kết quả từ 1 tới 17 trên 17

Ðề tài: Thần Quyền và Huyền Bí trong Đạo Phật

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định Thần Quyền và Huyền Bí trong Đạo Phật

    Những chuyện Thần Quyền và Huyền Bí trong Đạo Phật

    tác giả Bạch Liên


    VÀI LỜI NÓI ĐẦU


    Kính thưa chư quí độc giả thân mến.

    Những chuyện tích trích trong sử sách Phật mà tôi kể ra sau đây không lạ chi với các hàng Phật tử và các vị đã nghiên cứu Phật giáo. Tôi chỉ giải thích nó dưới một hình thức khác hơn ý nghĩa thông thường mà thôi.

    Điều nầy không có chi gọi là lạ, bởi vì Chơn lý hiện ra nhiều mặt, mỗi người nhận thức một mặt khác nhau tùy theo trình độ tiến hóa của mình.

    Chơn lý ở khắp nơi. Trên trời, dưới đất, giữa không trung, trong mình con người, thú vật, cây cỏ, sắt đá đều có Chơn lý ẩn tàng. Nó cũng hiện ra trong văn chương, mỹ thuật, khoa học chớ không phải riêng gì Tôn giáo mà thôi.

    Bây giờ ta hãy nêu ra câu hỏi nầy. Tại làm sao con người khát khao Chơn lý mà phải đi tầm nó ? Nó đem lại hạnh phúc gì cho con người ?

    Giải ra thì dài dòng lắm. Tôi xin nói tóm tắt rằng : Ta phải tìm Chơn lý để hiểu biết vì duyên do nào con người sanh ra trên cõi trần nầy ? Thật sự con người có phải là xác thân nầy không ? Con người phải làm những gì và phải tránh những gì ?

    Nếu con người sanh ra, lớn khôn, lo học tập đặng lập thân danh và gia đình, rồi già, kế chết; mà chết rồi thì hết chuyện thì cuộc đời không có mục đích gì cả.

    Bởi con người chưa nhận thấy được mục đích thật của cuộc đời cho nên mới có những việc xô xát nhau, hà hiếp nhau, sát hại nhau, chỉ vì bã vinh hoa phú quí, miếng ăn, đất ở, chỗ đứng, nơi ngồi, để chung qui cũng nắm hai tay trắng mà xuống mồ. Con người sống trong giấc mộng mà không ngờ chút nào, mà cũng không dè mình còn tồn tại đây chẳng những nhờ vật thực mà cũng nhờ Chơn lý nữa.

    Chơn lý đã hữu ích như thế thì ta phải tìm nó ở đâu ? Hiện giờ ta không thể nương theo khoa học vì khoa học chưa nói tiếng chót.

    Ta quay về Tôn giáo thì ta lại càng thêm thất vọng. Tôn giáo không thể giải thích nổi những sự ta đang thắc mắc đây, không làm cho ta được hài lòng. Tôn giáo dạy chúng ta phải :

    Lánh những việc ác

    Làm những điều lành

    Lo rửa lòng cho trong sạch.

    Thử hỏi làm mấy việc nầy ích lợi gì ?

    Người ta sẽ bảo : “Có thế mới hưởng hạnh phước kiếp sau và thác rồi khỏi sa Địa ngục”.

    Cứu cánh tôn giáo chỉ có thế thôi ư ?

    Phải chăng tôn giáo đã mất chơn truyền rồi nên không hiểu rằng việc tu tâm luyện tánh có một mục đích cao siêu hơn nữa, ấy là giúp cho con người học được khoa Huyền bí học. Khoa nầy dạy lý do sanh hóa một Thái dương hệ và chỉ phương pháp cho con người luyện mình đặng trở nên trọn sáng, trọn lành trong một thời gian ngắn ngủi, trước hạn kỳ của cơ trời đã định sẵn. Trong tôn giáo người ta gọi khoa nầy là “Mật” hay là “Hình nhi thượng học”.

    Thuở xưa hồi mới ra đời, mỗi tôn giáo lớn như Ai Cập giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đều có khoa Hình nhi thượng học để đào tạo những bậc Thánh nhân, Hiền Triết. Ngày nay khoa Hình nhi thượng học trong các tôn giáo không còn nữa. Vì lý do nào ? Người học đạo đều biết nhưng không tốt chi mà đem nói ra tất cả những sự thật về mấy việc ấy. Luôn luôn chúng ta chỉ nên nhớ câu nầy của Shakespeare :

    “Xin lắng nghe cho êm thấm.

    Xét đoán cho nhơn từ.

    “Écoutez avec douceur

    Jugez avec bonté.

    Thật ra sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn một ít lâu và các vị đệ tử lớn đều nối gót mà qui vị thì khoa Hình nhi thượng học của Phật giáo cũng theo thời gian mà lẫn khuất trong đám sương mù.

    Hiện giờ những di tích Hình nhi thượng học của Phật giáo còn thấy trong nhiều cuốn kinh Phật, nhưng nếu không nhờ ánh sáng của Huyền bí học thì khó mà thật hiểu được nghĩa lý của chúng nó.

    Thử hỏi một chuyện nhỏ mọn nầy. Muốn thành Phật phải có những điều kiện nào thì không một ai trả lời nổi ? – vì không một người nào biết việc đó. Không biết thì làm sao tu cho thành Phật bây giờ.

    Đạt được quả vị Phật không khác nào việc thi đậu Thạc sĩ ở dưới trần. Muốn tới trình độ nầy thì phải trải qua nhiều cấp, từ Sơ học, Tiểu học cho đến Trung học và Đại học, phải thi đậu văn bằng Tiểu học, Tú Tài và Cử nhân.

    Tin rằng chỉ niệm Lục Tự Di Đà hay là tụng kinh gõ mõ và ngồi thiền vài năm thì đắc đạo, được về Tây phương Cực lạc, ngự trên tòa sen thì không khác việc tin rằng một đứa bé mới biết đọc, biết viết, chưa học qua hết chương trình Tiểu học, nói chi đến Trung học và Đại học mà thình lình lại thành một vị Thạc sĩ. Nếu quả vị Phật đạt được như trở bàn tay thì nó không có giá trị gì cả.

    Không nói tới luật trời; ở trần thế nầy đây, mỗi người phải ở một ngôi vị xứng đáng với tài và đức của mình. Thiên Địa chí công, không có một sự tư vị nào cả. Chúng ta phải diệt những thành kiến cũ kỹ trước đây và lo dọn mình cho trong sạch như lời Phật dạy đặng bước tới thềm Thánh Điện mà trên ngưỡng cửa có khắc hai chữ thật to “ PHỤNG SỰ ”.

    Thí sanh phải qua năm cửa, mỗi cửa đều có những điều kiện nhứt định và khác nhau, nhứt là về các đức tánh. Qua khỏi một cửa nào rồi thì một bức màn vô minh vén lên, thí sanh mở rộng tâm và trí một lượt và thành một người mới; khác hơn trước. Vào cửa thứ năm rồi, toàn thể Chơn lý ở dãy Địa cầu nầy hiện ra. Con người thành một vị Siêu phàm. Đó là con đường Đạo cũng gọi là Minh Triết thiêng liêng, con đường duy nhứt, trường tồn với thời gian, không bao giờ hư hoại, mà từ ngàn xưa các vị tu hiền đều phải noi theo đặng đi tới bực Chánh đẳng, Chánh giác. 2.500 năm trước, nhiều vị đệ tử của Phật như Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Kiều Trần Như, A Nan Đa, U Ba Li, Chullapanthaka v. v. . . đã nối gót các bực tiền bối và nhờ đó mới đắc quả La Hán.

    Trong cuốn Những chuyện Thần Quyền và Thần Bí trong Đạo Phật tôi cố gắng thuật lại cho quí bạn nghe, nhứt là những bạn ái mộ Chơn lý và những bạn thanh niên nam nữ, mặc dầu một cách vụng về, những lời châu ngọc của các vị Đại Sư Huynh tôi đã chỉ dạy về con đường Minh Triết thiêng liêng nầy. Cầu xin chúng nó giúp ích quí bạn tu hiền phần nào và được góp công vào công việc chấn hưng Phật Giáo nước nhà.

    Lành thay ! Lành thay !

    Châu đốc ngày mùng bốn tháng chạp năm Canh Tý

    nhằm ngày 20 tháng giêng dương lịch năm 1961 (20-1-1961).

    I

    Tây phương nghe nói những trông mong,

    Bến giác thuyền từ đáy vốn không,

    Ai biết Tây phương là cảnh đó ?

    Đèn linh một ngọn chiếu trong lòng.

    II

    Phật tại lòng ta chớ có lầm,

    Tây phương đâu nữa nhọc công tầm,

    Khéo vun cội phúc gìn tâm ý,

    Tám Chánh, Năm Hằng pháp diệu thâm.

    III

    Tám Đường, Năm Cấm Phật phân rành,

    Dưỡng tánh tu tâm khá tập tành,

    Đến hội Bàn Đào nên quả vị,

    Mau đem thuyền giác độ nhơn sanh.

    BẠCH LIÊN

    --------------------------------------------------------


    CHƯƠNG DẪN NHẬP



    ĐẠO PHẬT CŨNG NHƯ CÁC TÔN GIÁO KHÁC CHỨA ĐẦY NHỮNG CHUYỆN THẦN QUYỀN VÀ THẦN BÍ TỪ ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT GÔ TA MA CHO ĐẾN GIÁO LÝ CỦA NGÀI.

    Nhiều bạn thường nói với tôi : Đạo Phật không công nhận Thần quyền tức là không tin có Đức Thượng Đế và trong giáo lý cũng không có chi gọi là Thần bí cả. Luôn luôn tôi vẫn đáp : Tôn giáo là gạch nối giữa con người và Đức Thượng Đế. Nói đến Tôn giáo tức là nói đến chuyện Thần quyền và Thần bí. Chỉ tại người ta không phân biệt thế nào là “Công nhận Thần quyền” và thế nào là “Ỷ lại Thần quyền”. Tất cả những người học Đạo đều công nhận Thần quyền mà không bao giờ ỷ lại Thần quyền. Khi con người hiểu được Bản Tánh Thiêng Liêng của mình và mục đích sự sanh hóa một Thái dương hệ thì con người mới biết được cứu cánh của các tôn giáo và tại sao có những tôn giáo khác nhau sanh ra trên Địa cầu. Con người cũng sẽ hiểu rằng Thần quyền tức là sự áp dụng Luật Trời và những quyền năng còn tiềm tàng trong mính con người, ấy là những Thần quyền vậy.

    Tôi xin đem hai thí dụ nầy để chứng minh :

    Một là : vỗ tay sấm nổ.

    Hai là : con mắt thần.

    I: VỖ TAY SẤM NỔ.

    Đọc chuyện Tàu, nhứt là truyện Phong Thần và Phong Kiếm Xuân Thu, ta thấy nói Thần Tiên vỗ tay sấm nổ.

    Người xưa cho rằng việc đó có thật. Người đời nay lại bảo đừng tin dị đoan như thế. Vậy thì ai trúng, ai trật ?

    Còn người học Đạo biết rằng : không phải là chuyện hoang đường, nó đúng với Chơn lý.

    Tôi xin thử cắt nghĩa ra đây để quí bạn xem xét coi như thế nào.

    Phân nửa bên mặt của đàn ông chứa đầy dương điện, còn phân nửa bên trái thì chứa đầy âm điện. Trái lại, đàn bà bên mặt thì chứa đầy âm điện, còn bên trái thì chứa đầy dương điện. Theo luật vật lý thì điện theo mấy chỗ nhọn mà ra. Nếu ta biết cách làm cho dương điện và âm điện theo mười đầu ngón tay xẹt ra ngoài tức thì ta vỗ tay sấm nổ.

    Bí quyết thành công là ở tại chỗ biết cách làm cho điện xẹt ra. Không ai chỉ mối thì vỗ tay lốp bốp chớ không có gì lạ.

    Mà tại sao trong mình con người lại có điện ? Muốn hiểu tại sao thì phải phân tách nguyên tử.

    Mỗi nguyên tử gồm có hai phần :

    Chính giữa là Nhân, chứa dương điện tử (protons) và trung hòa tử (neutrons).

    Ở ngoài thì những âm điện tử (électrons) xây tròn, không khác nào những hành tinh xây chung quanh mặt trời.

    Ta cũng biết da, thịt, gân, xương con người làm bằng những tế bào hiệp lại, mà mỗi tế bào là sự kết hợp nhiều nguyên tử.

    Chung cuộc thì thân thể con người, thú vật, cây cỏ, sắt đá toàn là những bầu điện lực, những máy biến điện; chỉ tại chúng ta chưa biết dùng nên không thâu được những luồng sóng điện do các đài phát thanh hay là Vũ trụ tuyến phát ra.

    Những loài bướm, loài ong đều có cách truyền tin tức cho nhau, do những luồng điện của chúng nó phát ra, những vòi của chúng giống như cột “giây thép gió” của mình dùng. Loài cá ông cũng có phương pháp cảm thông với nhau vậy.

    VỀ VIỆC CON NGƯỜI BIẾT DÙNG SẤM SÉT

    TÔI XIN KỂ BA CHUYỆN

    1/ - Trong bộ giáo sử của Sozomène ( Histoire ecclésiatique de Sozomène) (L. IX, ch VI) có thuật chuyện vua Alaric tới công phá thành Narnia bị những giáo sĩ Etrusques dùng sấm sét đánh lui. Thành Narnia khỏi bị thất thủ.

    2/ - Lucius Pison cũng nói Đệ nhị Quốc Vương La Mã hồi thế kỷ thứ 7 là Numa Pompilius xuất thân từ một tu viện biết dùng sấm sét đặng giết thú rừng. Pline cũng công nhận việc nầy là đúng với sự thật.

    3/ - Bà Alexandra David Néel cũng có nói một vị Lạt Ma ở Tây Tạng dùng sấm sét giết một đứa chăn chiên vì nó phá khuấy ông.

    II : CON MẮT THẦN

    Người ta nói rằng Thần Thánh biết lòng dạ con người ra sao. Hồi chưa học Đạo thì chúng ta lấy làm lạ lắm. Về sau chúng ta biết rằng tư tưởng và ý muốn của con người đều có hình dạng.

    Thần Thánh có thần nhãn, thiên nhãn nên thấy được ý muốn của con người, điều nầy rất dễ hiểu.

    Hiện giờ những vị tu hành đắc Đạo có thần nhãn, thiên nhãn cũng đọc được tư tưởng và ý muốn của con người vậy.

    Tôi đem hai thí dụ nầy ra cho quí bạn thấy rằng càng ngày nhơn loại càng tiến hóa thì khoa Huyền bí học càng được phổ biến và thiên hạ sẽ không còn cho câu chuyện Thần quyền và Thần bí là lạ lùng hay dị đoan nữa.

    Tôi xin chia Những chuyện Thần quyền và Thần bí trong đạo Phật ra làm hai phần :

    Phần thứ nhứt – Trong đời sống của đức Phật.

    Phần thứ nhì – Trong giáo lý hay là Thuyết Luân Hồi và Nhân Quả.

  2. #2

    Mặc định

    PHẦN THỨ NHỨT


    TRONG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT.

    CHƯƠNG THỨ NHỨT

    CÔNG NHẬN THẦN QUYỀN

    Trong lịch sử Phật giáo có thiếu chi việc chứng tỏ Phật giáo mặc nhiên công nhận Thần quyền, tôi xin kể 7 chuyện thôi.

    1.- Chuyện Thứ Nhứt

    THIÊN THẦN MỞ CỬA.

    Sách Phật nói rằng : lúc Thái tử trốn đi, nhờ Thiên thần làm cho các cửa thành tự nhiên mở ra và quân canh ngã lăn ra ngủ mê man không nghe có vó ngựa Kantaka sải đi.

    (La Lumière de l’Asie – Ánh Sáng Á Châu trương 125 – 116)

    2.- Chuyện Thứ Nhì

    ĐẤT RUNG CHUYỂN.

    Sau khi Đức Bồ Tát đắc quả Phật thì đất rung chuyển 12 lần. Quả Địa cầu giống một cái bông. (Đời sống của Đức Phật theo kinh sách cổ Ấn Độ trương 91)

    (La vie du Bouddha d’après les textes de l’Inde ancienne par Hérold page 91).

    Về việc đất rung chuyển, sách Phật có ghi hai lần nữa.

    Một lần là lúc Phật nói với Ma Vương : “Ma Vương ơi ! từ đây tới ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn”. Phật vừa dứt lời thì đất rung chuyển và sấm sét vang rền.

    Khi Phật nhập Niết Bàn tại Kusinara, đất cũng rung chuyển và sấm sét vang rền một lần nữa, ấy là lần chót.

    3. - Chuyện Thứ Ba.

    MƯA HOA.

    Trong kinh sách Phật có thuật nhiều chuyện Mưa Hoa. Tôi xin kể vài vụ mà thôi.

    a/ Lúc Đức Phật trở về Ka bi la hoát tu (Kapilavastu) Ngài ở trong một cái vườn xoài. Khi Ngài vừa bước lên ngồi trên ngai của người ta làm sẵn cho Ngài thì một trận mưa hoa rơi xuống; người ta thấy toàn là bông hường.

    Vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích rất kinh ngạc và kính phục vô cùng.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách cổ Ấn Độ trang 144).

    b/ Lúc Phật gần bỏ xác đặng nhập Niết Bàn thì cũng có một trận mưa hoa rơi xuống và trên không có tiếng tiêu thiều nhạc trổi để tiển đưa Đấng Trọn Lành từ giả cõi trần.

    (Le Bouddha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg page 223)

    c/ Ông Sư Nghiêm đời Đường ngồi tụng kinh tại chùa Vân Hoa thì có một trận mưa hoa rớt xuống. Vì thế trong cuốn “Quan Âm Thị Kính” có mấy câu nầy :

    311 - Cửa thiền sẽ lén chân coi,

    Trông lên Sư Cụ vừa ngồi tụng kinh.

    313 – Mưa hoa rải khắp bên mình,

    Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.

    315 - Mới hay đạo Phật rất mầu,

    Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui.

    Câu chuyện Mưa Hoa, Vụ Hoa và chuyện học trò Sư La Thập giảng kinh Niết Bàn tại núi Hổ Khưu và khi ông hỏi mấy hòn đá ở chung quanh nghe lời ông nói có hạp với lòng Phật hay không thì mấy hòn đá gật đầu. Có thật hay không ? Dám chắc đời nay không ai hiểu rõ điều ấy. Nhưng bây giờ đây, trong cuốn Chơn Sư và Đường Đạo, chương thứ 14, Đức Leadbeater có nói về Đức Phật và hai cuộc lễ : lễ Huê Sắc tức là ngày Vía của Đức Phật và lễ A Sa La là lễ kỷ niệm ngày Phật Chuyển Pháp Luân.

    Đức Leadbeater thuật lại rằng : lúc Phật hiện ra và giơ tay ban ân huệ tức thì một trận mưa hoa rơi xuống giữa đám đông quần chúng. ( . . . en même temps qu’il élève la main droite en l’attitude de bénédiction, tandis qu’une grande pluie de fleurs tombe sur le peuple).

    (Xin xem cuốn Chơn Sư và Đường Đạo trương 288)

    (Les Maîtres et le Sentier page 288, Edition 1926)

    Nhưng tin hay không, quyền đó là ở nơi quí bạn.



    4. - Chuyện Thứ Tư

    THIÊN ĐẾ INDRA CHỨNG LỜI NGUYỆN VÀ BAN ÂN HUỆ

    CHO THÁI TỬ VICVANTARA.

    Đức Phật mới thuật cho vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích dòng Thích Ca nghe câu chuyện nầy :

    “Trong một kiếp trước, tôi đã thấy gia quyến tôi tụ họp chung quanh tôi và ca tụng tôi.

    Thuở ấy có một vị Vương đế ngự trị tại thành Jayatoura tên là Sânjaya.

    Vợ là Hoàng hậu Phousati và con là Thái tử Vicvantara. Vicvantara cưới Công chúa Madri và sanh được hai đứa con : một trai đặt tên Jâlin, một gái đặt tên là Krishnajâna.

    Thái tử có nuôi một con Bạch Tượng có tài kêu mưa hú gió giờ nào cũng được.

    Ngày kia xứ Kalinga bị hạn hán. Người và vật chết đói và chết khát rất nhiều. Vua xứ Kalinga nghe đồn tài phép của Bạch Tượng bèn sai một đoàn sứ giả qua yết kiến Thái tử và xin Bạch Tượng đem về Kalinga. Khi nghe đoàn sứ giả phân trần tự sự, Thái tử bèn nói : “Sao mấy vị không xin cặp mắt tôi, da thịt tôi”.

    Nói rồi Thái tử sai người dẫn Bạch Tượng ra cho đoàn sứ giả. Hay tin nầy dân chúng thành Jâyatoura đâm ra hoảng hốt. Họ sợ bị trời hạn thì họ sẽ chết đói. Họ bèn kéo nhau vào triều phản đối và xin vua xử tử Thái tử. Vua an ủi họ, hứa hẹn với họ đủ điều, hồi lâu họ mới dịu giọng và xin đày Thái tử ra chốn sa mạc xa xăm. Vua phải nghe theo.

    Thái tử bèn dẫn vợ con lên xe ngựa chở đồ đạc ra đi. Dọc đường Thái tử gặp ba thầy Bà la môn xin Ngài bố thí. Thái tử cho người thứ nhứt cặp ngựa, người thứ nhì cái xe, còn người thứ ba cây kiềng vàng của Công chúa.

    Vợ chồng con cái Thái tử phải đi bộ vô cùng khổ sở.

    Trên trời, Thiên Đế Anh Tra (Indra) thấy rõ mọi việc. Ngài bèn hóa ra thành trì rộng lớn, lầu đài tráng lệ, vườn tược sum sê rồi Ngài biến thành một ông già cỡi một con ngựa ra đón rước Thái tử và vợ con về cung điện của Ngài ở. Vợ chồng Thái tử ngồi trên ngai vàng. Yến tiệc dọn ra đầy cao lương mỹ vị. Ông già mới nói : “Thái tử hãy ở đây trọn đời với tôi”. Ăn uống xong xuôi, Thái tử ngồi suy nghĩ rồi bổng chốc đứng dậy nói : “Thưa Cụ ! Tôi đã cãi lịnh vua cha. Tôi bị đày ra sa mạc, tôi không có quyền ở đây hưởng hạnh phúc. Tôi xin từ giả cụ”.

    Ông già hết lòng cầm lại nhưng không được.

    Ra khỏi cửa thành vài bước, Thái tử dòm lại thì thành trì biến đi đâu mất, chung quanh toàn là cát trắng nóng nực. Thái tử và vợ con đi tới một cái núi, chung quanh rừng rú bao bọc gặp một cái chòi bỏ hoang, vợ chồng mới vô đó ở. Vợ chồng con cái ăn trái rừng, uống nước suối. Bảy tháng trôi qua, không một bóng người lai vãng. Bữa kia, một thầy Bà la môn đi ngang qua chòi thấy hai đứa nhỏ đang chơi giỡn trước sân; thầy bèn ngắm nghía chúng nó rồi mới nói với Thái tử : “Vợ tôi làm việc mệt nhọc quá, nó muốn có kẻ đỡ tay chân. Vậy ông cho tôi hai đứa con ông đi”. Thái tử nghe qua sửng sốt, hồi lâu mới trả lời :” Được, ông hãy dẫn chúng nó đi”. Lúc đó Công chúa đang hái trái trong rừng, thình lình trong lòng hồi hộp, như linh tính báo cho nàng biết có việc chẳng lành xảy ra, nàng bương bả chạy về. Nhưng đã trễ. Thầy Bà la môn dẫn hai đứa nhỏ đi mất rồi. Công chúa khóc than thảm thiết. Bổng đâu có một người Bà la môn khác bước đến. Ông đã già và đi đứng mệt nhọc. Ông dòm Công chúa rồi nói với Thái tử : “Ông hãy coi, tôi già quá mà lại bị bịnh tê. Tôi đi đứng khó khăn. Tôi không có người giúp đỡ. Vậy ông hãy cho tôi cô nầy. Cô sẽ săn sóc tôi. Ông làm một việc phước đức rất lớn, cả hoàn cầu sẽ ca tụng ông”. Thái tử nghe qua ngồi suy nghĩ rồi nói với Công chúa : “Em có nghe ông già nói hay không ? Tôi phải trả lời làm sao đây ?” Công chúa bèn đáp : “Anh đã cho hai đứa con yêu quí của chúng ta rồi, anh hãy ừ đi, em không phàn nàn đâu”. Thái tử bèn cầm tay Công chúa đặt vào tay ông già. Ông già cám ơn Thái tử rồi nói : “VINH DIỆU THAY THÁI TỬ VICVANTARA ! CẦU NGUYỆN XIN NGƯỜI SỚM ĐƯỢC THÀNH PHẬT”. Ông bước đi vài bước rồi trở lại nói : “Tôi còn phải qua xứ khác kiếm một con hầu nữa. Tôi để nàng nầy lại cho ông và từ đây ai xin nàng ông cũng đừng cho”. Nói rồi ông già biến hình thành một người rất xinh đẹp, mặt chiếu hào quang sáng rỡ. Thái tử và Công chúa nhìn ra là Thiên Đế (Indra) bèn cúi đầu làm lễ. Thiên Đế nói : “Thái tử và Công chúa mỗi người xin ta một ân huệ, ta sẽ ban cho”. Thái tử bèn nói : “Cầu xin một ngày kia tôi được thành Phật và giải thoát chúng sanh ở miền rừng núi”. Thiên Đế bèn đáp : “Thái tử sẽ được toại nguyện”.

    Tới phiên Công chúa : “Cầu xin thầy Bà la môn đã dẫn hai đứa con tôi đi đừng để chúng nó trong nhà mà đem bán chúng nó tại thành Jayatoura và người mua chúng nó là đức Vua Sanjaya”.

    Thiên Đế bèn đáp : “Công chúa sẽ được hài lòng”. Nói rồi Thiên Đế bèn bay lên trời. Công chúa bèn than : “Ước sao vua cha tha tội cho Thái tử”. Trên không có tiếng vọng lại : “Vĩệc ấy sẽ được”.

    Thái tử được vua cha tha tội. Thái tử trở về Jayatoura được dân chúng tiếp đón nồng hậu và đoàn tụ với hai con.

    Thuật xong chuyện nầy đức Phật bèn nói : “Thái tử Vicvantara là tôi đây. Quí Ngài hoan nghinh tôi bây giờ cũng như người ta đã hoan nghinh tôi thuở xưa. Hãy đi theo con đường giải thoát.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 144 – 159 tóm tắt).

    Rõ ràng Phật công nhận Thần quyền.



    5.- Chuyện Thứ Năm

    CINCA ĐỘN BỤNG VU CÁO PHẬT

    THIÊN ĐẾ ANH TRA GIẢI NGUY.

    Khi bọn đạo sĩ đấu phép thua Phật rồi (xin xem tới) thì họ đâm ra oán hận và tìm dịp báo thù. Họ lại ở gần vườn Kỳ Viên và rình mò những việc làm của Phật và các đệ tử Ngài. Họ toa rập với một cô gái đẹp tên Cinca, tánh nết rất lẳng lơ và xảo quyệt. Cinca độn bụng lên càng ngày càng lớn và đi rêu rao rằng : Vì ăn ở với Phật nên nàng đã thọ thai. Tới tháng thứ chín, Cinca bèn lại chỗ Phật đương thuyết pháp nói lớn tiếng rằng : “Vì Ngài mà tôi mang thai nghén, Ngài không đoái hoài đến tôi. Tôi không chỗ ở để sanh đẻ”.

    Phật điềm nhiên nói : “Cinca cô có nói láo không ? Chỉ có một mình tôi và cô biết mà thôi”. Cinca la lên : “Tôi không bao giờ nói láo”. Phật vẫn ngồi im lặng. Lúc đó trên trời, Thiên Đế Anh Tra thấy rõ mọi việc. Ngài xét rằng đã đến lúc phải gỡ mặt nạ của Cinca. Tức thì bốn vị Thiên thần được lịnh hóa ra bốn con chuột lắt chung vô áo Cinca cắn đứt dây. Một khúc cây tròn rớt xuống đất. Phật bèn cười và nói : “Cinca ! Đứa con của cô đó”. Các tín đồ nổi giận nguyền rủa Cinca, phun nước miếng vào mặt nàng. Cinca hoảng hồn chạy mất.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 206 – 209).

    Chuyện nầy chứng thật Phật nhờ Thần quyền giải nguy. Nhưng còn có chứa một ý nghĩa sâu xa về Huyền bí học. Người đắc đạo không bao giờ được phép dùng thần thông đặng minh oan cho mình khi mình bị vu cáo.

    Tới bực Phật, thần thông rộng lớn, đạo pháp cao cường, Phật làm cho khúc cây rớt xuống không được hay sao, lựa phải nhờ tới bốn vị Thiên thần xuống giúp. Nhưng Phật yên lặng để Nhân quả định đoạt. Những Đấng Chí Tôn cầm cân tội phước gọi là những Đấng Nam Tào Bắc Đẩu không khi nào để Phật bị hàm oan.



    6.- Chuyện Thứ Sáu.

    PHẬT BIẾT RÕ PHẠN VƯƠNG (BRAHMA) NHƯ MỘT NGƯỜI

    ĐÃ VÀO CÕI CỦA PHẠN VƯƠNG Ở VÀ SANH ĐẺ NƠI ĐÓ.

    Phật đi đến xứ CÔ SA LA (Kosala) vào một cái làng của người Bà la môn tên Manasâkrita và ngự trong một cái vườn xoài. Có hai thầy Bà la môn còn trẻ, một người tên Vâsichtha, một người tên Bhâradvâdja, học hai trường khác nhau, tới ra mắt Phật.

    Vâsichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! chúng tôi mới cãi nhau về con đường chánh. Tôi nói con đường của thầy Bà la môn Panchkarasâdi chỉ là con đường ngay hơn hết, dắt đến sự hợp nhứt với Phạn Vương. Còn người bạn của tôi đây lại cho rằng con đường của thầy Târoukchya dặn dò mới thật con đường ngay hơn hết. Bạch Phật chúng tôi biết Phật là bực Toàn giác, giáo chủ các Thiên thần và con người. Chúng tôi mới tới đây hỏi Phật hai con đường đó có phải là những đường giải thoát hay không ? Chung quanh làng chúng tôi có nhiều con đường mà cả thảy đều dắt đến Manasâkrita. Những đường của mấy thầy Bà la môn dạy đều giống mấy con đường đó không ?

    Phật bèn hỏi : “Hai thầy có tưởng rằng hết thảy những con đường đều tốt hết không ?”

    - Bạch Phật ! chúng tôi đều tưởng như vậy.

    Phật nói tiếp : “Có thầy Bà la môn nào thông thạo kinh Phệ đà thấy tận mặt Đức Phạn Vương không”.

    - Bạch Phật không có vị nào thấy cả.

    Phật hỏi thêm . . . “Vậy trong những vị dạy mấy thầy Bà la môn có vị nào thấy Phạn Vương không ?

    - Bạch Phật cũng không ai thấy cả.

    Phật nói : “Bây giờ thí dụ một người kia làm một cái thang tại ngã tư đặng leo lên nhà. Người ta mới hỏi y : “Cái nhà anh ở đâu mà làm cái thang đặng leo lên ? Anh biết nó ở hướng đông hay hướng tây ? Hướng nam hay hướng bắc ? Nó cao hay thấp, hay là không lớn không nhỏ ?”

    Y trả lời : “Tôi không biết”. Người ta liền nói : “Anh làm một cái thang đặng leo lên một cái nhà mà anh không biết ra sao và anh cũng không thấy nó nữa ?” Y trả lời : “Quả thật tôi đã làm như thế”. Hai thầy nghĩ sao về người đó ?

    Hai thầy có cho lời của y là điên khùng hay không ?

    - Bạch Phật ! Những lời đó thật là điên khùng.

    - Vậy thì những thầy Bà la môn phải nói : “Chúng tôi chỉ cho anh con đường hiệp nhứt với cái mà chúng tôi không hiểu mà cũng không thấy nữa”. Nếu tục lệ của người Bà la môn như thế thì công việc của họ làm vô ích quá.

    Bharadvadja bèn thưa : “Bạch Phật ! Thật đúng như vậy”.

    Phật mới nói : “ Vậy thì không thế nào người Bà la môn thông thạo kinh Phệ đà có thể chỉ đường hiệp nhứt với cái mà họ không biết và cũng không thấy nữa. Thật là không khác nào một đoàn người mù níu nhau đi. Người đi đầu, người đi chính giữa, người đi chót đều không thấy đường. Theo ý Ta chuyện mấy thầy Bà la môn thuộc kinh Phệ đà thuật lại là chuyện của người mù. Nó thiệt là kỳ dị, thiệt là chuyện nói suông, không ích lợi vào đâu cả.

    Bây giờ thí dụ một người đi đến mé rạch, va có việc muốn qua bờ bên kia. Va bèn cầu khẩn cho bờ bên kia dời qua bên nây đặng cho va bước lên dễ dàng. Cái bờ bên kia vì có lời cầu khẩn của va mà dời qua bên nây không ?

    - Bạch Phật ! Không khi nào được bao giờ.

    - Đó là công việc của mấy thầy Bà la môn bấy lâu nay. Họ không tập luyện những tánh tình tốt để thành ra “thật một người Bà la môn” mà họ đã nói.

    Indra (Anh Tra) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Soma (Sô Ma) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Varouna (Hoa ru na) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Brahma (Phạn Vương) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Thật ra không thể nào nhờ sự cầu nguyện, nhờ sự van vái, nhờ sự xưng tụng công đức mà khi thác rồi họ được hiệp nhứt với Phạn Vương.

    Bây giờ ta hỏi hai thầy : “Người Bà la môn nói về đức Phạn Vương ra làm sao ! Ngài có ưa hoa nguyệt không ?”

    - Bạch Phật ! không .

    - Đức Phạn Vương có hung ác không ? Có kiêu căng không ? Có biếng nhác không ?

    - Bạch Phật ! không.

    - Còn mấy người Bà la môn có tránh khỏi mấy tánh đó không ?

    Vasichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! Họ còn mấy tánh đó”.

    Phật bèn nói : “Người Bà la môn còn ưa khoái lạc, còn bị giác quan cám dỗ, họ say hoa đắm nguyệt, họ hung bạo, họ biếng nhác, họ kiêu hảnh, họ hoài nghi. Làm sao họ hiệp nhứt với cái không đồng bản tánh với họ được. Thế nên ba đức minh triết [1] của họ là một sa mạc khô khan, một cái rừng rậm rạp, một cảnh điêu tàn không thể nào tạo lập lại được.

    Khi nghe Phật nói xong thì Vasichtha liền thưa : “Bạch Phật ! người ta nói rằng Đức Thích Ca Mâu Ni biết con đường hiệp nhứt với Phạn Vương”. Phật mới nói : “Hai thầy nghĩ sao về việc một người kia sanh trưởng tại Manasâkrita, khi gặp con đường ngay hơn hết dắt từ đây đi thẳng đến Manasâkrita, y có ngần ngại gì mà không theo con đường đó chăng ?

    - Chắc chắn là va không hề ngần ngại chi cả.

    Phật bèn nói : “Vasichtha ! Cũng thế ấy, Như Lai biết con đường ngay thẳng dắt đến sự hiệp nhứt với Phạn Vương. Như Lai biết nó như một người đã vào cõi Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Như Lai không có nghi ngờ cái chi cả”.

    TEVIJJA SUTTA (Sacred Books XI 157 – 203).

    Nguyên văn chữ Pháp : “De Même, reprit le Bouddha, le Tathâgata connait le chemin direct qui conduit à l’union avec Brahma. Il le connait comme une personne qui est entrée dans le monde de Brahma, qui y est née. Il ne peut exister de doute en lui”.

    Xin quí bạn chú ý tới ba điểm nầy :

    Một là : Cuốn Tevejja Sutta là cuốn kinh Phật.

    Hai là : Nếu quả thật Phạn Vương không phải là Đấng Tạo Hóa Vũ Trụ nầy và sự hiệp nhứt với Ngài rất vô ích thì Đức Phật đã bảo hai thầy Bà la môn là lầm lạc rồi.

    Ba là : Ngài còn nói : Ngài biết rõ Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Ngài không có nghi ngờ chi cả.



    7.- Chuyện Thứ Bảy.

    PHẬT MẶC NHẬN PHẠN VƯƠNG LÀ ĐẤNG TẠO HÓA.

    Trong cuốn “Ánh Sáng Á Châu” (La Lumière de l’Asie) trương 202, có thuật những lời của Phật thuyết cho vua cha Tịnh Phạn nghe như vầy : “Om ! AMITAYA ! Chớ nên ướm thử dùng lời nói mà đo cõi vô biên, hay là nhúng dây tư tưởng vào cõi vô tận. Người hỏi cũng lầm mà người trả lời cũng lầm vậy. Đừng nói chi hết”.

    Kinh sách dạy rằng : Trước khi vạn vật sanh ra thì chỉ có một mình Phạn Vương trầm tư mặc tưởng mà thôi. Nhưng chớ nên suy gẫm đến Phạn Vương hay là một ánh sáng nào cả, cái trí người phàm cũng không hiểu được. Những màn lần lượt vén lên; cái nầy rồi tới cái kia. Phải có những bức màn và sau những bức màn nầy thì có những bức màn khác. Các ngôi tinh tú cứ vận hành mà không hỏi han chi cả. Miễn là sự sanh, sự tử, sự buồn vui, cái nguyên nhân và cái hậu quả còn lại là đủ rồi.

    Cuộc đời và ngày giờ cứ thay đổi và luân chuyển không ngừng cũng như giòng nước của con kinh chảy từ nguồn ra biển, dầu mau hay chậm, các lượn sóng cũng vẫn là một, mặc dầu coi khác nhau, cứ nối tiếp với nhau, cái sau nhồi cái trước.

    Tin có Đức Thượng Đế sanh hóa vũ trụ hay là không tin đó là quyền tự do của bạn, không ai xâm phạm được. Nhưng chắc chắn quí bạn dư biết tín ngưỡng không sửa đổi Chơn lý được.

    Cũng như rõ ràng ta thấy sớm mai mặt trời mọc ở phương Đông, chiều lặn về hướng Tây. Bây giờ, dầu hết thảy dân chúng trên địa cầu đều tin như vậy, sự tin nầy cũng không sửa đổi việc trái đất xây chung quanh mặt trời hay là bắt buộc mặt trời chìu theo ý mình phải xây chung quanh trái đất.

    Nếu không có thật ông Trời mà người ta tin rằng “có” đi nữa thì bất quá người ta tạo ra một ông Trời giả. Ngày nào người ta hết tin, ngày đó ổng tan mất.

    Trái lại, nếu ông Trời “có thật” mà thế gian không tin có Ngài thì Ngài cũng là Ngài. Ngài không có kém sút quyền năng chút nào. Có lẽ Ngài mỉm cười rằng : “Các con của ta còn khờ dại lắm vậy. Rồi đây chúng nó sẽ biết”.

    Người học đạo phải thận trọng và dè dặt từ chút trong việc tầm Chơn lý.

  3. #3

    Mặc định

    PHẦN THỨ NHỨT


    TRONG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC PHẬT.

    CHƯƠNG THỨ NHỨT

    CÔNG NHẬN THẦN QUYỀN

    Trong lịch sử Phật giáo có thiếu chi việc chứng tỏ Phật giáo mặc nhiên công nhận Thần quyền, tôi xin kể 7 chuyện thôi.

    1.- Chuyện Thứ Nhứt

    THIÊN THẦN MỞ CỬA.

    Sách Phật nói rằng : lúc Thái tử trốn đi, nhờ Thiên thần làm cho các cửa thành tự nhiên mở ra và quân canh ngã lăn ra ngủ mê man không nghe có vó ngựa Kantaka sải đi.

    (La Lumière de l’Asie – Ánh Sáng Á Châu trương 125 – 116)

    2.- Chuyện Thứ Nhì

    ĐẤT RUNG CHUYỂN.

    Sau khi Đức Bồ Tát đắc quả Phật thì đất rung chuyển 12 lần. Quả Địa cầu giống một cái bông. (Đời sống của Đức Phật theo kinh sách cổ Ấn Độ trương 91)

    (La vie du Bouddha d’après les textes de l’Inde ancienne par Hérold page 91).

    Về việc đất rung chuyển, sách Phật có ghi hai lần nữa.

    Một lần là lúc Phật nói với Ma Vương : “Ma Vương ơi ! từ đây tới ba tháng nữa, ta sẽ nhập Niết Bàn”. Phật vừa dứt lời thì đất rung chuyển và sấm sét vang rền.

    Khi Phật nhập Niết Bàn tại Kusinara, đất cũng rung chuyển và sấm sét vang rền một lần nữa, ấy là lần chót.

    3. - Chuyện Thứ Ba.

    MƯA HOA.

    Trong kinh sách Phật có thuật nhiều chuyện Mưa Hoa. Tôi xin kể vài vụ mà thôi.

    a/ Lúc Đức Phật trở về Ka bi la hoát tu (Kapilavastu) Ngài ở trong một cái vườn xoài. Khi Ngài vừa bước lên ngồi trên ngai của người ta làm sẵn cho Ngài thì một trận mưa hoa rơi xuống; người ta thấy toàn là bông hường.

    Vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích rất kinh ngạc và kính phục vô cùng.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách cổ Ấn Độ trang 144).

    b/ Lúc Phật gần bỏ xác đặng nhập Niết Bàn thì cũng có một trận mưa hoa rơi xuống và trên không có tiếng tiêu thiều nhạc trổi để tiển đưa Đấng Trọn Lành từ giả cõi trần.

    (Le Bouddha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg page 223)

    c/ Ông Sư Nghiêm đời Đường ngồi tụng kinh tại chùa Vân Hoa thì có một trận mưa hoa rớt xuống. Vì thế trong cuốn “Quan Âm Thị Kính” có mấy câu nầy :

    311 - Cửa thiền sẽ lén chân coi,

    Trông lên Sư Cụ vừa ngồi tụng kinh.

    313 – Mưa hoa rải khắp bên mình,

    Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu.

    315 - Mới hay đạo Phật rất mầu,

    Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui.

    Câu chuyện Mưa Hoa, Vụ Hoa và chuyện học trò Sư La Thập giảng kinh Niết Bàn tại núi Hổ Khưu và khi ông hỏi mấy hòn đá ở chung quanh nghe lời ông nói có hạp với lòng Phật hay không thì mấy hòn đá gật đầu. Có thật hay không ? Dám chắc đời nay không ai hiểu rõ điều ấy. Nhưng bây giờ đây, trong cuốn Chơn Sư và Đường Đạo, chương thứ 14, Đức Leadbeater có nói về Đức Phật và hai cuộc lễ : lễ Huê Sắc tức là ngày Vía của Đức Phật và lễ A Sa La là lễ kỷ niệm ngày Phật Chuyển Pháp Luân.

    Đức Leadbeater thuật lại rằng : lúc Phật hiện ra và giơ tay ban ân huệ tức thì một trận mưa hoa rơi xuống giữa đám đông quần chúng. ( . . . en même temps qu’il élève la main droite en l’attitude de bénédiction, tandis qu’une grande pluie de fleurs tombe sur le peuple).

    (Xin xem cuốn Chơn Sư và Đường Đạo trương 288)

    (Les Maîtres et le Sentier page 288, Edition 1926)

    Nhưng tin hay không, quyền đó là ở nơi quí bạn.



    4. - Chuyện Thứ Tư

    THIÊN ĐẾ INDRA CHỨNG LỜI NGUYỆN VÀ BAN ÂN HUỆ

    CHO THÁI TỬ VICVANTARA.

    Đức Phật mới thuật cho vua Tịnh Phạn và Hoàng Thân Quốc Thích dòng Thích Ca nghe câu chuyện nầy :

    “Trong một kiếp trước, tôi đã thấy gia quyến tôi tụ họp chung quanh tôi và ca tụng tôi.

    Thuở ấy có một vị Vương đế ngự trị tại thành Jayatoura tên là Sânjaya.

    Vợ là Hoàng hậu Phousati và con là Thái tử Vicvantara. Vicvantara cưới Công chúa Madri và sanh được hai đứa con : một trai đặt tên Jâlin, một gái đặt tên là Krishnajâna.

    Thái tử có nuôi một con Bạch Tượng có tài kêu mưa hú gió giờ nào cũng được.

    Ngày kia xứ Kalinga bị hạn hán. Người và vật chết đói và chết khát rất nhiều. Vua xứ Kalinga nghe đồn tài phép của Bạch Tượng bèn sai một đoàn sứ giả qua yết kiến Thái tử và xin Bạch Tượng đem về Kalinga. Khi nghe đoàn sứ giả phân trần tự sự, Thái tử bèn nói : “Sao mấy vị không xin cặp mắt tôi, da thịt tôi”.

    Nói rồi Thái tử sai người dẫn Bạch Tượng ra cho đoàn sứ giả. Hay tin nầy dân chúng thành Jâyatoura đâm ra hoảng hốt. Họ sợ bị trời hạn thì họ sẽ chết đói. Họ bèn kéo nhau vào triều phản đối và xin vua xử tử Thái tử. Vua an ủi họ, hứa hẹn với họ đủ điều, hồi lâu họ mới dịu giọng và xin đày Thái tử ra chốn sa mạc xa xăm. Vua phải nghe theo.

    Thái tử bèn dẫn vợ con lên xe ngựa chở đồ đạc ra đi. Dọc đường Thái tử gặp ba thầy Bà la môn xin Ngài bố thí. Thái tử cho người thứ nhứt cặp ngựa, người thứ nhì cái xe, còn người thứ ba cây kiềng vàng của Công chúa.

    Vợ chồng con cái Thái tử phải đi bộ vô cùng khổ sở.

    Trên trời, Thiên Đế Anh Tra (Indra) thấy rõ mọi việc. Ngài bèn hóa ra thành trì rộng lớn, lầu đài tráng lệ, vườn tược sum sê rồi Ngài biến thành một ông già cỡi một con ngựa ra đón rước Thái tử và vợ con về cung điện của Ngài ở. Vợ chồng Thái tử ngồi trên ngai vàng. Yến tiệc dọn ra đầy cao lương mỹ vị. Ông già mới nói : “Thái tử hãy ở đây trọn đời với tôi”. Ăn uống xong xuôi, Thái tử ngồi suy nghĩ rồi bổng chốc đứng dậy nói : “Thưa Cụ ! Tôi đã cãi lịnh vua cha. Tôi bị đày ra sa mạc, tôi không có quyền ở đây hưởng hạnh phúc. Tôi xin từ giả cụ”.

    Ông già hết lòng cầm lại nhưng không được.

    Ra khỏi cửa thành vài bước, Thái tử dòm lại thì thành trì biến đi đâu mất, chung quanh toàn là cát trắng nóng nực. Thái tử và vợ con đi tới một cái núi, chung quanh rừng rú bao bọc gặp một cái chòi bỏ hoang, vợ chồng mới vô đó ở. Vợ chồng con cái ăn trái rừng, uống nước suối. Bảy tháng trôi qua, không một bóng người lai vãng. Bữa kia, một thầy Bà la môn đi ngang qua chòi thấy hai đứa nhỏ đang chơi giỡn trước sân; thầy bèn ngắm nghía chúng nó rồi mới nói với Thái tử : “Vợ tôi làm việc mệt nhọc quá, nó muốn có kẻ đỡ tay chân. Vậy ông cho tôi hai đứa con ông đi”. Thái tử nghe qua sửng sốt, hồi lâu mới trả lời :” Được, ông hãy dẫn chúng nó đi”. Lúc đó Công chúa đang hái trái trong rừng, thình lình trong lòng hồi hộp, như linh tính báo cho nàng biết có việc chẳng lành xảy ra, nàng bương bả chạy về. Nhưng đã trễ. Thầy Bà la môn dẫn hai đứa nhỏ đi mất rồi. Công chúa khóc than thảm thiết. Bổng đâu có một người Bà la môn khác bước đến. Ông đã già và đi đứng mệt nhọc. Ông dòm Công chúa rồi nói với Thái tử : “Ông hãy coi, tôi già quá mà lại bị bịnh tê. Tôi đi đứng khó khăn. Tôi không có người giúp đỡ. Vậy ông hãy cho tôi cô nầy. Cô sẽ săn sóc tôi. Ông làm một việc phước đức rất lớn, cả hoàn cầu sẽ ca tụng ông”. Thái tử nghe qua ngồi suy nghĩ rồi nói với Công chúa : “Em có nghe ông già nói hay không ? Tôi phải trả lời làm sao đây ?” Công chúa bèn đáp : “Anh đã cho hai đứa con yêu quí của chúng ta rồi, anh hãy ừ đi, em không phàn nàn đâu”. Thái tử bèn cầm tay Công chúa đặt vào tay ông già. Ông già cám ơn Thái tử rồi nói : “VINH DIỆU THAY THÁI TỬ VICVANTARA ! CẦU NGUYỆN XIN NGƯỜI SỚM ĐƯỢC THÀNH PHẬT”. Ông bước đi vài bước rồi trở lại nói : “Tôi còn phải qua xứ khác kiếm một con hầu nữa. Tôi để nàng nầy lại cho ông và từ đây ai xin nàng ông cũng đừng cho”. Nói rồi ông già biến hình thành một người rất xinh đẹp, mặt chiếu hào quang sáng rỡ. Thái tử và Công chúa nhìn ra là Thiên Đế (Indra) bèn cúi đầu làm lễ. Thiên Đế nói : “Thái tử và Công chúa mỗi người xin ta một ân huệ, ta sẽ ban cho”. Thái tử bèn nói : “Cầu xin một ngày kia tôi được thành Phật và giải thoát chúng sanh ở miền rừng núi”. Thiên Đế bèn đáp : “Thái tử sẽ được toại nguyện”.

    Tới phiên Công chúa : “Cầu xin thầy Bà la môn đã dẫn hai đứa con tôi đi đừng để chúng nó trong nhà mà đem bán chúng nó tại thành Jayatoura và người mua chúng nó là đức Vua Sanjaya”.

    Thiên Đế bèn đáp : “Công chúa sẽ được hài lòng”. Nói rồi Thiên Đế bèn bay lên trời. Công chúa bèn than : “Ước sao vua cha tha tội cho Thái tử”. Trên không có tiếng vọng lại : “Vĩệc ấy sẽ được”.

    Thái tử được vua cha tha tội. Thái tử trở về Jayatoura được dân chúng tiếp đón nồng hậu và đoàn tụ với hai con.

    Thuật xong chuyện nầy đức Phật bèn nói : “Thái tử Vicvantara là tôi đây. Quí Ngài hoan nghinh tôi bây giờ cũng như người ta đã hoan nghinh tôi thuở xưa. Hãy đi theo con đường giải thoát.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 144 – 159 tóm tắt).

    Rõ ràng Phật công nhận Thần quyền.



    5.- Chuyện Thứ Năm

    CINCA ĐỘN BỤNG VU CÁO PHẬT

    THIÊN ĐẾ ANH TRA GIẢI NGUY.

    Khi bọn đạo sĩ đấu phép thua Phật rồi (xin xem tới) thì họ đâm ra oán hận và tìm dịp báo thù. Họ lại ở gần vườn Kỳ Viên và rình mò những việc làm của Phật và các đệ tử Ngài. Họ toa rập với một cô gái đẹp tên Cinca, tánh nết rất lẳng lơ và xảo quyệt. Cinca độn bụng lên càng ngày càng lớn và đi rêu rao rằng : Vì ăn ở với Phật nên nàng đã thọ thai. Tới tháng thứ chín, Cinca bèn lại chỗ Phật đương thuyết pháp nói lớn tiếng rằng : “Vì Ngài mà tôi mang thai nghén, Ngài không đoái hoài đến tôi. Tôi không chỗ ở để sanh đẻ”.

    Phật điềm nhiên nói : “Cinca cô có nói láo không ? Chỉ có một mình tôi và cô biết mà thôi”. Cinca la lên : “Tôi không bao giờ nói láo”. Phật vẫn ngồi im lặng. Lúc đó trên trời, Thiên Đế Anh Tra thấy rõ mọi việc. Ngài xét rằng đã đến lúc phải gỡ mặt nạ của Cinca. Tức thì bốn vị Thiên thần được lịnh hóa ra bốn con chuột lắt chung vô áo Cinca cắn đứt dây. Một khúc cây tròn rớt xuống đất. Phật bèn cười và nói : “Cinca ! Đứa con của cô đó”. Các tín đồ nổi giận nguyền rủa Cinca, phun nước miếng vào mặt nàng. Cinca hoảng hồn chạy mất.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 206 – 209).

    Chuyện nầy chứng thật Phật nhờ Thần quyền giải nguy. Nhưng còn có chứa một ý nghĩa sâu xa về Huyền bí học. Người đắc đạo không bao giờ được phép dùng thần thông đặng minh oan cho mình khi mình bị vu cáo.

    Tới bực Phật, thần thông rộng lớn, đạo pháp cao cường, Phật làm cho khúc cây rớt xuống không được hay sao, lựa phải nhờ tới bốn vị Thiên thần xuống giúp. Nhưng Phật yên lặng để Nhân quả định đoạt. Những Đấng Chí Tôn cầm cân tội phước gọi là những Đấng Nam Tào Bắc Đẩu không khi nào để Phật bị hàm oan.



    6.- Chuyện Thứ Sáu.

    PHẬT BIẾT RÕ PHẠN VƯƠNG (BRAHMA) NHƯ MỘT NGƯỜI

    ĐÃ VÀO CÕI CỦA PHẠN VƯƠNG Ở VÀ SANH ĐẺ NƠI ĐÓ.

    Phật đi đến xứ CÔ SA LA (Kosala) vào một cái làng của người Bà la môn tên Manasâkrita và ngự trong một cái vườn xoài. Có hai thầy Bà la môn còn trẻ, một người tên Vâsichtha, một người tên Bhâradvâdja, học hai trường khác nhau, tới ra mắt Phật.

    Vâsichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! chúng tôi mới cãi nhau về con đường chánh. Tôi nói con đường của thầy Bà la môn Panchkarasâdi chỉ là con đường ngay hơn hết, dắt đến sự hợp nhứt với Phạn Vương. Còn người bạn của tôi đây lại cho rằng con đường của thầy Târoukchya dặn dò mới thật con đường ngay hơn hết. Bạch Phật chúng tôi biết Phật là bực Toàn giác, giáo chủ các Thiên thần và con người. Chúng tôi mới tới đây hỏi Phật hai con đường đó có phải là những đường giải thoát hay không ? Chung quanh làng chúng tôi có nhiều con đường mà cả thảy đều dắt đến Manasâkrita. Những đường của mấy thầy Bà la môn dạy đều giống mấy con đường đó không ?

    Phật bèn hỏi : “Hai thầy có tưởng rằng hết thảy những con đường đều tốt hết không ?”

    - Bạch Phật ! chúng tôi đều tưởng như vậy.

    Phật nói tiếp : “Có thầy Bà la môn nào thông thạo kinh Phệ đà thấy tận mặt Đức Phạn Vương không”.

    - Bạch Phật không có vị nào thấy cả.

    Phật hỏi thêm . . . “Vậy trong những vị dạy mấy thầy Bà la môn có vị nào thấy Phạn Vương không ?

    - Bạch Phật cũng không ai thấy cả.

    Phật nói : “Bây giờ thí dụ một người kia làm một cái thang tại ngã tư đặng leo lên nhà. Người ta mới hỏi y : “Cái nhà anh ở đâu mà làm cái thang đặng leo lên ? Anh biết nó ở hướng đông hay hướng tây ? Hướng nam hay hướng bắc ? Nó cao hay thấp, hay là không lớn không nhỏ ?”

    Y trả lời : “Tôi không biết”. Người ta liền nói : “Anh làm một cái thang đặng leo lên một cái nhà mà anh không biết ra sao và anh cũng không thấy nó nữa ?” Y trả lời : “Quả thật tôi đã làm như thế”. Hai thầy nghĩ sao về người đó ?

    Hai thầy có cho lời của y là điên khùng hay không ?

    - Bạch Phật ! Những lời đó thật là điên khùng.

    - Vậy thì những thầy Bà la môn phải nói : “Chúng tôi chỉ cho anh con đường hiệp nhứt với cái mà chúng tôi không hiểu mà cũng không thấy nữa”. Nếu tục lệ của người Bà la môn như thế thì công việc của họ làm vô ích quá.

    Bharadvadja bèn thưa : “Bạch Phật ! Thật đúng như vậy”.

    Phật mới nói : “ Vậy thì không thế nào người Bà la môn thông thạo kinh Phệ đà có thể chỉ đường hiệp nhứt với cái mà họ không biết và cũng không thấy nữa. Thật là không khác nào một đoàn người mù níu nhau đi. Người đi đầu, người đi chính giữa, người đi chót đều không thấy đường. Theo ý Ta chuyện mấy thầy Bà la môn thuộc kinh Phệ đà thuật lại là chuyện của người mù. Nó thiệt là kỳ dị, thiệt là chuyện nói suông, không ích lợi vào đâu cả.

    Bây giờ thí dụ một người đi đến mé rạch, va có việc muốn qua bờ bên kia. Va bèn cầu khẩn cho bờ bên kia dời qua bên nây đặng cho va bước lên dễ dàng. Cái bờ bên kia vì có lời cầu khẩn của va mà dời qua bên nây không ?

    - Bạch Phật ! Không khi nào được bao giờ.

    - Đó là công việc của mấy thầy Bà la môn bấy lâu nay. Họ không tập luyện những tánh tình tốt để thành ra “thật một người Bà la môn” mà họ đã nói.

    Indra (Anh Tra) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Soma (Sô Ma) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Varouna (Hoa ru na) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Brahma (Phạn Vương) ! Chúng tôi cầu khẩn Ngài.

    Thật ra không thể nào nhờ sự cầu nguyện, nhờ sự van vái, nhờ sự xưng tụng công đức mà khi thác rồi họ được hiệp nhứt với Phạn Vương.

    Bây giờ ta hỏi hai thầy : “Người Bà la môn nói về đức Phạn Vương ra làm sao ! Ngài có ưa hoa nguyệt không ?”

    - Bạch Phật ! không .

    - Đức Phạn Vương có hung ác không ? Có kiêu căng không ? Có biếng nhác không ?

    - Bạch Phật ! không.

    - Còn mấy người Bà la môn có tránh khỏi mấy tánh đó không ?

    Vasichtha bèn thưa : “Bạch Phật ! Họ còn mấy tánh đó”.

    Phật bèn nói : “Người Bà la môn còn ưa khoái lạc, còn bị giác quan cám dỗ, họ say hoa đắm nguyệt, họ hung bạo, họ biếng nhác, họ kiêu hảnh, họ hoài nghi. Làm sao họ hiệp nhứt với cái không đồng bản tánh với họ được. Thế nên ba đức minh triết [1] của họ là một sa mạc khô khan, một cái rừng rậm rạp, một cảnh điêu tàn không thể nào tạo lập lại được.

    Khi nghe Phật nói xong thì Vasichtha liền thưa : “Bạch Phật ! người ta nói rằng Đức Thích Ca Mâu Ni biết con đường hiệp nhứt với Phạn Vương”. Phật mới nói : “Hai thầy nghĩ sao về việc một người kia sanh trưởng tại Manasâkrita, khi gặp con đường ngay hơn hết dắt từ đây đi thẳng đến Manasâkrita, y có ngần ngại gì mà không theo con đường đó chăng ?

