
    Xuất phát từ Trung Quốc, dần dần thuyết Ngũ hành được tín ngưỡng hóa, thành sự thờ phụng trong quan niệm “vạn vật hữu linh” rất phổ biến ở nhiều dân tộc Á Đông cho đến ngày nay trong đó có Việt Nam. Đặc biệt nước ta có truyền thống từ một nước nông nghiệp trồng lúa nước nên tín ngưỡng thờ các nhiên thần tức các thần trong tự nhiên như thần đất, thần nước, thần cây, thần lửa, và các thần có nguồn gốc từ động vật như chim, thú…. rất được coi trọng.

    Xu hướng nữ hóa các vị thần đặc biệt là các nhiên thần như trường hợp năm bà ngũ hành (Ngũ hành thần nữ), các thần có nguồn gốc từ động vật như loài chim (Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ)[i],….cho thấy sự phong phú và đa dạng trong tín ngưỡng thờ nữ thần ở Khánh Hòa ngoài các nữ thần có nguồn gốc từ thiên thần (Thiên Y A Na) và các nhân thần là những thần có nguồn gốc từ con người cụ thể.



    Miếu thờ Hỏa tinh thần nữ, trong khuôn viên đình Mỹ Trạch Ninh Hòa

    Di tích để thờ bà Ngũ hành thường mang tên Miếu Ngũ hành, Miếu Bà Ngũ hành hoặc có nơi gọi giản lược là Miếu Bà. Cũng nhiều trường hợp miếu thờ bà Ngũ hành mang tên miếu cùng với địa danh nơi đó, nhưng qua tìm hiểu cấu trúc thờ tự và thần chủ được thờ thì biết đó là miếu thờ bà Ngũ hành. Ở Khánh Hòa có nhiều miếu thờ Ngũ hành và dạng thức thờ tự. Nhiều nơi ở địa bàn Diên Khánh, Nha Trang, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Cam Lâm, Cam Ranh có miếu thờ riêng như các ngôi miếu của các vị thần khác thường thấy. Có khi bà Ngũ Hành được phối thờ trang trọng trong các am thờ nhỏ hoặc các ban thờ riêng ở các miếu thờ hoặc các di tích như đình, chùa, lăng… do sự bài trí của người dân địa phương trong từng di tích cụ thể.



    Khám thờ Ngũ hành và bài vị miếu Cổ Chi Diên Khánh

    Trong các ban thờ Ngũ hành một số nơi như di tích Am Chúa, di tích Miếu Bà Đại Điền Đông (Diên Khánh) có bài trí tượng năm bà rất đẹp với những màu sắc trang phục riêng cho từng bà. Căn cứ vào phương vị và màu sắc trong thuyết Ngũ hành thì trang phục áo bào màu vàng là bà Thổ, màu đỏ là bà Hỏa, màu xanh là bà Mộc, màu đen là bà Thủy, màu trắng là của bà Kim, trong đó tượng bà Thổ thường được đặt ở chính giữa năm bà vì mệnh thổ ở Trung ương, cũng như vậy tùy vào mệnh của mỗi bà Ngũ hành ứng với mỗi phương mà xếp đặt vị trí tượng cho tương ứng như: mệnh Kim ở phương Tây, mệnh mộc ở phương Đông, mệnh Thủy phương Bắc, mệnh Hỏa phương Nam. Đặc biệt trong một số di tích như am thờ Ngũ hành trong khuôn viên Miếu Bà Đại Điền Đông (Diên Khánh) vừa có tượng năm bà lại vừa có bài vị chữ Hán đề tự hiệu đích danh năm bà. Các miếu hoặc ban thờ không có tượng thì thường có bài vị bằng gỗ khắc chữ Hán đề danh hiệu của năm bà hoặc cũng có thể được viết bằng mực tàu lên trên tường nơi thờ bà Ngũ hành với tự hiệu Ngũ hành thần nữ; Ngũ hành chi vị hoặc Ngũ hành….

    Khảo sát các tư liệu Sắc phong, bài vị, văn tế tại các di tích thì tên gọi chung của năm bà thường là Ngũ hành thần nữ 五 行 神 女, Ngũ hành nương nương 五 行 娘 娘, có di tích trên sắc phong đề là Ngũ hành tiên nương 五 行 僊 娘. Tên hiệu cụ thể của từng bà cũng không đồng nhất ở các di tích. Có khi là Kim đức thánh phi 金 德 聖 妃, Mộc đức thánh phi 木 德 聖 妃 , Thủy đức thánh phi 水德 聖 妃 , Hỏa đức thánh phi 火 德 聖 妃 , Thổ đức thánh phi 土 德 聖 妃, cũng có lúc là Hỏa tinh thần nữ 火 晶 神 女 , Thủy tinh thần nữ 水 晶 神 女 như ở sắc phong miếu Tam Tòa (Diên Khánh), lại có trường hợp là Chủ thiết/Chúa sắt thần nữ 主 鐵 神 女 tại Miếu Hội Đồng [ii] (Diên Khánh).



    Sắc phong Ngũ hành thần nữ, miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh)

    Điều đặc biệt là Ngũ hành thần nữ đã được triều Nguyễn liệt vào tự điển và ban tặng sắc phong, đây là minh chứng quan trọng thể hiện tính chính thống quan phương của triều đình cho phép xã dân được thờ tự và công nhận bà Ngũ hành xếp vào hàng thần như những vị thần khác trong bách thần theo quan niệm của người xưa.
    Sắc phong cho bà Ngũ hành cũng tồn tại hai dạng là phong chung và phong riêng tùy thuộc vào việc thờ ở mỗi làng xã. Qua việc thờ tự ở các di tích cho thấy, thường các di tích thờ cả năm bà Ngũ hành, có di tích thờ một bà trong năm bà như Miếu Bà Hỏa thờ bà Hỏa (Vĩnh Ngọc, Nha Trang), Đình Khánh Thành (Cam Lâm) có sắc thờ Kim tinh thần nữ. Cũng có di tích thờ hai bà trong năm bà như trường hợp Miếu Tam Tòa (Diên Khánh) có sắc phong thờ bà Thủy tinh thần nữ và Hỏa tinh thần nữ.

    Như vậy rõ ràng việc tôn thờ một, hai hoặc năm bà trong Ngũ hành biểu tượng cho những yếu tố vật chất là đất đai, nước, kim loại, cây gỗ, củi lửa được người xưa tiếp nhận phụ thuộc vào đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng và tập quán sinh hoạt của người dân trong từng vùng. Theo đó, nơi nào vượng hành gì thì thường thờ vị thần của hành đó. Ví như vùng gần sông suối thường thờ bà Thủy, nơi nào nhiều đất đai vườn ruộng thường thờ bà Thổ, nơi nào có khí hậu khô nóng thờ bà Hỏa, miền rừng núi thờ bà Mộc hay mẫu Thượng Ngàn…



    Tượng năm bà Ngũ hành, tại miếu Ngũ hành - Am Chúa Diên Khánh


    Các sắc phong chung cho Ngũ hành thần nữ ở Khánh Hòa có niên đại muộn hơn các vị thần khác. Sắc phong chung cho Ngũ hành được tìm thấy sớm nhất vào năm Duy Tân thứ 5 (1911), hiện có ở nhiều di tích, như miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh), đình Phong Ấp (Ninh Hòa). Sắc phong riêng cho từng vị trong năm vị thì Chủ thiết/Chúa sắt thần nữ (tức là bà Kim) có sắc phong sớm nhất là vào năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) tại Miếu Hội Đồng (Diên Khánh), còn lại đa số các sắc phong chung cho Ngũ hành thần nữ có niên đại vào năm Khải Định thứ 2 (1917) và năm Khải Định thứ 9 (1924).
    Mỹ tự[iii] được phong qua các đời đối với Ngũ hành thần nữ là Tán hóa Mặc vận Thuận thành Hòa nhu Tư nguyên Trang huy Dực bảo trung hưng 贊 化 默 運 順 成 和 柔 資 元莊徽 翊 保 中 興, và thứ hạng thần cao nhất được phong là thượng đẳng thần上 等 神 (xếp vào hàng thần bậc thượng)[iv].

    Đối với các di tích có sắc phong riêng cho từng vị trong năm vị thì mỹ tự được phong của mỗi bà cũng có nét riêng và thứ hạng thì chỉ lên đến hàng thần bậc trung (trung đẳng thần) trong ba hạng Thượng – Trung – Hạ. Như ở Đình Khánh Thành (Cam Lâm), sắc phong cho Kim tinh thần nữ vào năm Khải Định thứ 2 (1917) phong mỹ tự và thứ hạng là Trinh uyển Dực bảo trung hưng Hạ đẳng thần貞 婉 翊 保 中 興 下 等 神, năm Khải Định thứ 9 (1924) phong thêm mỹ tự Trai tĩnh 齋 靜 và xếp hạng là trung đẳng thần 中 等 神.
    Nghi thức cúng tế Ngũ hành thần nữ cũng có nét tương đồng như các vị nữ thần hay mẫu thần khác trong vùng, tùy theo truyền thống phong tục mỗi địa phương mà quy định ngày vía và lễ phẩm phù hợp. Thường người dân hay tổ chức lễ vía bà vào tháng ba theo quan niệm cổ truyền tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Trong các văn cúng cầu an, cúng xuân cúng thu tại các di tích, thường thấy danh hiệu của bà Ngũ hành xuất hiện cùng với nhiều tên các vị thần khác trong thôn xã. Nhân dân các nơi tôn thờ Ngũ hành thần nữ và coi bà như thần mẹ có nhiệm vụ chở che và phò giúp họ trong lao động sản xuất được mùa màng tốt tươi, nhân khang vật thịnh. Đó cũng là nét đẹp tâm linh trong văn hóa tín ngưỡng thờ nữ thần, mẫu thần vốn đã trở thành mỹ tục của một vùng đất có bề dày truyền thống./.
    Đỗ Văn Khoái
    Trung tâm Bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa


    Tư liệu tham khảo:
    1. Hồ sơ khoa học di tích: Đình Mỹ Trạch, Đình Phong Ấp (Ninh Hòa).
    2. Hồ sơ khoa học di tích: Miếu Tam Tòa, Miếu Bà Đại Điền Đông, Am Chúa (Diên Khánh).
    3. Sắc phong các di tích: Miếu Hội Đồng (Diên Khánh), Đình Khánh Thành (Cam Lâm), Miếu Tam Tòa, Miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh)…


    [i] Ở Đình Hội Xương (Diên Khánh) hiện có miếu riêng thờ bà Phấn Nhĩ Quỷ Vương và có sắc phong cho bà. Thần hiệu của bà qua tư liệu sắc phong tại miếu là Phấn Nhĩ Quỷ Vương thần nữ 奮 耳 鬼 王 神 女.
    [ii] Miếu Hội Đồng: Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III, phần viết về tỉnh Khánh Hòa, mục Đền Miếu có ghi: Miếu Hội Đồng ở xã Phú Lộc, huyện Phước Điền thờ các vị thần trong bản cảnh, dựng từ năm Gia Long thứ 15, lợp bằng tranh; năm Tự Đức thứ 2 tu bổ lợp ngói. Hiện miếu không còn nhưng còn lưu giữ được 34 đạo sắc phong phong cho 11 vị thần trong bản cảnh trong đó có 03 sắc phong cho Chủ thiết/chúa sắt thần nữ 主 鐵 神 女 .
    [iii] Mỹ tự: là những từ có ý nghĩa cao đẹp dùng để phong cho các vị thần, thường thấy trong sắc phong. Tùy thuộc vào công trạng, đức nghiệp của từng vị thần mà triều đình ban cho mỹ tự phù hợp. Ví dụ như mý tự phong cho Kim tinh thần nữ là Trinh uyển (chính đính, nhún thuận) Trai tĩnh (trai giới, trong sạch) Dực bảo trung hưng (có công giúp nước trong sự nghiệp trung hưng). Mỹ tự phong cho thần Thành hoàng ở Khánh Hòa thường là Quảng hậu (sâu dày) Chính trực (ngay thẳng) Hựu thiện (phò thiện) Đôn ngưng (lắng đọng).
    [iv] Tư liệu: sắc phong Ngũ hành thần nữ tại Miếu Ấp Bạch Qua (Diên Khánh), Đình Phong Ấp (Ninh Hòa).



    Last edited by phoquang; 02-12-2015 at 07:24 AM.

  17. #17
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định


    Lời của một Sư bà 90tuổi tu tại Tây Ninh và một Bà Cô tại Trị An Đồng Nai đang thờ Phật Địa Mẫu và Năm Bà Ngũ Hành: Năm Bà Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, tượng trưng cho đất trời vũ trụ:

    - Kim: biểu hiện sắc vàng ánh kim, chất kim loại, đại diện cho Bà Tây Vương Mẫu.

    - Mộc: biểu hiện sắc xanh đen, thuộc về cây, đại diện cho Bà Diêu Trì Kim Mẫu.

    - Thuỷ: biểu hiện sắc trắng, thuộc về nước, đại diện cho Bà Quan Âm Bồ Tát.

    - Hoả: biểu hiện sắc đỏ, thuộc về lửa, đại diện cho Bà Trung Quốc Mẫu.

    - Thổ: biểu hiện sắc đen, thuộc về đất, đại diện cho Bà Phật Mẫu Diêu Trì (Phật Địa Mẫu người đứng trên quả địa cầu).

    Trên quả địa cầu của chúng ta sống được tạo thành từ những chất liệu này và cùng chịu sự cai quản vận hành của Năm Bà, một ngôi chùa muốn tạo dựng đều phải lập một miếu nhỏ thì Ngôi Tam Bảo mới bền vững.



    Nguồn: http://vutruhuyenbi.com/forum/viewto...&t=981&start=0



  18. #18
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    VĂN THỈNH 5 BÀ

    ( Nguồn: http://hatvan.vn/forum/showthread.php?t=36483&page=2 )



    Thỉnh mời Ngũ Vị Tiên Nương
    Cõi mây năm gió, năm phương Bà về.
    Hay là dạo khắp trần gian,
    cầm hoa, hái quả, đem về hiến dâng.
    Hay chơi quán Sở, lâu Tần,
    Cũng xin giá võ, đằng vân ngự về.
    Kính Bà cây Động đỏ hồng,
    Lầu váng, núi bạc, chầu bông sẵn sàng.
    Tình nhân thế hiệp hai hàng,
    Thỉnh Bà giáng ngự về đồng chứng minh.
    Tây phương thỉnh đức Kim Tinh,
    Thần thông biến hoá oai linh làm đầu.
    Chầu Mộc Tấn, cõi Tây Lầu,
    Trên nguồn, dưới bể vọng cầu cũng thinh.
    Chầu Thủy Tấn, cõi Nam Khê,
    Đằng vân, giá võ, ngự về tòa chương.
    Chầu Hỏa Tấn, cõi Bắc Phương,
    Bệnh thời mắc, có Bà Vương Cõi Bà.
    Trung Ương Chầu Thổ giữa trời,
    Mở lòng nhân đức cứu người thế gian.
    Năm Bà, Năm cõi, tòa vàng,
    Ngũ phương, ngũ hướng, phép càng oai linh.
    Hành phong, hoành võ oai linh,
    Ai mà lầm lỗi trong mình khác ngay.
    Biết ra cầu đảo đêm ngày,
    Lâu thời bệnh nhiễm về tay Năm Bà.
    Có lòng một nén hương hoa,
    Không lòng lễ vật kêu mà thấu chi.
    Phép Bà nương gió cỡi mây,
    Trên thời hộ quốc, dưới thời an dân.
    Văn chầu thánh giáng lưu ân,
    Năm bà giáng phước, Thiên ân thọ trường.



    Last edited by phoquang; 03-12-2015 at 07:19 AM.

  19. #19
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    VĂN THỈNH 5 BÀ
    [ ThienGiac Soạn ]

    ( Nguồn: http://hatvan.vn/forum/showthread.php?t=36483&page=2 )




    Kính dâng 5 nén nhang thơm,
    Tâu lên ngũ vị thượng tiên Ngũ Hành.
    Ngũ hành năm vị năm phương,
    Thần thông hiển hách oai linh ai tày.
    Chúng con chung gối tỏ bày
    Khấu đầu vọng bái Thánh Bà Tiên Phi
    Bà con Thượng Đế Thiên Cung,
    Sớm trưa chầu trực đền rồng vào ra
    Cha phong ngũ vị Thánh Bà
    Kim Tinh đệ nhất, thỉnh ngài phương Tây.
    Thỉnh bà về với trần miền,
    Giáng lâm trước án, hưởng thiên lễ này.
    Thanh Đế Thần Nữ Đông phương
    Nguyện Bà giáng hạ đền rồng chứng minh.
    Hắc Đế, Thần Nũ Tiên Phi,
    Giáng từ phương bắc, chứng từ đằng hương.
    Xích Để Thần Nữ Nam phương,
    Dâng hương vọng bái, thỉnh nghinh Bà về
    Hoàng Đế, Thần Nữ Tiên Nương,
    Đằng vân giáng phủ Trung Ương ngự về.

    Năm Bà, Liễu liễu phương phi,
    Môi son, mắt phượng, điều thì, tóc xanh.
    Hình dung cốt cách ai bằng,
    Hình dung, nhan sắc thoát tày trần gian.

    Xuân thu đông hạ tứ thời,
    Khấu đầu vọng bái 5 bà thượng tiên
    Chúng con một dạ chí thành
    Đèn hương, lễ vật, kính thờ nguyện xin,
    Nguyện xin tật bệnh tiêu trừ,
    Năm xung, tháng hạn tống đưa ra ngoài.



    Last edited by phoquang; 03-12-2015 at 07:27 AM.

  20. #20
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của phoquang
    Gia nhập
    Mar 2008
    Bài gởi
    30,545

    Mặc định

    THƠ VỀ 5 BÀ
    [ ThienGiac sáng tác ]

    ( Nguồn: http://hatvan.vn/forum/showthread.php?t=36483&page=3 )



    Kính dâng năm nén hương lành,
    Tâu lên ngũ vị Ngũ Hành Nương nương.
    Ngũ hành Ngũ Mẫu năm phương,
    Thần thông hiển hách tuyên dương khôn tày.
    Chúng con chung gối tỏ bày,
    Khấu đầu vọng bái các ngài Tiên Phi.
    Kỉnh Bà mở lượng từ bi,
    Cỡi mây cỡi gió, năm chi về truyền.
    Hay là dạo khắp trần miền,
    Giáng lâm trước án, chứng thiên lễ phần.
    Hay chơi quán Sở, lầu Tần,
    Cũng xin giá võ, đằng vân ngự tòa.
    Kính Bà năm sắc chầu hoa,
    Đai, cân, mão, áo, phì phà, trà, phan.
    Tình nhân thế hiệp hai hàng,
    Thỉnh Bà giáng ngự về đàn chứng minh.

    Nhứt thời thỉnh đức Kim Tinh,
    Bạch y thần nữ oai linh làm đầu.
    Thần thông biến hoá Tây lầu
    Nguyện Bà giáng hạ sở cầu chứng tri.

    Chầu Mộc Tấn, cõi Đông Ti,
    Thanh y thần nữ, chứng trì đằng châu.
    Điện rồng mẫu ngự nơi lầu,
    Thượng nguồn, hạ bể, vọng cầu cũng thinh

    Chầu Thủy Tấn, cõi Bắc Kinh,
    Hắc y thần nữ, tòa chinh ngự về.
    Hoa hương trà tửu đề huề,
    Dâng lên từ mẫu, trương khuê đàng hoàng.

    Chầu Hỏa Tấn, cõi Nam Bang,
    Xích y Thần Nữ hạ đàn lai lân.
    Đằng vân, giá võ, kim thần,
    Bà đi độ khắp bất tuân trong đời.

    Trung ương Chầu Thổ giữa trời,
    Hoàng y Thần Nữ mở lời đoan trang.
    Tiên Bà gian khổ không màng.
    Kiếm trời than dược, cứu đàn con mang.

    Năm Bà, Năm cõi, tòa vàng,
    Ngũ phương, ngũ hướng, phép càng oai nghi.
    Năm Bà, liễu liễu, phương phi,
    Môi son, mắt phượng, nét thùy, tóc xanh.
    Hình dung cốt cách ai bằng,
    Thần nhan, sắc thái tựa vầng trăng minh.
    Hành phong, hành vũ, oai linh,
    Ai mà lầm lỗi mau trình hối ngay.
    Biết ra cầu đảo đêm ngày,
    Tâm thành tất ứng Năm Ngài hiển ra.
    Có lòng chỉ nén hương hoa,
    Không lòng lễ vật kêu mà thấu đâu.
    Phép Bà, ôi nó nhiệm mầu,
    Trên thời hộ quốc, dưới cầu an dân.
    Xuân thu đông hạ ân cần,
    Khấu đầu vọng bái chân thần Thượng Tiên.
    Chúng con một dạ kiền thiền,
    Ngoài nam, ra bắc, ba miền nguyện xin,
    Năm Bà độ thoát tai tinh,
    Năm xung, tháng hạn cứu sinh con trần
    Hà sơn xã tắc xa gần,
    Họa tai nước lửa chẳng gần được dân
    Văn chầu thánh giáng lưu ân,
    Năm bà giáng phước, Thiên ân thọ trường.
    Cầu xin bà đã mọi đường,
    Cúi xin chứng giám, chiêu dương hạ trần.




Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •