kết quả từ 1 tới 9 trên 9

Ðề tài: Xuất xứ và ý nghĩa đại lễ Vu Lan-Rằm Tháng 07

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Xuất xứ và ý nghĩa đại lễ Vu Lan-Rằm Tháng 07

    Xuất xứ và ý nghĩa đại lễ Vu Lan


    Loài người là tối linh trong muôn vật nên có trí tuệ, đạo đức, tâm tư tình cảm... chẳng những làm đẹp về cuộc sống của bản thân và gia đình, còn chế ngự phần nào trở ngại thiên nhiên, để cải thiện và canh tân nếp sinh hoạt xã hội. Đặc biệt con người sống có gia đình thì cha mẹ, con cái, trên từ hòa dưới hiếu thuận, yêu thương đùm bọc sống chết có nhau. Cha mẹ thương con không bờ bến là thiên chức làm người, con cháu hiếu kính với ông cha là đạo lý muôn đời qua không gian và thời gian, kể cả sinh vật cũng có được phần nào, đó là lẽ sinh tồn của vạn loại. Con người là giống hữu tình, đương nhiên phải sống bằng tình cảm thiên liêng, khác với bản năng sinh hóa của muôn vật. Cha mẹ là ân nhân bậc nhất, thì hiếu đạo cũng đứng hàng đầu trong mọi nết đẹp của thế nhân, là lẽ sống, là quan niệm của người đời: „Hiếu kính đứng đầu trăm nết đẹp“. Do đó nên giai tiết Vu Lan, một tiết lễ của Phật Giáo có trên tinh cầu hơn 26 thế kỷ vẫn thích ứng với người muôn đời, đã thành ra truyền thống đẹp trong văn hóa nhân sinh như ngày Mother's Day và Father's Day của người Âu Mỹ ngày nay vậy.

    Mùa Vu Lan báo hiếu, chúng ta có thể tìm hiểu rộng rãi qua phẩm Vu Lan, Kinh Trường A Hàm hay Kinh Pháp Hoa... để rõ về ân nghĩa sinh thành, và lòng hiếu kính đối với thất thế phụ mẫu, lịch đại tiên linh, vì chúng ta đã thừa hưởng của chư vị nhiều phước báo cao cả, nhiều công đức thâm hậu rất khó nghĩ bàn. Có thể khi chúng ta ở vào cương vị cha mẹ, ông bà, mới thấm thía được phần nào thiên chức của con người trong gia đjình và quê hương, xã hội, qua tâm niệm của người xưa: „Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân“. Ca dao Việt Nam cũng có câu đồng nghĩa:
    Lên non mới biết non cao
    Nuôi con mới biết công lao song đường“


    DUYÊN KHỞI

    Một trong 6 phẩm của kinh Tam Bảo là phẩm Vu Lan, nói rõ về xuất xứ của Đại Lễ Vu Lan – Rằm Tháng Bảy – và đề cao hiếu hạnh của Đức Đại Hiếu Mục Kiền Liên. Mục Liên Tôn Giả là vị đại đệ tử của Đức Thích Ca Như Lai, nguyên là giáo chủ của Bái Hỏa Giáo. Tôn Giả được lên ngôi cao quý đó, phần lớn do sự hỗ trợ tích cực của mẹ là bà Thanh Đề. Bà thuộc giai cấp quý tộc ở Ấn Độ, muốn cho con hiển đạt và danh vọng hơn người, nên đã vận dụng tiền tài thế lực, kể cả việc trừ khử những đối thủ, gây tội lỗi với nhiều người đương thời, xúc phạm đến thánh hiền, do đó sau khi chết bà phải đọa vào Vô Gián địa ngục, làm kiếp ngạ quỷ, khốn khổ triền miên!

    Đức Mục Kiến Liên là một thức giả đương thời, Ngài xem thường danh lợi địa vị mà đặt nặng việc tu tiến, khi nghe Đức Phật là đấng đạo cao đức trọng được thế nhân kính ngưỡng tôn vinh, nên Tôn Giả đưa tín chúng đến xin thọ giáo quy y, sáp nhập Tăng Đoàn của Như Lai, lần hồi Tôn Giả trở nên vị đại đệ tử thần thông bậc nhất, Ngài trưởng lão Xá Lợi Phất là bậc trí huệ tuyệt vời!

    Do hiếu hạnh cao cả lại có phép thần thông diệu dụng, Tôn Giả quán chiếu, biết mẹ mình đang thọ khổ nơi âm cung, nên Ngài đích thân đến viếng và dâng cơm cho mẹ. Có thể do nghiệp lực bà Thanh Đề quá nặng, hay tại cảnh giới ngạ quỷ không cho phép các tội hồn thọ dụng phẩm vị bất cứ từ đâu đến nên cơn hóa thành lửa, trước tình mẫu tử thân thương mừng mừng tủi tủi, phép thần thông của Tôn Giả khó chuyển biến lý nhân quả, nên Ngài cũng đành chịu! Ngài xót xa từ giã mẫu thân, trở về thỉnh ý Như Lai, xin tìm phương tế độ.

    PHẬT DẠY: Mẹ ông tội lỗi sâu dày, mặc dù ông phước trí trang nghiêm, hiếu hạnh vẹn toàn nhưng chưa chuyển hóa được, nên phải nhờ sức chú nguyện của Mười Phương Thánh Tăng trong ngày Tự Tứ vào Giai Tiết Vu Lan. Nhân ngày chư Phật hoan hỷ, Chúng Tăng tự tứ, ông nên phát tâm tác tạo phước duyên, cúng dường bố thí, hoằng pháp lợi sanh, để nhờ công đức tinh tụ tịnh hạnh sau mùa An Cư Kiết Hạ, nên nguyện lực của chư vị càng cao, hồi hướng công đức để chuyển hóa tội lỗi của mẹ ông. Khi tội hồn đã tỉnh ngộ, thành khẩn sám hối, niệm Phật cầu vãng sanh, thì nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành tăng trưởng. Chư Phật và Bồ Tát cũng đều hoan hỷ phóng quang tiếp dẫn về Tây Phương An Lạc Độ của Phật A Di Đà. Các Phật tử vì kẻ mất người còn mà thành khẩn thực hành hạnh lợi tha thì cha mẹ nhiều đời, gia thân quyến thuộc, rộng ra là thân hữu đồng hương, hay các giới hữu tình cũng sinh tâm hoan hỷ, dũng tiến trên đường, là tạo nhân lành hay tạo sẵn tư lương rất cần cho mai hậu, những người quá cố, thập loại cô hồn cũng quân triêm thắng phước.

    Ngài Mục Kiền Liên và Đại Chúng „y giáo phụng hành“. Truyền thống Vu Lan báo hiếu khởi đầu từ đó. Trong Kinh Trường A Hàm, Đức Phật khuyến thị chúng ta thực thi các hạnh Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng Sự là cách báo hiếu tốt đẹp nhất.

    BỐ THÍ: Bố thí cho người bằng tâm hạnh hoan hỷ, cử chỉ vui hòa nhã nhặn như giúp người tìm đường đi, hay giúp kẻ bơ vơ kiếm việc làm. Khi gặp thuận duyên nên giúp người già lão neo đơn, giúp người tàn tật ốm đau, giúp trẻ côi cút bần hàn... chút vật chất để an ủi nhau trong cuộc sống khó khăn. Giúp ích cho người, làm lợi lạc sinh linh, đương nhiên cha mẹ cũng vui lòng đẹp ý đã tạo ra người hữu ích cho thế nhân!

    ÁI NGỮ: Lời nói dịu ngọt nhưng chân thành, dễ cảm thông với nhiều hạng người. Ca dao Việt Nam có câu:
    „Lời nói không mất tiền mua
    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau“

    Cũng là lối xã giao không khéo biết dường nào!

    LỢI HÀNH: Sốt sắng và tạo thói quen làm việc lợi ích cho bản thân, gia đình như giúp đỡ cha mẹ những việc thông thường; rồi đến việc tộc thuộc, thôn trang, quốc gia, xã hội... thấy điều cần thiết ta nên tùy khả năng thực hành hạnh lợi tha là nghĩa vụ làm người.

    ĐỔNG SỰ: Công việc phải làm với nhau nên vui vẻ chung cùng là tạo tinh thần hợp tác, gây tinh thần đoàn kết thân thương nhau để hoàn thành trách nhiệm. Suy ra việc phụng dưỡng cha mẹ khi ốm đau già yếu, anh chị em, dâu rể, con cháu vui hòa thân mật thì trong ấm ngoài êm, hiếu đạo chu toàn. Nếp „tề gia“ xử thế được lưu truyền êm đẹp qua mấy nghìn năm văn hiến của người Á Đông vậy.

    Thượng Tọa Thích Nhật Từ có trích dẫn đại ý lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa:

    * Người hiếu tử sống đúng với tư cách một con người trong gia đình: Người con là một phần tử trong gia đình nên cố gắng gìn giữ hiếu đạo, gia phong. Cha mẹ dày công sinh dưỡng giáo hóa các con khi người còn trẻ cho đến lúc lưng còng tóc bạc, nên các con phải hòa ái nhường nhịn nhau nhất là chung nhau cung kính, hiếu dưỡng cha mẹ khi cần. Tùy theo nếp sống gia đình tập quán xã hội mà ta có những ngôn từ, thái độ thích hợp với cha mẹ. Ngoài ra chúng ta còn phải suy tư, cân nhắc khi ứng xử với đời để bảo toàn nề nếp gia phong. Cổ nhân có câu: „Giấy rách phải giữ lấy lề“ hay „Đói cho sạch, rách cho thơm“ ý nói dù gặp cảnh ngộ nào đi nữa người biết tự trọng không làm điều gì sai quấy để người đời mai mỉa, làm mất thanh danh của tổ tông cha mẹ mình. Câu nói: „Con nhà công không giống lông cũng giống cánh“ ngụ ý tốn kính tiền nhân mình, khi ta làm điều tốt, hay chê trách đến ông bà cha mẹ đã an giấc nghìn thu nhưng có con cháu buông lung hư hỏng vậy!

    * Người hiếu thảo là người con sống đúng với chánh pháp: Người con vâng lời hay lẽ phải của cha mẹ khuyên bảo là tốt, người biết học hỏi và trau giồi nhân cách để thăng hoa trên đường đời càng tốt hơn. Trong cuộc sống thế nhân mấy hạng người trên đều được ca ngợi.

    Nhưng có một lớp người vừa cố gắng tu thân hành thiện lại hướng về đời sống tâm linh, họ tu tập đạo đức, sống theo hạnh từ bi của chư Phật, hỷ xả của Thánh nhân, biết đủ là đủ và dành phần còn lại, để làm việc lợi tha. Họ kính hiền trọng đạo, luôn hoan hỷ chấp nhận cuộc sống thanh đạm và an lạc là nếp sống hạnh phúc bản thân, nên họ tôn trọng hạnh phúc và cuộc sống an lành của tha nhân vạn loại. Họ nghĩ rằng, cứu giúp được phần nào khổ đau của người bất hạnh là hàng trí dũng, nên họ không từ nan. Họ không cố chấp, xả bỏ chuyện thị phi của nhân thế, nên dễ tránh được sự đam mê dục lạc ngoài đời, đó là lớp người „Cư Trần Bất Nhiễm“ tức là sống đúng với Chánh Pháp, bởi lẽ:
    „Trăm năm trước thì ta chưa có Trăm năm sau có cũng bằng không Cuộc đời sắc sắc không không

    Còn chăng chỉ một tấm lòng mà thôi“

    * Người con hiếu phải hướng cha mẹ về Chánh Pháp Phật Đà: Hiếu kính cha mẹ, làm đẹp ý song thân... có thể nói đó là tinh thần của hiếu hạnh. Hiếu dưỡng cha mẹ, cung ứng nhu cầu về cuộc sống cho người, đó là hiếu hạnh về vật chất cả 2 đều là chuyện hiếu của thế nhân. Trường hợp người con hiếu sống đúng với chánh pháp mà chưa tìm cách hướng cha mẹ đi cúng đường với mình e có điều thiếu sót chăng?. Bởi lẽ tự thuở xa xưa vấn đề tu học chưa phổ cập, nên thiểu số người cố chấp chưa chịu cởi mở trong cuộc sống. Họ chưa quy y Tam Bảo, chưa rõ lý nhân quả nên nhiều người đã nói: „vật dưỡng nhân“ và quả quyết cho rằng không ăn huyết nhục của sinh vật sẽ bị yếu vong. Thậm chí có những câu nặng về ăn uống vu vơ mà các bậc thường nhân thường dè dặt tối đa, vì các vị quan niệm „ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn“, hay người có tâm lành nghe thấy con vật kêu la vùng vẫy khi bị hạ thịt, nên không nỡ ăn thịt chúng, vì họ cảm thông về sự đau thương chết chóc và nỗi oán hận về kẻ mạnh đã nhẫn tâm cắt đứt cuộc sống bầy đàn của chúng. Chúng tôi mạo muội nêu ra câu „Bệnh tòng khẩu nhập, họa do khẩu xuất“ với nghĩa đơn giản là ăn uống không cẩn trọng tất dễ sinh bệnh, nói năng không dè dặt có khi mang họa, chứ mấy chữ „vật dưỡng nhân“ không rõ xuất xứ nơi nào?

    * Người con hiếu là thiện tri thức của cha mẹ: Ngoài đời ai cũng muốn ăn no mặc đẹp, rồi lúc hoàng cảnh cho phép người ta chủ trương ăn biết mùi. Mặc đúng kiểu để trở nên người lịch lãm; cũng có người sống theo cách „biết đủ là đủ“ họ vui với kịch tính, đạo đức để dinh dưỡng tinh thần, lại lo giải thoát tâm linh là hàng thức giả thanh cao. Thế nhân thiếu gì bậc minh quân lương tướng chí sĩ văn nhân khi hoàn thành nhiệm vụ hộ quốc an dân, chư vị sống ngoài vòng danh lợi để thân an tâm lạc là tiên cảnh giữa trần gian, hay nói theo nhà Phật và Tịnh Độ hiện tiền. Người con chí hiếu hay bậc thức giả lo tu thân hành thiện, biết phổ biến Chánh Pháp cho cha mẹ và người thân, biến gia đình thánh thiện rồi xóm làng thuần lương, thì họ là người thiện tri thức của cha mẹ, gia đình và xã hội đúng như câu:

    „Nhất nhân tác phước thiên nhân hưởng,
    Độc thụ khai hoa vạn thụ hương“

    Với đại ý:
    Một người gieo phước, nghìn người chung hưởng, Một cây nở hoa, nhiều cây cùng thơm vậy“
    Last edited by sutu; 13-08-2008 at 10:43 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •