Thế Giới Khi Xưa
(THE WORLD BEFORE)


Tác giả: Ruth Montgomery Coward, Mc Cann Geoghegan, Inc. 200 Madison Ave, New York, NY. 10016

LỜI NÓI ÐẦU
Tác-giả là một phóng viên báo chí, vốn không tin những sự huyền bí. Nhưng trong nhiều năm, bà đã được chứng kiến nhiều sự kỳ lạ xảy đến cho những người thân và bạn bè, báo trước những việc sắp tới, hoặc báo tin đúng lúc việc xảy ra tại nơi khác rất xa, có khi phải vài ngày sau mới được tin theo lối thông thường. Bà cũng đã tiếp xúc với nhiều con đồng (medium), dự nhiều phiên gọi hồn và viết tự động mà ta gọi là cầu cơ. Con đồng là người có khả năng tiếp xúc với người sống qua miệng hoặc tay của họ. Chính tác-giả cũng có khả năng đánh máy tự động, là để cho một linh hồn mượn tay của mình đánh máy ra những điều muốn nói.
Bà là một trong nhiều nhà học giả khảo cứu về thế giới vô hình. Nhờ những điều hỏi được các linh hồn, bà đã viết ra một số sách, như: A Search for the Truth (Tìm Sự Thật), A Gift of Prophecy: Jeane Dixon (Nhà Tiên Tri Jeane Dixon), Here and Hereafter (Ðây và Sau Ðây), A World Beyond (Thế Giới Bên Kia) và cuốn này.
Cuốn Thế Giới Khi Xưa này cũng được viết ra bằng những tài liệu do những linh hồn cao siêu mà tác giả gọi là Dẫn-đạo-sư (spirit guides) đã đánh máy ra qua bàn tay của bà. Dẫn-đạo-sư kể lại sự tích từ khi khai thiên lập địa, nghĩa là từ khi trái đất mới thành hình, rồi bắt đầu có loài người, những sự phấn đấu của những người thái cổ (homo-sapiens) với thiên nhiên và với những giống vật khổng lồ đời tiền sử.
Khi Dẫn-đạo-sư nói đến những điều khó tin như cây cối rậm rạp vùng nhiệt đới tại nơi ngày nay băng giá quanh năm, tác giả đã tham khảo và tìm thấy những tài liệu khoa học trong tập Bách-Khoa Toàn Thư Encyclopedia Britannica) và vài cuốn khác, nói đến những vết tích cây cối và động vật bị chết cứng đột ngột dưới lớp băng đá rất dày trong những trận thiên tai đời thượng cổ. Khi Dẫn-đạo-sư nói đến lục địa trên vùng đại dương ngày nay, hoặc nói đến biển cả ở nơi đất liền hiện tại, tác giả cũng tìm được tài liệu khoa học chứng minh sự biến đổi đó.
Dẫn-đạo-sư nói rằng loài người bắt đầu sinh ra trên trái đất cách đây từ 5 đến 7 triệu năm. Người Bắc Kinh (là bộ xương cổ xưa tìm thấy tại vùng Bắc Kinh) được coi là bộ xương người xưa nhất mà các nhà bác học ước đã được 500 ngàn năm. Nhưng khi cuốn sách này sắp được xuất bản (1976) tác giả được biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tại miền đông Phi Châu, những xương bàn tay người ba triệu năm trước và xương sọ người một triệu rưỡi năm trước. Bác-sĩ Donald Johnson nói rằng sự xem xét hơn ba chục xương bàn tay và cổ tay rải rác trên một sườn đồi cho thấy rằng bàn tay có thể cử động như bàn tay người thời nay, chứ không như bàn tay của hai loài đười-ươi (gorilla và chimpanzee) là loài khỉ gần giống người hơn cả, hai loài này vẫn phải chống tay xuống đất để đi. Ðiều nhận xét này loại bỏ thuyết của khoa học cho rằng người và khỉ cùng chung một thủy tổ.
Bác sĩ Duane Gish cũng tìm thấy tại một lòng sông vùng Texas có vết chân người in vào đá gần vết chân khủng long.(có lẽ xưa là đất, lâu ngày đất ấy trở thành đá). [Khủng long (dinosaur) là một loài vật khổng lồ thời tiền sử, thuộc loài thằn lằn, có khi dài đến 30 thước (100 ft) cao hơn 5 thước (18 ft), thường chân sau rất lớn, chân trước rất nhỏ, đuôi lớn và dài, cổ ngắn đầu to, hoặc cổ dài đầu nhỏ.]
Ðiều này chứng tỏ loài người đã có sớm hơn là người ta tưởng, vì các khoa học gia vẫn cho rằng khủng long đã tuyệt chủng nhiều ngàn năm trước khi có người. Những người thái-cổ đã phải phấn đấu kinh khủng với những vật khổng lồ trong nhiều triệu năm sống chung với chúng.
Trong cuốn này, các dẫn-đạo-sư nói đến ba thiên tai, một trong đó là nạn trái đất đổi trục đã khiến cho vùng đại-lục Lemuria chìm xuống dưới Thái Bình Dương, đồng thời loài khủng long bị tuyệt chủng. Tác giả nghi ngờ rằng sao trái đất còn tồn tại được qua một tai nạn lớn lao nhường ấy, nhưng sau được biết các khoa-học-gia hiện đại đã nói Bắc-cực và Nam-cực đã có nhiều lần thay đổi vị trí trong thời gian ngàn triệu năm qua.
Dẫn-đạo-sư cũng đồng ý với Edgar Cayee {Edgar Cayee là một người Mỹ, làm nghề chụp hình, nhưng có khả năng tự thôi miên. Khi ông thức tỉnh chỉ là một người thường, không hiểu biết gì hơn người khác, nhưng khi ngủ thôi miên, ông rất sáng suốt, có thể:
- Nói rõ nguyên nhân bí hiểm bệnh tật của một bệnh nhân và cách chữa, trong khi các bác sĩ đều chịu bó tay.
- Nói ra những hành vi qúa khứ của một người trong những đời trước, đã đưa đến hậu quả là những khổ nạn mà người ấy phải chịu ngày nay.
- Nói về những biến cố lớn trong quá khứ và tương lai.
Ông đã qua đời vào khoảng 1945, thọ hơn 70 tuổi. Ông còn để lại hơn 30 ngàn hồ sơ về các buổi thôi miên của ông.} rằng gần cuối thế kỷ này sẽ có một lần trái đất đổi trục nữa, nhưng lần này có điều đáng mừng hơn là đáng sợ, vì tai nạn ấy sẽ đem lại một nền hòa bình, bởi lẽ nhân loại sẽ có quá nhiều vấn đề kiến thiết phải lo, không còn đầu óc nghĩ tới tham vọng đất đai của kẻ khác.


I. THUỞ SƠ KHAI

Trong Thánh-Kinh (Bible) có câu: "Thuở sơ khai, Thượng-Ðế tạo ra Trời và Ðất". Nhưng thế giới từ đâu mà có, và trước đó là gì? Dẫn-đạo-sư nói rằng: Trước đó chỉ là sự trống rỗng sâu thẳm quá sức hiểu biết của con người. Không có hỗn mang, không có tiếng động, không có yên tĩnh, không có gì cả. Thế nhưng cái Mãnh-lực mà ta gọi là Thượng-Ðế vẫn có luôn luôn ở đó, vì khôngcó Thượng-Ðế thì không có vật gì, không có động lực, cũng không có cả cái không có.
Hỏi: cái Mãnh-lực ấy từ đâu ra? Dẫn-đạo-sư thành thật nói: Chúng tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, vì lẽ trước khi phát sinh ra linh hồn con người thì chưa có cuốn sổ thiên nhiên (Cuốn sổ nầy theo như tôi hiểu, là cuốn sổ vô hình, mà ta thường gọi là sổ Thiên Tào, ghi chép tất cả các việc ở thế gian không thiếu xót việc gì. Các nhà Tiên tri là những người có thần nhãn có thể xem thấy cuốn sổ ấy và biết được những việc quá khứ vị lai. Cũng thế, tất cả hành động của một người từ bao nhiêu đời trước đều được ghi vào trong tâm thức, mà kinh Duy thức gọi là A-lại da thức hoặc thức thứ tám, thức ấy bất diệt và mang theo kho tàng phúc tội từ đời nầy sang đời khác theo luật luân hồi nhân quả.)
Cho đến khi Thượng-Ðế đặt những hành tinh vào quỹ-đạo, tạo nên tác động và sự hòa nhịp, thì linh hồn chúng ta chỉ là những phần tử của Toàn Thể, không có sự linh hoạt và hiểu biết. Nhưng Mãnh-lực ấy vẫn có đó, Thượng-Ðế vẫn có đó, vẫn có ở đó cái trí thông minh hoàn toàn khôn khéo, ngoài tầm hiểu biết của tâm trí con người.
Cái Mãnh-lực ấy bắt đầu tác động, và những ý nghĩ nẩy sinh ra trong Ðại-Thể ấy, để rồi trở thành sự thực. Từ những nguyên tử hợp thành mảnh li-ti, rồi những mảnh li-ti cuốn vào nhau quay theo chiều hướng nhất định, dần dần đến những khối lớn trở thành hành tinh xoay quanh những mặt trời do từ lực hút dẫn.
Vài hành tinh dần dần khô cứng vỏ ngoài, sinh vật vi-tế hiện ra, trước còn đơn giản như những tế bào, sau phức tạp hơn như trứng, tinh trùng và bào thai. Từ Mãnh-lực ấy, gọi là Thượng-Ðế, bắn ra hàng triệu triệu tàn lửa, mỗi tàn lửa là một linh hồn bao quanh Ðại-Thể, mỗi linh hồn được tự do đi theo ý muốn của mình. Theo các Dẫn-đạo-sư, tất cả chúng ta được tạo nên cùng một lúc trong lần bùng nổ tàn lửa đầu tiên ấy, sau đó không có tạo ra linh hồn nào nữa, và cho tới nay có nhiều linh hồn còn chưa bước vào đời vật chất.
Lúc phôi thai, các linh hồn là những tàn lửa nhỏ do Thượng-Ðế phóng ra, cũng như những đứa trẻ chập chững đi bên cạnh cha, đều ngây thơ như nhau. Rồi sau có một số lang thang ra ngoài đường chính như những đứa trẻ mất nết, muốn thử sức mình mà không theo khuôn khổ của Thượng-Ðế. Nhân đó, những tính xấu như ghen ghét, tham vọng, phát sinh và càng ngày càng tăng trưởng.
Nói đến sự cấu tạo lên vũ-trụ, dẫn-đạo-sư viết: Có nhiều chuyển biến trong thời gian trái đất dần dần đặc cứng. Ðầu tiên là khí, rồi đến nước, rồi đến đất, đến cỏ cây, đến sinh vật, rồi những linh hồn nhập vào sinh vật hưởng thú ăn, ngủ, sinh sản, rồi bị ràng buộc vào thân hình vật chất.
Rồi Mãnh-lực mà ta gọi là Thượng-Ðế lại sinh ra một loại sinh vật trình độ cao hơn, có bàn tay, bàn chân, và xương đứng thẳng, với khối óc lớn hơn, có thể phân biệt thiện ác, và có thể điều khiển thú vật, chim cá, nhờ thông minh hơn. Mới đầu mọi sự đều tốt đẹp, sau vì họ được tự do làm theo ý muốn, những sinh vật ấy phối hợp với những linh hồn đã nhập vào thân súc vật, mà sinh sản ra những loại bán-nhân dị-hình, như người có móng chân ngựa, có đuôi, sừng, vây cá, lông chim. Ðó là các hậu quả thương tâm của sự cố ý bất tuân lệnh Thượng-Ðế. Những bán-nhân ấy xưa kia nhan-nhản trên trái đất, nay còn nhớ lại là những thân hình chân ngựa mình người (contaur), thần dê (salyr), người đuôi cá (mermaid). Một số đã được tạc hình trong các ngôi mộ cổ Ai-Cập, những thân hình người có sừng, có móng vuốt, có cánh, hoặc bộ phận bất thường khác. Ngay cả đến tượng thần Sphinx tại Ai-Cập, là một trong những kỳ quan thế-giới, cũng được tạc với mặt người, thân sư tử và có cánh. Những thân hình ấy, không nên coi là chuyện thần thoại, mà là có thực, do lỗi lầm nguyên thủy là sự phối hợp với loài vật.
Tại sao những người đầu tiên ấy lại phối hợp với thú vật, cá và chim? Dẫn-đạo-sư nói: Thoạt kỳ thủy, mỗi linh hồn là một thư-hùng lưỡng-thể, có đủ cả âm-lực và dương-lực, cũng như Thượng-Ðế. Một linh hồn có thể tự ý muốn ở trong một xác thân bao lâu cũng được, hàng ngàn năm, vì thế không cần sinh sản. Nhưng sau có những linh hồn bị ràng buộc vào thân xác thịt và phối hợp với loài vật, nên cần phải đặt ra một hệ-thống để cho con người có thể sinh sản riêng giống người và thỏa mãn nhu cầu phối hợp. Nhân đấy, một linh hồn nhập vào thân xác thịt được chia làm hai, tức là hai nửa, và chỉ khi nào hết đời vật chất trở về cõi tâm linh, hai phần mới lại nhập một. Linh hồn đầu tiên nhập vào thân hình người là Amelius, là một cá thể hoàn toàn. Nhưng đến khi Amelius trở lại thì thành ra hai phần Adam và Eve.
Tác giả nhắc lại lời Edgar Cayee cũng nói đến tên Amilius, hai chữ khác nhau về chính tả, vì Edgar Cayee chỉ "nói" lên trong lúc thôi-miên, còn dẫn-đạo-sư đã đánh thành chữ nên chính xác hơn.
Tập quán thông thường coi đàn bà ở địa vị thấp hơn đàn ông. Thực ra việc sinh con đẻ cái cực kỳ quan trọng. Vả chăng mỗi chúng ta khi trở lại trái đất, lấy thân hình hoặc nam hoặc nữ, vậy vinh dự không dành riêng cho phái nào. Ngay chính Thượng-Ðế là một cá thể hoàn toàn, chẳng phải nam, chẳng phải nữ; chúng ta gọi là Cha, chỉ là theo tập quán thông thường.
Sự sinh ra những người đầu tiên là một biến chuyển cực kỳ quan trọng, không những vì trình độ trí khôn và thân hình con người cao hơn tất cả các sinh vật khác, mà còn vì chính một phần tâm linh của Thượng-Ðế ở trong đó, khiến con người, với sự tự do làm theo ý muốn, có thể đạt đến quyết định sau khi suy luận, điều này hoàn toàn không có trong loại vật. Y được chọn con đường y đi, được thương yêu và được thù hận, vì y là một phần của Thượng-Ðế, nên y có thể tạo ra ý nghĩ rồi đem ý nghĩ đến chỗ thực hiện. Như vậy, con người trở lên một cá tính, nhưng vẫn là một phần của Toàn Thể Vĩ Ðại, vậy thì ghét bỏ hay khinh khi một người khác tức là thù hận chính mình và cả Tạo Vật. Mỗi chúng ta là một phần của Toàn Thể Nguyên Thủy, và bị tách ra cho đến ngày chúng ta được hợp trở lại với Thượng-Ðế.
Những lời Dẫn-đạo-sư nói cũng tương tự lời của Edgar Cayee và những nhà siêu-hình-học khác, vì lẽ tất cả sự việc đều ghi vào sổ thiên nhiên, và những tâm linh sáng suốt được đọc sổ ấy, đều được nói lên sự thật như nhau. Edgar Cayee cũng nói rằng Amelius là thiên thần đầu tiên nhập vào thân hình người, và một số linh hồn đã làm trái ý muốn của Thượng-Ðế mà phối hợp với cầm thú, khiến cho những quái vật được sinh ra. Sự kiện này đã tiếp diễn trong nhiều ngàn năm.
Nhưng từ khi linh hồn người được phân chia ra nam nữ để sinh sản ra cùng giống, Thượng-Ðế đặt ra luật khiến cho loài người không thể sinh ra con cái khi phối hợp với loài khác. Năm giống người được vào trái đất cùng một lúc, mỗi giống có một mầu da riêng biệt để thích hợp với ánh nắng mặt trời và hoà đồng với hoàn cảnh (Từ trước tôi không khỏi thắc mắc, sau khi đọc truyện Adam và Eve, rằng ai là thủy tổ của loài người. Theo kinh Thánh (Bible), Ðức chúa trời (God) đã tạo ra trời đất cỏ cây động vật và sau cùng là người trong sáu ngày. Người đầu tiên Adam và Eve sinh ra tại vườn Eden ở trong khu vực Assyria-Euphrates, tức là vùng tây Á châu từ Ðịa trung hải đến vịnh Ba tư. Ðến khi cháu Adam đời thứ 20 là Abram (sau đổi là Abraham) vì nạn đói phải đi sang Ai Cập, và cháu Adam đời thứ 23 là Joseph bị các anh bán sang Ai Cập, thì thấy rằng người Ai Cập không phải là dòng-dõi Adam. Theo tập Exodus là Jehovah (chương 6) "là Ðức Chúa Trời của người Do Thái" (The Lord of the Hebrews, chương 3), vậy Ðức Chúa Trời trong Kinh Thánh chỉ sinh ra người Do Thái, chứ không sinh ra người Ai Cập. Ngoài ra, còn người Á châu da vàng, người Âu châu da trắng, người Phi châu da đen, người Mỹ châu da đỏ, ai đã sinh ra? Nay đọc cuốn sách nầy, dẵn đạo sư nói có năm giống người được sinh ra tại năm nơi với màu da khác nhau, như thế có lý hơn.)
Từ đấy mặt địa cầu càng ngày càng đông người ở. Những tâm linh ở trong thân hình người ấy có thể giao tiếp với nhau bằng ý nghĩ, và cũng có thể tự ý thoát ra khỏi từ lực của trái đất, để tạo lên những vật rất to lớn và di chuyển vật ấy từ nơi này đến nơi khác. Thực ra họ có thể phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử, nên với phương pháp giản dị này, ta thấy có những đầu khổng lồ trên Cù-lao Easter (Easter Island) (Easter Island là một cù lao trên Thái Bình Dương thuộc Chi Lị (Chile)), kim-tự-tháp lớn tại Ai-Cập, và nhiều di tích khác của một nền văn minh cao hơn ngày nay rất nhiều.

II. NGƯỜI TRÊN TRÁI ÐẤT

Các nhà siêu-hình-học đều công nhận rằng Ðại-lục Mu, cũng tên là Lemuria, trong quá khứ, là nơi phát nguyên nền văn minh. Ðại lục ấy là một vùng đất đai rộng lớn đi từ bắc California đến nam Peru, bao gồm một phần lớn Thái Bình Dương, mà những đảo Hawaii, Tahiti, Polynesia và Easter là những di tích còn sót lại. Từ miền tây California, bấy giờ thuộc bờ biển của Lemuria sang đến Bắc mỹ, là biển cả, trong đó có vùng Hồ Mặn (Great Salt Lake) tại Utah. Lưu vực sông Mississippi là bờ biển phía tây của lục địa Hoa Kỳ ngày nay. Nhưng khi Lemuria bị chìm xuống và đất nhô lên thành dãy núi Rocky và Appalachian, thì trong một thời gian, sông Mississippi đổ vào những Ðại Hồ (Great Lakes), trước khi một thiên tai khác, một lần nữa, thay đổi địa thế.
Các dẫn-đạo-sư ước rằng người thái-cổ đã có ở trên trái đất từ năm đến bảy triệu năm, sau khi những bán-nhân thô lỗ đã được sinh ra từ nhiều triệu năm trước. Người đầu tiên là Amelius có thân hình nhẹ nhàng, có thể hiện diện tức thì tại bất cứ nơi nào trên trái đất. Amelius và những người sau cũng có thân hình nhẹ như thế, đều có khả năng chuyển ý nghĩ thành sự thật, và di chuyển những vật nặng bằng cách phân tán ra và kết hợp lại những nguyên tử của vật ấy. Chính amelius cũng là một ý nghĩ của Thượng-Ðế chuyển thành sự thật.
Theo dẫn-đạo-sư nhiều người thái-cổ cao trên ba thước rưỡi, và những loài thú, cá, chim, phối hợp với họ để sinh sản ra những con dị hình to lớn, một số những con này có nhiều tài lạ khiến chúng được tôn thờ trong thần thoại Hy-Lạp và La-Mã.
Trong thời Amelius sống trên trái đất với hình thể nhẹ nhàng, con người không bị bám chặt trên mặt đất vì sức hút của từ lực, nên không nặng nề. Amelius là một thư-hùng lưỡng-thể, nghĩa là có đủ âm lực và dương lực, là một người mẫu hoàn toàn, chỉ trừ không thể ăn uống, tiêu hoá và sinh sản, bản năng này chỉ được phú cho người sau này khi đã được phân chia nam nữ. Những người bất tử đầu tiên ấy luôn luôn ở trong tình trạng trẻ trung không già không chết như người vật chất. Họ muốn đến đâu là tức thì đến đó, cũng như hình ảnh ti-vi được thấy tại tất cả mọi nơi nếu có máy thích hợp. Họ ở Atlantis, Lemuria, ở Mỹ Châu, Á châu, ở đâu họ cũng tìm cách an ủi và dạy bảo những kẻ dị hình.
Ðến khi Thượng-Ðế đặt ra luật loại nào sinh sản ra loại ấy, khiến cho không thể trộn lẫn hai loại khác nhau, thì người không còn phối hợp được với thú, chim, cá và sinh sản ra loại dị hình nữa. Từ khi có Adam và Eve đầu tiên đã phân chia nam nữ, sinh sản loài người lan tràn trên mặt đất, và thời kỳ vàng son trên Lemuria lý tưởng quá sức tưởng tượng của người hiện đại, đến nay đã hơn bốn triệu năm.
Những người đầu tiên sinh sản nhanh chóng, vì sự sinh nở tự nhiên không khó khăn, nên có nhiều phụ nữ sinh mấy chục con trong đời họ. Sự hoà nhịp với thiên nhiên được hoàn toàn nên không có tật bệnh, và họ có thể ở trong thân hình rất lâu. Nhưng về sau họ bị ràng buộc vào vật chất, nên thể chất họ trở thành nặng nề hơn và khả năng bảo vệ đời sống giảm dần đi.
Từ khi trái đất dần nguội lạnh, vỏ ngoài co lại thành những nơi lồi lên lõm xuống, những lồi lõm ấy đã thay đổi nhiều lần, khiến nên nơi này đất liền chìm xuống biển, nơi khác đất từ biển nổi lên. Dẫn-đạo-sư nói rằng gần cuối thế kỷ này một thiên tai như thế sẽ xảy ra, nhiều lục địa sẽ biến thành biển cả và biển cả trở thành lục địa, nơi băng giá sẽ nóng bức và vùng nhiệt đới sẽ đông lạnh. Một số nhà địa-chất-học cũng công nhận rằng trái đất đã thay đổi trục nhiều lần trong qúa khứ, bằng chứng là thấy có vết tích cây cối, động vật và khủng long dưới những lớp băng đá dày tại nam bắc cực. Bác-sĩ Frank Hibben ước tới bốn mươi triệu thú vật đã bị chết cứng đột ngột trong lần đổi trục cuối cùng trước đây.
Dẫn-đạo-sư khuyên những ai lo sợ thảm họa ấy hãy nhớ rằng đời sống vật chất chỉ là đời sống mỏng manh. Mục đích của chúng ta là thực hiện sự toàn thiện, để cho không phải trở lại đời vật chất nữa. Càng bám vào của cải trần gian thì càng cản trở bước tiến của tâm linh. Trong đời sống tâm linh, của cải không có nghĩa gì, vì mọi vật đều do ý nghĩ sinh ra, muốn gì có nấy tức thì. Những ai lo sợ hủy diệt vật chất, nên biết rằng thân xác tuy mất, nhưng linh hồn vẫn còn tồn tại đời đời.
Lý do duy nhất năm giống người khác nhau được tạo lên là để giúp cho con người thích nghi với khí hậu. Màu da của người da đen cần để che thân dưới mặt trời gay gắt miền nhiệt đới, và cũng để dễ dàng ẩn náu trong rừng rậm âm u của Phi-Châu. Người da trắng ở nơi giá lạnh mùa đông tuyết phủ, cần ít mầu sắc để che thân dưới ánh mặt trời xiên nghiêng. Mầu nâu được dành cho những người ở vùng bán-nhiệt-đới Thái Bình Dương nhiều gió bão. Màu đỏ để hoà đồng với đất đỏ châu Atlantis và châu Mỹ. Sau cùng mầu vàng cho người phương đông hợp với đất vàng và mặt trời ít gắt. Mỗi giống có một thủy tổ Adam hay muốn gọi tên gì cũng được, và một Eve tượng trưng cho sự tạo thành con người hoàn toàn có bộ phận loài vật.
Dẫn-đạo-sư đồng ý với Edgar Cayee rằng Amelius tái sinh là Adam và Eve, cả hai đều tái sinh nhiều triệu năm sau là Jesus và Mary. Về điểm dẫn-đạo-sư ước từ năm đến bảy triệu năm từ khi có người thái-cổ trên trái đất, tác giả vẫn còn thắc mắc cho đến ngày 31-10-1975 được đọc một bài báo Associated Press như sau: "Các nhà bác học đã tuyên bố hôm qua rằng xương người cổ xưa nhất đã được tìm thấy tại một lòng sông khô cạn miền đông Phi Châu. Những răng và xương hàm đã hóa thạch của 11 người đã được ước lượng chính xác bằng kỹ thuật phóng xạ, có từ 3.350.000 đến 3.750.000 năm. Ðây là di tích cổ xưa nhất thế giới.

III. ÐẠI LỤC LEMURIA

Trong buổi sơ khai của nền văn minh trên đại lục Lemuria, những loại cây có nhiều đời sống không khó nhọc. Sau vì nhân số gia tăng, những người thái-cổ phải cố gắng để có thêm thực phẩm. Trước còn là đời sống vô định, nay đây mai đó, về sau họ phải gom hạt giống để trồng loại cây có nhân như hạt dẻ. Nông nghiệp bắt đầu từ đó, và là một bước tiến phi thường, cũng như ngày nay bay lên mặt trăng.
Nhiều dân Lemuria làm nghề đánh cá và tỏ ra có tài trên mặt biển. Thoạt đầu, họ ở những vùng bờ biển, rồi sau di chuyển vào nội địa. Họ nuôi cừu (trừu) và gia súc mà họ coi như là anh em, nhưng khi dân số càng đông thì họ giết để ăn thịt. Tuy rằng đa số cao lớn hơn người ngày nay rất nhiều, nhưng trong thời kỳ thí nghiệm ấy, cũng có những người nhỏ bé hơn người lùn bây giờ. Tất cả những người ấy đều ưa thích hát và nhảy múa theo nhịp sáo và nhịp trống.
Những người Lemuria đầu tiên có đời sống tâm linh cao. Họ hòa nhịp với Thượng-Ðế, nghĩa là hiểu những gì Thượng-Ðế truyền dạy bằng cách truyền tư tưởng. Dần dần họ bị ràng buộc vào trái đất, khiến thân hình nặng nề hơn, và con mắt thứ ba, là mắt sáng suốt hiểu biết mọi sự, bắt đầu lu mờ. Một số sống thanh đạm, ăn dè dặt, và luôn luôn tưởng niệm đến Tạo-Hóa, nên vẫn có thể thông cảm với Thượng-Ðế. Họ không dự vào những thú vui của người trần tục để giữ cho tâm linh họ gần với Thượng-Ðế. Họ dạy bảo dân chúng những điều trong sạch, ngay thẳng, nên được dân chúng kính nể và chia sẻ hoa lợi mùa màng với họ. Từ đấy phát sinh giới thầy tu đầu tiên.
Những người cao siêu ấy còn giữ được khả năng phân tán nguyên tử và di chuyển những tản đá lớn. Ðến đây, tác giả hỏi đến nguyên lai những đầu khổng lồ trên cù lao Easter. Dẫn-đạo-sư nói: Ðó là những tản đá rất lớn đánh dấu nơi công trường vĩ đại mà dân từ khắp nơi trên đại lục Lemuria kéo đến tụ họp trong những cuộc đại lễ. Những đầu to lớn ấy với những nét mặt khác nhau tượng trưng các vị thần, mỗi vị ngự trị trên một phạm vi riêng biệt và hướng về một phương trời. Những đầu ấy được dựng lên trong thời sơ khai, khi con người chưa bị ràng buộc vào sức thu hút của từ lực, và như thế được tạo lên dễ dàng.
Dẫn-đạo-sư kể lại một sự tích về những khối đá khổng lồ ấy. Trong thời kỳ giới thầy tu được nhiều uy tín, có những kẻ ghen ghét muốn làm giảm uy tín ấy. Họ thách đố những thầy tu trong ngôi đền tại vị trí hiện nay của cù-lao Easter: Ai có thể di chuyển một cái đầu khổng từ nơi này qua nơi kia thì sẽ được nhận đồ dâng cúng và được quyền ưu đãi hơn người khác. Những kẻ thách đố xảo quyệt ấy đã biết cách di chuyển những vật to lớn bằng một phương pháp huy động tinh thần gần như thôi miên, góp sức nhiều người cùng nhau tác động. Một số đông tụ họp lại, và đến giờ đã định họ đều bước tới, niệm câu thần chú, và cùng nhau ghé vai vào dưới cằm một cái đầu bằng đá, nâng bổng lên được vài phân, nhưng rồi kiệt lực đều té cả xuống. Ðến lượt các thầy tu, họ dùng khả năng phân tán nguyên tử, cùng nhau hát lên, ngước mắt nhìn trời, cử động bàn tay ( Có lẽ là hộ thần là bất quyết), tức thì đầu đá khổng lồ biến mất. Tất cả đám đông hoảng hốt kêu lên: "Trả lại đầu đá cho chúng tôi." - Xin vâng, thầy tu vừa nói xong, đầu đá hiện ra trên một ngọn đồi khác. Những kẻ thách đố xấu hổ, và từ đấy uy tín các thầy tu càng cao.
Thời bấy giờ có những linh hồn từ các hành tinh khác đến thăm. Mặc dù họ mang hình thể khác hẳn trên hành tinh của họ, nhưng họ có thể biến thành hình người thái-cổ khi họ đến trái đất. Vì những thân hình của họ nhẹ gần như bóng sáng, cũng như Amelius và những người thái-cổ đầu tiên, nên họ có thể đi về trong thời gian ý nghĩ phóng ra. Dẫn-đạo-sư giải thích rằng vì họ có khả năng phân tán và kết hợp nguyên tử, nên họ thoát ra ngoài ảnh hưởng từ lực của trái đất, họ nhẹ hơn không khí, tùy ý muốn biến hiện chính thân mình hoặc những tản đá lớn lúc nào cũng được, đến nơi nào cũng được. Những kim-tự-tháp Ai-Cập và các di tích khổng lồ khác đã được tạo dựng lên bằng phương pháp ấy.
Ðại lục Atlantis là một nơi thiên đường không nóng không lạnh, dân chúng thuộc giống người da đỏ, và cũng có những bán nhân thân hình thô kệnh, là dòng dõi của những người đã phối hợp với cầm thú. Không như người Lemuria chịu khó dạy dỗ và nâng cao những kẻ dị hình ấy, người Atlantis đối đãi với họ như những con vật để khuân vác nặng nề và làm những việc ti tiện.
Văn minh trên lục địa Lemuria lên đến cực điểm. Nền giáo dục rất cao, những người trưởng thành có trình độ ngang với tiến sĩ ngày nay, nhiều người còn tiến xa hơn về cảm giác và ý thức. Chính quyền rất dịu dàng, hòa hoãn, hàng ngày ít việc làm vì không có tội ác, không có thù hận. Nếu ai có điều bất hòa nhất thời với một người khác, thì người trọng tài giải thích rõ ràng quan điểm của đôi bên. Không người nào bị giam vào tù ngục, vì người ấy có thể thoát ra khỏi tức thì, bởi lẽ ai cũng có thể chuyển ý thành sự thực. Hình phạt về một hành động sai lầm chỉ là lời khuyên nhủ khiến họ hiểu tính chất của điều lầm lỗi và tránh không tái phạm.
Về luật luân hồi nhân quả, dẫn-đạo-sư nói rằng luật ấy đã có từ trước khi linh hồn nhập vào thân xác thịt. Ðó là luật trời, nếu ai làm trái thì phải đền tội. Amelius và những người sinh ra cùng thời đầu đã hiểu luật ấy. Một số vì cám dỗ mà giao hợp với cầm thú đã gây nhân xấu nó theo chúng ra ngoài thân xác cho đến thân sau, khi đời sống đã bị Thượng-Ðế rút ngắn. Khi tái sinh ra thành những Adam, Eve và thân hình khác, họ đã phải cố gắng xoá cái nợ luân hồi ấy bằng cách đối xử tốt với loài vật. Nhưng bấy giờ Satan lợi dụng cơ hội để điều khiển những kẻ làm sai ý muốn của Thượng-Ðế. Vị thần sa ngã ấy quyến rũ những linh hồn xấu xa, càng ngày càng đông bộ hạ, đi ngược lại con đường dự định của Thượng-Ðế, có lúc tưởng chừng như y có quyền năng mạnh hơn cả Thượng-Ðế, nhưng không phải. Thượng-Ðế vẫn toàn năng, vẫn theo dõi kẻ lạc đường nhất thời, và khi một linh hồn biết hối cải và hồi đầu về Cha, tức thì có sự lạ chờ đón y. Do đó mà có luân hồi, là chuyện đáng buồn cho người đời cứ phải trở lại nhiều lần vào cái thân vật chất, nhất quyết rửa sạch vết xấu xa trong tâm thức. Một số linh hồn đã tiến cao đến toàn thiện, đã hoàn tất bánh xe luân hồi, không phải trở lại đời vật chất nữa.

IV. DÒNG-DÕI THIÊN THẦN

Văn minh trên trái đất chưa bao giờ lại được tiến bộ như thời vàng son trên đại lục Lemuria và Atlantis. Ða số dân chúng có trình độ trí thức cao, và nhờ sự cần cù của họ, cây cối tốt tươi bao phủ khắp mặt đất.
Nhưng không phải là tất cả đều thơ mộng. Nhờ sự phồn thịnh do sức người tạo lên, có vài giống vật sinh sản nhanh hơn loài người. Ðiểu thú khổng lồ phá hoại mùa màng, thằn lằn to lớn từ biển bò lên đầy mặt đất, và những con khủng long với thân vĩ đại và đầu nhỏ bé, hung bạo đến nỗi người phải họp nhau lại trong những khu bảo vệ chặt chẽ. Tại Lemuria tình trạng rất nguy nan, khiến người ta phải đào hầm dưới đất hoặc moi rộng hang ở sườn núi để ẩn náu.
Những con khủng long khổng lồ lang thang khắp nơi, đạp đổ cây cối, tàn hại hoa mầu, phá hoang vườn tược mà người ta tốn công trồng tỉa để có thức ăn và bóng mát. Chúng dày séo lên tất cả mọi vật trong tầm của chúng, một ngón chân của chúng có thể đè nát một đứa trẻ con. Chúng thường đánh nhau kịch liệt để tranh dành miếng mồi ngon như người hoặc thú vật. Ðuôi lớn của chúng quạt khắp rừng rậm và sông ngòi để tìm miếng ăn.
Ðể tránh các thú dữ ấy, người phải sống trong những hang mà cửa vào thấp nhỏ. Ðó là một thế giới trong bóng tối. Chỉ có đàn ông mới dám đi ra để kiếm mồi khi những thú dữ không có ở gần. Họ sống bằng thịt săn và ít rau cỏ trồng quanh cửa hầm. Phụ nữ cả đời chỉ được trông thấy bóng người đi qua cửa hang. Họ nói với những bóng ấy, tưởng đó là những tâm linh của thế giới khác đến nói chuyện với họ, không biết rằng đó là bóng của những người có thân hình như thường đứng trước họ và quay lưng ra ánh sáng. Trẻ con dám phiêu lưu ra ngoài, khi không trông thấy có con vật khổng lồ nào từ xa mới chui ra khỏi cửa hang. Mắt họ bị chói lòa vì không quen với ánh sáng mặt trời.
Những gia đình ấy hôn phối lẫn nhau trong những buổi lễ ngắn ngủi tổ chức bởi những thầy tu là những người còn nhớ đến đời sống tâm linh xưa kia. Trước mặt thầy tu, đôi trai gái nắm tay nhau, và tất cả cùng hát những câu chúc tụng. Nếu có người săn được một con vật, nhỏ như con thỏ hoặc lớn như con trâu, thì đó là một đại tiệc. Họ ăn, họ ngủ, họ nói chuyện, họ sinh sản. Ðó là đời sống âm thầm tăm tối của những người Lemuria ít may mắn.
Vậy mà họ là dòng dõi thiên thần! Trước khi một số gan dạ cố gắng trừ khử những con vật kinh khủng ấy, tưởng chừng ít có hy vọng cho sự tiến hoá của loài người.
Dẫn-đạo-sư kể lại một gia đình Lemuria chừng 20 người cả con và cháu, sống cách đây khoảng 60 ngàn năm. Họ ở trong hang đào sâu trong đất dưới một ngọn đồi, cửa hang rất thấp, ra vào phải bò, để giữ cho những con vật to lớn không thể vào được. Họ ngủ trên những chiếu đan bằng cỏ mọc quanh hang, sống bằng hạt dẻ và trái cây, đôi khi có thịt do đàn ông săn được. Họ sống trong bóng tối lờ mờ, chỉ có chút ánh sáng nơi gần cửa vào và những khi đốt đuốc, cây đuốc làm bằng mỡ những con vật đã chết, nhưng đuốc ấy tỏa nhiều khói quá chỉ dùng khi nào rất cần.
Một ngày kia, trong khi đàn ông ra ngoài săn bắn, một con khủng long to lớn đánh hơi biết có người trong hang, nó lách cái đầu nhỏ của nó vào cửa hang, cố sức cậy ra một lỗ lớn để vào. Tất cả đàn bà, trẻ con trong hang sợ hết hồn, nhưng cũng phải can đảm lấy gậy đập vào đầu nó trong khi miệng nó phun ra khói. Ðàn ông nghe tiếng ồn ào chạy về, lấy giáo nhọn đâm vào nó hàng trăm nhát cho đến khi nó chết. Rồi mấy chục người ở những hầm quanh đấy phải họp nhau lại lôi xác nó ra xa vừa để tránh mùi hôi thối, vừa để những con vật khác khỏi đến gần.
Ðó là cảnh sống hằng ngày của những gia đình thời bấy giờ, luôn luôn ở trong tình trạng sợ hãi. Họ ao ước được thấy cảnh đẹp bên ngoài, cũng như ngày nay một người già bệnh tật ao ước được lên cõi trời. Chỉ có những người đánh cá là không phải ở trong cảnh sợ hãi tối tăm ấy, vì vùng bờ biển cây cối thưa thớt, những con khủng long và mam-mút (là loại voi khổng lồ có nhiều lông và ngà cong lên) thường không lui tới. Nhưng vì đông dân cư quá nên chỉ có một số ít được hưởng cái tự do ấy.
Thật là một ngày quan trọng vô cùng khi một chiếc máy bay đầu tiên đáp xuống hồ Chalda trên đại lục Lemuria, đem lại hy vọng cho những kẻ khốn khổ, dòng dõi của những bậc trí thức cao mà ngày nay sa xuống gần ngang súc vật, với đời sống trong tăm tối không có tương lai. Họ hết sức vui sướng khi được biết rằng những người Atlantis muốn cộng tác với họ để triệu tập một đại hội thế giới bàn cách trừ khử những con vật khổng lồ.
Máy bay có thể đáp xuống bãi biển không sợ nguy hiểm, vì những con vật khổng lồ không ở nơi bãi cát. Khi những người Atlantis đầu tiên đặt chân lên Lemuria, tin tức lan ra rất nhanh trên khắp đại lục, phá tan không khí buồn tẻ trong nhiều thế hệ. Tin tức được loan ra bằng hệ thống một loại dây leo truyền âm do một nhạc khí tựa như cái trống của bộ lạc Phi Châu, trống nọ truyền đến trống kia đi xa hàng trăm dặm. Những người mới đến chào hỏi người Lemuria như là những anh em lâu ngày mới gặp lại nhau. Người Lemuria chạy vội đến nơi đón khách quý, vui mừng khôn tả.
Khi người Atlantis nói đến những điều mới lạ trên đất họ, người Lemuria sụt sùi khóc, vì cảm thấy khác biệt một trời một vực giữa cảnh xa hoa của người và cảnh khốn khổ của mình. Chẳng khác nào một người mọi Phi Châu chưa bao giờ bước chân ra khỏi làng, nay được nghe tả cảnh phồn hoa Nữu Ước và Luân Ðôn. Một số những người niên trưởng Lemuria đi theo đám quý khách trở về Atlantis để cùng họp với những người từ các nước phương xa đến hội. Atlantis có nhiều tàu, nhiều khinh-khí cầu, nên việc triệu tập dễ dàng nhanh chóng, và những thanh niên được đưa đi học về kỹ thuật và hóa học.
Phi công lái chiếc máy bay tên là Drofus. Cùng với y có hai nhà bác học để điều khiển quả cầu pha lê nhỏ trong máy bay cho phù hợp với một tia sáng của quả cầu lớn trung ương. Ðây là một phương pháp tinh vi mà ngày nay không ai hiểu được. Muốn bay từ Lemuria hoặc một nơi khác xa Atlantis, thì phải sửa soạn rất công phu, để điều hợp quả cầu nhỏ trong phi cơ với một tia sáng của quả cầu lớn, khiến cho phi cơ tự động theo hướng mà bay trở về. Nguyên tắc những quả cầu pha lê có nhiều mặt phẳng đã bị chôn vùi với đại lục Atlantis, ngày nay không ai biết cách tạo lên và xử dụng những quả cầu ấy.
Người Atlantis bấy giờ là những người tốt bụng. Họ thấy đời sống khốn khổ mà những con vật khổng lồ đã gây cho người Lemuria, họ thúc giục những người này di cư sang nước họ, và họ dạy cho cách đóng những chiếc tàu lớn để có thể đi xa. Nhưng họ không cho ai biết bí mật Quả cầu Pha lê, nó giúp họ điều động các máy bay và tàu ngầm của họ. Vì họ có phương tiện vận chuyển nhanh chóng tiện lợi, nên những lần triệu tập hội đồng cũng được nhanh chóng.
Có những máy bay loại nhẹ chở vài ba người, buộc vào một quả cầu, chỉ cần một khu nhỏ để đáp xuống và bốc lên, lại có bộ phận điều khiển luồng gió, đại khái như máy trực thăng ngày nay, để di chuyển gần. Những máy lớn và mạnh hơn điều khiển bằng tia sáng loại laser do Quả cầu Pha-lê phát ra, cần phi đạo dài hơn, như máy phản lực hiện thời. Những sân bay được xây tại nhiều nơi để chở người đi dự hội và để tiếp tế hàng hóa, vì khi ấy Atlantis giữ địa vị lãnh đạo trong việc sáng chế và sản xuất các loại hàng. Lemuria trong những ngày cuối được coi như một bà mẹ khôn ngoan và dịu hiền, cố gắng dạy bảo những nước nhỏ, nhưng bọn này ưa thích đời sống tối tân của Atlantis hơn là triết lý của Lemuria. Ðiều này khiến chúng ta nghĩ đến bọn trẻ tại Hoa-Kỳ ngày nay.
Trong những hội họp quốc tế, có người đưa ra ý kiến dò tìm đến tổ những con vật khổng lồ để diệt con nó ngay khi còn nhỏ. Người Atlantis chế ra một hơi độc để "thổi" vào tổ chúng khi thuận chiều gió, cách ấy tỏ ra có hiệu quả với những con nhỏ, nhưng không đủ sức sát hại những con lớn. Dẫn-đạo-sư tả khí cụ được dùng tựa như cặp đũa để tìm mỏ hay mạch nước ngày nay, nhưng tinh vi hơn nhiều, để tìm ra tổ khủng long và mam-mút, những đũa ấy giúp cho những người liều mạng đi tìm đích xác vị trí và thổi thuốc vào tổ nó. Những người gan dạ đã đi tìm khắp các nơi trên thế giới.
Cuộc chiến đấu với khủng long và các vật khổng lồ khác đã kéo dài nhiều thế kỷ và đã có nhiều cuộc hội họp quốc tế để bàn cách giải phóng đất đai nhanh chóng hơn. Người ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc diệt trừ những vật khổng lồ khiến chúng đã giảm bớt, trước khi một thiên tai xảy đến, đáy biển trồi lên, lục địa chìm xuống, chôn vùi đại lục và chôn luôn cả những vật khổng lồ. Khi một giống nào làm nguy hại cho giống khác, thì giống ấy không thể tồn tại lâu bền trên trái đất. Cái luật ấy là một sự cảnh cáo cho nhân loại hiện nay đương làm cho đất đai, sông biển và không khí nhiễm độc nguy hại cho các loài khác.
Ðược hỏi tại sao Thượng-Ðế đã sinh ra những vật khổng lồ ấy rồi lại khiến cho chúng bị diệt chủng, như thế có phải là Thượng-Ðế đã lầm không? Dẫn-đạo-sư nói: Thượng-Ðế không lầm. Tạo-Hoá là một phòng thí nghiệm trường kỳ. Thoạt đầu con người cao hơn ba thước hoặc thấp hơn một thước, rồi sau trở lại trung bình hơn một thước rưỡi, và trong mấy ngàn năm gần đây lại cao hơn trước. Nhưng nếu nhân loại cứ tiếp tục nhiễm độc trái đất, làm nguy hại cho các giống khác, thì sẽ phải chịu số phận như loài khủng long. Mình được sống thì phải để cho kẻ khác cùng sống với mình, đó là luật chung của vũ-trụ, nếu chỉ phá hoại, tàn hại giống khác, sẽ không tồn tại lâu trên trái đất.
Khi những vật khổng lồ bị giảm sút dần đi, thì đời sống con người đỡ khổ, họ đã có thể hưởng ánh sáng mặt trời và gió mát. Dân số tăng rất nhanh chóng, những phụ nữ có hàng chục đứa con. Việc sinh sản không khó khăn và không cần săn sóc như ngày nay, vì đó là sự tự nhiên, cũng như loài vật sinh con đẻ trứng chẳng cần ai săn-sóc và dạy cách nuôi con.
Trẻ con lớn lên được dạy bảo nhờ những người còn nhớ đời sống tâm linh và cảm thông với các linh hồn như ta nói chuyện với hàng xóm. Chúng được dạy cho biết lý do tại sau chúng thác sinh ra đời vật chất, và chúng phải làm việc thiện để hoàn tất sứ mệnh theo luật Trời. Những bậc cha mẹ cũng hiểu rằng con họ cũng là những linh hồn ngang tuổi với họ, đã chọn họ làm cha mẹ để học hỏi và tiến hóa trong thân xác thịt. Những trẻ con Lemuria có lẽ là những kẻ hoàn toàn nhất trong nhân loại, chúng gần như không biết đến tội lỗi đối với cha mẹ, thầy dạy và bạn bè.

V. NHỮNG MÁY BAY ÐỜI THƯỢNG CỔ

Atlantis là một đại lục huyền ảo, lý tưởng, xưa nay không đâu bằng, với rừng rậm thâm u, với cánh đồng bát ngát, với khe nước suối, và một con sông lớn ngăn cách Poserdia với phần đất đai còn lại. Thật là một cõi thần tiên! Vua Atlantis tên là Atlas tức là một Adam, vợ là Heputh.
Châu Atlantis chạy dài từ duyên hải đông Hoa Kỳ, gồm những vùng bờ biển Georgia, Carolina, Virginia, west Indies và Braril, băng qua Ðại Tây Dương đến gần duyên hải tây Phi Châu. Những vua đầu tiên là những linh hồn tiến hóa cao, còn nhớ đời sống tâm linh và có thể cảm thông bằng tư tưởng. Vua Atlas phóng những luồng điện và những người dưới bắt luồng điện ấy hiểu được ý vua không cần nói hay viết.
Nhưng đó không phải là một trạng thái thôi miên, chỉ là sức mạnh của ý nghĩ. Sức mạnh ấy tỏa ra từ Atlas qua các con cháu, trở thành năng lực linh động, từ ấy nẩy sinh ra những sáng chế kỳ lạ, chưa bao giờ có từ khi châu ấy bị chìm. Vua Atlas phóng ra một tư tưởng, những người khác bắt được làn sóng tư tưởng ấy đưa đến chỗ thực hiện ý nghĩ thành sự thật. Có như thế, những người Atlantis trong nhiều ngàn năm, đã sáng chế ra máy bay, tàu ngầm, tàu nổi, và tia điện như loại tia laser ngày nay, đưa đến một nền văn minh cao tột bực chưa từng có.
Atlas và Heputh sinh ra 24 người con và có nhiều cháu, đều có trình độ tâm linh cao. Mỗi người con là một ông Hoàng cai quản khu vực của mình. Anh quốc ngày nay nằm trong phạm vi của một khu vực, trước khi bị loạt thiên tai nhận chìm tất cả đất đai từ Hoa Kỳ đến Anh, Bồ Ðào Nha và miền tây Phi Châu. Thời bấy giờ người sống rất lâu, hàng triệu năm, nên chưa có vấn đề thừa hưởng, và chẳng bao lâu vua Atlas có hàng trăm con cháu.
Tác giả nhận thấy rằng những điều Dẫn-đạo-Sư nói trên tương tự với sự tích Atlantis mà nhà học giả Hy-lạp trứ danh Plato đã để lại cho văn minh tây phương. Plato được biết sự tích ấy do luật gia đại tài Solon ở thành Athens 600 năm trước kỷ nguyên, ông nầy đã sang Ai-Cập mười năm và đã học nhiều sự tích Atlantis do các thầy tu thành Sais, thủ đô Hạ Ai Cập. Theo Plato kể lại, vị thần Poseidon sinh ra năm đứa con trai sinh đôi, người con trưởng là vua Atlas có nhiều con cháu tiếp tục trị vì vương quốc trong nhiều thế kỷ.
Dẫn-đạo-Sư nói thêm rằng Atlas là con cháu là dòng giống thuần túy không bao giờ ô nhiễm vì chung sống với những bàn-nhân đã có từ lâu trên Atlantis trước thời Atlas. Người Atlantis coi những bàn-nhân thô lỗ ấy như loài vật để làm việc nặng, như khuân vác, cày bừa, và sau nầy vận chuyển máy móc.
Tuy có sự phân biệt giữa hai hạng người và bàn-nhân, nhưng lúc đầu họ không cảm thấy bị lạm dụng, vì mỗi bên đều làm hết sức mình. Nhưng mấy chục ngàn năm sau, sinh ra có sự tranh chấp, không những giữa người và bàn-nhân, mà còn ngay chính giữa loài người, vì bấy giờ đã mất quan niệm họ hàng và quan niệm đồng nhất. Khi ấy Atlas và con cháu gần đã qua đời lâu rồi, dân chúng đã đông đầy trên đại lục, đồng thời những chim và thú khổng lồ đã sinh sôi nẩy nở ra nhiều, trở thành mối đe dọa tiêu diệt nhân loại.
Ðược hỏi rõ hơn về sự cấu tạo loài người, Dẫn-đạo-Sư nói: Người ta lúc đầu chỉ là những hình bóng do ý nghĩ của Thượng Ðế mà thành, nhưng từ khi phối hợp với loài vật sinh ra những bàn-nhân, thì bị ràng buộc vào mặt đất. Khi Thượng Ðế sinh ra nam và nử là hai phần của linh hồn. Ngài dùng những chất liệu ở mặt đất để tạo thành những thân hình xác thịt, như đã tạo nên loài vật và các sinh vật khác, các nguyên liệu căn bản vẫn thế: khí, nước, đất, kim thạch, sinh tố. Thân hình người ta là sự sáng tạo tối cao, cũng bằng cùng những thứ vật liệu như các hình thể khác trên trái đất nầy. Xin chớ nghĩ rằng Tạo Hóa có hai bàn tay lớn từ trên trời thò xuống cạo đất xét trộn với nước, kim thạch, cây cỏ. Thực ra chỉ là ý nghĩ của Thượng Ðế dùng những vật liệu thích hợp tạo nên hình một sinh vật hoàn toàn.
Atlantis trong nhiều ngàn năm được những vua và hoàng tử sáng suốt nối tiếp nhau trị vì, mưu lợi ích chung. Rồi sau, người Atlantis hành hạ những bàn-nhân, gọi chúng là lao động nửa người nửa vật, cũng như người Mỹ miền nam trong thời kỳ đồn điền hưng thịnh, những trại chủ hành hạ người da đen bị bắt từ Phi Châu tới để làm nô-lệ. Những bàn-nhân xấu số ấy thường ở với nhau, nên dòng giống không khá lên được. Họ ở trong những túp lều, trong khi người Atlantis giống da đỏ sống xa hoa, với đủ đồ trang bị tự động do sức mạnh của quả cầu Pha-lê thu hút năng lực của mặt trời phát ra. Người Atlantis có đầu óc sáng tạo, thích thí nghiệm tất cả các loại khí (hơi), kim thạch, thảo mộc, và họ dùng những bàn-nhân để làm việc nặng nhọc như khuân vác, vận chuyển, hoặc làm việc nhẹ như điều hành những công tác dưới sự chỉ huy của người Atlantis.
Dẫn-dạo-sư nói rằng những sinh linh (beings) từ ngoài không gian được hấp dẫn tới Atlantis vì năng khiếu sáng tạo của những người ở đấy, và đã dành nhiều thì giờ đàm luận với họ. Những quý khách không gian ấy đã giúp nhiều trong việc tạo nên Quả cầu Pha-Lê vĩ đại. Nhờ sức mạnh lớn lao của Quả cầu ấy mà những máy bay, tàu nổi, và tàu ngầm được duy chuyển với một tốc độ kinh khủng. Lúc đầu sức mạnh ấy được dùng vào việc ích lợi chung, nhưng về sau lại dùng vào việc phá hoại.
Quả cầu vỉ đại! cái lực lượng do việc thiện và việc ác mà Edgar Cayee đã nói đến, hiện nay còn nằm sâu dưới Ðại Tây Dương khu Tam giác Bermuda, ở đấy đã có biết bao máy bay và tàu biển biến mất một cách bí mật trong những thập niên gần đây.(Xem chương. IX. biển Sargasso bí mật)
Những khách không gian đã dạy cho người Atlantis đã tạc nên Quả cầu khổng lồ, sau khi họ đã bắt đầu chinh phục được năng lực bằng những quả cầu nhỏ để điều khiển những đồ trang bị. Trên một sườn đồi, họ tìm thấy một mạch đá thạch anh (quart) đủ lớn để phản chiếu tất cả tia sáng của mặt trời và mặt trăng, vì mặt trăng cũng dự phần vào cuộc thí nghiệm lớn lao ấy. Sau khi đã dục bỏ hết đất bám chung quanh,họ khắc những mặt phẳng rất tỉ mỉ để phản chiếu tất cả các tia sáng. Thời bấy giờ bầu khí quyển hoàn toàn trong sạch, nên tia sáng không bị thiên lệch. Vì họ sản xuất năng lực thừa dùng hàng ngày, nên họ tìm cách tích trữ năng lực còn dư vào những thùng lớn bằng đồng, để cho các máy bay và tàu không phải tùy thuộc vào sự cung ứng năng lực mỗi ngày.
Những khách không gian ấy đến trái đất bằng những phi thuyền tuyệt xảo. Có nhiều loại máy bay khác nhau, phần lớn có những đĩa và những máy xoay tròn để không bị sức hút của từ lực khi cất cánh và hạ cánh. Ðến nơi họ chuyển những vật liệu lấy ở trái đất thành khí chất để làm ra điện lực. Những người Atlantis theo mẫu ấy đã sáng chế ra những máy bay và tàu chuyển động bằng năng lực do Quả cầu vĩ đại phóng ra.
Theo Dẫn-đạo-Sư, vì có những thú vật khổng lồ càng ngày càng đông, nên người Atlantis đã phải tập trung vào những khu có tường thành bao bọc, và nhu cầu đã thúc đẩy tài sáng tạo của họ. Vì họ là dòng dõi những "linh hồn nhẹ hơn không khí", nên họ còn giữ được khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh và sáng tác ra những kỳ quan mà thế giới chưa từng thấy.
Tại sao những người không gian đến Atlantis mà không đến Lemura? Dẫn-đạo-Sư nói: Ðó là gì cái lẽ đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, cùng có óc sáng tạo như nhau thì dễ gần nhau hơn.
Những khách không gian và người Atlantis đã phải mất nhiều năm mới tạo nên Quả cầu khổng lồ, và cái gương phản chiếu để chứa đựng quả cầu đó. Rồi họ sáng chế những tàu, máy bay, cả loại máy đứng yên một chỗ trên không trung như máy trực thăng ngày nay. Với những máy nầy họ đã học được địa đồ những vùng rộng lớn trên trái đất. Một số họa đồ ấy được tìm thấy mấy trăm năm trước, cho thấy hình ảnh trái đất trước lần đổi trục sau cùng, khi mà Nam-cực không có băng tuyết.
Những họa đồ ấy đã được tìm thấy tại Thỗ-Nhĩ-Kỳ hồi đầu thế kỷ 18, là sở hữu của Ðề-đốc Thổ Piri Reis. Ðó là bản sao họa đồ rất cổ, cho thấy những dãy núi ở Nam-cực trong thời không có băng tuyết. Những nhà địa-dư học mãi đến năm 1952 dùng phương pháp đo tiếng vang mới hình dung được những núi ấy. Ngày nay đem những hình chụp từ vệ tinh so với bản địa đồ ấy thì thấy rất giống nhau.
Ðại học Georgetown trong buổi phát thanh vô tuyến ngày 26-8-1956 bình luận về địa đồ Reis, nói rằng nếu không dùng phương pháp chụp hình từ trên không trung thì không thể nào họa được địa đồ ấy.
Trong cuốn Edgar Cayee on Atlantis, chính con Edgar Cayee cũng có đề cập tới địa đồ ấy.
Chắc chắn rằng chưa ai có thể bay được hồi đầu thế kỷ 18 khi địa đồ Reis được tìm thấy. Edgar Cayee và các dẫn-đạo-sư đồng ý rằng những người Atlantis là những phi hành gia đại tài.