    - Chắc chắn là va không hề ngần ngại chi cả.

    Phật bèn nói : “Vasichtha ! Cũng thế ấy, Như Lai biết con đường ngay thẳng dắt đến sự hiệp nhứt với Phạn Vương. Như Lai biết nó như một người đã vào cõi Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Như Lai không có nghi ngờ cái chi cả”.

    TEVIJJA SUTTA (Sacred Books XI 157 – 203).

    Nguyên văn chữ Pháp : “De Même, reprit le Bouddha, le Tathâgata connait le chemin direct qui conduit à l’union avec Brahma. Il le connait comme une personne qui est entrée dans le monde de Brahma, qui y est née. Il ne peut exister de doute en lui”.

    Xin quí bạn chú ý tới ba điểm nầy :

    Một là : Cuốn Tevejja Sutta là cuốn kinh Phật.

    Hai là : Nếu quả thật Phạn Vương không phải là Đấng Tạo Hóa Vũ Trụ nầy và sự hiệp nhứt với Ngài rất vô ích thì Đức Phật đã bảo hai thầy Bà la môn là lầm lạc rồi.

    Ba là : Ngài còn nói : Ngài biết rõ Phạn Vương và sanh đẻ tại đó. Ngài không có nghi ngờ chi cả.



    7.- Chuyện Thứ Bảy.

    PHẬT MẶC NHẬN PHẠN VƯƠNG LÀ ĐẤNG TẠO HÓA.

    Trong cuốn “Ánh Sáng Á Châu” (La Lumière de l’Asie) trương 202, có thuật những lời của Phật thuyết cho vua cha Tịnh Phạn nghe như vầy : “Om ! AMITAYA ! Chớ nên ướm thử dùng lời nói mà đo cõi vô biên, hay là nhúng dây tư tưởng vào cõi vô tận. Người hỏi cũng lầm mà người trả lời cũng lầm vậy. Đừng nói chi hết”.

    Kinh sách dạy rằng : Trước khi vạn vật sanh ra thì chỉ có một mình Phạn Vương trầm tư mặc tưởng mà thôi. Nhưng chớ nên suy gẫm đến Phạn Vương hay là một ánh sáng nào cả, cái trí người phàm cũng không hiểu được. Những màn lần lượt vén lên; cái nầy rồi tới cái kia. Phải có những bức màn và sau những bức màn nầy thì có những bức màn khác. Các ngôi tinh tú cứ vận hành mà không hỏi han chi cả. Miễn là sự sanh, sự tử, sự buồn vui, cái nguyên nhân và cái hậu quả còn lại là đủ rồi.

    Cuộc đời và ngày giờ cứ thay đổi và luân chuyển không ngừng cũng như giòng nước của con kinh chảy từ nguồn ra biển, dầu mau hay chậm, các lượn sóng cũng vẫn là một, mặc dầu coi khác nhau, cứ nối tiếp với nhau, cái sau nhồi cái trước.

    Tin có Đức Thượng Đế sanh hóa vũ trụ hay là không tin đó là quyền tự do của bạn, không ai xâm phạm được. Nhưng chắc chắn quí bạn dư biết tín ngưỡng không sửa đổi Chơn lý được.

    Cũng như rõ ràng ta thấy sớm mai mặt trời mọc ở phương Đông, chiều lặn về hướng Tây. Bây giờ, dầu hết thảy dân chúng trên địa cầu đều tin như vậy, sự tin nầy cũng không sửa đổi việc trái đất xây chung quanh mặt trời hay là bắt buộc mặt trời chìu theo ý mình phải xây chung quanh trái đất.

    Nếu không có thật ông Trời mà người ta tin rằng “có” đi nữa thì bất quá người ta tạo ra một ông Trời giả. Ngày nào người ta hết tin, ngày đó ổng tan mất.

    Trái lại, nếu ông Trời “có thật” mà thế gian không tin có Ngài thì Ngài cũng là Ngài. Ngài không có kém sút quyền năng chút nào. Có lẽ Ngài mỉm cười rằng : “Các con của ta còn khờ dại lắm vậy. Rồi đây chúng nó sẽ biết”.

    Người học đạo phải thận trọng và dè dặt từ chút trong việc tầm Chơn lý.

  4. #4

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ NHÌ

    NHỮNG CHUYỆN THẦN BÍ.

    Những chuyện Thần bí cũng chia ra làm hai thứ : một thứ ở ngoài và một thứ ở trong mình.

    Thứ ở ngoài là những sự cám dỗ của Ma vương, điều đó các hàng Phật tử đều biết.

    Thứ ở trong là những thần thông biến hóa, tôi chỉ nói tới tài phép của Đức Phật và các đệ tử mà thôi.

    1.- Chuyện Thứ Nhứt.

    PHẬT BAY QUA SÔNG.

    Khi tìm được đường giải thoát cho chúng sanh rồi thì Đức Phật liền đi Bê na rết (Bénarès); tới sông Hằng, Phật kiếm anh lái đò xin nhờ anh đưa qua bờ bên kia. Anh lái đò bằng lòng với điều kiện là phải trả tiền đò. Phật đáp : “Ta không có tiền”. Nói rồi Ngài bay qua sông.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ - trương 105).

    2.- Chuyện Thứ Nhì.

    PHẬT BAN PHÉP LÀNH CỨU KHỔ CỨU NẠN.

    PHẬT CỨU CÔNG CHÚA VIROUPA.

    Trong cuốn “Đời sống của Đức Phật” có thuật hai lần Phật ban phép lành cứu khổ cứu nạn; lần thứ nhứt cho Công chúa Viroupa, con của Ba sê na đi (Ba tỉ nặc), lần thứ hai cho Kala, em của Ba tỉ nặc.

    Vua Ba tỉ nặc (Ba sê na đi) có một người con gái tên Viroupa, mặt mũi xấu xí lắm. Đã đến tuổi có chồng rồi mà không có một vị Vương Tôn nào dám đến hỏi. Vua mới lập thế gả Công chúa cho một người đại thương gia tên Ganga mới tới lập nghiệp tại Çravasti.

    Hôn lễ cử hành trong lúc ban đêm cho nên Ganga không biết mặt vợ. Sáng ra Ganga thấy Công chúa giống như Mẫu dạ xoa nên đâm ra hoảng hốt. Nhưng không dám đuổi Công chúa đi vì sợ vua cha bắt tội chém đầu. Chàng nhứt định nhốt Công chúa trong nhà, mặc dầu viện lẽ gì cũng không được ra khỏi cửa. Công chúa hết sức chìu chuộng chồng, nhưng Ganga không đoái hoài tới. Một bữa kia, bằng hữu Ganga tổ chức một bữa tiệc rất lớn, những khách tới dự phải dắt vợ theo, không thì bị phạt 500 đồng vàng. Ganga ra đi một mình.

    Công chúa ở lại nhà buồn rầu tủi hổ bèn treo cổ tự vận.

    Lúc ấy Phật ngự tại vườn Kỳ Viên. Ngài mới tự hỏi : “Hôm nay những ai ở Çravasti đương đau khổ; ta phải tế độ ai ? Cứu vớt ai ? Ngài dùng huệ nhãn xem xét thì thấy Công chúa Viroupa đương lâm nguy. Ngài bèn bay lại nhà Ganga, cắt dây đem Công chúa xuống. Công chúa tỉnh lại dòm chung quanh thấy Phật thì biết bèn lạy tạ ơn cứu mạng. Phật bảo : “Viroupa , con hãy lấy kiếng soi mặt”. Viroupa vâng lời. Nàng bèn la lên một tiếng, mừng rỡ vô cùng. Nàng đẹp như Tiên Nga. Nàng muốn tôn kính Đức Phật nữa nhưng Ngài đã biến mất.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 202).

    3.- Chuyện Thứ Ba.

    PHẬT SAI ANANDA ĐI CỨU KALA BỊ CHẶT TAY CHƠN.

    Vua Ba tỉ nặc (Ba sê na đi) có một người em rất đẹp trai tên Kala. Một hôm Kala đi ngang qua vườn Ngự Uyển gặp một bà phi của vua Ba sê na đi thảy cho một vòng hoa. Mấy vị đạo sĩ hay tin nầy bèn vô tâu với vua rằng Kala muốn quyến rủ Hoàng phi. Vua nghe qua nổi trận lôi đình sai tả đao bắt Kala đem chặt tay chơn. Kala kêu oan thế nào cũng không được. Bằng hữu Kala biết Kala vô tội nên thương xót vô cùng. Vừa gặp một đạo sĩ đi qua, họ bèn nói : “Xin Ngài dùng thần thông cứu Kala. Ngài cũng biết Kala không làm điều trái nghịch luân thường”. Đạo sĩ nói : “Kala tin Thích Ca thì để Thích Ca cứu va”. Kala bèn kêu lên : “Tại sao Đức Thế Tôn không thấy sự đau khổ của tôi. Hãy tôn sùng Đức Phật. Ngài đã trừ được dục vọng. Ngài rất thương xót chúng sanh”.

    Bỗng chốc Ananda hiện đến trước mặt Kala và nói : “Kala, Đức Phật dạy tôi một câu chơn ngôn để cứu anh”. Nói rồi niệm chú, tay chơn Kala lành lẽ như xưa. Kala bèn nói : “Từ đây tôi phụng sự Đức Phật luôn luôn. Dầu Ngài sai tôi làm những việc hèn hạ thế mấy đi nữa tôi cũng vâng lời Ngài”. Kala bèn tới vườn Kỳ Viên. Phật bèn thâu Kala làm đệ tử.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 195).

    Mới nghe qua thì dị đoan hết sức nhưng mà đời nay cũng có những việc tương tợ như thế.

    Nhớ lại từ 45 hay 50 năm về trước, lúc nào ôn dịch thạnh hành thì người ta cầu ông lên; ngồi nghinh, xiêng quai, cầm dao yếm chém ngược ra sau lưng liền liền nghe bịch bịch mà không thấy chảy máu. Tắm dầu sôi, đi hỏa than. Có khi cắt một khúc lưỡi vẽ bùa. Xong rồi đâu hai khúc lưỡi lại, dán vàng bạc lên, lưỡi dính liền như cũ, vài bữa lành. Khi rút cây sắt ra, chỗ bị đâm có quần đỏ, không chảy máu, dán bùa lên ít ngày thì không còn dấu vết, không bao giờ làm độc. Thuở đó mấy người Pháp cũng cho là chuyện phi thường.

    Trọn hai năm,1910 và 1911 có lần tại quận Tịnh Biên (Châu Đốc) rộn lắm, mỗi ngày đều có vài người chết về bịnh dịch tả.

    Tôi đã thấy “Ông”, ngồi nghinh, xiêng quai, lấy dao rạch lưỡi phun máu vẽ bùa. Mấy ông hương chức và những người khiên kiệu dọn đường hò hét, không cho đàn bà con gái ra ngoài dòm ngó vì sợ ô uế.

    Chắc chắn có nhiều vị lão thành trong nước từ 58 tuổi sấp lên đã chứng kiến mấy việc nầy. Nói ra dường như nói láo, mà sự thật như thế đó.

    Đây thuộc về những hiện tượng siêu hình như thư da trâu, thư gạo, cất nhà trong bụng, quỉ nhập tràng v. v. . . Không lấy những luật vật lý ở cõi trần mà cắt nghĩa được.

    Ngạn ngữ Pháp có câu “Savoir c’est pouvoir” “Biết thì làm được” thật đúng lắm vậy.

    Nhơn đọc báo Sài Gòn Mai số 700 xuất bản ngày Chúa nhựt 7 và thứ hai 8-4-63 nơi mục “Thế giới siêu hình”. Phóng sự sưu tầm của Hoàng Ly thấy có bài “Xiên Lình” tôi xin mạn phép trích đoạn trong bài đó ra đây đặng cho quí bạn xem.

    XIÊN LÌNH

    Những chiếc dùi nhọn hoắc xiên dọc xiên ngang khắp mặt mày, cả chùm móc sắt cắm loái sau lưng, dùi móc đều to như lưỡi kiếm tay xiên sâu vào da thịt. Không rỏ qua một giọt máu !

    Lúc xiên lình cơ thể con người như đã thoát ra ngoài những định luật về vật lý và như có một vạn năng vô hình nào đã chế biến thịt da thành cao su dẻo. Đây ! Mời các bạn vào sâu “Thế giới xiên lình” kỳ dị từ Á sang Phi.

    . . . Tôi ngó xuống ngực, biến sắc vì chỗ lình vừa rút ra, để lại một vết thép đâm, và có một giòng máu từ trong ứa ra đỏ lắm.

    Khán giả cả kinh, giương mắt tròn xoe, người bạn Nam Phi của tôi không nén được tiếng kêu lo ngại.

    Trời, sao thế nầy ! Bạn tôi có sao không ?

    Khalifa nghiêm sắc mặt, nhìn mọi người, chẫm rãi nói : “Ông bạn nầy còn yếu đức tin At La ! Miệng nói tay trỏ ông đặt luôn lên vết thương day nhẹ mấy cái, tay kia cầm khăn lau giòng máu chảy trên ngực tôi. Khi ông ta bỏ ngón trỏ ra, cả tôi lẫn khán giả tưởng mình mê ngủ vì . . . trên ngực tôi vết lình vừa đâm đã biến sạch, da thịt đã liền vào như vừa có phép mầu ban lại.

    Vết thương ! Trời ! Vết thương đâu rồi ! Rõ ràng vừa đây còn sâu hỏm, máu ra mà !

    Có thể thế được ư ! Kìa ! da thịt ông ta đã liền vào như trong thần thoại . . .

    Đến lượt cô gái da trắng để Khalifa xiên lình qua cặp má hồng !

    -------------

    . . . Đứng ngoài, đám khán giả chúng tôi nhìn mũi lình nhọn hoắc đặt trên làn da mịn như nhung tơ, lòng không khỏi bồi hồi lo ngại.

    Khalifa bất thần ấn mạnh tay lình một cái, rồi cứ thế từ từ đẩy mãi.

    Mũi lình cắm sâu vào má nàng, một đốt tay, rồi cả nửa gang tay, thoát cái đã thấy má bên kia phập phồng nhấp nhô, rồi mũi lình từ từ chui ra tới hơn đốt tay mới đứng lại.

    Cây thép đã đâm qua cặp má hồng. Tôi chăm chú quan sát sắc diện cô ta, tuyệt nhiên không thấy vẻ chi đau đớn, vẫn tươi tỉnh như thường, cặp mắt long lanh sáng ngời tin tưởng.

    Khalifa lại chọn cây lình lớn, xiên từ má bên kia sang. Rồi có lẽ đã tin tưởng nhiều về đức tin của cô gái da trắng nầy, ông ta quơ luôn hai ba cái móc cắm loài luôn vào hai bả vai của nàng.

    Cô ta như sai lình, mặt nàng đỏ gay, cứ để mặc cho Khalifa xiên dọc, xiên ngang. Và thân nhân cô ta chỉ còn nước tắt thở, đứng im xem trò thí nghiệm nổi da gà.

    Mãi tới lúc cô ta sắp biến thành con dím lủng lẳng đầy lình, Khalifa mới ngừng tay xiên và từ từ rút ra từng cái một.

    Cả chục chỗ thép đâm, không chỗ nào rỉ máu, lình rút đến đâu da thịt cô gái trắng nầy như liền ngay đến đó, rõ ràng có thứ gì huyền bí nhiệm mầu đã khiến xác thịt cô ta bỗng chốc thoát ra ngoài định luật về vật lý !

    Đức tin cô ta cao lắm, At La đã giúp cô vượt qua thử thách khó khăn.

    Khalifa cất tiếng khen và còn xiên thử cho hai kẻ nữa. Có một chàng trai lình vừa đi vào đã kêu oải oải, còn tệ hơn tôi, nhưng cũng như lần trước, Khalifa chỉ xoa nhẹ lên chỗ đó, da thịt lại như thường.

    Đọc bài nầy ta thử tự hỏi “nếu một người thường chỉ xoa nhẹ ngón tay lên vết thương mà da thịt liền lại, thì Đức Phật, một Đấng Chí Tôn quyền năng phi thường, há không có phép làm lành tay chơn được sao ?”

    4.- Chuyện Thứ Tư.

    PHẬT ĐẤU PHÉP VỚI CÁC ĐẠO SĨ.

    Vua Ba tỉ nặc (Ba sê na đi) cho cất một cái phòng rộng lớn đặng Phật đấu phép với các vị đạo sĩ.

    Đúng ngày kỳ hẹn, sáng sớm vua ngự đến phòng thì mấy vị đạo sĩ đã có mặt ở đó rồi. Họ ngó nhau cười. Một vị nói : “Tâu Bệ Hạ ! Chúng tôi tới trước. Không biết người mà chúng đợi sẽ đến hay không?”

    Đức vua bèn nói : “Quí vị chớ nên nhạo báng. Quí vị đã biết rằng Phật mới sai đệ tử của Ngài đến cứu em tôi là Kala bị tôi hành tội rất oan ức. Biết đâu Ngài đã có mặt tại đây rồi”. Vua vừa dứt lời thì hào quang rực rỡ bao phủ cái phòng. Phật hiện ra giữa những lằn hào quang chói sáng, sau lưng là hai đệ tử Ananda và Kala. Ananda cầm một cái bông đỏ. Kala thì cầm một cái bông vàng; tại vườn Thượng Uyển Çravasti không hề có những bông đẹp như hai cái bông nầy. Vua rất bái phục. Mấy vị đạo sĩ không cười nữa. Họ mắc cỡ cúi đầu xuống vì thấy vua tỏ dấu khinh bỉ họ.

    Bỗng chốc nóc nhà biến mất. Phật hiện lên trên không rồi bay một vòng từ đông sang tây.

    (Đời sống của Đức Phật do theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 196 – 197).

    5.- Chuyện Thứ Năm.

    PHẬT ĐẬP NÁT CÁI BÁT BẰNG BẠCH ĐÀN.

    Djotichka, con của Subadra, là một vị phú hộ ở Vương Xá Thành (Rajagriha), ông đem một cái bát bằng bạch đàn nhận châu ngọc rất quí để trên chót vót một cột trụ cao, và ở dưới treo một tấm bảng có mấy hàng chữ “Thầy Sa Môn nào không dùng thang, không dùng móc mà chỉ dùng thần thông lấy được cái bát, xin cái chi ta cúng dường cái nấy.

    Ma ha Ca diếp (Maha Kasyapa) hay được, tới trước cây trụ, chắp tay lại, cái bát liền rớt xuống nằm trên tay. Ngài đem cái bát về tịnh xá. Thiên hạ tới trước mặt Phật khen ngợi rằng đệ tử của Ngài là Ma ha Ca diếp phép tắc cao cường. Phật hay tin nầy xách gậy lại tịnh xá đập nát cái bát và cấm đệ tử dùng phép thần thông đặng khoe khoang.

    (Phúc Âm của Đức Phật trương 129)

    (Evangile du Bouddha page 129 par Carus).

    6.- Chuyện Thứ Sáu.

    CHULLAPANTHAKA HÓA PHÉP PHÂN THÂN.

    Một bữa Phật sai một vị tín đồ tới tịnh xá đòi Chullapanthaka (một vị La Hán) đến cho Ngài dạy việc. Vị tín đồ tới tịnh xá gặp 300 vị tỳ kheo giống hệt nhau như khuôn đúc, vị nào cũng nói tôi là Chullapanthaka cả.

    Không biết làm sao, vị tín đồ mới trở về bạch với Phật tự sự. Phật bèn dạy : “Người trở lại tịnh xá, gặp người đầu tiên xưng mình là Chullapanthaka thì cứ nắm tay dẫn về đây”.

    (Giảng lý Pháp Cú – Commentaires sur Dhammapada – Catéchisme bouddhique par Colonel Olcott page 127).

    7.- Chuyện Thứ Bảy.

    XÁ LỢI PHẤT DÙNG THẦN NHÃN

    THẤY NHỮNG SANH VẬT TRONG NƯỚC.

    Xá Lợi Phất dùng thần nhãn dòm vô bầu lọc nước của Ngài thấy có nhiều sanh vật vì bình lọc của Ngài chưa được tinh vi. Ngài đành chịu chết khát chớ không uống nước. Phật hay vậy bèn nói : “Con kính trọng sanh mạng mà vì đó con sát hại sanh mạng”. Từ đó Phật cấm đệ tử dùng thần nhãn xem nước uống, phải xem bằng con mắt thường mà thôi.

    Beal Catena 56

    La Morale Bouddhique par Louis de la Vallée Poussin, page 56.

    Luân lý đạo Phật trương 56.

    NHỮNG PHÉP THẦN THÔNG CÓ THẬT HAY KHÔNG ?

    Tôi dám quả quyết có thật. Phép thần thông là những quyền năng còn tiềm tàng trong thân thể con người. Biết cách mở chúng nó thì dùng được chớ không có chi lạ.

    Trong cuốn : Những văn tập nguyên thủy của Phật giáo trương 71 (Les Ecrits primitifs du Bouddhisme par Eiward J. Thomas) có nói về bốn phép thần thông như sau đây :

    Les 4 pouvoirs psychiques

    1- Oreille dinine – Thiên nhĩ.

    2- La lecture du mental - Đọc trong tư tưởng.

    3- Connaissance des existences passées - Biết được kiếp trước.

    4- Vision divine - Huệ nhãn.

    Kinh phái Nam Tôn gọi phép thần thông là Iddhid, còn Bắc Tôn là Siddhis. Phương pháp luyện phép thần thông có chỉ trong cuốn Kinh Visuddhis Mârga. Khoa luyện phép thần thông gọi là Iddhi Vidhanâna.

    Có hai phương pháp :

    Phương pháp thứ nhứt gọi là Lankika, dạy người ta dùng ngải nghệ, bùa chú, thuốc men v.v. . . Cái hiệu quả tạm thời vì người ta nhờ những viện trợ ở ngoài.

    Phương pháp thứ hai gọi là Lokottara, dạy người ta mở những quyền năng còn tiềm tàng trong thân thể con người nhờ sự Thiền Định (Dhyâna). Luyện được thì thần thông rộng lớn và không hư hoại.

    Đức Phật có 80 vị đệ tử phép tắc cao cường, đứng đầu là Mục Kiền Liên (Mogallâna). Kế đó là Ma ha Ca diếp, Xá Lợi Phất, Kiều Trần Như . . . , trọn 25 năm Ananda không có một phép nào cả.

    Sau khi Phật bỏ xác rồi Ananda mới thành công trong lúc Phật giáo nghị hội lần thứ nhứt tại động Sattapanni. Chúng ta có thể nói những việc kể trước đây đã xảy ra 2.500 năm, thành ra xưa rồi, không ai kiểm soát được.

    Bây giờ xin nói những chuyện Thần bí trong đạo Phật ở thời cận kim và hiện đại.

    NHỮNG CHUYỆN THẦN BÍ Ở THỜI CẬN KIM VÀ HIỆN ĐẠI.

    Xác của Đức Huệ Năng, xác của Đại sư Hán Sơn, xác của Đại sư Đơn Điền khô rom và để thờ trong chùa bên Trung Hoa đã mấy trăm năm rồi giống như thây ướp bên Ai Cập.

    Mới đây, năm 1959, xác của Từ Hàng Đại Sư chôn đã 5 năm rồi mà không rã, người ta mới đem di hài sơn son thếp vàng thờ tại một ngôi chùa cất trên đỉnh đồi Cơ Lung ở Đài Bắc (Đài Loan).

    Nhưng chẳng riêng gì ở Trung Hoa, bên Tây Tạng cũng có những trường hợp như thế. Mấy chuyện nầy thuộc về chuyện Thần bí hay không bởi vì chúng nó nghịch hẳn với những luật tự nhiên bắt buộc các thứ thây, dầu thây con người hay thây thú vật, nội trong ba ngày cũng phải bắt đầu tan rã.

    Nếu cho rằng mấy vị ấy có phép luyện riêng thì phép đó có thuộc về huyền bí không ? Ngày nay nói đến việc có thần nhãn, tiếng Pháp gọi clairvoyance astrale, vision astrale, seconde vue, sixième sens (theo ông Charles Richet là quan thứ sáu) thì những nhà Âu Mỹ không còn cho là lạ lùng nữa vì đã thường thấy nhiều người có thần nhãn rồi. Xin đọc những cuốn sau nầy : Le sixième sens của ông Charles Richet. La clairvoyance par Leadbeater. Le troisième œil par Lossang Rampa (Lanna).

    Madame Fraya m’a dit par Simone Tervagne (Edition Adyar) và mới đây những bài trong báo Dân Chúng nói về bà Fraya, ông Croiset, Trạng Nguyễn, ông sãi cả Pramo Sarnin v.v. . .

    Đời nay cũng có nhiều người có những phép thần thông như thuở xưa. Tôi xin thuật hai chuyện thôi.



    CHO CHÔN SỐNG DƯỚI ĐẤT.

    Nhiều vị đạo sĩ Dô Ghi (Yogui) kiểm soát được các cơ quan trong mình một cách hoàn toàn. Họ muốn cho trái tim nhảy thì nhảy, ngừng thì ngừng mà họ không chết. Họ cho đem chôn sống họ trong một thời gian từ vài tháng cho đến vài năm, tùy theo công phu luyện tập. Đào lên họ sống dậy.

    Có người nằm trong hòm kiếng để cho thiên hạ đến coi. Các báo Âu Mỹ đã đăng nhiều sự thí nghiệm như thế rồi.



    BỊ CHÔN SỐNG DƯỚI ĐẤT TRÊN HAI NGÀN NĂM MÀ KHÔNG CHẾT.

    Trong cuốn “Les mystères de l’Etre” (Những sự mầu nhiệm của con người ) trang 289, ông Đốc Tơ Ely Star có thuật lại chuyện nầy hết sức kỳ lạ.

    Tôi xin dịch tóm tắt như sau đây :

    Năm 1898 trong một thành phố nhỏ kia bên Thiên Trước, có một cái đường rộng, song vắn quá, vì bị cái chùa nhỏ chận ngang đường.

    Chánh phủ Anh nhứt định nối con đường đó cho dài ra, nhưng muốn cho công việc hoàn thành thì phải phá cái chùa ấy rồi cất lại một bên.

    Sau khi cho ông Sãi già ở giữ chùa đó hay lịnh của Chánh phủ rồi, viên kỹ sư sai dân phu thi hành phận sự.

    Lúc đào tới nền, người ta gặp một cái tháp nhỏ ở dưới đất ngay chính giữa chùa. Có một cái cửa vô tháp, song bị lấp kín hồi đời nào. Ông kỹ sư coi sóc công việc đó mới dạy phá một phía vách tường rồi Ngài đích thân cầm đèn bin (pile) vô tháp xem coi. Ngài thấy chính giữa có một cái hòm đựng một cái xác người giống như thây ướp để dành vậy (momie). Ông kỹ sư mới kêu ông Sãi già lại xem. Ông Sãi nầy lại xem coi kỹ lưỡng rồi mới nói với viên kỹ sư : “ Ngài lầm rồi, không phải cái xác chết ướp đâu. Ngài hãy coi : con mắt, lổ tai, lổ mũi đều bịt sáp, cái miệng còn có vải băng. Tôi dám chắc người nầy chịu cho người ta thử mình.

    Đối với người Âu Châu thì sự nầy lạ lùng; còn đối với chúng tôi thì cũng như giấc ngủ thường vậy. Người nầy không chết đâu”.

    Viên kỹ sư sửng sốt mới nói : “Ông giả ngộ sao chớ !” Ông Sãi bèn đáp : “Không, tôi không giả ngộ với ông đâu. Chúng tôi dám quả quyết với ông rằng :“Người nào chịu cho thí nghiệm như vậy không có chết đâu, mà dầu va có chết là tại ý va muốn đó thôi.

    Xác va ở trong và ở ngoài đã rữa hết các sự nhơ bợn rồi. Người ta nhét sáp vào lổ tai, lổ mũi và con mắt đặng đừng cho sâu bọ chun vào, trước khi bịt miệng người ta uốn lưỡi lên ổ gà. Nếu quả người ấy chết, khi Ngài phá hòm ra thì Ngài sẽ thấy một bộ xương trắng mà thôi”. Đứng trước những câu trả lời hữu lý đó, viên kỹ sư lấy làm bối rối hơn nữa. Ngài mới hỏi ông Sãi :
    “Ông tưởng mấy phép cúng kiến của mấy ông có thể làm cho người nầy sống lại được chăng ?”

    - “Tôi tin chắc như vậy. Nếu ông cho phép, tôi sẽ thưa với các Đấng bề trên của tôi coi các Ngài định đoạt như thế nào rồi tôi sẽ cho ông hay”.

    Vài ngày sau các vị Trưởng lão trong chùa lớn ở gần đó tựu lại rồi người ta làm một cái lễ rất long trọng. Sau khi phá hòm một cách kỹ lưỡng, người ta mới đem cái xác đó ra ngoài. Quần áo của cái xác đều tan rã ra tro bụi. Người ta mới dùng một thứ dầu riêng đặng gỡ sáp ở lổ mũi, lổ tai, con mắt và lấy luôn miếng vải bịt miệng nữa. Xong rồi mới ngâm cái xác ở trong bồn nước thơm và ấm.

    Ông Sãi cả (Grand Lama) đứng đọc lớn những câu thần chú đặng trục hồn người đó về nhập xác. Trọn 12 giờ đồng hồ làm như vậy cái xác có mòi sống dậy, cái kiếng để trước miệng thấy hơi bay ra.

    Ông Sãi cả rán sức hơn nữa, Ngài để tay trên trán và trên ngực cái xác. Trong giây phút cái xác mở mắt ra dòm những người đứng chung quanh coi bộ lấy làm lạ lắm, dường như muốn hỏi thăm điều chi vậy. Nhờ đọc những chữ viết trong tấm lá buông (papyrus) để trong hòm, người ta mới biết anh nầy xuất hồn trên hai ngàn năm từ đời vua A Lịch Sơn Đại Đế (Alexandre le Grand). Có lẽ lúc anh nhập định, xứ anh bị loạn lạc, người ta lo chạy giặc nên quên phứt anh đi. Sau khi sống dậy, anh mới nghe theo các vị Đại sư vô ở chùa lớn gần đó. Trong hai năm phục hồi các năng lực và học tiếng bổn xứ rất làu thông. Anh thuật chuyện lại thì cũng giống in những chữ viết trong tấm lá buông cũ rích đó. Ngày kia anh lại nói với ông Sãi cả rằng anh ở trần tục buồn quá, xin để cho anh đi. Người ta bằng lòng. Đúng ngày kỳ hẹn các sãi tựu hội lại. Anh đứng trên nóc chùa, vấn một tấm da chiên trắng nõn, cột một sợi dây lưng bằng lông lạc đà rất dài. Sau khi từ giả các đạo hữu, anh niệm thần chú rồi quăng sợi dây lưng lên trên không, sợi dây nầy bay lên cao mãi rồi rút anh lần lần vô trong đám mây mù. Anh ra dấu từ giả lần cuối cùng rồi trong giây phút mất tăm dạng.

    Những tấm lá buông, sáp và vải bịt miệng nhờ có nhúng một thứ nước thuốc nên không bao giờ mục, mấy ngàn năm cũng không hề hư hoại. Những hột lúa mì để trong hòm vua Pharaon trót 5.000 năm đem ra gieo xuống đất cũng mọc lên cây lúa và trổ bông sanh quả như thường. Nếu quí bạn cho chuyện của đạo sĩ nầy là dị đoan thì trong đạo Phật còn một chuyện dị đoan hơn cả trăm lần chuyện nầy nữa, ấy là :

    CHUYỆN CỦA MỘT VỊ ĐỆ TỬ­ CỦA ĐỨC PHẬT CA DIẾP “KASYAPA”

    BAY BỔNG LÊN TRỜI

    (Do Đức Trần Huyền Trang thuật lại)

    Gần Oucha có ngọn núi cao luôn luôn mây mù bao phủ, trên đó có một cái tháp. Người ta thuật sự tích như sau đây :

    Mấy trăm năm trước, một bửa kia giông mưa nổi dậy, sấm sét ầm ầm, trời đánh sụp đổ một góc núi. Người ta mới lại đó xem thì thấy một người ngồi xếp bằng nhắm mắt lại. Hình thù cao lớn, da thịt khô rom, râu dài thậm thượt, tóc phủ tới vai và bao trùm cả mặt mày. Đức vua hay tin, bèn tới đó xem và kính cẩn vái chào ông ấy rồi Ngài mới hỏi dân chúng : “Ai đó vậy?”

    Các nhà tu hành đáp : “Tâu Hoàng thượng ! Ông ấy mặc áo cà sa, râu dài, tóc bay phất phơ, ấy là một nhà sư tham thiền nhập định. Người nào nhập định như thế, thì ở trong một trạng thái không nhứt định được một thời gian bao lâu, nhưng xác thân không chết và cũng không hư hại. Người thì nói phải đánh chiêng khánh lên cho Đức Ngài nghe, người thì nói phải nhờ vào ánh sáng mặt trời dọi vào mặt thì Đại Đức mới tỉnh lại liền, nhưng xác thân ngài sẽ ngã ra chết tức tốc. Vậy thì trước hết phải lấy bơ và dầu thoa đánh cùng mình đặng tay chân mềm dịu lại rồi tụng kinh trục hồn về. Vua khen phải. Sau khi làm y theo phép thì đại đức mở mắt ra, làm thinh một hồi lâu rồi mới hỏi lớn : “Mấy anh là ai, mà hình thù nhỏ bé như vậy”. Một nhà sư đáp : “Chúng tôi là những tăng lữ như Ngài vậy”. Đại Đức bèn hỏi nữa : “Thầy tôi là Đức Phật Ca Diếp (Kasyapa) bây giờ ở đâu ?” Người ta đáp : “Đức Phật Kasyapa nhập Niết Bàn đã lâu lắm rồi” – “Còn Đức Thích Ca Mâu Ni đã đắc quả Phật chưa ?” - “Đức Thích Ca đã thành đạo và sau khi khai sáng cho đời Ngài cũng tịch diệt rồi”. Nghe qua Đại Đức liền hét lên một tiếng đau thương. Ngài bèn nâng mái tóc rồi bay bổng lên trên không. Ngài vận dụng thần thông, tức thì thân hình Ngài biến thành một bầu lửa đỏ, còn xương cốt thì rớt xuống đất từng mảnh. Vua mới lượm đống xương này rồi đem chứa trong một cái tháp xây lên tại chỗ đó.

    (Cuộc hành hương của một nhà sư Trung Hoa nơi đất Phật – Voyage d’un pellerin chinois dans l’Inde du Bouddha – par Henri Valentino page 225).

    Đức Phật Kasyapa trước kia là một vị Thượng Tiên ở bầu Kim Tinh (Vénus) qua giúp nhơn loại ở địa cầu mình. Ngài là Đức Bồ Tát của giống dân thứ ba, giống Lê-mu-ri-den (Lémurien) tổ tiên của giống da đen bây giờ.

    Khi giống thứ tư là giống Ắt-lăn (Atlantes) tổ tiên giống da vàng sanh ra được ít lâu (người ta biết giống thứ tư sanh ra đã tám triệu năm rồi) thì đức Kasyapa giao quyền Bồ Tát cho Đấng Chí Tôn mà mình gọi là Đức Thích Ca. Ngài xuống thế dạy đạo một lần chót sau khi đắc quả vị Phật. Nếu Đức Phật Kasyapa là thầy của Đại Đức thì Đại Đức phải nhập định cả triệu năm rồi. Thật là quá sức tưởng tượng của con người : Thế thì trong hai trường hợp mới kể ra đây, trường hợp nào phi thường hơn, dị đoan hơn, có thể nói cả ngàn lần chớ không phải cả trăm lần mà thôi.

    ĐI HỎA THAN

    Năm 1938, tại Luân Đôn, kinh đô nước Anh, các nhà thông thái, các nhà bác học có tổ chức một cuộc đi hỏa than.

    Người chịu cho thí nghiệm là một vị giáo sĩ quê ở Cachemire tên Kudabux. Đạo sĩ mình trần chỉ vận một tấm vải, đi qua đi lại, đi tới đi lui trên lửa than. Một chập bước ra không bị phỏng và tấm vải cũng không bị xém.

    Lần sau đạo sĩ không đi mà đứng sửng trên than hồng. Đạo sĩ lấy một tấm nỉ trải trên lửa đỏ mà nó cũng không cháy. Đạo sĩ vẫn như thường. Khoa học vật chất không bao giờ cắt nghĩa nổi mấy việc nầy vì chúng nó thuộc về Huyền bí học.

  5. #5

    Mặc định

    PHẦN THỨ NHÌ


    CHƯƠNG THỨ NHỨT

    GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT DẠY VỀ LUÂN HỒI , NHÂN QUẢ
    LẠI CÀNG VÔ CÙNG HUYỀN BÍ.


    TRƯỚC NHỨT LÀ LINH HỒN.

    Nếu chúng tôi hỏi : “Đạo Phật dạy thuyết Luân Hồi và Nhân Quả phải chăng ? Thì sẽ có bạn nói : “Sao ngớ ngẩn thế ? Ai ai lại không biết rằng đạo Phật giải về Luân Hồi và Nhân Quả rành rẽ hơn các đạo kia”. Vâng. Đúng vậy. Nếu dạy thuyết Luân Hồi Nhân Quả thì phải công nhận có một cái tồn tại không bao giờ chết, gọi nó là NGÃ hay là LINH HỒN hay cái chi cũng được phải chăng ?

    Chắc chắn người học đạo ai ai cũng muốn biết cái NGÃ hay là LINH HỒN ra sao ? Nó giống hình người không ? Ai sanh ra nó ? Lúc con người sống, nó ở tại đâu trong mình người da trắng ? Người da vàng ? Người da đen ? Chỗ nó ở có tùy theo giống dân mà khác nhau không ? Và tất cả những LINH HỒN đều giống nhau phải chăng ? Vậy thì chuyện có Linh Hồn rất là Thần bí.

    SAU KHI THÁC RỒI CON NGƯỜI RA SAO ?

    Sau khi bỏ xác con người ra sao ? Có bị bắt xuống âm phủ để xử tội không ? Nếu có thì âm phủ ở đâu ? Khi tin điều nầy người ta công nhận sự hiện hữu của Diêm Vương Thập Điện, quỉ sứ, dạ xoa, nhưng đồng thời khó giải quyết tại sao có hồn ma hiện về được. Lại còn một nỗi nữa, có một âm phủ chung cho tất cả các giống dân tộc trên địa cầu hay là nước nào có âm phủ nấy. Vua Diêm Vương sẽ dựa theo luật nào để xử tội ?

    Bằng không có âm phủ thì Linh Hồn đi đâu ? (xin gọi con người cho dễ hiểu). Về cõi nào ? Sao ta không thấy nó ? Cách sanh hoạt của nó ra sao ? Có học hỏi chi chăng ? Hay là mê man như ngủ, rồi tới chừng nào mới đi đầu thai

    SỰ ĐI ĐẦU THAI
    Tại sao linh hồn đầu thai làm con của người nầy chớ không làm con của người kia ? Vào gia quyến nầy chớ không vào gia quyến khác ? Ở xứ nầy chớ không phải ở xứ kia ? Tại Trung Hoa chớ không phải ở Nam Dương ? Làm dân nước Anh ở Bắc Đại Tây Dương chớ không phải là người xứ Ba Tây (Brésil) thuộc Nam Mỹ Châu ? Làm đàn ông chớ không phải làm đàn bà ? Làm đàn bà chớ không phải làm đàn ông ? Linh hồn muốn đi đầu thai chỗ nào thì tự ý phải chăng ? Hay là bị bắt buộc ? Nếu bị bắt buộc thì ai bắt buộc ?

    Còn như được tự do thì tại sao không đi đầu thai làm con nhà giàu sang, thông thái ở các nước văn minh mà lại thác sanh vào nhà nghèo nàn, dốt nát ở các nước nhược tiểu. Linh hồn sao dại dột quá vậy ?

    THỬ BÀN VỀ 6 NẺO LUÂN HỒI.

    Trong Phật giáo, nói đến chuyện Luân Hồi thì người ta liền nghĩ ngay đến việc con người đi đầu thai làm :

    a/ hoặc Thiên Thần,

    b/ hoặc thú vật,

    c/ hoặc ngạ quỉ,

    d/ hoặc A tu la.

    hay là con người hoặc bị phạt ở Địa ngục. Rồi cứ tương truyền như vậy từ thời đại nầy qua thời đại khác. Con người có sẵn thành kiến như thế rồi thì khi nghe chánh lý cũng không bao giờ cho là đúng với sự thật.

    Riêng tôi, tôi xin thú thật rằng : không khi nào tôi tin ở dưới đất có cái ngục để hành phạt Linh hồn. Tôi không tin có Diêm Vương, có Thập Điện, có quỉ sứ, có dạ xoa chi cả. Con người là Chơn Thần, xuống trần học hỏi và kinh nghiệm càng ngày càng nhiều, sau mới trở nên trọn sáng trọn lành. Phật đã dạy : chúng sanh đều có Phật tánh, chúng sanh sẽ thành Phật. Như vậy có nghĩa là con người càng ngày càng tiến lên cao chớ không phải sụt xuống thấp. Đọc Túc Sanh Truyện ta thấy Linh hồn đầu thai trước ở trong loài thú dưới nước, kế đó làm loài thú ở trên bờ rồi mới thành người và cuối cùng mới tu và đắc quả Phật, chớ không hề gặp chỗ nào nói rằng con người trở xuống làm thú vật cả. Hơn nữa, Phật không để một chữ nào thì làm sao dám quả quyết Phật dạy : có 6 nẻo Luân Hồi ?

    Bây giờ ta hãy thử luận coi : Tội là gì ? Phước là gì ? rồi nhiên hậu mới biết nói rằng con người đầu thai làm súc vật hữu lý hay là phi lý ?

    Chung quanh ta là những luật trời hành động để giúp cho muôn loài vạn vật, chẳng những ở tại quả địa cầu nầy mà còn ở nhiều cõi khác nữa, tiến hóa cho đúng với Cơ Huyền Diệu của Đức Thượng Đế đã sắp sẵn. Đâu đâu cũng có một sự quân bình, không khác nào mặt nước phẳng lặng như tờ.

    Bây giờ ta hãy lấy một cục đá ném xuống nước; ta thấy một tia nước vọt lên cao hay thấp, mặt nước nổi sóng lớn hay nhỏ và làm một vòng tròn lan ra xa hay gần tùy theo sức ném mạnh hay yếu của ta và sức nặng hay nhẹ của cục đá.

    Ta sanh ra một tư tưởng, tư tưởng nầy xẹt ra trên không phá sự quân bình không khác nào ta ném một cục đá xuống nước. Nhưng trái với cục đá, cái vòng tư tưởng đi ra xa rồi tới một ngày kia nó không đi tới được nữa thì nó trở lại cho người đã sanh nó ra.

    Nếu tư tưởng nầy lành, nó gây ảnh hưởng tốt đẹp cho những người hay vật ở chung quanh thì cái hiệu quả trở lại cho ta là hạnh phúc. Người đời gọi là làm lành nên hưởng phước lành. Nhược bằng tư tưởng nầy ác, nó ảnh hưởng xấu cho những người và vật ở chung quanh ta thì cái hiệu quả trở lại cho ta là sự đau khổ. Người đời gọi là làm tội nên mắc họa.

    Nói một cách khác, khi ta làm mất quân bình của Thiên Nhiên thì Thiên Nhiên phản động đặng lập quân bình như trước. Sự phản động có ích hay có hại cho ta tùy theo mục đích việc làm của chúng ta thuận hay nghich với Cơ Trời.

    Cái lành hay là cái ác của chúng ta đều trở về với ta đúng với câu : “Hãy trả cho César cái gì thuộc về của César” – Nghĩa là Nhân nào Quả nấy.

    Thật sự con người giống như những đứa trẻ ở trong hang tối hễ thấy ánh sáng thì đâm đầu chạy ra, bất chấp chi cả, cho nên đụng cái nầy, chạm cái kia, té lên té xuống.

    Những sự lầm lạc là những bài học để dạy con người sau phải hành động khôn ngoan hơn trước. Có như thế thì con người mới tiến lên. Con người còn vô minh, con người không biết luật trời, hoặc có nghe nói mà không sợ nên mới lầm lỗi. Cái tội con người làm không có chi gọi là nặng nề cả đối với các Đấng Thiên Tôn cầm cân tội phước. Con người không có phạm tội gì lớn cho đến đỗi phải trở xuống đầu thai làm thú vật.

    Theo luật trời, con thú không có hồn riêng biệt như con người, nó không có cá tánh. Nó thuộc về Hồn Khóm, nghĩa là cả trăm, cả ngàn con thú đồng một loại thì có chung một Hồn lớn gọi là Đại Hồn, Hồn của một con thú là Tiểu Hồn. Chừng con thú chết, hồn của nó đem những sự kinh nghiệm của nó giao cho Đại Hồn rồi tan mất. Sau Đại Hồn cho một Tiểu Hồn nhập vô mình con thú đặng đầu thai. Trái lại, con người là một Hồn riêng biệt đi đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia.

    Con thú muốn đi đầu thai làm người phải có Thượng Trí. Một khi đã có Thượng Trí rồi nó tách ra khỏi Hồn Khóm của nó, không bao giờ nó trở về đó nữa (xin xem quyển Đời sống Huyền bí của Thái dương hệ của tôi).

    Con người không thể nào bỏ Thượng Trí trở nhập vô Hồn Khóm như trước đặng làm một con thú được.

    Vì mấy lẽ trên đây không khi nào những người biết Đạo tin rằng con người có thể đi đầu thai làm A tu la, ngạ quỉ, súc sanh v. v. . . Mà A tu la là gì ? Ngạ quỉ là gì ? không ai biết hay thấy nó ra sao cả. Con người cũng chưa làm Thiên thần đâu, con người thì đầu thai làm con người mà thôi. Trừ ra khi nào tu hành tới bực La Hán sắp lên mới vào hàng Thiên thần được.

    NHẬP VÀO MÌNH THÚ VẬT.

    Nhưng có vài trường hợp con người sau khi thác rồi hay là lúc trở xuống đầu thai nhập vào mình thú vật.

    Tỷ như bốn truyện sau đây :

    A/ Bị Quả Báo.

    Nếu một người nào đó không biết chế ngự sự thèm thuồng vật dục mà lại buông lung làm cho chúng nó được thỏa thích mãi thì y tạo ra một sự liên lạc chặt chẽ với một con thú nào có đặc điểm đó.

    Chúng ta biết rằng trên cõi Trung giới, những tư tưởng và những tình cảm đều hiện rõ ràng. Thế nên cái vía của y hóa hình giống như con thú đó.

    Tới khi trở xuống đầu thai, cái vía của y nhập vô cái vía của con thú loại đó. Y mắc kẹt vào thân mình của con thú không khác nào bị cầm tù. Y trở lại cõi Thiên Đường không được mà xuống trần thế cũng không được. Y tỉnh táo như thường, y giữ trọn vẹn những năng lực của con người mà y không dùng được. Những cơ quan của thú không phát ra được lời nói của con người. Y không thể sai khiến con thú theo ý muốn của y bởi vì nó còn hồn của nó. Y không đủ năng lực đuổi hồn nầy ra khỏi xác con thú. Y bực tức lắm. Y không biết làm sao cho người ta biết y mắc vào trường hợp nầy. Con thú đi đâu, y đi theo đó. Nó bị đánh, y cảm thấy y cũng bị đau vậy. Chừng con thú chết rồi y mới thoát ra ngoài được và sẽ đi đầu thai như thường. Trong lúc y ở trong mình con thú, sự tiến hóa của y bị ngưng trong một thời gian. Đây là một hình phạt cực kỳ ghê gớm và hết sức nặng nề của Thiên Nhiên để trừng trị những kẻ quên phứt bản tánh Thiêng Liêng, không kềm chế thú tánh mà ngày đêm cứ say hoa đắm nguyệt không nhớ tới phẩm giá của mình.

    B/ Tự ý nhập vào mình thú vật chớ không bị nghiệp quả.

    Mới nghe qua thì không ai tin rằng : Con người tự ý nhập vô mình thú vật, nhưng mà chuyện có thật mới là kỳ lạ.

    Theo lẽ thường vài giờ sau khi con người thác rồi thì cái phách lìa khỏi cái vía, nó rớt ra ngoài. Con người khởi sự đời sống của mình trên cõi Trung giới, lúc nầy con người ở trong cái vía và dùng nó như dùng xác thịt ở cõi trần [2] . Từ lúc con người tắt hơi cho tới khi cái phách rớt ra, con người sẽ mê man. Khi qua cõi Trung giới rồi con người mới bắt đầu tỉnh lại.

    Nhưng có một số người lầm tưởng xác thân là mình nên sợ chết lắm. Lúc tắt hơi rồi mà trong lòng họ còn núi nắm cõi trần hết sức.

    Chừng họ tỉnh lại thì họ ra sao ? Họ không lên cõi Trung giới được bởi vì cái vía của họ còn dính với chất dĩ thái của cái phách – nghĩa là cái phách không rớt ra. Họ trở lại cõi trần cũng không được bởi vì họ đã mất xác thân rồi. Vậy thì họ ở cõi nào ?

    Họ ở chính giữa cõi Trung giới và cõi Trần tức là ở trong bốn cảnh dĩ thái hồng trần (4 sous plan éthériques). Họ thông đồng với những người ở cõi Trung giới không được mà muốn giao thiệp với những người trần thế cũng không được. Họ ở hiu quạnh một mình, chung quanh thân mình họ là một đám sương mù dày đặc. Họ đâm ra hoảng hốt kinh sợ. Có khi họ thấy những người đồng cảnh ngộ với họ chạy như bay, họ muốn kêu lại mà không kịp, họ không chuyện vãn chi được. Một đôi khi tấm màn dĩ thái vén lên họ trông thấy mấy cảnh thấp của cõi Trung giới và họ không hiểu chi hết, họ tưởng đó là âm phủ. Cũng có lúc họ thấy một vài đồ vật quen thuộc ở cõi Trần, ấy là những hình tư tưởng mạnh mẽ hóa ra, nhưng chúng nó biến đi rất lẹ. Chung cuộc họ vẫn trơ trọi và thất vọng.

    Đó tại họ không biết rằng nếu họ cương quyết bỏ chốn đó thì cái phách sẽ rớt ra lần lần, họ hôn mê một ít lâu, chừng tỉnh lại thì họ qua cõi Trung giới.

    Có nhiều vị đệ tử và những linh hồn từ thiện ở cõi Trung giới đến chỗ nầy chỉ bảo phương pháp cho họ thoát ra khỏi cảnh đen tối, nhưng ít khi có hiệu quả bởi vì họ không có gan dạ và không tin cậy, họ tưởng rằng họ còn sống như thế mà làm theo lời khuyên bảo thì họ chết mất.

    Có khi vài người thất vọng quá nên nghĩ thà chết cho rồi đặng đỡ khổ, họ không còn tưởng tới cái chi cả. Nhờ vậy mà cái phách rớt ra và họ rất ngạc nhiên và rất vui sướng vì được ra khỏi cảnh hắc ám đó.

    Nhưng mà một tai hại nguy hiểm hơn hết là có nhiều người kiếm cách tiếp xúc lại với cõi trần. Họ tìm đồng cốt nhập vô. Nhưng họ thất vọng vì mỗi đồng cốt đều có một hồn ma tinh khôn theo giữ gìn. Hồn ma nầy đuổi họ đi – không cho họ léo lại gần đồng cốt. Hồn ma biết rằng : họ không khác nào kẻ gần chết đuối hễ vớ được cái chi thì đeo cứng cái đó. Nếu họ nhập vô mình đồng cốt rồi thì họ mừng lắm, họ không chịu xuất ra hoặc họ xuất ra rồi một hồi thì nhập vô nữa, mỗi ngày vài chục bận như vậy thì chẳng bao lâu đồng cốt sẽ hóa ra điên khùng.

    Túng thế quá họ mới nhập vô mình thú vật. Họ rán sức đuổi hồn con thú ra ngoài - dầu không được trọn vẹn thì cũng làm chủ được hai phần xác thân của nó. Họ nhờ con thú mà tiếp xúc lại với cõi trần. Con mắt con thú thấy thì họ thấy, lổ tai con thú nghe thì họ nghe, con thú bị đòn bọng thì họ cũng đau đớn vậy.

    Khác hơn trường hợp thứ nhứt là khi con thú thác rồi họ không đi đầu thai mà họ lại tìm những thú khác đặng ám ảnh. Họ chọn những con thú khờ khạo như bò, heo, trừu, còn những con thú khôn như khỉ, ngựa, chó, mèo thì ít bị họ chế ngự chúng được.

    Tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ.

    Đức Leadbeater đã thấy hồn của một người nhập vô mình của con mèo.

    Câu chuyện con khỉ ở Pandharpur tỏ ra thông thạo hết những cuộc hành lễ của Bà la môn giáo mà ở Ấn Độ người ta đều biết làm cho ta đau lòng nghĩ đến sự khờ khạo của những linh hồn ám ảnh thú vật như thế đó. Họ tự ý chuốc cái khổ vào mình, họ tự ý hành phạt họ, chỉ vì họ không hiểu ý nghĩa thật của đời sống con người.

    Tuy vậy, tới một ngày kia cái phách tự động rớt ra bởi vì chất dĩ thái rã lần, con người phải tuân theo luật thiên nhiên, bỏ chốn đó mà về Trung giới.

    Về câu chuyện con người nhập vô mình thú vật người ta có thuật cho Đức Leadbeater ba trường hợp sau đây :

    Trường hợp thứ nhứt:

    Một nhà Thông Thiên Học lão thành được nhiều người kính mến nói với Đức Leadbeater như vầy :

    Một ngày kia, một ông khách đến viếng tôi và tỏ cho tôi nghe một câu chuyện mà ông cho là lạ lùng lắm.

    Ông khách nói : “Trước kia tôi rất giàu có, nhưng chẳng may thời suy vận bỉ, sự nghiệp tan tành theo mây gió.Tôi rất khốn khổ nên phải chịu làm bất cứ là nghề hèn mọn nào miễn là có tiền đặng nuôi thân thì thôi. Người ta mướn tôi làm nghề đồ tể, đập đầu thú vật trong một cái lò sát sanh lớn. Lắm lúc tôi nghe những tiếng rên siết đau thương nói với tôi : Ông ôi ! đừng đập chết chúng tôi. Chúng tôi là người bị dính vào mình thú vật. Chúng tôi chia sớt những sự đau đớn của chúng nó . Thét quá tôi xin thôi không còn gan dạ nào làm cái nghề sát sanh hại mạng nầy nữa”.

    Nghe Hội Thông Thiên Học khảo cứu những câu chuyện kỳ lạ cho nên tôi mới đến hỏi ý kiến ông về việc nầy !

    Đức Leadbeater nói: Ông khách hoặc có thần nhãn hoặc ông là người nhạy cảm nên thấy được hình tư tưởng biến thành lời nói.

    Đó là chuyện ở Âu Tây, còn như ở bên xứ mình tôi dám chắc nhiều vị lão thành đã có nghe vài chuyện của những người thọc huyết heo thuật lại. Họ nói : khi cầm dao đâm vào cổ heo thì tôi nghe rõ ràng là tiếng người kêu la. Tôi cũng nghe một con heo nái nói với bầy con nó : Mai nầy người ta đem giết mẹ rồi mấy con ôi ! Thật là chuyện rùng mình rởn ốc.

    Bao nhiêu đây chứng rằng hồn người nhập vô mình thú vật ở chỗ nào cũng có.

    C/ Nhập vào mình thú vật vì bị dục tình thiêu đốt.

    Trường hợp thứ nhì:

    Một người kia hồi còn sanh tiền chỉ biết thú vui xác thịt. Chừng y thác rồi, những sự ham muốn quấy quá của y bồng bột sôi nổi dữ tợn. Y không chế ngự chúng nó được và bởi y mất xác thân rồi, y không biết làm sao cho chúng thỏa thích. Lòng y bứt rứt như bị thiêu đốt. Lâu lâu y phải nhập vào mình thú vật đặng trút đổ một phần gánh nặng đi.

    C/ Bị đạo sĩ bắt hồn cho nhập vào mình thú vật.

    Trường hợp thứ ba :

    Một bà kia hồi còn sanh tiền không rõ vì duyên cớ nào mà nhục mạ một giáo phái. Sau khi bà thác rồi, một vị đạo sĩ của giáo phái đó, người ở phương Đông, dùng phù phép bắt hồn bà cho nhập vào mình thú vật.

    Tiếc rằng câu chuyện tới đây chấm dứt nên có nhiều chi tiết chúng ta cần phải biết mà lại không có. Ta tự hỏi : “Tại làm sao lúc bà còn sanh tiền giáo phái đó lại không trả thù bà. Phải chăng bà là một nhà quí phái có thế lực lớn nên họ không làm chi bà được”.

    Một lẽ khác – không phải dễ mà làm trái nghịch lòng Trời : bắt một hồn người cho nhập vào mình thú vật. Chung quanh ta có những vị Thiên thần, những vị đệ tử hộ trì khuất mặt, mấy vị nầy đều thấy và biết việc của đạo sĩ làm. Tại làm sao mấy vị ấy không can thiệp, ra tay giải thoát bà ta. Có lẽ bà ta phạm một quả rất nặng cho nên vị đạo sĩ mới thành công. Chừng bà trả hết quả rồi thì tự nhiên có người tới giúp bà ra khỏi cảnh ngục tù đó.

    Dầu sao trong những trường hợp nầy không có trường hợp nào chứng nhận con người đầu thai làm thú vật cả.

    Đầu thai làm thú vật có nghĩa là :

    a/ Mất Thượng Trí.

    b/ Mất Hồn người.

    c/ Nhập vào Hồn khóm, không còn biết tư tưởng như con người và mất hết quyền năng của con người.

    Đầu thai làm thú vật khác hẳn với việc nhập vào mình thú vật một thời gian.

    Nói tóm lại, đối với tôi, riêng tôi thôi, thì trong 6 nẻo Luân hồi chỉ có :

    Nhơn, đúng với chơn lý; còn Thiên, A tu la, Ngạ quỉ, Súc sanh, Điạ ngục không có thật.

    Nhưng đối với quí bạn ai tưởng sao cũng được.

  6. #6

    Mặc định

    LẠI VẤN ĐỀ NGHIỆP QUẢ.

    Nếu nói cái đó là tại Nhân quả hay là cái Nghiệp lại càng rắc rối nữa. CÁI NGHIỆP QUẢ LÀ KẾT QUẢ NHỮNG TƯ TƯỞNG, Ý MUỐN, LỜI NÓI VÀ VIỆC LÀM CỦA CON NGƯỜI.

    Tư tưởng, ý muốn, lời nói đều vô hình; tư tưởng, ý muốn vẫn thầm kín, có khi việc làm và lời nói cũng thầm kín nữa thì cái Nghiệp ra sao ? Đâu có phải thoi một thoi có dấu bầm mà gọi dấu bầm là cái Nghiệp của cái thoi.

    Nếu nói cái luật thì khó giải thích lắm. Cái luật mà biết tư tưởng của ông X lành còn ý muốn của ông Y dữ, việc làm của ông A phải, còn sự hành động của ông B quấy mà cho ông X và ông A hưởng quả tốt còn ông Y và ông B hưởng quả xấu.

    Cái luật mà biết dẫn linh hồn từ xứ nầy qua xứ khác rồi cho nhập vào bào thai ở trong mình người đàn bà nước nào đó. Rồi đứa nhỏ sanh ra, lớn lên nó nói tiếng nước đó, và thông minh hay khờ khạo v. v . . . và nó phải trả quả của nó làm kiếp qua rồi hay mấy kiếp trước. Quả đó ghi ở đâu và ai biết được ?

    Thí dụ kiếp nầy nó làm người Việt Nam, theo luật Luân hồi thì nó không phải đầu thai làm người Việt Nam mãi, phải đầu thai làm người nước khác hoặc bên Trung hoa, bên Âu, bên Mỹ v. v . . . Rồi quả làm sao biết nó đầu thai làm giống dân nào, đến xứ đó bắt buộc nó phải trả ?

    Bây giờ xin nói chuyện về Nghiệp quả của hai người gây ra với nhau. Muốn trả quả nầy hai người phải đầu thai vào một nước và ở gần nhau, hoặc ở hai nước khác nhau nhưng phải gặp nhau mới thanh toán mối nợ nần được. Nếu người nầy đầu thai lên Bắc Âu, người kia ở Nam Mỹ, trọn đời không gặp nhau thì làm sao mà trả quả đặng ? Tục truyền rằng : Hai bên vai vác biên tội phước. Điều nầy thiệt không đúng với sự thật nhưng mà còn có lý hơn là nói : có cái luật và cái luật biết cho trả quả chớ không nói đến việc có người cầm cân luật pháp.

    Xin nói thêm vài lời nữa,

    Thí dụ hiện giờ dân số trên địa cầu là 3.654 triệu. Mỗi phút đồng hồ nhân loại sanh ra 3.654 triệu tư tưởng đủ thứ, dữ có, lành có, ý muốn lại chen lẫn tư tưởng và việc làm. Vậy thì trọn một ngày số tư tưởng với ý muốn, lời nói và việc làm không biết bao nhiêu mà kể. Làm sao luật Nhân quả biết ai tưởng bao nhiêu lần, làm bao lần và tánh cách của chúng nó ra sao; thiện hay ác đặng trả quả. Không khéo chỉ là hổn loạn chớ không phải là trật tự nữa. Ta từng nghe thấy trong một chuyến xe bị lật, chỉ có một hai người chết, vài người bị thương; nặng có, nhẹ có, còn bao nhiêu người khác không hề gì cả. Tại sao người nầy thì chết, người nọ bị thương nặng, người khác bị thương nhẹ, còn mấy người kia chẳng sao. Nếu nói là tại may rủi thì gạt bỏ vấn đề Nghiệp quả; còn nói về Nghiệp quả thì phải nói số mạng chớ không phải may rủi. Vậy ai định số mạng ? Có định mạng mà có tự do ý chí hay không ?

    Sao là định mạng ? Sao là tự do ý chí ? Cái luật làm sao định cho người nầy tới 35 tuổi mắc bịnh nặng, người kia 50 tuổi thì chết, còn người nọ 80 tuổi mới từ trần hay là tới năm nầy tháng nầy, người nầy bị tai nạn chớ không phải năm nọ, tháng nọ và ngày nọ. Vậy thì thuyết Luân hồi Nhân quả có phải là vô cùng Thần bí không ? Nhưng chưa phải bao nhiêu đó là hết đâu.

    NHỮNG ĐẤNG CHÍ TÔN CẦM CÂN TỘI PHƯỚC.

    Chúng tôi tin rằng : tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm của con người đều có ghi hình ảnh trên chất Tiên Thiên Khí Akasa. Ấy là những hình ảnh sống, linh động, pháp môn gọi là clichés akasiques. Tới chừng nào ngôi mặt trời nầy tan rã chúng nó mới tiêu mất (xin tạm gọi chúng nó là Tiên Thiên Ký Ảnh – trong quyển Nhân Quả).

    Có những Đấng Thiên Tôn, bên Ấn Độ gọi là Lipikas, Tàu gọi là các vị Nam Tào Bắc Đẩu, cầm cân tội phước. Các Ngài coi những Tiên Thiên Ký Ảnh của mỗi người mà định phần số của y trong mỗi kiếp, nghĩa là từ ngày lọt lòng mẹ cho tới ngày y bỏ xác, y hưởng bao nhiêu quả tốt và trả bao nhiêu quả xấu. Muốn biết những quả liên lạc với người đã sanh chúng nó ra thế nào thì hãy xem lưới của con nhện giăng đối với nó thì rõ. Con người tự đươn một cái lưới đặng quấn mình lại, thì con người phải tự tháo ra. Tháo ra là trả quả. Mỗi kiếp con người trả quả cũ mà lại còn gây ra quả mới khác nữa. Thế nên phải đầu thai đi đầu thai lại cả ngàn kiếp mới mong thoát đọa luân hồi.

    Tín đồ các tôn giáo đều tin có Luân hồi Nhân quả, nhưng thử hỏi trong số cả ngàn triệu có bao nhiêu người tìm học luật Luân hồi và Nhân quả đúng với Cơ Trời.

    Không biết có bao nhiêu thứ quả, không biết vì đâu mà quả sanh ra và làm cách nào mà diệt nó cho mau lẹ thì làm sao sớm được giải thoát. Không khéo thì đụng đâu tin đó, và thành ra mê tín và tin dị đoan.

    BÀN QUA TÚC SANH TRUYỆN.

    Túc Sanh Truyện, Jataka Mala hay là cuốn Lalita Vistara có thuật 550 kiếp [3] của Đức Bồ Tát trước khi Ngài thành Phật.

    Đức Phật thường đem những chuyện kiếp trước của Ngài nói ra đặng dạy các đệ tử một bài học luân lý, hoặc từ bi bác ái hoặc hỉ xả, hi sinh, lấy ơn đáp oán v. v. . .

    Chúng tôi thấy 550 kiếp nầy chia ra làm 3 giai đoạn :

    Giai đoạn thứ nhứt : Đức Bồ Tát đầu thai làm cá, làm cua tức là làm những thứ ở dưới nước trước khi đầu thai làm thứ ở trên bờ.

    Giai đoạn thứ nhì : Đầu thai làm thú ở trên bờ trước khi đầu thai làm người.

    Giai đoạn thứ ba : Đầu thai làm người nhiều kiếp rồi mới tu hành, sau muôn năm đắc đạo mới thành Phật.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHỨT.

    Đức Bồ Tát đầu thai làm chúa loài cá. Nhằm lúc trong xứ bị hạn hán, đồng đìa, ao hồ cạn khô. Ngài ngước mặt lên trời cầu khẩn thần Phong Bá tức thì trời mưa xuống dầm dề, nhờ vậy mấy con cá mới thoát chết (Thần quyền).

    Có kiếp Ngài làm con cua kẹp đứt cổ con xéo vì con nầy gạt mấy con cá mắc cạn ở trong ao, rồi gắp đem lên cây ăn tươi nuốt sống.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con gà trống lột mặt nạ con mèo.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con chim gõ kiến lấy dùm xương mắc trong họng của con sư tử. Thay vì biết ơn, con sư tử lại nói với chim : “Ngươi vô miệng ta rồi trở ra còn sống thì là phước đức lắm rồi mà còn chưa vừa lòng sao ?” Thuật chuyện nầy rồi Phật nói chim gõ kiến là Ngài, còn con sư tử là Devadatta.

    Hết đầu thai làm chim chóc, Ngài đầu thai làm thú vật.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con bò u dùng trí khôn treo giò con lang muốn ăn thịt Ngài.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con nai chúa lội ra cứu một người nhảy xuống sông tự tử vì cờ bạc rượu chè tiêu tan sự nghiệp.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con voi bị một người thợ săn bắn một mũi tên gần chết. Thay vì trả thù, Ngài bẻ cặp ngà cho thợ săn.

    Có kiếp Ngài đầu thai làm con thỏ tự nhảy vào đống lửa đặng dâng thịt cho một thầy Bà la môn đương chết đói v . v . . .

    GIAI ĐOẠN THỨ BA.

    Thoát kiếp thú rồi, Ngài đầu thai làm người; nhiều kiếp làm đàn ông, nhiều kiếp làm đàn bà, có khi đầu thai vào dòng Thủ Đà La, có khi vào dòng lái buôn, có khi làm vua chúa. Sau mới tu hành lên tới bực Bồ Tát. Kiếp chót thành Phật.

    NHỮNG NGHI VẤN.

    Đọc những tiền kiếp của Đức Thích ca, chúng tôi tự hỏi :

    a/ Phải chăng có một cái Hồn trước làm con cá, con cua, sau làm con chim, con thú rồi mới tới làm con người. Cuối cùng thành một vị Phật gọi là Phật Thích Ca ? Nếu quả thật vậy thì Hồn con cá tiến hóa cách nào mà biến thành Hồn con người rồi tu hành tới bực Phật.

    b/ Ai sanh ra Hồn con cá ? Chẳng lẽ khi không mà có. Rồi ai cho Hồn con cá đi đầu thai từ loài nầy qua loài kia ? Có hỏi ý kiến nó không ? Hay là bắt buộc nó phải tuân theo mạng lịnh ?

    Phải chăng những việc nầy vô cùng Thần bí và gồm luôn cả Thần quyền trong ấy nữa.



    PHẬT CÓ DẠY LINH HỒN ĐI ĐẦU THAI

    TỪ LOÀI NẦY QUA LOÀI KIA KHÔNG ?



    Về câu hỏi nầy tôi xin trả lời liền : “Phật có dạy điều đó” , sau đây là bằng chứng

    Trong cuốn Phúc Âm của Đức Phật ( Evangile du Bouddha par Carus) trương 127 dưới bài Mục đích (Le but). Có đoạn nầy rút trong cuốn Mahavagga - Phạm Võng Kinh VI – 29 - “ Le Bouddha parla en ces termes aux Bikchous. L’âme émigre à travers toutes les formes depuis la pierre en passant par les plantes et toutes les espèces de corps animaux et dans les hommes de divers caractères jusqu’à ce qu’elle arrive à l’illumination parfaite dans le Bouddha”.

    Xin dịch nghĩa.

    “Phật nói với các Tỳ kheo như vầy :

    Linh hồn đi đầu thai từ loài nầy qua loài khác, xuyên qua tất cả những hình dạng : đá cát, cây cỏ, cầm thú và những người tánh tình riêng biệt cho tới khi nó lên đến bực toàn giác là Phật.”

    BÀN THỬ VỀ THUYẾT NGŨ UẨN.

    Theo thuyết Ngũ Uẩn thì không có Linh hồn đầu thai từ kiếp nầy qua kiếp kia đặng lãnh lấy quả lành hay quả ác của mình đã gây ra. Con người chỉ là Ngũ Uẩn hợp thành mà thôi.

    Ngũ Uẩn là : Sắc Uẩn - Thọ Uẩn - Tưởng Uẩn – Hành Uẩn - Thức Uẩn.

    Sau khi thác rồi một ít lâu, Ngũ Uẩn tan rã, rồi tới một ngày kia sự tham sống và sự mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một người mới . . .

    Vậy ta hãy bàn thử coi . . .

    Lúc con người sống, Ngũ uẩn hoạt động. Sau khi con người thác một ít lâu, Ngũ Uẩn tan rã rồi tiêu mất chỉ còn cái Nghiệp mà thôi. Rồi một ngày kia sự tham sống (trishna ou tanha) và sự tríu mến đời (upadana) rút Ngũ Uẩn mới làm ra một một người mới. Người mới nầy không liên lạc chi với người cũ mà lại lãnh nghiệp quả của người cũ. Xin thí dụ rõ hơn. Ông Mít 50 tuổi chết. Ngũ Uẩn làm ra ông tan rã, chỉ còn nghiệp quả mà thôi.

    Rồi trong một thời gian sau, không nhứt định được bao lâu, hai ba chục năm; một hai trăm năm; năm sáu trăm năm không chừng, sự tham sống và sự tríu mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một người mới là ông Xoài. Ông Xoài không dính dấp chi với ông Mít mà lại lãnh nghiệp quả của ông Mít gây ra, chắc chắn là dữ nhiều lành ít rồi

  7. #7

    Mặc định

    THUYẾT NGŨ UẦN PHÂN NỬA DUY VẬT, PHÂN NỬA DUY TÂM.

    Tôi nhận thấy thuyết Ngũ Uẩn phân nửa duy vật, phân nửa duy tâm.

    Duy vật – là khi nói con người do Ngũ Uẩn làm ra, thác rồi Ngũ Uẩn tan mất.

    Duy tâm – là khi nói sự tríu mến đời rút Ngũ Uẩn mới làm ra một con người mới thọ lãnh nghiệp quả của người trước. Thật là Thần bí

    CHÚNG TÔI KHÔNG TIN THUYẾT NGŨ UẨN NHƯ THẾ ĐÓ.

    Chúng tôi không bao giờ tin thuyết Ngũ Uẩn như thế đó vì nó trái với chánh lý và không đúng với thật tế chút nào.

    Trái với chánh lý vì lúc con người còn sanh tiền, sự tham sống và sự tríu mến đời do Ngũ Uẩn sanh ra; việc đó cho là phải; chớ sau khi con người thác rồi thì chúng nó cũng phải theo Ngũ Uẩn mà tan mất. Nói chúng nó còn lại thì nương tựa chỗ nào ? vào đâu ? Sự tham sống và sự tríu mến đời đâu còn nữa mà rút Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới. Người mới nầy đối với người cũ rất xa lạ mà lại lãnh nghiệp quả của người cũ.

    Thật là vô cùng bất công.

    Còn nhiều lẽ khác nữa :

    a/ Theo thuyết Ngũ Uần thì đàn ông làm đàn ông mãi, còn đàn bà thì đàn bà mãi phải chăng ? Bởi vì không lẽ Ngũ Uẩn kiếp trước làm đàn ông rồi kiếp sau Ngũ Uần mới ráp thành đàn bà. Nếu đổ thừa tại nghiệp quả thì lại thêm rắc rối. Cái Nghiệp như chúng tôi đã nói; là kết quả của những tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm lành hay dữ của một người. Cái Nghiệp làm gì biết tạo ra đàn ông hay đàn bà và có luật nào làm bao nhiêu điều lành được đầu thai làm đàn ông không ? Trọn một kiếp không phải người ta làm toàn là việc ác ? Cũng có làm những việc lành vậy. Như thế lành và dữ có bù trừ với nhau không ?

    b/ Nếu Ngũ Uẩn làm ra con người bây giờ thì cũng là Ngũ Uẩn làm ra con người thuở xưa. Ai sanh chúng nó ra và ráp lại một cách khéo léo hết sức có đủ mặt mũi tay chơn, biết đi đứng nói năng, biết tưởng tượng, biết ham muốn, biết học hỏi, biết chế tạo, nhứt là việc sanh ra đàn ông và đàn bà. Có tinh trùng đực, tinh trùng cái không ? Có noãn sào đực, noãn sào cái không ? Tại sao hai tế bào hợp lại thành ra một người đàn ông hay một người đàn bà khác nhau từ hai bộ phận sanh dục cho tới diện mạo, cử chỉ giọng nói, tướng đi và thân hình.

    Nhưng ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt thì Ngũ Uẩn làm ra những người da đen không tiến hóa bằng Ngũ Uẩn làm ra những người da vàng và Ngũ Uẩn làm ra người da vàng không văn minh bằng Ngũ Uẩn làm ra người da trắng. Toàn là những người đồng loại với nhau thì vì đâu có những sự bất công như thế đó ?

    c/ Phải chăng theo thuyết Ngũ Uẩn thì những người ở xứ nào thì cứ đầu thai ở xứ nấy, bởi vì những người ở một nước, một xứ gây nhân quả với nhau mãi mãi chớ ít có khi gây với những ngoại bang. Hơn nữa theo thuyết Ngũ Uẩn nầy thì dân số trên địa cầu cứ giữ mãi một mực từ đời nầy qua đời kia, không tăng một người mà cũng không giảm một người.

    Thí dụ dân số trên địa cầu là 3.864 triệu , nếu có 100.000 người chết thì sẽ có 100.000 Ngũ Uẩn khác thế vô chớ không có nguyên do nào để sanh thêm một người mới nữa, mang số 3.864 triệu lẻ một ( 3.864.000.001) cả. Mà đọc lịch sử thì ta thấy dân số thuở xưa ít hơn dân số ngày nay nhiều lắm.

    d/ Theo thuyết Ngũ Uẩn thì số phần của những người tự vận sẽ ra sao ? Họ không còn tham sống. Họ không còn tríu mến đời nên họ mới tự sát. Sau khi Ngũ Uẩn của họ tan rã rồi thì sự tham sống và sự tríu mến đời đâu còn nữa, chỉ còn có cái Nghiệp mà thôi ?

    Còn mấy đứa nhỏ sanh ra rồi chết, hoặc bỏ mình lúc 3-4 tuổi, 5-6 tuổi, chúng nó sẽ ra sao ?

    Chúng nó đâu biết tríu mến đời, vì chưa đủ trí khôn ? Nói về nghiệp quả của đứa nhỏ mới sanh hay là 3-4 tuổi thì vô lý. 3-4 tuổi biết gì là tội, là phước.

    Vịn theo thuyết Ngũ Uẩn thì phải giải quyết sự đầu thai của nó cách nào.

    Chúng nó sẽ được đầu thai hay không ? Vào nhà nào ? Nước nào ? Và tại sao như thế ?

    Còn nhìn vào thật tế thì quả là khí huyết cha mẹ tạo thành đứa nhỏ chớ không thấy sự ham sống, sự tríu mến đời hay là cái Nghiệp nào vô đó đặng rút Ngũ Uẩn làm ra một con người mới. Thế thì phải nghĩ làm sao bây giờ ?



    THEO THUYẾT NGŨ UẨN ĐẠO PHẬT KHÔNG GIẢI THOÁT CHO AI CẢ.

    Phải chăng theo thuyết Ngũ Uẩn, đạo Phật không giải thoát cho ai cả vì Ngũ Uẩn không cần giải thoát, chúng nó cũng tan rã. Còn nói giải thoát thì là giải thoát cho sự tham sống, sự tríu mến đời và cái Nghiệp thì đúng hơn. Mà chúng nó cần chi được giải thoát.



    NẾU THUYẾT NGŨ UẨN QUẢ THẬT LÀ ĐÚNG THÌ NHỮNG VỊ PHẬT MẤY ĐỜI TRƯỚC VÀ ĐỨC THÍCH CA NGÀY NAY KHÔNG CÒN NỮA VÀ NIẾT BÀN LÀ CON SỐ KHÔNG.

    Nếu quả thật thuyết Ngũ Uẩn là đúng với chơn lý thì quả vị Phật là con số không ( 0 ) và luôn mấy vị Phật đời trước và Đức Thích Ca ngày nay đâu còn nữa. Niết Bàn cũng là “không có gì hết”.

    Bởi vì : Sự tríu mến đời của các Ngài,

    Sự tham sống của các Ngài,

    Và luôn cái Nghiệp của các Ngài

    đã tiêu mất rồi.

    Thế thì còn cái chi rút lại Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới, Đức Phật bây giờ không phải là Đức Thích Ca hồi trước đâu mà chính là một người mới khác và người nầy hưởng công quả của Đức Thích Ca và lãnh ngôi vị của Đức Thế Tôn.

    Chắc chắn là các hàng Phật tử cũng như chúng tôi không công nhận điều nầy đúng với chơn lý.



    NHỮNG ĐOẠN KINH PHẬT PHẢN ĐỐI THUYẾT NGŨ UẨN.

    Sau đây là những đoạn kinh phản đối thuyết Ngũ Uẩn và mặc nhận có Linh hồn đi đầu thai.



    I

    LỜI TỶ DỤ VỀ CỤM RỪNG KỲ VIÊN.

    Hỡi các đệ tử ! Nếu có người nào vô trong cụm rừng, chỗ chúng ta đang ở bây giờ lấy củi, lấy nhành cây, lá cây và cỏ đem về đặng đốt chụm, các đệ tử có cho rằng người đó nắm lấy các đệ tử và đốt các đệ tử chăng ? Các đệ tử bèn thưa : “Bạch Phật ! Cây cỏ không phải là các con và chúng nó cũng không phải thuộc về các con nữa”. Phật mới nói : “Vậy thì các con hãy thảy bỏ những cái nào không phải là của các con. Cái đó là nghĩa chi vậy. Ấy là các con bỏ xác thịt, bỏ sự cảm động, bỏ cái quan niệm, bỏ sự nhiệt động của cái trí, bỏ sự hiểu biết”. Mấy cái nầy có phải là Ngũ Uẩn không ?

    Giáo lý và Triết lý đạo Phật trương 100.

    (Le dogme et la philosophie du Boudhisme par Louis de la Vallée Poussin page 100).

    II

    NGƯỜI TU TRÌ TẤM LÒNG TRONG SẠCH

    THÌ BIẾT ĐƯỢC MẤY KIẾP TRƯỚC CỦA MÌNH.

    Trong cuốn kinh Samannaphala Sutta du Digha Nikaya có thuật mấy lời Phật nói như vầy : “Nếu một người kia từ giả làng va ở đặng đi qua làng khác, rồi bỏ làng đó đi qua làng khác nữa; chừng va trở về làng cũ, va có thể nói trong lòng rằng : “Thật là tôi đi từ làng tôi ở cho tới làng kia. Tôi đi cách nầy, tôi ngồi cách kia, rồi từ làng đó tôi đi qua làng khác, tôi cũng ngồi đứng như vậy, rồi cũng chính là tôi trở về làng cũ của tôi”.

    Muôn tâu Đức Hoàng Thượng ! Người tu trì tấm lòng trong sạch rồi thì biết được mấy kiếp trước của mình. Va nhớ lại rằng : “Tôi sanh vào dòng nào, tôi tên chi, tôi ở chốn nào, tôi ăn uống làm sao, tôi chịu đau đớn hay là được vui vẻ cách nào. Rồi chính là tôi ở chỗ đó đầu thai lại đây vậy.

    III

    MỘT ĐOẠN KINH SAMYUTTA NÓI VỀ THỨC.

    Có một đoạn kinh Samyutta nói về Thức như sau đây :

    “Hỡi các đệ tử ! Cái mà người ta gọi là trí thức và tư tưởng hay là sự hiểu biết sanh ra rồi tan mất, ngày đêm thay đổi liền liền cũng như con khỉ nhảy nhót giỡn chơi trong rừng, buông nhánh nầy rồi bắt nhánh nọ vậy. (De même ô disciples, qu’un singe prenant ses ébats dnas une forêt ou dans un bois saisit une branche puis la laisse échapper et en saisit une autre, ainsi, disciples, ce qui est nommé l’esprit et la pensée ou la connaissance se produit et disparait dans un perpétuel changement de jour et de nuit).

    Theo đoạn kinh nầy “Thức” không phải là “bất di bất dịch”. Nó thay đổi liền liền, ngày đêm không ngớt, và không “quan trọng”.

    Theo khoa học hiện kim thì trong 7 năm xương cốt da thịt, tóc tai con người đều đổi mới hết. Còn máu huyết thì nội trong vài hôm đã biến ra khác, rồi do đồ ăn đem vô mình và luôn khí trời của ta thở nữa.

    Vậy thì hết 7 năm, Ngũ Uẩn làm ra con người đều đổi hết một lần, da thịt khác, ý muốn khác, việc làm khác; nghĩa là Ngũ Uẩn 21 tuổi không giống Ngũ Uẩn hồi 14 tuổi, Ngũ Uẩn hồi 28 tuổi chẳng in Ngũ Uẩn hồi 21 tuổi, nhưng mà chúng nó phải thọ lãnh những hậu quả của Ngũ Uẩn từ 14 tuổi tới 27 tuổi đã gây ra; mà chính là chúng nó không biết chi về mấy việc ấy cả. Không đợi kiếp sau, một kiếp nầy ta đã thấy sự bất công rồi. Còn một lẽ quan trọng nhứt là :

    Nếu Thức thay đổi liền liền thì Thức nào sanh ra danh sắc và làm cách nào sanh ra danh sắc trong thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên và vô minh khởi đầu hồi nào ?

    IV

    CHUYỆN BÚT GA LA (PUDGALA) HAY LÀ MỘT NGƯỜI MANG GÁNH NẶNG.

    Ta sẽ dạy người cho biết cái gánh nặng, người mang gánh nặng, khi cất gánh nặng lên vai và khi đặt gánh nặng xuống. Cái gánh nặng là Ngũ Uẩn. Người mang gánh nặng là Bút ga la (Pudgala); người nào đó hoặc một nhà sư, tên chi, thuộc dòng giống nào, sống bao nhiêu năm . . . Cất gánh nặng lên vai tức là khát khao, tức là ham muốn sự vui vẻ kiếp sống và lúc không còn sống nữa, để gánh nặng xuống tức là dứt hết sự khát khao. Để gánh nặng xuống và không cất gánh nặng mới khác, dứt được cội rễ sự khát khao, Bút ga la nhập vào cõi Niết Bàn.

    (Giáo lý và Triết lý đạo Phật trương 90).

    V

    PHÁP CÚ – CÂU THỨ 380.

    - Cái Ta là thầy của ta. Mỗi người đi trong con đường riêng của nó. Anh hãy tự điều khiển mình cũng như người lái buôn cầm cương con ngựa hung hăng.

    (Le Moi est le Maître du moi, chacun marche dans sa voie à lui. Tenez vous donc vous même en rênes comme un mạrchand tient en rênes un coursier impétueux).

    Cái Ta lớn nầy có phải là Linh hồn không ? Cái ta nhỏ có phải là Ngũ Uẩn hay là phàm nhơn không ?

    Tiện đây tôi xin bàn về :

    CHUYỆN VUA MILINDA VÀ ĐẠI ĐỨC NAGASENA
    hay là
    THUYẾT VÔ NGÃ.

    Trong cuốn “Đức Phật, Đời sống, Giáo pháp và Hội Tăng Già của Ngài” tác giả Ông M. Oldenberg (Le Boudha, sa vie, sa doctrine, sa communauté par Oldenberg) nơi trương 289 có thuật câu chuyện đối thoại giữa vua Milinda và Đại đức Nâgasena, xin tạm dịch như sau đây:

    Vua Hi Lạp Milinda [4] (tên thật là Ménandre) hỏi Đại đức Nâgasena [5] :

    - Bạch Đại đức ! Người ta biết Ngài dưới đạo hiệu nào ? Ngài tên chi ?

    Nâgasena đáp :

    - Tâu Bệ hạ ! Tôi tên Nâgasena. Nhưng Nâgasena chỉ là một cái tên, một tiếng gọi, một danh từ mà thật sự không có ai là Nâgasena cả.

    Đức vua hỏi :

    - A ! 500 vị Thượng tọa Javanas (Hi Lạp) và 80.000 tăng lữ hãy nghe Đại đức Nâgasena nói đó. Ngài cho rằng “không có Nâgasena”. Ai có công nhận điều đó không ?

    Bạch Đại đức, nếu không có Nâgasena thì ai dâng cho Ngài những đồ ăn cần dùng, quần áo, vật thực, nhà ở và ai cho thuốc men những kẻ bịnh hoạn ? Ai hưởng những vật đó ? Ai sống trong đức hạnh ? Ai trau dồi tánh nết ? Ai bước vào đường đạo và chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai sát sanh ? Ai trộm cắp ? Ai hưởng khoái lạc ? Ai vọng ngữ ? Ai uống rượu ? Ai phạm ngũ giới ? Vậy thì không có lành, không có dữ; không có người chủ động, không có ai bắt đầu làm những việc tốt, những việc xấu; những việc cao thượng, những việc hung bạo, không có sự ban thưởng, không có sự hành phạt nào cả. Bạch Đại đức ! Nếu ai giết Ngài, người đó cũng không phạm tội sát sanh.

    Bạch Đại đức, tóc tai có phải Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Hình hài có phải là Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Những sự cảm giác có là Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Những hành vi, ý thức có phải là Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Hay là Ngũ Uẩn hiệp lại, đó là Nâgasena ?

    - Tâu Bệ hạ ! không phải !

    - Vậy thì ngoài Ngũ Uẩn có một Nâgasena không ?

    - Tâu Bệ hạ ! không có !

    - Ủa ! Tôi hỏi Ngài đủ cách mà tôi không thấy ai là Nâgasena. Nâgasena là một tiếng trống không ? Vậy Nâgasena là cái gì ? Bạch Đại đức, Ngài nói sai, Ngài nói dối, không có Nâgasena.

    Nâgasena mới nói với vua :

    - Tâu Bệ hạ ! Bệ hạ quen sống theo bực Đế vương. Bây giờ tới đúng ngọ, Ngài đi ra đường chơn không, Ngài đạp lên những đá nhọn, cát nóng, chơn Ngài đau, thân thể Ngài mệt nhọc, tâm thần Ngài bấn loạn.

    Do đó sanh ra ý nghĩ về sự khổ não của hình hài.

    Tâu Bệ hạ ! Bệ hạ tới đây đi xe hay đi bộ ?

    - Tôi không đi bộ, tôi đi bằng xe.

    - Tâu Bệ hạ ! Nếu Ngài đi bằng xe, xin Ngài giải nghĩa cho tôi biết cái xe là gì ? Có phải là cái gọng không ?

    - Không.

    - Có phải là bánh không ? Có phải là cái ách không ?

    - Không phải.

    - Mấy vật đó ráp lại có phải là cái xe không ?

    - Không phải.

    - Ngoài mấy vật đó, có vật gì gọi là cái xe không ?

    - Cũng không có.

    - Tâu Bệ hạ ! Tôi hỏi Bệ hạ đủ cách mà tôi không thấy chỗ nào là cái xe cả ? Xe là cái tiếng trống không. Vậy xe là cái gì ? Bệ hạ nói sái, Bệ hạ nói dối. Không có cái xe. Bệ hạ là vua, cai trị toàn xứ Ấn Độ ! Ngài sợ ai ? Ngài lại không nói đúng với chánh lý. Vậy thì 500 Thượng tọa và 80.000 tăng lữ hãy nghe vua Milinda nói : Ngài tới đây bằng xe. Mà tôi xin Ngài giải nghĩa cái xe thì Ngài nói không xuôi. Có ai công nhận điều đó không ?

    500 Thượng tọa và 80.000 tăng lữ hoan hô Đại đức Nâgasena.

    Đại đức Nâgasena bèn nói : “Tâu Bệ hạ ! Nếu bây giờ Ngài nói được thì hãy nói đi”.

    Vua mới nói : “Bạch Đại đức ! Tôi không nói sai với chơn lý.

    Đối với gọng xe, ví xe, thùng xe, trục xe, người ta dùng một tiếng, một danh từ là xe.

    - Tâu Bệ hạ ! Thật vậy. Bệ hạ đã biết cái xe rồi đó. Đối với tóc tai tôi, da thịt tôi, xương cốt tôi, Ngũ Uẩn tôi, người ta dùng một tiếng, một danh hiệu là Nâgasena. Nhưng con người là Nâgasena đây không có thật. Ni cô Vajira [6] đã giải trước mặt Phật như thế đó.

    Chỗ nào có những phần của xe ráp lại, người ta gọi là xe, cũng thế đó, chỗ nào Ngũ Uẩn hiệp lại thì chỗ đó là con người, ấy là quan niệm chung như thế [7] .

    - Bạch Đại đức ! Thật là tuyệt diệu, thiệt là phi thường. Có nhiều nghi vấn quanh quẩn trong đầu óc tôi, Đại đức đã giải quyết, nếu Đức Phật còn sanh tiền chắc Ngài cũng tán thành. Hay thật ! Đại đức Nâgasena ! Nhiều nghi vấn quanh quẩn trong đầu óc tôi, Ngài đã giải quyết.

    ***

    Chúng tôi biết bài nầy đặt ra cố ý để làm sáng tỏ thuyết Ngũ Uẩn, nghĩa là có Ngũ Uẩn chớ không có Linh hồn hay là Bản ngã đi đầu thai.

    Nhưng cách bố cục không khéo léo, người có ý chỉ dòm vô thấy rõ ràng. Đây là nhược điểm :

    Khi vua Milinda nghe Đại đức Nâgasena nói : “Không có con người Nâgasena” thì Ngài hỏi : Ai trau đức mình ? Ai bước vào đường Đạo ? Ai chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai phạm ngũ giới ? Nếu có ai giết Nâgasena thì người đó không phạm tội sát sanh.

    Thì không thấy Đại đức trả lời làm sao cả, mấy câu hỏi nầy rất chánh đáng vậy. Tại sao Đại đức không đáp lại đặng hậu thế suy nghiệm coi những lời giải bày của Ngài có lý không ? Tại sao Đức Vua không đợi Đại đức trả lời coi thế nào mà lại vụt bắt qua câu hỏi khác ?

    Chúng tôi đã thấy rõ dụng ý của tác giả. Phải chăng tác giả bị mấy câu hỏi trên đây làm nghẹt lối, trả lời không nổi nên phải tìm lối thoát bằng cách thêm cho vua Milinda câu hỏi ; “Tóc tai có phải là Nâgasena ?” Nhờ vậy Đại đức mới bắt từ đó đề cập tới cái xe và Ngũ Uẩn được.

    Tác giả có ngờ đâu cách ngụy biện nầy làm hại tinh thần Phật giáo chẳng nhỏ.

    Sự thật là chúng tôi không rõ câu chuyện xảy ra giữa vua Milinda và Đại đức Nâgasena thuở xưa ra sao, nhưng lấy theo tài liệu nầy thì chúng tôi kết luận như vầy:

    Một là : Không có Nâgasena thì lẽ dĩ nhiên không có Milinda. Vậy ta hãy thử làm bài toán nầy, không có tức là “dê rô” (zéro) – Nâgasena nói chuyện với Milinda hay là dê rô nói chuyện với dê rô thì câu chuyện nầy cũng là dê rô. Đại đức không giải quyết cái chi cả. Ai giết Ngài cũng không phạm tội sát sanh vì không có con người Nâgasena.

    Hai là : Không có Đức Thích Ca cũng như không có Nâgasena. Vậy thì có ai đâu mà thành Phật ? Phật là một tiếng trống không và Đạo Phật cũng là Đạo trống rỗng.

    Ba là : Chúng tôi e cho những người trụy lạc đọc bài nầy họ sẽ mừng lắm. Họ sẽ bảo nhau : chúng không có thật. Thác rồi chúng rã tan mất. Tội tình gì phải nhọc xác tu hành, hãy chơi cho sung sướng cái đời. Chết rồi hết chuyện. Kiếp sau mình có lãnh quả gì đâu mà sợ. Rõ ràng bài nầy gián tiếp xúi giục họ làm thêm những việc tội lỗi chớ không chứng minh được cái chi cả.

    Tác giả của bài nầy có nghĩ đến cái quả khốc hại của nó chăng hay là lầm tưởng rằng mình đã bài bác được thuyết có Linh hồn đi đầu thai. Chúng tôi có đọc vài bài nói về chuyện vua Milinda và Đại đức Nâgasena, nhưng chúng tôi ngạc nhiên thấy mất trọn một giai đoạn từ “Bạch Đại đức ! Nếu không có Nâgasena thì ai dâng cho Ngài đồ dùng tới . . . Nếu ai giết Ngài thì người đó không phạm tội sát sanh.

    Đoạn nầy là đoạn cần ích lắm vì nó bắt được cái thuyết Ngũ Uẩn; vô tình hay cố ý người ta bỏ mất nó đi. Nhưng,

    Dầu sao chơn lý vẫn là chơn lý.

    Dầu sao cũng chớ nên làm cho đạo Phật biến thành anh em của phái Duy Vật.

  8. #8

    Mặc định

    THUYẾT VÔ NGÃ.



    Có người bảo : Bài nầy nói về thuyết Vô ngã ! Vô ngã đây là không có Bản ngã, không có cái Ta, tức là không có chi hết. Trống không. Nói cho đúng lý, chúng ta ở tại cõi Trần, tất cả những việc xảy ra đều tương đối. Vạn vật đều có hình dạng, tất cả đều sống, tức là Hữu ngã. Ta choán một chỗ trên không gian, ta với người khác nhau từ thân thể cho đến tư tưởng, ý muốn, lời nói và việc làm thì bảo là Hữu ngã mới đúng. Ta tu hành, ta tiến bộ, ta đắc đạo thành chánh quả trước bạn ta, trước nhiều người, sao gọi là Vô ngã được.

    Nhược bằng quan niệm rằng Vô ngã là không có gì hết, không có Linh hồn, không có Bản ngã, thì đừng có nói Đạo, đừng nói tới việc tu hành vô ích. Ta nên hiểu nghĩa Vô ngã như vầy : mặc dầu ta riêng biệt với người, nhưng Bản ngã của ta với Bản ngã của người vốn đồng bản tánh với nhau vì ở một gốc mà ra.

    Gốc đó gọi là Thượng Đế, là Trời, là Đại Ngã, là Chơn Như hay là cái chi chi cũng được. Ta phải quên phứt mình đi cũng như không có mình thì mới giúp ích cho người được. Nói một cách khác, Vô ngã là :

    Ta với người tuy hai mà một

    Người với ta tuy một mà hai.

    Ở dưới Trần không thể nào chứng minh điều nầy được, phải lên tới cõi Trực giác gọi là cõi Bồ Đề, mới hiểu Vô ngã là sao. Ở cõi nầy mới thấy sự chia rẽ ở dưới Trần là mộng ảo. Mình ở trong tâm của bạn mình, bạn mình ở trong tâm của mình. Trạng thái nầy rất kỳ lạ. Không phải giọt nước và biển cả, như thế giọt nước sẽ tan mất. Trái lại dường như tất cả biển cả chun vô giọt nước, chứa trong giọt nước. Không ai mất cá thể của mình. Phải tu hành tới bực La Hán, vào cõi Bồ Đề mới biết sao là Vô ngã, mặc dầu khi vào bực Tu đà Huờn tức là sau khi được Điểm đạo lần thứ nhứt cũng được lên tới cõi nầy một vài lần thôi. Câu chuyện Vô ngã nầy đem ra cãi vã ở dưới Trần với nhau thì làm mất ngày giờ. Người phàm như chúng ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ mà thôi, người thật hiểu Chơn lý chỉ nói một vài lời vì biết dầu đem ra dẫn giải cũng ít ai lãnh hội được Chơn lý nầy. Nó cao hơn trí tưởng tượng của con ngươi. Cầm cây viết tả cũng không bao giờ nổi.

    Nhưng mà ta cứ lo mở rộng lòng từ bi bác ái trước đi, hãy thương người như thương mình trước đi, thì một ngày kia sẽ có thể nhờ Trực giác hiểu được Vô ngã phần nào.

    Tôi xin thuật chuyện ngụ ngôn : “Ngài là Tôi ở xứ Ba Tư gọi là Parabolede Djanalou’ d-Dinow’ rscufi per san”, cho quí bạn nghe đặng biết rằng, ở nước nào cũng vậy : Chơn lý vẫn là một .



    NGÀI LÀ TÔI.



    Một người kia tới gõ cửa Thánh Điện. Ở trong có tiếng vọng ra hỏi : “Ai đó !”. Anh trả lời : “Tôi”. Tức thì anh nghe đáp lại :

    “Trong nhà nầy không có chỗ để cho tôi hay là để cho anh đâu. Cửa đóng chặt. Tức mình anh bèn ra sa mạc, tìm chỗ vắng vẻ, chay lạt và tham thiền. Một năm sau, anh trở lại gõ cửa nữa. Cũng tiếng ấy hỏi : “Ai đó !”. Anh bèn trả lời : “Anh”. Cửa bèn mở ra, anh bèn bước vào.

    --------------

    Bài nầy nói về Vô ngã, ý nghĩa sâu xa. Lần thứ nhứt người tìm đạo tới gõ cửa Thánh Điện và trả lời Tôi, tức là anh còn Bản ngã, còn chia rẽ. Cửa Thánh Điện không mở. Lần thứ nhì anh trả lời Anh, nghĩa là anh đã diệt được tánh chia rẽ ích kỷ, không còn anh là anh, tôi là tôi nữa, nên cửa Thánh Điện mới mở cho anh vô.

    Chúng ta muốn bước vào cửa Đạo cũng phải noi theo gương nầy.



    THUYẾT NGŨ UẨN ĐỐI VỚI BA THỂ :THÂN, VÍA, TRÍ CỦA CON NGƯỜI.

    Bây giờ đây chúng ta hãy xem xét thuyết Ngũ Uẩn theo ánh sáng của Huyền bí học đặng tìm hiểu vì lý do nào mà các bực tiền bối cho rằng Ngũ Uẩn làm ra con người.

    Theo Huyền bí học thì con người là Chơn Thần, xin nói là Linh hồn cho dễ hiểu. Con người có ba thể để dùng trong mỗi kiếp.

    Xác thân để hành động.

    Cái Vía để biểu hiện những tình cảm.

    Cái Trí để ghi nhớ học hỏi, phân biện, xét đoán, tưởng tượng v. v. . .

    Đối chiếu với Ngũ Uẩn thì :

    Sắc Uẩn là Xác thân.

    Thọ Uẩn là cái Vía.

    Tưởng Uẩn
    Hành Uẩn ba Uẩn nầy là cái Trí.
    Thức Uẩn



    Sau khi con người từ trần thì ba thể ra sao ?

    Sau khi thác rồi con người qua cõi Trung giới ở trong cái Vía và dùng nó hoạt động cũng như dùng xác thân ở cõi Trần vậy.

    Đúng ngày giờ thì cái Vía rã ra, con người bỏ nó, và ở trong cái Trí về cõi Thiên Đường đặng đồng hóa những sự kinh nghiệm của mình.

    Xong xuôi rồi thì con người bỏ cái Trí lên cõi Thượng Thiên tức là Quê Hương của Chơn Nhơn. Ở tại đây một ít lâu, con người trở xuống Trần đầu thai lại.



    BA THỂ THÂN – VÍA – TRÍ RA SAO ?

    Chúng nó có tiêu mất không ? Không, chúng nó rã ra nguyên tử và để lại mỗi thể một phần tử bất diệt ghi tất cả những sự kinh nghiệm của nó khi con người còn sống.

    VỀ XÁC THỊT - Phần tử đó là một hột nguyên tử trường tồn gọi là Nguyên tử trường tồn của Xác thân (atome physique permanent).

    VỀ CÁI VÍA - Phần tử đó là một hột nguyên tử trường tồn gọi là Nguyên tử trường tồn của cái Vía (atome astral permanent).

    VỀ CÁI TRÍ - Phần tử đó là một Phân tử trường tồn gọi là Phân tử trường tồn của cái Trí (unité mentale ou molecule permanent mentale).

    Ba phần tử nầy ở đâu ? Chúng nó xỏ xâu với nhau trong một sợi dây làm bằng chất Bồ Đề gọi là Sutrâma và rút vô nằm trong Thượng Trí.


    TẠI SAO CON NGƯỜI PHẢI TRỞ XUỐNG ĐẦU THAI ?

    Con người phải trở xuống đầu thai vì hai nguyên do :

    Một là : Thanh toán các nghiệp quả đã gây ra từ những kiếp trước.

    Hai là : Học hỏi và kinh nghiệm thêm cho tới khi trở nên trọn sáng trọn lành. Chừng đó con người mới thoát đọa Luân Hồi.

    Lúc xuống Trần, con người sẽ có ba thể mới đồng bản tánh với ba thể trước bởi vì các vị Thiên thần phải coi theo ba Phần tử trường tồn đặng lấy những chất khí một loại với chúng nó và làm ra Thân, Vía, Trí của con người mới.

    Nói rằng Ngũ Uẩn mới làm ra một con người mới không phải là sai ngoa, nhưng phải nói lý do các tín đồ mới hiểu.

    Còn Trishna (soif de vivre) lòng tham sống mà Phật giáo nói nó ở đâu. Nó không phải ở trong Ngũ Uẩn đâu, bởi vì Ngũ Uẩn đã tan rã rồi. Nó là tánh cố hữu của Linh hồn. Chánh nghĩa không phải là lòng tham sống, nhưng mà thật nghĩa là lòng khao khát những sự kinh nghiệm mới. Tôi xin giải vắn tắt ra đây.

    Có hai hạng Chơn Thần :

    Một hạng ở với Đức Thượng Đế tại cõi Đại Niết Bàn không chịu đi đầu thai.

    Một hạng nữa tình nguyện xuống năm cõi dưới : Niết Bàn, Bồ Đề, Thượng giới, Trung giới, Hạ giới (Hồng Trần) học hỏi và kinh nghiệm đặng ngày sau, khi vận dụng được tất cả những quyền năng còn tiềm tàng trong mình thì thành một vị Thượng Đế và sẽ sanh hóa một Tiểu Vũ Trụ như Thái dương hệ nầy vậy. Thế nên ngày nào con người chưa thành chánh quả, chưa đạt đến cõi Niết Bàn thì ngày đó còn khát khao những sự kinh nghiệm chưa thực hiện được và phải Luân hồi đặng học hỏi. Nói cho đúng lý, sự khát khao nầy là sự ham muốn và sự ham muốn là cội rễ của sự Luân hồi dưới Trần thế. Chúng ta và tất cả nhân loại, toàn là những người tình nguyện. Nếu chúng ta ngày nay chịu các thứ đau khổ thì chúng ta phải tự trách chúng ta không tuân theo Thiên ý, bởi vì khi mỗi giống dân sanh ra thì có những vị Giáo chủ lâm phàm dạy Đạo, chỉ cho con người biết việc nào phải làm, việc nào phải tránh đặng tiến cho mau. Nhưng tại chúng ta bất tuân những lời giáo hóa cho nên mang những tai họa vào thân (xin xem chỗ bàn về 6 nẻo Luân hồi).

    Nói tóm lại, thuyết Ngũ Uẩn không công nhận có Linh hồn đi đầu thai trúng có phân nửa và không cắt nghĩa được sự tham sống ở đâu mà rút Ngũ Uẩn mới đặng làm ra một người mới.

    Tiện đây tôi xin hiến cho quí bạn một bài nói về thuyết Thập Nhị Nhân Duyên đối chiếu thuyết Ngũ Uẩn và thuyết Nhân Quả Báo Ứng của một nhà đạo học uyên thâm của phái Védanta là ông Çankara



    THUYẾT THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN ĐỐI CHIẾU VỚI

    THUYẾT NGŨ UẨN VÀ THUYẾT NHÂN QUẢ BÁO ỨNG.

    Trong bài giảng lý về những kinh Bâdarâyana, nhà đạo học uyên thâm của phái Védanta là ông Çankara có vạch rõ sự mâu thuẩn của thuyết Thập Nhị Nhân Duyên và sự xác nhận Ngũ Uẩn, nguyên văn như sau đây :

    “Le Grand penseur Véantin Çankara, relève dans son commentaire sur les Sûtras de Bâdarâyana une contradiction entre la théorie des nidanas et l’affirmation d’agrégats momentanés. Il dit aux bouddhostes : “Vous prétendez que l’existence s’explique tout entière par l’enchainement des douze nidanas, chacun étant l’effet du précédent et la cause du suivant. Òu est alors la cause qui produit les agrégats [8] ? Aucun des nidanas ne peut être cette cause, puisque, tous, ils ont besoin des skandhas pour se développer. Au surplus, la notion de momentanéité et celle de cause sont en soi contradictoires, ou bien il y a un lienentre la cause et le produit, et la momentanéité est inadmissible, ou bien il n’y en a pas et alors on n’a plus ni cause, ni effet, toute chose produit indifféremment toute chose.

    La théorie du Karman lui semble aussi bien compromise, puisque vous niez l’âme individuelle, puisque, selon vous, il n’y a pas de “jouisseur” en vue du quel s’accomplit le processus des douze causes, la jouissance reste en l’air, et le salut aussi.”

    - La formule bouddhique des douze de causes par Paul Oltramare, page 18.

    XIN TẠM DỊCH.

    Ông Çankara nói với các hàng Phật tử : Chư huynh quả quyết rằng thuyết Thập Nhị Nhân Duyên giải nghĩa được trọn cả kiếp sống của con người vì nhân nầy sanh ra duyên kia, rồi duyên kia lại sanh ra nhân nọ. Vậy thì nguyên nhân nào sanh ra những sự tập hợp nhứt thời (Ngũ Uẩn). Không có nguyên nhân nào cả, bởi vì 12 nhân duyên cần có Ngũ Uẩn mới phát triển được. Hơn nữa, quan niệm “Nhứt thời” và quan niệm “Nhân duyên” tự nó mâu thuẩn với nhau hoặc giả có một sự liên lạc giữa Nhân và Duyên thì không thế nào chấp nhận sự “Nhứt thời” được - hoặc giả không có sự liên lạc giữa Nhân và Duyên, như vậy thì không có Nhân mà cũng không có Duyên. Vật nầy sanh ra vật kia vẫn vô tình.

    Thuyết Nhân Quả Báo Ứng cũng vì lẽ đó mà bị hoại luôn. Không có giá trị, bởi vì chư huynh phủ nhận Linh hồn cá nhân, bởi vì theo chư huynh, không có người “Hưởng thụ”, nhờ đó 12 nhân duyên mới tiến triển và ứng nghiệm được thì sự hưởng thụ vốn là chuyện viễn vông, hão huyền và sự giải thoát cũng là chuyện viễn vông, hão huyền vậy.

    (Thuyết Thập Nhị Nhân Duyên – tác giả : Giáo sư Paul Oltramare, xuất bản tại Genève 1909) [9].

    Bây giờ chúng ta hãy lấy công tâm mà xem xét đoạn văn của ông Çankara.

    Trong bài nầy có nhiều điểm cần phải giải nghĩa như :

    1/ Vì lý do nào ông Çankara viết bài nầy.

    2/ Không có nguyên nhân nào sanh ra những sự tập hợp nhứt thời (Ngũ Uẩn).

    3/ 12 nhân duyên cần có Ngũ Uẩn mới phát triển được.

    4/ Quan niệm “Nhứt thời” mâu thuẩn với quan niệm “Nhân Duyên”.

    5/ Không chấp nhận sự có Linh hồn cá nhân thì sự hưởng thụ và giải thoát là chuyện hão huyền.

    ---------------

    1/Vì lý do nào Ông Çankara viết bài nầy ?

    Ông Çankara đã trình bày lý do đó ngay trong câu đầu : Vì nhiều bạn Phật tử quả quyết rằng : thuyết Thập Nhị Nhân Duyên giải nghĩa được trọn cả kiếp sống của con người.

    Xin lập lại Thập Nhị Nhân Duyên là :

    1- Vô minh 7- Thọ

    2- Hành 8- Ái

    3- Thức 9- Thủ

    4- Danh sắc 10- Hữu

    5- Lục nhập 11- Sanh

    6- Xúc 12- Lão tử.

    Vô minh sanh ra Hành, Hành sanh ra Thức v. v. . .

    Theo Bouddhagosa thì :

    Hai Nhân Duyên đầu : Vô minh và Hành thuộc về kiếp quá khứ.

    Tám Nhân Duyên kế đó : Thức – Danh sắc - Lục nhập – Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu thuộc về kiếp hiện tại.

    Hai Nhân Duyên chót : Sanh – Lão tử thuộc về kiếp vị lai.

    Còn theo ông Oldenberg thì :

    Ba Nhân Duyên chót : Hữu – Sanh – Lão tử thuộc về kiếp vị lai. Mà hai chữ Vô minh có phải của Phật giáo bày ra không ? Không. Vô minh vốn Tàu dịch Avidya [10] bên Thiên Trước, mà chữ Avidya đã có từ ngàn xưa. Phái Védanta đã dùng nó từ lâu lắm rồi.

    Phái Sankhya cũng cho rằng Vô minh là cội rễ của đời sống hiện tượng.

    2/ Không có nguyên nhân nào sanh ra sự tập hợp.

    Những sự tập hợp đây là Ngũ Uẩn. Theo một phái của Phật giáo thì Ngũ Uẩn làm ra con người, và nên hiểu con người đây là con người đầu tiên, con người kiếp trước. Nói cho đúng lý, phải có một người kiếp trước, người nầy vì vô minh nên mới hành động không đúng phép mà vì đó gây ra quả. Kiếp sau phải đầu thai lại đặng thanh toán những món nợ nần.

    Xin thí dụ đặng dễ hiểu hơn.

    Anh X làm một việc không lành và việc nầy gây ra hậu quả không tốt cho anh và cho nhiều người khác. Ta hãy nêu ra 2 câu hỏi :

    1- Ai làm việc không lành ?

    2- Vì sao lại làm việc không lành đó ?

    Thì tự nhiên câu trả lời là :

    Anh X làm việc không lành, bởi vì anh còn vô minh.

    Sự thật là không ai nói : vô minh làm việc không lành cả.

    Bây giờ ta hỏi thêm một câu nầy nữa.

    Ai sanh ra anh X ? Có anh X rồi mới có việc vì vô minh mà làm điều không lành. Không có anh X thì có việc làm không lành chăng ? Không bao giờ có.

    Trong thuyết Thập Nhị Nhân Duyên thì Vô minh sanh ra Hành – Hành sanh ra Thức mới sanh ra Danh sắc và Lục nhập.

    Như vậy thì Vô minh sanh ra anh X, mà Vô minh là cái gì ?

    Vô minh là sự không thông luật Trời, hoặc dùng danh từ của Phật giáo; là sự không thông Tứ Diệu Đề.

    Sự không thông luật Trời mà lại sanh ra con người được ư ?

    Nói Vô minh sanh ra Hành cũng là khó hiểu nữa. Bởi vì sự không thông luật Trời làm cách nào mà hành động. Phải có kẻ chủ động mới có sự hành động được như tôi đã đưa ra một thí dụ anh X trước đây.

    Vì mấy lẽ trên, cho nên ông Çankara mới nói : “Không có nguyên nhân nào sanh ra Ngũ Uẩn cả”.

    3/ Mười hai Nhân Duyên cần có Ngũ Uần mới phát triển được.

    Câu nầy có nghĩa là : Trước nhứt phải có con người rồi 12 nhân duyên mới nương tựa theo đó đặng phát triển. Không có con người thì không có việc lành, không có việc ác, không có việc vô ích và cũng không có kiếp tái sanh đặng trả quả. Không có con người Đạo Bát Chánh đem dạy ai ?

    4/ Quan niệm “Nhứt thời” mâu thuẩn với quan niệm Nhân Duyên.

    Quan niệm “Nhứt thời” là quan niệm nào. Ấy là quan niệm về Ngũ Uẩn, bởi vì Ngũ Uẩn dùng có một đời mà thôi. Con người thác rồi thì chẳng bao lâu Ngũ Uẩn tan mất. Kiếp sau Ngũ Uẩn mới ráp lại thành một người mới khác hẳn người trước mà lại lãnh những quả của người trước đã gây ra.

    Như thế thì không có sự liên lạc giữa Nhân và Duyên, nói một cách khác không có Nhân mà cũng không có Duyên. Ngũ Uẩn tự nó sanh ra rồi cũng tự nó tiêu diệt.

    Còn quan niệm Nhân Duyên là sao ?

    Theo quan niệm nầy thì Nhân và Duyên cứ nối tiếp nhau mãi, không bao giờ dứt đoạn.

    Nhân kéo dài ra tới cái Duyên của nó sanh ra rồi sống trong cái Duyên đó. Cái Duyên nầy trở thành cái Nhân mới rồi sanh ra một cái Duyên khác nữa. Chúng nó làm thành một cái vòng tròn đóng kín cứ lăn tới mãi, không nghỉ không ngừng, vô cùng vô tận.

    Thế thì có sự liên lạc giữa Nhân và Duyên. Như vậy ta thấy rõ ràng quan niệm Ngũ Uẩn mâu thuẩn với quan niệm Nhân Duyên.

    Quan niệm Nhân Duyên đi đôi với thuyết Nhân Quả Báo Ứng mà không thỏa hiệp với quan niệm Ngũ Uẩn.

    5/ Không chấp nhận có Linh hồn cá nhân thì sự Hưởng thụ và sự Giải thoát là chuyện hão huyền.

    Mấy lời nầy giống như đoạn đầu của vua Milinda hỏi ông Nagasena Na Tiên. Nếu không có Nagasena thì ai bước vào đường Đạo ? Ai chứng quả Thánh ? Ai nhập Niết Bàn ? Ai trộm cắp, ai say sưa ?

    Ai giết Nagasena cũng không phạm tội sát sanh.

    Tu hành đắc đạo giải thoát cho ai ?

    -----------

    Tôi giải thích bài nầy theo chỗ hiểu biết của tôi, còn quyền xét đoán ở nơi quí bạn.

    Nhưng thiết nghĩ Thuyết nào cũng vậy, tùy theo tánh cách của nó, hoặc đúng với Chơn lý hoặc không đúng. Ta có bổn phận phải suy nghĩ kỹ lưỡng xét đoán nó dưới tất cả những phương diện, nhứt là phải giàu kinh nghiệm và mở rộng lòng từ bi bác ái.

    Xin lập lại.

    Phải vứt bỏ những thành kiến cũ kỹ, chúng nó là những kiếng xanh, đỏ, đeo vô thì thay đổi màu sắc của mọi vật, không cho thấy được màu trắng của Chơn lý. Phải có tinh thần khoa học, phải phân tích tỉ mỉ trước khi tin như các nhà thông thái thì sẽ tiến mau.

    Điều tốt hơn hết là nên lấy lời của Phật dạy những người Kalama làm tiêu chuẩn thì ắt tránh được nhiều điều không hay có thể xảy ra vì cái họa mê tín.

  9. #9

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ NHÌ



    GIÁO PHÁP CỦA ĐỨC PHẬT ĐÃ TRẢI QUA BA GIAI ĐOẠN.



    Những việc trái nghịch về thuyết Ngũ Uẩn suy ra cũng dễ hiểu vì chúng tôi thấy giáo pháp của Đức Phật đã trải qua ba giai đoạn.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHỨT .- Lúc Đức Phật còn tại thế. Ngài chỉ thuyết pháp mà thôi.

    GIAI ĐOẠN THỨ NHÌ .- Từ lúc Phật nhập Niết Bàn cho tới Phật giáo Hội Nghị lần thứ ba. Giai đoạn nầy là thời kỳ hổn loạn, xin tóm tắt ra sau đây :

    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHỨT.

    Vì có sự bất tuân kỷ luật của phe SU BA TRA (Subhadra) nổi lên vài ngày (có chỗ nói 7 ngày) sau khi Phật bỏ xác, cho nên mới có Phật giáo Hội nghị lần thứ nhứt mở tại động Satapani trong rừng Nigrodha gần Vương Xá thành (Rajagriha) dưới quyền chủ tọa của Đức Ma Ha Ca Diếp, lối năm 544 trước Tây lịch kỷ nguyên, trọn 7 tháng với 500 tăng đồ theo cách vấn đáp, người nầy hỏi người kia trả lời.

    Đức Ananda lập lại những đoạn kinh của Phật nói về Pháp (Dharma).

    Đức Upali kể lại những giới luật.

    Đức Ma Ha Ca Diếp giải về phần triết lý cao siêu.

    Ba Ngài chỉ nói miệng.

    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ NHÌ.

    Lối 20 năm sau lại có cuộc Phật giáo Hội nghị lần thứ nhì, gồm 700 tăng đồ mở ra tại thiền viện Balukarama gần Hoai Sa Ly (Vaisali) dưới quyền chủ tọa của vua xứ Magadha là Đức Kalaçoka, trọn 8 tháng đặng giải quyết 10 điều xin “khoan hồng” như sau đây :

    1. Được phép để dành muối luôn luôn chớ không phải nội trong 7 ngày qui định mà thôi.

    2. Được phép ăn thêm một lần nữa sau buổi ăn ngọ.

    3. Các tăng đồ ở trong làng được phép giảm bớt sự giữ gìn giới luật, như các tăng đồ trong thiền viện.

    4. Được phép hành lễ trong liêu một mình khỏi tới phòng chung hay là chỗ công cộng.

    5. Được phép làm vài chuyện khỏi phải xin phép trước.

    6. Được phép hành động theo các vị Thượng Tọa, Trưởng Lão.

    7. Được phép uống sữa buổi chiều.

    8. Được phép uống rượu nếu mấy thứ nầy trong như nước lã.

    9. Được phép ngủ trên giường nệm ấm áp, ngồi trên ghế có phủ vải sồ gấm vóc.

    10. Được phép nhận tiền bạc và quần áo của người ta cho.



    Sự đấu khẩu kịch liệt, có khi vua phải can thiệp và cho phần phải về phe Bảo thủ. Chung cuộc 10 điều thỉnh cầu bị bác bỏ, phe đối lập bị trục xuất ra khỏi Giáo hội (tất cả là 20.000 tăng đồ và 60.000 cư sĩ). Lúc đó Phật giáo đã chia ra làm 18 phái khác nhau và chắc chắn mấy vị đệ tử lớn đã từ trần rồi.

    Có sách nói một phần của Kinh Tàng và Luật Tàng đã chép ra thành sách. Sự tranh chấp nói trên đây không phải xảy ra lần thứ nhứt đâu. Hồi Phật còn sanh tiền đã có một sự bất tuân giới luật chia các tăng đồ làm hai phe chống báng nhau rất dữ dội. Phải mất một thời gian mới đem sự hòa khí lại như cũ.

    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẤN THỨ BA.

    Sự tranh chấp không ngừng và phe đối lập thắng thế cho đến đỗi khi vua A Dục mới lên ngôi thì có không biết bao nhiêu thiền viện; có bao nhiêu thiền viện thì có bao nhiêu phái; có bao nhiêu phái là có bao nhiêu tôn giáo. Muốn chấm dứt tình trạng hỗn loạn nầy vua A Dục [11] mới triệu tập Phật giáo Hội nghị lần thứ ba tại thiền viện Açokarama gần Pataliputra (ngày nay là Patna) lối năm 252 hay 254 trước Chúa Giáng sinh (có sách nói 244 hoặc 242, cũng như năm sanh của Đức Phật các sách đều nói khác nhau) dưới quyền chủ tọa của Đức Tshya Maudgalapoutra, 72 tuổi, kéo dài tới 9 tháng đặng thống nhất các môn phái. Mỗi phái đều được phép trình bày và binh vực giáo lý của mình. Chung cuộc 8 phái bị liệt vào hạng Tà giáo và bị trục xúat ra khỏi Giáo hội không được phép mặc áo cà sa. Xong rồi Hội nghị xem xét và sửa đổi bản văn của Kinh Tàng và Luật Tàng, có lẽ của Luận Tàng nữa, rồi mới chép ra thành sách tức là 300 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn.

    GIAI ĐOẠN THỨ BA.- Sau cuộc Hội nghị nầy, Phật giáo chia ra hai phái lớn Nam Tôn và Bắc Tôn rõ rệt.

    Bắc Tôn dùng chữ Bắc Phạn (sanscrit) đặng chép kinh sách, còn Nam Tôn thì dùng chữ Nam Phạn Ba Li (Pâli).

    Bắc Tôn tiến lên miền Bắc, Nam Tôn lại xuống miền Nam.



    CÔNG ĐỨC VUA A DỤC VÀ SỰ BÀNH TRƯỚNG ĐẠO PHẬT.

    Vua A Dục cho xây dựng cả ngàn chùa tháp [12] trong đó có nhiều tháp để kỷ niệm những Phật tích, nhứt là bốn chỗ hành hương có danh tiếng và đã được ghi vào lịch sử Phật giáo, ấy là :

    1.- Vườn Lumbini (Lâm tỳ Ni), chỗ Đức Bồ Tát giáng sanh.

    2.- Bồ Đề Đạo Tràng – Bodhi Gaya - chỗ Đức Bồ Tát chứng quả Phật.

    3.- Vườn Isipatana - Lộc giả, chỗ Đức Phật chuyển Pháp luân.

    4.- Vườn Kusinara, chỗ Phật bỏ xác nhập vào Niết Bàn.

    Ngài cho ban hành tám mươi bốn ngàn sắc lịnh, và cho khắc vào những bia đá và những thạch trụ dựng lên khắp phía Bắc xứ Ấn Độ để tán dương công đức Phật.

    Sau cuộc Hội nghị Phật giáo lần thứ ba, vua A Dục sai sứ giả đem kinh Phật qua năm vị vua của những nước đã giao hảo với Ngài dưới đây :

    Antiochus, de Syrie (Antiochus II)

    Ptolémée, d’Egypte.

    Antigonus, de Macédoine.

    Margas, de Cyrène.

    Alexandre, d’Epire.

    Năm vị nầy ký hiệp ước với Ngài cho phép những vị Trưởng Lão và Thiền sư được tự do truyền bá đạo Phật trong nước mình. Các nhà sư cũng đi truyền bá Phật giáo khắp 14 nước của xứ Bắc Ấn Độ



    ĐẠO PHẬT TRUYỀN QUA TÍCH LAN.

    Vua A Dục sai hai đứa con yêu quí của Ngài là hoàng tử Ma hanh Đa (Mahinda) và công chúa Săn ga mít ta (Shangamita) qua Tích Lan truyền bá đạo Phật.

    Công chúa Săn ga mít ta đem trồng tại A nu ra đa bu ra (Anurâdhapura) một nhánh cây Bồ Đề tự tay vua A Dục chiết ra [13] lối năm 306 trước Tây lịch kỷ nguyên. Ấy là cây lịch sử xưa nhứt trên đời. Hiện giờ cây nầy còn sống. Những cây Bồ Đề nhỏ của Đại Đức Narada hiến cho các chùa Việt Nam, Cam Bốt và Ai Lao vốn là cháu chắt của cây Bồ Đề nầy.

    Hoàng hậu Anulâ, vợ của vua Tích Lan, Devanampiyatissa, xin công chúa lập phái Tỳ Khưu Ni (Bikkhounis). Chẳng bao lâu Hoàng hậu, nhiều vị Hoàng phi và 500 trinh nữ xin qui y thế độ.



    PHẬT GIÁO TRUYỀN QUA TRUNG HOA, CAO LY, NHỰT BỔN, VIỆT NAM,

    ĐÀI LOAN, MIẾN ĐIỆN, THÁI LAN, CAM BỐT, NAM DƯƠNG.

    Hai cuốn kinh Nam Tôn, Sa măn ta Ba sa đi ca (Samanta Pasadika) và Sa rát ta Đi ba ni (Sarattha Dipani) có chép rằng : lối thế kỷ thứ ba trước Chúa giáng sinh, vua A Dục sai năm vị Thiền sư đem kinh Phật qua Trung Hoa, mỗi vị đi đến một vùng khác nhau.

    Từ Trung Hoa đạo Phật truyền sang qua Cao Ly lối năm 372 sau Chúa giáng sinh, rồi từ Cao Ly qua Nhựt Bổn, lối năm 552 đạo Phật thâm nhập vào Việt Nam, Đài Loan, Mông Cổ, Yarkan, Balk, Bokhara, A Phú Hãn (Afghanistan) và nhiều nước khác ở Trung Bộ Á Châu lối thế kỷ thứ tư hay thứ năm.

    Từ Kashmir (Cachemire) đạo Phật truyền qua Nê bôl (Népal) lối thế kỷ thứ nhứt và Tây Tạng lối thế kỷ thứ hai.

    Phật giáo của mấy nước nầy thuộc về Bắc Tôn hay là Đại Thừa. Còn phái Nam Tôn hay là Tiểu Thừa trụ tại Tích lan rồi từ đó truyền bá qua Miến Điện lối năm 450 và sang Arakan, Cam Bốt, Thái Lan. Người ta còn tìm thấy di tích Phật giáo ở Nam Dương như đền Borobudur.



    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ TƯ

    Có sách nói 10 năm sau, vua A Dục triệu tập Hội nghị Phật giáo lần thứ tư để xác định qui luật của giáo hội. Hội nghị nầy thanh minh rằng : Có những ngụy kinh kết nhiều đoạn kinh lại làm một bổn và làm nhiều thứ kinh giả đặng hòa hợp giáo lý của Đức Phật với những chuyện Thần thoại địa phương.



    PHẬT GIÁO HỘI NGHỊ LẦN THỨ NĂM.

    Lối 500 năm sau khi Phật bỏ xác, nhằm thế kỷ thứ nhứt Tây lịch kỷ nguyên, vua Kanisha (Già nhị sắc đà) triệu tập Phật giáo Hội nghị lần thứ năm (có sách nói là lần thứ tư) tại Jolandhara, trung tâm xứ Cachemire dưới quyền chủ toạ của hai vị Đại Đức Vasumitra và Pârcya. Cũng như bốn lần trước kết quả không được tốt, song phái Đại Thừa được công nhận là Quốc Đạo.



    PHẬT NGỪA TRƯỚC.

    Trước khi lìa trần, Phật kêu Ananda lại dặn : “Mỗi lần thuyết pháp thì phải khởi đầu bằng câu nầy :

    “Đây là bài kinh của tôi đã nghe hay là những điều tôi đã nghe một lần :

    Đức Thế Tôn ngự tại . . . , trong xứ . . . , trong thiền viện . . . chung quanh có 500 hoặc một số đông tỳ kheo đã được hoàn toàn giải thoát.

    Thuyết xong thì dùng một trong hai thể thức nầy :

    Hoặc : Phật dạy như thế. Các thính giả đều vui mừng và đồng ca tụng công đức Phật.

    Hoặc : Hai chữ : Saddha ! Saddha !

    (C’est bien ! C’est bien !)

    Lành thay ! Lành thay !

    Câu “Bài kinh tôi đã nghe” khác nghĩa câu “Phật nói như vầy” . Dùng câu Phật nói như vầy là quả quyết mình lập lại y lời của Phật đã nói, không thêm không bớt một tiếng. Cái trí con người đâu phải là máy ghi âm, hễ nghe một lần rồi thì nói lại không mất một tiếng nào cả. Nếu quả quyết Phật đã nói như vậy mà mình lập lại sai một lời hay không đúng là mắc tội Vọng ngữ.

    Chúng tôi vẫn biết hiện nay có nhiều nhà sư, nhứt là ở Miến Điện thuộc lòng ba tạng kinh, lập lại không sai một chữ. Nhưng mà họ thuộc lòng trong sách và nghe thuyết pháp là hai việc khác nhau rất xa. Sau nhiều năm chịu khó nhọc có thể học thuộc lòng một cuốn sách. Nhưng mà nghe một bài thuyết pháp rồi lập lại không sót một tiếng là điều không thể có được. Hễ nhớ khúc đầu là quên khúc giữa, nhớ khúc giữa thì quên khúc đuôi, khúc đầu. Phật thuyết pháp trọn 45 năm không biết bao nhiêu lần, ai dám bảo : “Tôi nhớ hết những lời thuyết pháp đó, không quên một tiếng nào”.

    Trái lại câu : “Bài kinh tôi đã nghe” có ẩn nghĩa. Đây là những điều tôi đã nghe, không biết có thiếu sót điều chi chăng ? Như vậy dầu mình có quên đoạn nào, mình cũng vô tội.

    Thật Phật đã ngừa trước vậy, chẳng những riêng cho các đệ tử của Ngài mà luôn cho các hàng Phật tử đời sau nữa

  10. #10

    Mặc định

    QUAN NIỆM TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO.

    Còn một điều tưởng phải nói là : chúng ta đừng quên rằng Phật giáo phát sanh ở Thiên Trước thì những quan niệm của nó về Triết học và Xã hội học vốn thuần túy và hoàn toàn Thiên Trước chớ không có chịu ảnh hưởng ngoại lai. Những quan niệm triết học của Phật giáo người ta vẫn thấy ở trong kinh Upanishads [14] , những kinh sách dạy ở các trường Nyâya, Védânta và nhứt là Sankhya của Kapila (xin xem đoạn Sáu phái triết học của Ấn Độ).

    Phần nhiều những giới cấm, những lời khuyên răn vẫn giống những lời dạy trong cuốn Luật của Đức Bàn Cổ (Lois de Manou). Một lẽ khác, ba đức tánh trọng yếu của người Bà la môn là :

    Tư tưởng trong sạch,

    Lời nói trong sạch,

    Việc làm trong sạch.

    Ba sợi dây mà người Bà la môn nịt luôn trong mình tượng trưng ba đức tánh đó để trong Đạo Bát Chánh, sau Chánh kiến, tức là :

    Chánh Tư duy,

    Chánh Ngữ,

    Chánh Nghiệp.

    Trong cuốn Pháp Cú (Dammapada), chương chót, chương XXVI “Người Bà la môn” nói toàn là đức tánh của người “thật là Bà la môn”. Ngoài ta còn vài câu khác cũng nói về người Bà la môn như câu thứ 294 – 295 – 332.

    Chúng ta phải tự hỏi tại sao trong kinh sách Phật lại có nói về người Bà la môn nhiều quá vậy. Vì lý do nào ? Phải có chớ. Nhưng ngày nay ít ai đoán trúng được.

    ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO.

    Trong cuốn Phật pháp (Le Dharma du Bouddha) xuất bản năm 1947, tác giả là ông Jagdish Katvapa (Ca Diếp) nơi chương V. trương 64, có đoạn nói về “Đặc sắc của Phật giáo”, tôi xin trích ra đây cho quí bạn xem.

    ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO.

    1.- Đối với các hàng Phật tử thì ba tạng kinh không nên xem như chiếm được một địa vị quan trọng in như Thánh kinh Bíp (Bible - Cựu Ước và Tân Ước) đối với tín đồ Cơ Đốc giáo hay là cuốn Cơ răn (Coran) đối với tín đồ Hồi giáo, hay là những cuốn Phệ Đà đối với dân chúng Ấn.

    2.- Vị Phật tử không hề nô lệ ba tạng kinh. Y không nhắm mắt tin chúng một cách mù quáng như là Chơn lý tuyệt đối do một Đấng Thần minh tiết lộ hay chúng là mục phiêu của sự tín ngưỡng.

    3.- Đức Phật không đòi hỏi đức tin của một ai, dù y không hiểu giáo lý của Ngài ra sao ?

    KALAMA SUTTA (Kinh Kalama).

    4.- Có một lần những người Kalama tới tìm Phật và nói “Bạch Phật ! mấy vị Bà la môn và những vị lãnh đạo nhiều phái khác tới viếng chúng tôi và thuyết đạo, ai ai cũng nói giáo lý của mình đều đúng với Chơn lý. Chúng tôi lấy làm bối rối, không biết phải tin cái nào và phủ nhận cái nào.

    5.- Để trả lời câu hỏi nầy, Đức Phật không nói : mấy anh hãy tin tôi. Tôi là con của Trời. Tôi sẽ dắt mấy anh lên cõi Thiên đường. Ngài cũng không bài xích giáo lý của mấy đạo khác, Ngài không cho nó là tà thuyết dị đoan và phạm thượng.

    6.- Lời khuyên của Ngài rất nhơn đạo và rất khôn khéo. Ngài nói : “Mấy anh đừng tin điều nào chỉ vì tại mấy anh nghe người ta lập lại; đừng tin một điều nào đó bởi vì nó là một truyền thống xưa và đã trải qua từ thời đại nầy tới thời đại khác; đừng tin những tiếng phong vân, những tin đồn đãi bởi vì tại người ta đã nói đến mấy việc đó rất nhiều; đừng tin một điều nào bởi vì tại người ta chỉ cho mấy anh coi một bài của một vị hiền triết thuở xưa viết ra để chứng minh điều đó; đừng tin một điều nào bởi vì tại có sự suy định tán thành lý luận đó, hay là có một phong tục lâu đời làm cho anh có ý tin rằng điều đó đúng với sự thật; đừng tin điều nào chỉ vì tại uy tín Thầy của mấy anh hay là của mấy vị mục sư. Nhưng sau khi kinh nghiệm riêng và suy xét sâu xa rồi thì điều chi hạp với lý trí của mấy anh, đem lại hạnh phúc cho mấy anh và luôn cho các sanh linh khác, thì mấy anh hãy công nhận điều đó là Chơn lý và hãy sống với nó”.

    7.- Người ta có thể khảo cứu giáo lý của Đức Phật và xem xét nó một cách bình tĩnh với trí sáng suốt rồi công nhận nó nếu nó ứng đáp với sự kêu gọi của nội tâm, hoặc phủ nhận nó nếu người ta không hiểu nó.

    Phật giáo không bắt ai phải nhắm mắt tin càn nó, bởi vì một đức tin mù quáng luôn luôn là một chướng ngại cản trở sự tiến bộ trên đường đời.

    Tinh thần Phật giáo vẫn hoàn toàn hợp lý.

    ---------

    Chí lý thay những lời trên đây ! Nhưng nó được mấy người tuân theo.

    Trước nhứt ta nên hiểu, Đức Phật không để một chữ nào cả và lối 300 năm sau khi Phật nhập Niết Bàn, ba tạng kinh mới viết ra thành sách sau cuộc Hội nghị Phật giáo lần thứ ba. Thế thì ai dám nói không có sự sửa đổi trong bản chánh và hơn nữa người mới học đạo không bao giờ có một tiêu chuẩn để nhận thức được lời nầy vốn thiệt của Phật nói, còn lời khác thì không phải. Vì vậy đụng đâu tin đó.

    Đoạn kinh trên đây rất hữu ích cho các hàng Phật tử đi tìm chơn lý. Nó thuộc về chánh kiến tức là phải mở trí phân biệt cái nào chơn, cái nào giả, cái nào tạm thời, cái nào vĩnh viễn trường tồn.

    Nó không hề bảo : Không nên xem kinh kệ. Chẳng phải như thế đâu. Đọc kinh nào thì phải tìm hiểu kinh đó muốn dạy con người làm cái chi, rồi suy nghĩ nếu đem áp dụng vào đời sống hằng ngày thì có hiệu quả nào. Sự thật là không có một cuốn kinh sách công truyền nào diễn tả được phân nửa tư tưởng của tác giả. Tác giả có những ý kiến tốt đẹp mà chừng đem viết ra thì thấy không bao giờ được hay như lúc mình đã suy nghĩ. Ấy tại cái óc chúng ta chưa được mảnh mai, chưa ứng đáp được với nhiều làn rung động mau lẹ của những tư tưởng cao siêu.

    Thật sự, chơn lý ở khắp mọi nơi, trên trời, dưới đất, trong gió mây, sương tuyết, sông biển, núi non; trong mình con người, thú vật, thảo mộc, kim thạch đều có chơn lý.

    Cảnh vật thiên nhiên là một cuốn sách lớn chứa đầy chơn lý. Nếu học được phương pháp đọc và hiểu rõ cuốn sách nầy thì còn hay hơn là đọc kinh kệ cả trăm bận.

    Nhưng tất cả những điều bí mật của sự sanh hóa Thái dương hệ thâu gọn trong mình con người bởi vì con người là Tiểu Thiên Địa. Trong con người có :

    Tiểu Thượng Đế là Chơn thần . . . và tất cả những chất khí đã lập ra những cõi Trời. Học hỏi ở ngoài thì lâu lắc, nhọc nhằn mà cái kết quả của ta mong muốn lại thường không được tốt đẹp lắm. Con người phải học hỏi thân mình mới mau lẹ và dễ dàng.

    Vì mấy lẽ trên đây nên thuở xưa mới có câu châm ngôn : “Ngươi hãy biết ngươi [15] rồi ngươi sẽ biết Vũ trụ và các vị Thượng Đế”.

    Một mặt khác chúng ta cũng nên hiểu kinh sách đạo đức công truyền cũng như những tấm bảng để chỉ đường ngay nẻo thẳng cho ta đi đặng tránh những cạm bẫy và hầm hố chông gai.

    Nếu mỗi ngày ta cứ xem mấy tấm bảng ấy và đọc những hàng chữ ghi trên đó rồi ta đứng một chỗ dậm cẳng mãi mà không cất bước ra đi thì đừng nói vài chục năm, mà ba chục ngàn năm nữa ta cũng chưa đi đến mục tiêu mà ta đã định. Thật đúng với câu : “Người được kêu gọi thì nhiều, mà người được chọn lựa thì ít” (Beaucoup d’appelé, peu d’élus).

    Ông Jagdish Kasyapa nói rất đúng. Nếu người Phật tử không nô lệ ba tạng kinh thì chẳng bao giờ nhắm mắt tin càn những kinh sách khác ngoài ba tạng. Thật vậy, tất cả những kinh sách không phải toàn là do những vị đắc đạo viết ra. Ngày nay ta thấy có nhiều cuốn sách đề Phật dạy cái nầy, Phật dạy cái kia. Tổ nầy bàn như thế nầy, Tổ kia bàn như thế kia. Người đời sau sanh đồng thời với chúng ta làm sao biết được chỗ nào hư, chỗ nào thật mà tin, bởi vì không phải mỗi người mới học đạo mở được Trực giác nên không lầm. E cho không phải Phật nói hay là Chư Tổ nói mà chính là tác giả nói, và như thế họ phạm hai tội : Vọng ngữ và Vu cáo Phật và Chư Tổ một cách trắng trợn.

    Thầy Mạnh có nói : “Tận tín thư bất như vô thư”.

    Đức Lục Tổ Huệ Năng há chẳng bảo :

    Lòng mê Pháp Hoa chuyển

    Lòng ngộ chuyển Pháp Hoa

    Châm ngôn đạo đức Tây phương có nói :

    Văn tự giết chết mà Tinh thần dưỡng sanh.

    (La lettre tue mais l’Esprit vivifie)

    Ông Vivekananda – Ngài tên thật là Narendranath Dutt, Ngài lấy tên là Vivekananda lúc Ngài đi qua Mỹ châu năm 1893. Ngài bỏ xác lúc 39 tuổi – đệ tử của đức Ramakrishna, cũng có nói : “Hãy đọc những cuốn Phệ Đà, nhưng khi anh hiểu chúng nó rồi thì hãy dẹp chúng nó qua một bên và hãy tự kinh nghiệm riêng lấy mình”.

    Tất cả những người biết Đạo và hành Đạo vẫn đồng một quan điểm với nhau.

    Phật giáo muốn cho các tín đồ khỏi mắc cái họa mê tín dị đoan , tức là phải tự giác và mở rộng lòng khoan dung, cho nên mới căn dặn : “Điều nào mà các hàng Phật tử sau khi đã kinh nghiệm và suy xét sâu xa thấy nó đem hạnh phúc cho mình và cho những kẻ khác thì hãy công nhận nó là chơn lý và sống với nó”.

    Chắc chắn là sau khi đem áp dụng những lời dạy trong đoạn kinh Kalama Sutta vào đời sống đạo đức của mình thì các hàng Phật tử tiến rất mau.

    PHẬT ĂN CHAY HAY ĂN MẶN ?

    Còn một vấn đề phải giải quyết là : Phật ăn chay hay ăn mặn ? Nêu câu hỏi nầy ra thì sẽ có nhiều bạn đưa ra hai lý lẽ sau đây :

    Một là : Khi đi bát, người ta cho cái chi thì mình dùng cái nấy, đừng phụ lòng người. Miễn là mình đừng sát sanh thì thôi.

    Hai là : Bằng chứng cụ thể là Phật ăn thịt heo của anh thợ rèn Cung Đa (Counda) đãi nên bỏ mình. Nói trắng ra là Phật ăn mặn.

    Nhưng sự thật là hai lý lẽ nầy không có cái nào đứng vững cả.

    Tôi xin trưng những bằng cớ sau đây :



    I

    Trong quyển thứ nhì của bộ sách Đời sống của Đức Phật theo kinh Trung Hoa, tác giả là ông cố đạo Léon Wieger nơi trương 170 có bài nầy :

    ĐỘ BỔ LẠP NHƠN

    Pháp Cú kinh vân : La duyệt chi quốc (Rajagriha) hữu sơn. Sơn hạ nhơn sinh trưởng sơn lâm, sát lạp vi nghiệp. Phật chỉ kỳ sở, tọa ư thọ hạ. Phật phóng quang minh chiếu diệu sơn trung mộc thạch, giai kim sắc. Sơn trung nam tử câu xuất hành lạp; duy hữu phụ nữ kiến Phật quang minh, lai chỉ Phật sở, tất giai lễ bái. Phật tức vi chư mẫu nhơn thuyết sát sinh chi tội, hành từ bi chi phước. Ân ái nhứt thời hội hữu biệt ly. Chư mẫu nhơn bạch Phật ngôn; sơn nhơn vụ lạp dĩ nhục vi thực. Dục thuyết vi cung nguyện đương nạp thọ.

    Phật ngôn : “Chư Phật, chư pháp, bất dĩ nhục thực, bất tu phục biện. Nhân cáo chi viết: Phù nhơn sinh thế, sở thực vô số, hà dĩ bất tác hữu ích chi thực, nhi tàn hại quần sinh dĩ tự tễ hoạt tử đọa ác đạo, tổn nhi vô ích. Nhơn thực ngũ cốc tăng diên thọ mạng, sát sinh thực nhục đa bịnh yểu vong. Sát bỉ hoạt kỷ tội nghiệp vô lượng. Từ nhân bất sát sở thích vô hoạn.

    Nam tử lạp hoàn, kiến chư phụ nữ giai tọa Phật tiền, sân khuê loan cung dục đồ hại Phật. Chư phụ gián viết : Thử thi Thánh nhơn, vật hưng ác ý, tức các hối quá, vi Phật tác lễ. Phật trùng vi thuyết bất sát chi phước, tàn hại chi tội. Nhơn giai bất sát hành đại nhân từ, đương mẫn chúng sinh bác ái tế chúng, phước thường tùy thân, tại sở đắc lợi, tử thăng Phạn thiên. Lạp nhơn văn dĩ, hoan hỉ tín thọ, giai thọ ngũ giới.
    (Trích ở quyển Les vies chinoises du Boudha par Léon Wieger trang 170 tome II.)

    PHẬT ĐỘ THỢ

    Kinh Pháp Cú nói : “Ở nước La duyệt Chi (Rajagraha) có nhiều núi non. Người sanh trưởng ở chơn núi đểu chỉ chuyên nghề săn bắn.

    Phật đến nước đó, ngồi dưới gốc cây đại thọ. Hào quang Phật phóng ra một màu vàng chói chiếu khắp rừng núi, cây đá. Đàn ông ở đây đều vào non săn bắn, chỉ có đàn bà con gái ở nhà. Những người nầy thấy hào quang sáng chiếu của Phật, mới tìm đến nơi ngồi, đồng làm lễ bái Phật. Phật nhơn đó giải cho các phụ nữ ấy nghe rằng : “Hễ giết hại sanh vật thì mắc tội, còn làm lành thì được hưởng phước và sự ân ái cũng chỉ một thời, chung cuộc rồi cũng phải biệt ly nhau v. v. . .” . Các phụ nữ ấy nghe xong bạch với Phật rằng : “Dân ở núi đây chỉ chuyên nghề săn bắn nuôi sống nên phải sát sanh”.

    Phật nói : “Các vị Phật xưa đều dạy không nên dùng thịt, nên ta không còn khuyên gì khác nữa”. Phật lại giảng : “Người sanh trên thế, vật nuôi sống vô số, tại sao không ăn những vật bổ ích cho mình mà phải sát sanh hại vật để nuôi sống, rồi khi chết phải bị đọa vào ác đạo. Con người nên ăn ngũ cốc để mạnh khỏe, lại sống lâu. Giết thú vật lấy thịt ăn phải mang nhiều bịnh lại còn chết yểu. Sát sanh mang tội không lường, còn có lòng nhân không thích sát sanh thì được hưởng phước lành vậy”. Lúc đó các thợ săn đều về đến, thấy đám phụ nữ đang ngồi trước mặt Phật, liền nổi giận, giương cung chực bắn Phật. Song các vợ con họ đều ngăn lại và bảo rằng : “Đây là bực Thánh nhơn, đừng nóng lòng ác đối với Ngài. Tất cả thợ săn nghe vậy đều đến xin lỗi Phật và đảnh lễ Ngài. Phật mới giảng lại những điều Phật đã giảng cho các phụ nữ khi nảy cho các thợ săn nghe rằng sự không sát hại sanh linh là phước, mà sát sanh là tội. Người không còn sát sanh tức là lập hạnh đại từ bi, biết lân mẫn rộng thương giúp đỡ chúng sanh nên phước liền theo thân, rất là lợi ích, lúc thác được về cõi Trời Phạm Thiên. Các thợ săn nghe Phật thuyết xong đều hoan hỉ tuân theo, đồng thọ ngũ giới.

    (Tạm dịch theo “Độ bổ lạp nhơn” trong quyển Les vies chinoises du Boudha của éon Wieger trang 170 - cuốn thứ II.)

    Bài nầy chứa đựng ba ý nghĩa sâu xa.

    Một là : Các vị cổ Phật đều dạy con người không nên dùng thịt, cho nên Đức Thích Ca không còn khuyên gì khác hơn nữa.

    Hai là : Ăn ngũ cốc, thân thể khỏe mạnh lại sống lâu.

    Ba là : Giết thú vật lấy thịt ăn, phải mang nhiều bịnh, thác yểu lại còn mắc tội.

    Nó chứng chắc Đức Thích Ca không bao giờ ăn mặn. Nếu Ngài dùng thịt thì không phải là Phật nữa vì Ngài làm trái với những vị Phật đời trước. Ngài khuyên người ta không nên dùng thịt khi Ngài còn ăn thịt thì những lời dạy dỗ của Ngài không có giá trị chi cả. Lời nói và việc làm của Ngài không đi đôi với nhau. Như vậy còn ai tin Ngài nữa, còn ai nghe Ngài nữa. Ngài không làm gương cho người ta bắt chước theo và chẳng khác nào những kẻ đã bảo : “Anh hãy làm theo những lời của tôi nói mà đừng làm những điều tôi đương làm đây”.

    Bài nầy rành rẽ lắm, không có chi gọi là mờ ám : “Người tu hành không nên dùng thịt”.



    II

    Chuyện thứ Nhì

    Bà Ambapâli (cũng có một tên nữa là Amra) thỉnh Phật và các đệ tử của Ngài về nhà dùng bữa. Bà dọn ra cơm trộn mật và bánh ngọt mà đãi.

    Nguyên văn chữ Pháp

    Alors Ambapâli, la courtisane, plaçe le riz sucré et les gâteaux,, devant les moines, le Bouddha étant à leur tête les servit jusqu’à ce qu’ils refusassent de manger davantage.

    (Avangile du Bouddha par Carus page 268).

    -------------

    Bà Ambapâli giàu sang tột bực, bà dư sức mua 100 ngàn con heo làm thịt dâng đãi Phật và các đệ tử. Nhưng tại sao mà bà không dọn đồ mặn. Vì lẽ bà biết Phật và các đệ tử trường chay. Thử hỏi, người ta biết mình tu hành ăn chay thì lúc mình đi bát, người ta có dám đem thịt cá dâng cho mình ăn không ? Bởi tại mình không kiêng cữ thịt nên người ta mới đem mấy thứ món đó độ mình.

    40 năm nay, đọc nhiều sách Phật chữ Pháp, tôi chỉ thấy người ta dâng cho Phật sữa, cơm trộn mật và bánh ngọt mà thôi. Tôi chưa gặp đoạn nào nói Phật dùng thịt cả.

    Người thường còn ở trong vòng trần tục hay là người học đạo mà chưa hành đạo thì được quyền tự do, muốn ăn uống cách nào cũng được. Trái lại, một người tu trì, một người đã được vào hàng đệ tử rồi thì phải trường chay. Đó là luật đạo, đúng theo cơ trời, bên chánh đạo không ai dám cãi. Không một nhà Huyền bí học nào tin rằng : “Phật ăn mặn cả”.

  11. #11

    Mặc định

    CHÚNG TÔI KHÔNG BAO GIỜ TIN RẰNG

    ĐỨC PHẬT ĂN THỊT HEO NÊN NGÀI BỎ XÁC.

    Chúng tôi không bao giờ tin rằng tại Đức Phật ăn thịt heo nên Ngài bỏ xác do những lý lẽ sau đây :

    Một là :Theo bài “Phật độ thợ săn” thì không bao giờ Ngài dùng mặn. Anh thợ rèn Cung Đa (Counda) đâu dám dọn thịt heo ra đãi, mà dầu anh không biết nên mới làm như vậy, Phật cũng không ăn đâu.

    Hai là : Theo ông Oldenberg thì chữ Phạn dịch là thịt heo có nhiều nghĩa khác nhau, như là xương ngực của con heo; hoặc nấm của con heo đào. Nói rằng Phật ăn nấm của con heo đào thì còn có lẽ đúng hơn.

    Ba là : Không bao giờ đồ ăn hay là bịnh làm hại xác thân Ngài được. Tới bực Chơn Tiên, dưới Phật ba bực mà còn cầm được quyền sanh tử trong tay, huống chi là Ngài. Bằng chứng là đoạn nầy “. . . Đức Phật qua sông. Ngài đi về Vaisali. Nhưng tới làng Bailva, Ngài phát bịnh nặng. Ngài đau đớn dữ dội. Ananda khóc lóc tưởng Ngài chết. Nhưng Ngài dùng nghị lực trị lành bịnh và mạnh như thường.

    Bốn là : Tới Vaisali rồi Ngài vô ngồi nghỉ trong thánh điện Tchapala. Ma vương hiện ra nói : “Bạch Phật; đã đúng ngày giờ rồi, Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn đi”. Phật đáp : “Ma vương ơi ! chưa đến lúc đó đâu. Ta biết hơn Ma vương ngày giờ nào ta lìa cõi thế. Ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn”.

    Năm là : Trong lúc ở tại thánh điện Tchapala, Phật nhứt định bỏ xác tại Kousinagara [16] . Phật bèn tỏ cho Ananda biết ý định của Ngài. Ananda bèn cầu khẩn xin Ngài ở lại trong Kalpa (Đại kiếp) nầy. Phật mới nói : “Ananda ơi ! lời cầu khẩn của con đã trễ rồi. Ta nhứt định nhập Niết Bàn”. Ananda nài nỉ Phật ba lần như vậy. Phật ở lại Bhagagama một ít lâu rồi Ngài đi Pâvâ.

    Sáu là : Tới Pâvâ, anh thợ rèn Cung Đa mới thỉnh Phật về nhà anh. Sau khi dùng bữa, Ngài ra đi. Khỏi Pâvâ một đỗi thì bịnh kiết nổi lên dữ dội. Phật rất mệt mỏi, nhưng Ngài làm cho sức lực phục hồi rồi tiếp tục ra đi. Tới mé rạch Kakoutsha Ngài xuống tắm, uống nước rồi mới đi vô một cái vườn xoài. Ngài bảo Cung Đa Ka ( Coundaka) lấy áo cà sa xếp làm tư trải xuống đất cho Ngài nằm ngủ. Vài giờ sau Ngài thức dậy rồi đi nữa. Tới Kousinagara Ngài mới bảo Ananda làm một chỗ nằm chính giữa hai cây Sala đầu day về hướng Bắc.

    Đoạn nầy chứng chắc một lần nữa Ngài đã thắng phục được bịnh. Nếu thịt heo làm hại xác thân của Ngài được thì khi ra khỏi Pâvâ một đỗi Ngài đã nằm liệt rồi ? Ngài bỏ mình tại đó chớ đâu còn sức lực xuống dưới rạch tắm và tiếp tục đi tới Kousinagara được. Từ Pâvâ tới Kousinagara có lẽ cũng xa cho nên Ngài đã nghỉ hai chặng đường.

    Hiểu mấy đoạn trên đây ta thấy rõ, nếu hai phen Ngài đã dùng quyền năng trị lành bịnh thì Ngài cũng có thể dùng quyền năng kéo dài sanh mạng tới bao lâu cũng được. Mà tại sao xác Ngài chết. Ấy tại Ngài nhứt định bỏ nó. Ngài đã nói điều đó với Ma vương và Ananda ba tháng trước rồi. Bằng cớ còn rành rành đó. Đời sau đổ lỗi cho anh thợ rèn Cung Đa thì rất là oan cho anh. Tội nghiệp cho anh lắm. Ta nên giải oan cho anh.

    Sự thật là dầu không dùng bữa tại nhà anh thợ rèn đúng kỳ hạn Phật cũng từ giả cõi trần vậy.

    Thế thì riêng phần tôi, câu chuyện Phật ăn mặn và bị thịt heo rừng làm cho Ngài bỏ mình đã giải quyết xong. Nó không đúng với sự thật, nhưng tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng.



    NGHĨA BÓNG CỦA CÂU CHUYỆN PHẬT ĂN THỊT HEO MÀ BỎ MÌNH.

    Theo thần thoại Ấn Độ, Đức Thượng Đế VISHNOU hóa hình heo rừng dẫy đất trên không gian mà lập ra quả địa cầu của mình, đạo Bà la môn thờ đức VISHNOU.

    Câu chuyện Đức Phật ăn thịt heo rừng mà chết có nghĩa bóng là đạo Bà la môn tiêu diệt đạo Phật.

    Quả thật, bắt đầu từ thế kỷ thứ V đạo Phật đã suy đồi. Nếu tôi nhớ không lầm thì sau khi nể lời cầu khẩn của Ananda, Đức Phật thâu nhận bà “Dì” là Mahaprajapati vào giáo hội, Ngài có nói câu nầy : “Ananada ơi ! giáo pháp của ta chỉ còn giữ được có 500 năm mà thôi”. Thật đúng như vậy.

    Qua thế kỷ thứ XI, đạo Bà la môn đã quét sạch đạo Phật ra khỏi xứ Ấn Độ, không còn dấu vết của một cái chùa nào cả. Cảnh vật điêu tàn.

    Ta hãy thử tìm hiểu nguyên nhân làm cho Phật giáo mau tàn tạ ở Ấn Độ, là chỗ Đức Phật giáng sanh và truyền đạo. Nói truyền đạo thì e sái một chút bởi vì đạo Phật có ý cải cách Ấn Độ giáo hơn là lập một đạo mới, nhưng điều đó không thuộc về phạm vi cuốn nầy.

    NGUYÊN NHÂN LÀM CHO PHẬT GIÁO MAU TÀN TẠ Ở ẤN ĐỘ.

    Có ba nguyên nhân kết cấu lại làm cho Phật giáo mau tàn tạ trên đất Ấn. Nguyên nhân đầu tiên thuộc về Huyền bí, còn hai nguyên nhân sau vốn thông thường.

    NGUYÊN NHÂN HUYỀN BÍ.

    Theo luật Trời, mỗi Đức Bồ Tát sau khi thành Phật thì phải xuống thế dạy đạo một lần chót.

    Thế nên, trước khi lâm phàm lần cuối cùng, Đức Bồ Tát mà ngày nay mình gọi là Đức Phật Thích Ca, sắp đặt cách nào cho các vị đệ tử của Ngài mấy kiếp trước đi đầu thai, hoặc một lượt với Thái tử Sĩ Đạt Ta, hoặc một vài năm sau hay trước. Chừng Phật ra truyền đạo thì mấy vị nầy trở về với Ngài.

    Một mặt nhờ từ điện của Ngài sau khi Ngài thành Phật, một mặt nhờ công phu luyện tập theo chánh pháp cho nên nhiều vị đệ tử của Ngài đắc quả La Hán như Ma Ha Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Kiều Trần Như, Xá Lợi Phất, A Nan Đa, Chullapanthaka v. v. . .

    Lúc nầy đạo Bà la môn phải lu mờ trước Phật giáo. Sau khi Phật nhập Niết Bàn một ít lâu thì các vị đệ tử lớn cũng lần lượt nối gót nhau mà qui vị. Mặt trời đã chen lặn và các ngọn đèn pha đã tắt hết rồi thì cảnh vật chìm đắm trong đêm tối, con người phải lần mò mà đi.

    NGUYÊN NHÂN THỨ NHÌ

    Nguyên nhân thứ nhì là sự chia rẽ của các giáo phái, bởi những chỗ bất đồng ý kiến. Vì vậy các giáo phái bị cô lập và yếu thế. Lời xưa nói không lầm. Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.

    Trước sự tấn công mãnh liệt và liên tiếp của đạo Bà la môn, mỗi giáo phái phải tìm cách tự vệ và tự nhiên không giáo phái nào đủ sức ngăn chống nổi. Giáo phái nầy bị hạ rồi thì tới giáo phái khác. Đây là một cái gương để cho đoàn hậu tấn soi chung.

    NGUYÊN NHÂN THỨ BA

    Ở cõi trần, nguyên nhân thứ ba nầy rất quan trọng. Nó là chướng ngại hết sức lớn lao mà tất cả các tôn giáo từ xưa tới nay đều vấp phải và không khéo thì phải sụp đổ. Ấy là sự quá ư sung sướng về vật chất làm mất tinh thần sùng bái đạo đức và tăng cường sức mạnh của tánh ích kỷ tham lam, kiêu căng tự phụ của các tín đồ. Họ không giữ giới hay là giữ cho có lệ chớ không phải thật là dọn mình cho trong sạch đặng xứng đáng thọ lãnh chơn truyền.

    Vì vậy cho nên cửa Đạo đóng kín từ thế kỷ nầy qua thế kỷ nọ để chờ những người có thiện căn, những người có đủ những đức tánh cần thiết tới chứng đó thì Đạo sẽ mở cửa đặng rước vào. Mấy lời trên đây có đúng hay không xin quí bạn đọc đoạn bình luận sau nầy về sự suy đồi của Phật giáo của ông L. de Milloné tác giả cuốn Đạo Phật trên thế gian trương 216. ( Le Bouddhisme dans le monde page 216).

    On croit généralement que le Bouddhisme est mort d’épuisement, énervé par la richesse des monastère, ruiné par le manque d’énergie du clergé abandonné par ses fidèles séduit par le culte éminemment populaire du Dieu Homme Krishna inventé ou tout au moins présenté par les Brahmannes afin de contre balancer l’homme Dieu Bouddha.

    XIN TẠM DỊCH.

    Đại để người ta tưởng rằng đạo Phật chết mòn vì bị sự giàu sang của chùa chiền làm cho suy nhược, sụp đổ bởi vì Giáo hội Tăng già mất hết khí phách nghị lực, bị bỏ rơi bởi vì các tín đồ say mê sự tôn thờ Đấng Krishna, là Đức Thượng Đế hóa thân làm người, được phổ biến khắp dân chúng, vốn của người Bà la môn bịa đặt hoặc giả đề xướng để đối phó với Đức Phật là con người thành Đức Thượng Đế.

    --------

    Người học đạo và hành đạo không phê bình mà cũng không xét đoán ai cả vì biết rằng trên đường tu hành sẽ gặp những cảnh ngộ éo le, khắc nghiệt. Chưa ai dám tự phụ rằng mình sẽ đứng vững trước những sự thử lòng mà không sa ngã. Tốt hơn cứ lặng thinh mà đi tới. Cười người tháng trước, tháng sau người cười. Luật Nhân quả Báo ứng không bao giờ dung tha một ai.

    Nhưng xe trước gãy, xe sau phải tránh. Ta thấy gương người xưa, rồi thì ta phải thận trọng, dè dặt từ chút không dám buông lung và phải luyện ý chí cho cứng cỏi. Sắt không đem nung lửa đỏ, không đem trui nhiều bận thì không bao giờ trở nên thép cứng rắn để dùng vào những việc hữu ích cho đời.

    Mà cũng đừng bao giờ quên rằng đời là một cái trường học lớn, nếu ham học và biết học thì tiến mau, nhược bằng lười biếng không cố gắng thì phải rớt sau xa lắc trong khi các bạn đồng hành vượt tới trước cả chục cây số rồi.

  12. #12

    Mặc định

    CHƯƠNG THỨ BA


    MỘT VẤN ĐỀ NAN GIẢI :

    AI LÀM CHỨNG RẰNG ĐỨC THÍCH CA THÀNH PHẬT ?

    VÀ PHẬT KHÔNG PHẢI CÓ NGHĨA “GIÁC” MÀ THÔI –

    HUYỀN BÍ HỌC HAY LÀ KHOA HÌNH NHI THƯỢNG HỌC CỦA CÁC TÔN GIÁO.



    Bây giờ có một vấn đề nan giải là : Ai làm chứng rằng Đức Thích Ca thành Phật ? Cũng như ai làm chứng rằng Đức Jésus Christ là con của Đức Thượng Đế và là Đấng Cứu Thế ? Ai làm chứng rằng Moise và Mahomet là hai nhà tiên tri được Jéhovah và Allah phò hộ ?

    Nói rằng ông Asita thấy Thái tử có 32 tướng nên biết Ngài thành Phật thì chưa đúng với chánh lý. Thử hỏi nếu hai ông : Ru trà Ca (Roudraka) và Arata Kâlâma, mỗi ông đều nói khác nhau : ông X sẽ thành Phật, ông Y sẽ thành Phật, trong ba vị ta phải tin vị nào bây giờ ? Ai là Phật thiệt, ai là Phật giả ?

    Có một tiêu chuẩn nào để chứng chắc rằng mình không lầm chăng ? Cũng như người ta nhờ nước át xít nên mới biết vàng nào thiệt vàng nào giả.

    Nói rằng Đức Thích Ca ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên nên đắc quả Phật thì lý do đó không vững. Thành Phật có đâu dễ dàng như thế. Trong kinh nói rằng trước phải làm Bồ Tát sau mới thành Phật. Vậy thì phải có những điều kiện nào mới được thành Phật ? Không một ai biết cả . . .

    Trong kinh cũng nói Đức Phật vị lai thế cho Đức Thích Ca là Đức Di Lạc Bồ Tát (Maîtreya). Thế thì từ 2.500 năm đã trải qua từ lúc Đức Phật ra đời cho tới ngày nay, Đức Di Lạc vẫn còn ở ngôi Bồ Tát chớ chưa thành Phật. Vậy bây giờ Ngài ở đâu ? Tới chừng nào mới thành Phật ? Vấn đề nầy thuộc về thần bí không ?

    Nếu kiếp chót Đức Thích Ca thành Phật thì kiếp trước Ngài đã làm một vị Bồ Tát. Đã làm một vị Bồ Tát mà không biết vô minh là cội rễ của Luân hồi, phải đợi ngồi dưới gốc cây Bồ Đề tham thiền 6 năm trời mới tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên và nhờ đó mới thành Phật ư ? Chúng tôi không bao giờ tin như vậy.



    TẠI LÀM SAO CHÚNG TÔI KHÔNG TIN RẰNG ĐỨC THÍCH CA

    NHỜ TRI RA THUYẾT THẬP NHỊ NHƠN DUYÊN NÊN THÀNH PHẬT.

    Vì hai lý do sau đây :

    1.- Lý do thứ nhứt : Đức Thích Ca nhớ chuyện kiếp trước.

    Thầy của Thái tử là ông Vicvamitra, dạy Thái tử viết, Thái tử bèn hỏi : “Bạch Thầy ! Thầy dạy tôi chữ nào ?”, hỏi rồi Ngài kể 64 thứ chữ khác nhau và hỏi thêm : “Trong 64 thứ chữ nầy, Thầy dạy tôi thứ chữ nào ?”

    Vicvamitra lặng thinh sửng sốt, nhưng ông cũng rán nói : “Thái tử kể cho nghe những thứ chữ mà tôi chỉ nghe tên thôi, Ngài cũng kể cho tôi nghe những thứ chữ mà tôi chửa nghe tên nữa. Tôi còn cái chi mà dạy Thái tử bây giờ”.

    (Đời sống của Đức Phật theo kinh sách của cổ Ấn Độ trương 25).

    Trong cuốn Ánh Sáng Á Châu trương 34 cũng có thuật chuyện Thái tử viết câu thần chú Gayatri :

    Om Tatsaviturvarenyam . . . ra nhiều thứ chữ như Nagri, Dakshin, Nî, Mangal Parousha, Yava, Tirthi, Oûk, Darad, Sikhyani, Mana, Madhyachar . . . và đếm tên từ đơn vị cho tới cả tỷ tỷ.

    Kiếp nầy Thái tử không học mà biết tức là nhớ lại những điều đã học kiếp trước. Vậy thì tại sao Ngài lại quên phứt ngôi vị của Ngài là Đức Bồ Tát nên phải thất công đi tìm lại Đạo ? Một người thường, trong câu chuyện “Thay hồn đổi xác”, hồn ma còn nhớ những chuyện kiếp trước của mình thay, huống chi là Ngài, một Đấng Chí Tôn chủ tể các Thần tiên.

    2.- Lẽ thứ nhì : Từ ngàn xưa người ta đã biết vô minh là cội rễ của các tội lỗi và sự Luân hồi rồi.

    Theo lẽ những điều người ta phát minh phải mới mẻ, khác hẳn những điều mà thiên hạ đã biết xưa nay.

    Nói rằng Đức Bồ Tát tri ra thuyết Thập Nhị Nhơn Duyên thì có nghĩa Đức Thích Ca là người thứ nhứt từ ngàn xưa biết được vô minh là cội rễ của sự Luân hồi . . . , và trước Ngài không ai rõ được điều nầy cả.

    Sự thật thế nào ? Đọc sách nói về Ai Cập giáo, tôi thấy 16.000 năm trước (có thể nói 80.000 năm trước vì theo Huyền bí học, Kim Tự Tháp Khéops đã xây dựng 80.000 năm rồi; sau Khéops mới khắc tên mình vô đó). Các Chơn Sư bên Ai Cập đã dạy vô minh là cội rễ của Luân hồi và những người học đạo từ thời Át lăn tích, cả triệu năm trước cho tới nay đều phải trừ khử vô minh mới đắc đạo thành chánh quả.

    Xin quí bạn đọc ba đoạn dưới đây.

    I

    Lời Pimandre dạy Hermès.

    Trong cuốn Pimandre, ông Hermès là đệ tử còn đương học đạo, Pimandre là ông Thầy dạy Hermès như vầy :

    Avant tout, il faut déchirer cette robe que tu portes, ce vêtement d’Ignorance, principe de la méchanceté, chaîne de corruption,enveloppe ténébreuse, mort vivant, cadavre sensible, tombeau que tu portes avec toi, voleur domestique, ennemi dans l’amour, jaloux dans la haine. Tel est le vêtement ennemi don’t tu es revêtu, il t’attire en bas vers lui de peur que le spectacle de la vérité et du bien ne te fasse haïr sa méchanceté. Découvrir les embûches qu’il te dresse. Obscurcissant pour toi ce qui nous semble clair, t’étouffant sous la matière, t’enivrant d’infâmes voluptés afin que tu ne puisses entendre ce que tu dois entendre, voir ce que tu dois voir.

    (Pimandre)

    Xin tạm dịch

    Trước hết phải xé cái áo của con đương bận đây : cái áo vô minh nầy là nguyên nhân của sự hung ác, nó cám dỗ, nó lung lạc để buộc trói, nó là lớp vỏ tối tăm, một kẻ chết mà sống, một cái thây ma còn biết cảm động, một cái mồ mà con mang theo mình, nó là tên ăn trộm trong nhà, kẻ tình địch trong sự yêu thương, kẻ ghen ghét trong sự thù hận. Cái áo thù nghịch mà con đương mặc vẫn như thế đó, nó lôi kéo con xuống thấp đặng ở với nó vì nó sợ một khi con thấy được Chơn lý và điều thiện rồi thì con oán ghét sự hung ác dữ tợn của nó; nó sợ con khám phá được cạm bẫy của nó gài con; nó làm cho con thấy đen tối cái điều mà đối với chúng ta thật là minh bạch, nó đem những sự khoái lạc nhơ nhớp mê hoặc con; nó bóp nghẹt con ở trong vật chất đặng con không nghe được cái điều con phải nghe, không thấy được cái điều con phải thấy.

    Pimandre

    II

    Lời Hermès dạy Tat về vô minh

    Sau Hermès đắc đạo rồi dạy lại đệ tử tên Tat như vầy :

    Hermès – Les sens perçoivent ce qui s’élève comme le feu, ce qui descend comme la terre, coule comme l’eau, souffle comme l’air : mais comment pourrais tu saisir, par les sens, ce qui n’est ni liquide, ni dur, ni mou, ce qui se conçoit seulement en puissance et en énergie ? POUR COMPRENDRE LA NAISSANCE EN DIEU IL TE FAUT L’INTELLIGENCE SEULE – Tat demandèa son père “J’en suis donc incapable” ? et le Père lui répond avec bienveillance et douceur.

    Ne désespère pas, mon fils, ton désir s’accomplira, ta volonté aura son effet, endors les ensations corporelles et tu NAITRAS EN DIEU. Purifie toi des bourreaux aveugles de la matières.

    - J’ai donc des bourreaux en moi ? S’étonne Tat.

    - Ils sont redontables et nombreux répond Hermès. Le premier, dit Hermès,est l”Ignorance, le second est la tritesse, le troisième, l’Intempérance, le quatrième, la Concupiscence, le cinquième, l’Injustice, le sixième, l’avarice, le septième, l’Erreur, le huitième, l’Envie, le neuvième, la Ruse, le dixième, la Colère, le onzième, la Témérité, le douzième, la Méchanceté. Ils sont douze et ont sous leurs ordres un plus grand nombre intérieur aux passions des sens. Ils s’éloignent peu à peu de celui que Dieu a pris en pitíe et voilà en quoi consistent le Mode et la Raison de la Renaissance.



    Xin tạm dịch

    Cái nào bay lên như lửa, cái nào rớt xuống như đất, cái nào chảy như nước, thổi như gió thì giác quan nhận thức được, Chớ con có thế nào dùng giác quan để hiểu biết được cái gì không phải là chất đặc, không phải là chất lỏng, cái gì không cứng, không mềm, cái gì mà chỉ biết được bằng Đại hùng, Đại lực mà thôi. MUỐN HIỂU ĐƯỢC SỰ SANH VÀO CÕI TRỜI (của Đức Thượng Đế) phản bổn hoàn nguyên là thế nào thì con phải dùng một mình trí huệ mà thôi.

    Tát bèn bạch với Sư phụ : “Con không đủ sức hiểu điều đó sao” ?

    Hermès bèn trả lời một cách dịu ngọt rằng : “Con chớ ngã lòng, con sẽ đắc kỳ sở nguyện, nghị lực của con sẽ có kết quả. Con hãy làm tê liệt những sự cảm giác của xác thịt thì con sẽ được sanh vào cõi Trời.. Con hãy quét sạch những kẻ tả đạo mù quáng của vật chất ở trong mình con.

    Tat lấy làm lạ bèn thưa : “Trong mình con có những kẻ tả đạo sao” ?

    Hermès bèn đáp : “Chúng nó đáng sợ và đông lắm”.

    Đứa thứ nhứt là vô minh, đứa thứ nhì là sự buồn bực, đứa thứ ba là vô độ, đứa thứ tư là dâm dục, đứa thứ năm là sự bất công, đứa thứ sáu là sự bỏn sẻn rích róng, đứa thứ bảy là sự lầm lạc, đứa thứ tám là sự ganh hiền ghét ngỏ, đứa thứ chín là mưu kế, đứa thứ mười là nóng giận, đứa thứ mười một là tánh táo bạo, hữu dõng vô mưu, đứa thứ mười hai là sự hung ác. Cả thảy là mười hai đứa mà bọn thủ hạ của chúng còn đông lắm. Do cái ngục của giác quan chúng nó làm cho linh hồn (hay chơn nhơn) say mê những tình dục của giác quan.

    Nhưng người nào được trời thương thì chúng nó dang xa người đó lần lần. Ấy là cách thức và nguyên nhân của sự Luân hồi.



    III

    Lời của Hermès nói với những kẻ say mê vật dục.

    Où courez vous, hommes ivres ? Vous avez bu le vin de l’Ignorance et vous ne pouvez pas le supporter, vous le rejetez déjà. Devenez sobres et ouvrez les yeux de votre cœur, sinon tous, au moins ceux qui le peuvent. Car le Fléau de l’Ignorance inonde toute la terre, corrompt l’âme enfermée dans le corps et l’empêche d’entrer dans le port du Salut. Ne vous laissez pas emporter par le courant, renenez si vous le pouvez, au port du salut, cherchez un pilote pour vous conduire vers les portes de la Gnose où brille l’éclatante lumière, pur de ténèbres, où nul ne s’énivre, où tous sont sobres et tournent les yeux du cœur vers ce lui qui veut être contemplé, l’Inoui l’Ineffable invisible aux yeux, visible à l’Intelligence et au cœur.

    (Hermès Trismégiste)

    Xin tạm dịch

    Hỡi mấy kẻ say sưa ! Các anh chạy đi đâu, các anh đã uống rượu vô minh, các anh chịu không nỗi nên hất đổ nó đi rồi. Bây giờ hãy có tiết độ và hãy mở tâm các anh, nếu không phải là tất cả thí ít ra những ai có thể làm được thì làm. Bởi vì cái tai họa của vô minh đã lan tràn khắp địa cầu, cám dỗ linh hồn ở trong xác thịt và ngăn cản linh hồn không cho vào bến giác. Chớ nên để dòng nước lôi cuốn, nếu có phương tiện thì hãy quay về bến giác. Hãy kiếm một người hoa tiêu đặng dắc các anh vào cửa đạo nơi đó ánh sáng chiếu rực rỡ, không chút tối tăm, nơi đó không có ai say sưa, cả thảy đều có tiết độ và hướng tâm hồn về Đấng Cao cả muốn cho con người chiêm ngưỡng Đấng Phi Thường, Đấng Chí Tôn mà không có cây viết phàm nào tả nổi, không thấy được bằng con mắt nhưng thấy được bằng Tâm và Trí

    Ba bài nầy nói về Vô minh, giải rõ Vô minh là cội rễ của các tội lỗi và nguyên nhân của sự Luân hồi, ai ai đọc đến cũng hiểu cả.

    Vì mấy lẽ trên đây, chúng tôi không bao giờ tin rằng nhờ khám phá lại những điều từ ngàn xưa các vì giáo chủ Ai Cập đã dạy các đệ tử mà Đức Thích Ca thành Phật. Thành Phật đâu có phải là việc nhờ tri ra một cái thuyết. Ngôi vị cao cả của một Đấng Chí Tôn không nên để bị giảm giá trị của nó một cách vô ý thức.

    Còn một điều khác nữa, nếu Phật chỉ có một nghĩa là “giác” mà thôi thì tại làm sao, vì duyên cớ gì mà Pimandre, Hermès và luôn các vị giáo chủ của các Tôn giáo đều không được gọi là Phật. Thế có phải là bất công hay không ?

    Luôn dịp tôi xin quí bạn chú ý tới hai câu nầy :

    a/ - Câu của Hermès nói với Tat trong bài thứ hai “Muốn hiểu được sự sanh vào cõi Trời” (La naissance en Dieu).

    b/ - Và câu của Phật trả lời với Vasichtha như một người đã vào cõi Phạn Vương và sanh đẻ nơi đó ( . . . comme une personne qui est entrée dans le monde de Brahma qui y est née). Tại sao 16.000 năm trước đã có câu chuyện sanh vào cõi Trời rồi; và Ai Cập giáo và Phật giáo hai tôn giáo khác nhau, ở hai nước cách nhau, rất xa về không gian và thời gian mà lại có một quan niệm chung như thế.

    Lý do là Chơn lý vẫn một.

    Đó là riêng về Ai Cập, còn ở Ấn Độ cũng có sáu phái Triết học dạy những phương pháp trừ khử vô minh, giải thoát cho con người vậy.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •