1. Liên hệ Thiền sử:

a) Thiền sư Tông Nhất pháp danh Sư Bị ở Huyền Sa. Sư nhập thất quên mất sớm chiều, lại xem kinh Lăng Nghiêm phát minh tâm địa. Do đó Sư ứng đối lẹ làng cùng kinh điển phù hợp. Những vị huyền học ở các nơi chưa giải quyết nghi ngờ đều đến cầu Sư chỉ dạy.

b) Thiền sư Pháp Loa, Tổ thứ hai phái Trúc Lâm Việt Nam. Sư được Điều Ngự thu làm đệ tử, dạy Sư đến tham vấn Hòa thượng Tánh Giác ở Quỳnh Quán. Ở đây Sư tìm đủ cách thưa hỏi mà vẫn không khai ngộ. Sư tự đọc bộ kinh Lăng Nghiêm đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn dụ khách trần, xem đi xem lại nhiều lần, bỗng nhiên Sư có chỗ vào.

2. Chủ đích:

Chủ đích kinh Lăng Nghiêm, Phật cốt chỉ ra cho hội chúng biết mọi người đều có Tánh giác trong sáng, gọi là Tánh giác diệu minh hay Như Lai tạng hoặc Chân tâm. Tánh giác này phát sáng nơi sáu căn, nên nói: “Nhất tinh minh sanh lục hòa hợp.” Song chúng sanh quên Tánh giác này, chạy theo sáu căn, phân biệt sáu trần, nên bị luân hồi sanh tử. Muốn ngộ Tánh giác phải nương cái sáng từ sáu căn phát ra mà trở về. Đây là chân lý muôn đời của chư Phật. Cho nên chư Phật ở mười phương, nhiều như số vi trần, khác miệng đồng lời, bảo Tôn giả A-nan: “Lành thay A-nan! Ông muốn biết ‘câu sanh vô minh’, cái gốc khiến ông luân hồi sanh tử, chỉ là ‘sáu căn của ông’, không có gì khác. Ông muốn biết ‘Vô thượng Bồ-đề’, khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường, cũng chính là ‘sáu căn của ông’, không có vật nào khác.”

Sáu căn là gốc luân hồi, sáu căn cũng là gốc giải thoát, nguyên nhân tại sao sai biệt như vậy? Chúng ta hãy nghe Phật nói: “Tri kiến mà lập tri là gốc vô minh; tri kiến mà không kiến đây là Niết-bàn.” (Tri kiến lập tri tức vô minh bản, tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn.) Trong cái thấy biết, chạy theo phân biệt là gốc vô minh; trong cái thấy biết, không phân biệt là Niết-bàn. Đó là con đường trở về Tánh giác. Trong sáu căn, ở đây đặt nặng Tánh nghe nhiều hơn. Cho nên trong phần chọn lựa căn để tu, ngài Văn-thù có đoạn nói: “Đại chúng và A-nan! Bảo các ông xoay cơ quan nghe, trở lại nghe cái Tánh nghe, là thành đạo Vô thượng. Viên thông thật như thế, đây là con đường vào cửa Niết-bàn của chư Phật nhiều như số vi trần. Chư Phật đời quá khứ cũng từ cửa này thành tựu. Chư Bồ-tát hiện tại đều vào viên minh và những người tu học đời vị lai cũng y pháp như thế.”

Phật và Bồ-tát đều xác nhận “nghe lại Tánh nghe của mình” là con đường vào cửa Niết-bàn. Đây là lối tu trở về Tánh giác, do kinh này chủ trương. Tu như thế, tức là “Tự tánh thanh tịnh thiền” của Thiền tông.

3. Đối chứng chi tiết:

Chủ yếu của kinh Lăng Nghiêm là từ “nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”. Thiền sư không nói danh từ kinh, song lúc nào cũng sống và thực hiện đúng như vậy. Chúng ta hãy nghe lời đối đáp của ngài Dược Sơn với Thiền sư Đàm Thạnh. Dược Sơn hỏi: “Ta nghe ngươi biết làm sư tử múa phải chăng?” Sư thưa: “Phải.” Dược Sơn hỏi: “Múa được mấy xuất?” Sư thưa: “Múa được sáu xuất.” Dược Sơn nói: “Ta cũng múa được.” Sư hỏi: “Hòa thượng múa được mấy xuất?” Dược Sơn đáp: “Ta múa được một xuất.” Sư nói: “Một tức sáu, sáu tức một.” Qua mấy câu đối đáp này, có thấy đạo lý gì đâu, tuy nhiên tràn trề đạo lý trong ấy.

Kinh Lăng Nghiêm đã dạy “sáu căn là gốc luân hồi, sáu căn cũng là gốc Niết-bàn”. Người muốn trở về Chân tánh, không có lối nào khác hơn là phải nương vào sáu căn. Thiền sư chỉ dạy lối này rất linh động và đơn giản: Thiền sư Huệ Tịch đến phiên chăn trâu dưới sườn núi, thấy một vị Tăng lên núi, không bao lâu lại xuống. Sư hỏi: “Thượng tọa sao không lưu lại trong núi?” Tăng nói: “Chỉ vì nhân duyên chẳng hợp.” Sư hỏi: “Có nhân duyên gì thử nói xem.” Tăng nói: “Hòa thượng hỏi tôi tên gì, tôi đáp Qui Chân. Hòa thượng hỏi Qui Chân ở đâu, tôi đáp không được.” Sư bảo: “Thượng tọa trở lên thưa với Hòa thượng, con nói được. Hòa thượng hỏi nói thế nào thì nên đáp trong mắt, trong tai, trong mũi…” Vị Tăng trở lại nói đúng như Sư dạy. Qui Sơn quở: “Kẻ nói suông vô ích, đây là lời bậc Thiện tri thức của năm trăm người.” Hỏi tên Qui Chân ở chỗ nào, chỉ thẳng trong mắt, tai, mũi… quả thật đã giải thích sáu căn là gốc Bồ-đề Niết-bàn vậy.

Thiền sư Thiệu Long đến tham vấn Viên Ngộ. Viên Ngộ dẫn một câu trong kinh Lăng Nghiêm nói: “kiến kiến chi thời, kiến phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập”, liền đưa tay lên hỏi: “Thấy không?” Sư thưa: “Thấy.” Viên Ngộ bảo: “Đầu lại thêm đầu.” Viên Ngộ hỏi tiếp: “Thấy cái gì?” Sư thưa: “Tre dày không ngại nước chảy qua.” (Trúc mật bất phòng lưu thủy quá.) Viên Ngộ gật đầu. Nguyên văn câu kinh đại khái nói: “Khi thấy được cái bị thấy, cái hay thấy chẳng phải là cái bị thấy, cái hay thấy vẫn xa rời cái bị thấy, cái bị thấy không thể theo kịp.” Thiền sư liền đưa tay hỏi: “Thấy không?” Thông thường ai cũng bảo là thấy. Nói thấy, Thiền sư bảo: “Đầu lại thêm đầu.” Tại sao? Nếu chỉ thấy khi cái tay đưa lên, lúc tay không đưa lên là chẳng thấy sao? Muốn nghiệm kỹ là người bị vật chuyển hay đã chuyển vật, Thiền sư hỏi: “Thấy cái gì?” Nếu là người bị vật chuyển như chúng ta, nhất định phải đáp: “Thấy cái tay.” Song Thiền sư lại đáp: “Tre dày không ngại nước chảy qua.” Tại sao thế? Bởi vì Thiền sư khi thấy vật vẫn không quên Tánh thấy của mình, như có tre mà nước vẫn chảy. Quả là người chuyển được vật, nên Viên Ngộ gật đầu. Thế là Thiền sư đã giải thích kinh và ứng dụng kinh một cách tài tình.

Lại một đoạn trong kinh:

Phật ở trong đại chúng đưa tay lên nắm lại xòe ra, nắm lại xòe ra, hỏi A-nan: “Nay ông thấy cái gì?” A-nan thưa: “Con thấy bàn tay trăm báu của Như Lai ở trong chúng xòe nắm.” Phật bảo A-nan: “Ông thấy tay ta ở trong chúng xòe nắm, hay cái thấy của ông có xòe nắm?” A-nan thưa: “Tay trăm báu của Thế Tôn ở trong chúng xòe nắm, con thấy tay Như Lai tự xòe nắm, chẳng phải Tánh thấy của con có xòe nắm.” Phật hỏi: “Cái nào động, cái nào tịnh?” A-nan thưa: “Tay Phật động, Tánh thấy của con còn không có tịnh, huống là động.” Phật khen: “Đúng thế.”

Thuật đưa tay lên để chỉ Tánh thấy, trong nhà thiền ứng dụng rất tinh vi mà không giải thích. Chẳng những đưa tay, hoặc dựng cây phất tử, hoặc đưa cây gậy, hoặc chiếc gối… Đây vài hình ảnh của Thiền sư chỉ Tánh thấy trong chớp nhoáng, người chậm lụt không sao thấy kịp: Thiền sư Tùng Chí ở Kim Phong, đứng trước chúng đưa chiếc gối lên bảo: “Tất cả người gọi là chiếc gối, Kim Phong nói chẳng phải.” Tăng thưa: “Chẳng biết Hòa thượng gọi là gì?” Sư cầm chiếc gối đưa lên. Tăng thưa: “Như thế thì y đó mà hành.” Sư hỏi: “Ngươi kêu là gì?” Tăng thưa: “Chiếc gối.” Sư nói: “Rơi trong hang Kim Phong.” Lại, Thiền sư Vân Môn đưa cây gậy lên trước chúng bảo: “Phàm phu gọi nó là thật, Nhị thừa phân tích gọi nó là không, Duyên giác gọi nó là huyễn có, Bồ-tát thì đương thể tức không, Thiền gia thì thấy cây gậy gọi là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến.” Mọi người nghe thấy đều mắc kẹt ở những câu giải thích sau, ít ai thấy được cây gậy của Vân Môn. Cây gậy ấy chỉ là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến. Đâu không phải câu giải thích của ngài A-nan “tay Phật động, Tánh thấy của con còn không có tịnh, huống là động”.

Một đoạn kinh:

Phật bảo La-hầu-la đánh một tiếng chuông, hỏi A-nan: “Hiện giờ ông có nghe chăng?” A-nan và đại chúng đồng thưa: “Chúng con nghe.” Tiếng chuông bặt dứt. Phật lại hỏi: “Hiện giờ các ông nghe chăng?” A-nan cùng đại chúng đồng thưa: “Chẳng nghe.” La-hầu-la lại đánh một tiếng chuông, Phật hỏi: “Hiện giờ các ông nghe chăng?” A-nan cùng đại chúng đáp: “Nghe.” Phật hỏi A-nan: “Ông tại sao nghe?” A-nan cùng đại chúng đồng bạch Phật: “Nếu đánh chuông có tiếng thì chúng con nghe, đánh lâu tiếng bặt âm vang dứt hết thì gọi không nghe…” Phật bảo: “Này A-nan! Tiếng bặt không còn âm vang, ông nói không nghe, nếu thật không nghe thì Tánh nghe đã diệt, giống như cây khô, lại đánh một tiếng chuông thì ông làm sao mà biết? Biết có biết không chính là thanh trần hoặc có hoặc không, đâu phải Tánh nghe kia là có là không. Nếu Tánh nghe thật không thì ai biết nó không? Thế nên, A-nan! Tiếng ở trong Tánh nghe tự có sanh diệt, chẳng phải Tánh nghe của ông do tiếng có tiếng không mà nó thành có thành không…”

Đoạn kinh này Phật chỉ Tánh nghe thật quá rõ ràng. Thiền sư cũng chỉ Tánh nghe mà rất ẩn mật. Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn đi tham vấn Thiền sư Đại Đồng Đầu Tử, từ giã ra về. Đầu Tử tiễn ra cửa, liền gọi: “Đạo giả!” Tuyết Phong ngoái đầu lại: “Dạ!” Đầu Tử bảo: “Đi đường vui vẻ.” Lại một Thiền sư cũng chỉ như thế. Có sứ thần đến viếng Thiền sư Đạo Minh (Trần Tôn Túc). Sứ thần hỏi: “Ba cửa đều mở, từ cửa nào vào?” Sư gọi: “Thượng thơ!” Sứ thần ứng thanh: “Dạ!” Sư bảo: “Từ cửa tín vào.” Sứ thần nhìn lên vách thấy tượng vẽ, hỏi: “Hai Tôn giả đối mặt luận việc gì?” Sư gõ cây cột nói: “Trong ba thân cái nào chẳng nói pháp?” Đây là những thuật dạy rất nhanh và rất kín của Thiền sư, muốn cho người hỏi ngộ được Tánh nghe mà không dùng lời giải thích.

Để thấy rõ kinh Lăng Nghiêm là chánh thống Thiền tông, chúng ta đọc bài kệ của Tôn giả A-nan, sau khi đốn ngộ, tán Phật:

Diệu trạm tổng trì bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương thế hi hữu
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng
Bất lịch tăng-kỳ hoạch Pháp thân.

Nguyện kim đắc quả thành Bảo vương
Hoàn độ như thị hằng sa chúng
Tương thử thâm tâm phụng trần sát
Thị tắc danh vi báo Phật ân.

Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh
Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập
Như nhất chúng sanh vị thành Phật
Chung bất ư thử thủ nê-hoàn.

Đại hùng đại lực đại từ bi
Hy cánh thẩm trừ vi tế hoặc
Linh ngã tảo đăng Vô thượng giác
Ư thập phương giới tọa đạo tràng.

Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.

Đấng diệu trạm tổng trì bất động
Kinh Thủ Lăng Nghiêm đời ít có
Con sạch ức kiếp tưởng điên đảo
Chẳng trải tăng-kỳ được Pháp thân.

Nay nguyện được thành quả Bảo vương
Trở lại độ như hằng sa chúng
Đem thâm tâm này thờ trần sát
Đây mới gọi là đáp Phật ân.

Lại xin Thế Tôn vì chứng minh
Đời ác ngũ trược thề vào trước
Còn một chúng sanh chưa thành Phật
Con quyết nơi đây chẳng Niết-bàn.

Đấng đại hùng đại lực đại từ bi
Mong lại xét trừ hoặc vi tế
Khiến con sớm được Vô thượng giác
Nơi cõi muời phương ngồi đạo tràng.

Hư không dù có thể tiêu vong
Tâm kiên cố con không động chuyển.

Bốn câu đầu, nhờ Phật pháp Ngài đốn ngộ, thấy Pháp thân. Bốn câu kế, Ngài nguyện được thành Phật, trở lại độ chúng sanh và phụng thờ chư Phật, ấy là đền ơn Phật. Bốn câu tiếp, cầu Phật chứng minh con xông vào đời ngũ trược này trước nhất để độ chúng sanh. Bốn câu kế, xin Phật xét kỹ trừ sạch hoặc vi tế cho con để con sớm được thành Phật. Hai câu sau, khẳng định dù hư không có tan nát, tâm kiên cố của con cũng chẳng động.

Thiền tông chủ trương kiến tánh khởi tu hay đốn ngộ tiệm tu. Trường hợp ngài A-nan quả đúng như thế. Trước nhờ Phật và pháp nên thấy được Pháp thân, đây là Kiến tánh. Thấy được Pháp thân rồi mới biết cách đền ơn Phật, biết thương xót chúng sanh, nên phát tâm đại bi. Song còn những thứ hoặc vi tế cần phải tiệm tu mới sạch. Sau cùng thệ quyết trên đường tu không còn thối chuyển. Quả là Thiền và Kinh hội ngộ trong bài kệ này.

4. Toát yếu toàn bộ:

Toàn bộ kinh Lăng Nghiêm, chúng tôi tóm lược chia thành hai phần chánh: “kiến tánh, khởi tu” hay “đốn ngộ, tiệm tu”. Trong hai phần này lại chia vài phần nhỏ. Kiến tánh: biết giả, nhận thật. Khởi tu: tu chánh, tu phụ và biết ma.

a) Kiến tánh hay đốn ngộ:

Kiến tánh tức là nhận ra được Pháp thân. Pháp thân chính là Bản thể chân thật của chúng sanh. Trước khi chỉ ra cái thật, đức Phật phá mọi lầm chấp những thứ hư giả.

Mở đầu vào cuộc đối thoại, đức Phật hỏi Tôn giả A-nan lý do gì đi xuất gia. Tôn giả A-nan thưa rằng: “Vì ưa thích thân ba mươi hai tướng tốt của Phật nên phát tâm xuất gia.” Phật hỏi A-nan: “Lấy cái gì thấy thân ba mươi hai tướng? Lấy cái gì ưa thích?” Tôn giả A-nan trả lời: “Do mắt thấy thân Phật, tâm sanh ưa thích.” Thế là bước vào bảy chỗ hỏi tâm, khiến Tôn giả A-nan đi đến tận cùng chỗ chấp, quả nhiên tâm ấy không thật. Kế Phật chỉ cảnh và thân là tướng dao động sanh diệt, mà Tánh thấy chưa bao giờ dao động. Từ đây Phật vừa phá chấp giả, đồng thời chỉ cái thật. Cái giả là thân và cảnh, cái thật là Tánh thấy. Cho đến “tám thứ trả về” (bát hoàn) cũng cốt chỉ tiền trần hư giả, Tánh thấy chân thật. Kể cả ngũ ấm, thập bát giới, thất đại đều là tướng hư giả, theo nghiệp ứng hiện, gốc từ Như Lai tạng lưu xuất. Như Lai tạng là Thể chân thật, ví như mặt trăng thật. Tánh thấy gần kề cái chân thật ấy, song chưa hoàn toàn thật, ví như mặt trăng thứ hai, do ấn con mắt thấy. Đến đây, Tôn giả A-nan nhận ra được Bản tánh, nói kệ trình bày sở ngộ.

b) Khởi tu hay tiệm tu:

Phần tu chánh, Phật chỉ rõ sáu căn là nhân luân hồi, sáu căn cũng là nhân giải thoát. Trong sáu căn chọn một căn viên thông, tu hành chóng thành đạo. Ví như cái khăn có sáu gút, một gút mở, sáu gút đồng thời xổ ra. Kế Phật bảo hai mươi lăm vị Thánh trình bày chỗ tu chứng của mình. Rốt sau Phật dạy Bồ-tát Văn-thù chọn lựa căn nào viên thông và phù hợp với cõi này. Bồ-tát Văn-thù chọn qua, sau cùng thừa nhận “nhĩ căn” là viên thông hơn cả. Đây là lối tu “Phản văn văn tự tánh” của Bồ-tát Quán Thế Âm. Yếu điểm tu hành của Bồ-tát Quán Thế Âm là: “Ban đầu ở trong cái nghe, vào dòng quên cái bị nghe. Chỗ vào đã lặng lẽ thì hai tướng động tịnh rõ ràng chẳng sanh. Như thế, tiến lên dần dần, cái hay nghe và bị nghe đều mất, cũng không trụ chỗ mất. Cái năng giác và sở giác không. Cái không giác hoàn toàn tròn, không và sở không đều diệt. Sanh diệt đã diệt thì tịch diệt hiện tiền.” Bồ-tát Văn-thù khuyến khích đại chúng và A-nan rằng: “Xoay cơ quan nghe của ông, trở lại nghe Tánh nghe của mình, thành tựu Tánh nghe là đạo Vô thượng. Viên thông thật như thế. Đây là con đường vào cửa Niết-bàn của chư Phật như số vi trần…”

Lối tu “Phản văn văn tự tánh” có lắm người hiểu sai lầm, tu không tiến, trở lại thành bệnh. Bởi vì cứ nghĩ rằng xoay cái nghe trở lại Tánh nghe của mình, rồi họ ngồi yên nghe trở lại trong hông ngực, lâu ngày thành thổ huyết. Chữ “phản” ở đây có nghĩa là ngược lại, thay vì từ thuở nào đến giờ, chúng ta thả xuôi cái nghe chạy theo âm thanh, có âm thanh là có nghe, không âm thanh cho là không nghe, quên mất Tánh nghe thường còn của mình. Nay đây, mỗi khi nghe âm thanh, chúng ta biết mình có Tánh nghe, bao nhiêu âm thanh liên tục bên tai, ta không chạy theo chúng, chỉ nhớ mình đang có Tánh nghe, nghe tất cả. Nhớ Tánh nghe là không nhớ thanh trần. Tánh nghe thì thường hằng, thanh trần vì động tịnh nên sanh diệt. Hằng nghe là giác tri, chính nó hiện tướng của Tánh giác. Sống với Tánh nghe là sống với hiện tướng của Tánh giác chân thật, nên gọi là con đường vào cửa Niết-bàn. Trọn ngày chúng ta đi đứng nằm ngồi có bao nhiêu âm thanh vang tai, chúng ta chỉ vui vẻ nhẹ nhàng nhớ mình có Tánh nghe đang nghe mọi âm thanh. Khi tọa thiền cũng thế, từ tiếng tích tắc đồng hồ, tiếng thằn lằn chặc lưỡi, tiếng gió rì rào bên ngoài…, chúng ta đều nghe, mà chỉ nhớ mình đang có Tánh nghe, chớ không chạy theo tiếng để phân biệt. Đây là thuật “Phản văn văn tự tánh”. Chẳng những nghe thôi, mà cả thấy, ngửi, nếm, xúc chạm đều có thể “phản văn” được hết. Đó là lối tu “Tự tánh thanh tịnh thiền” của Thiền tông. Sống với Tánh nghe của chúng ta, tức là trở về nguồn giác, nên gọi là “vào dòng” (nhập lưu). Hằng nhớ Tánh nghe thì lơ là với âm thanh, gọi là “quên cái bị nghe” (vong sở). Sống thuần thục với Tánh nghe rồi thì hai tướng động tịnh chẳng sanh. Cho đến năng giác sở giác đều không, mọi thứ đối đãi dứt bặt, chỉ còn một Tánh giác tịch tĩnh như như. Thế là đạt đạo viên mãn. Tuy nhiên như thế, cũng cần có phần trợ giúp mới chóng viên thành.

Phần tu phụ, chánh yếu là trở về Tánh giác, song nhờ có sự phụ trợ để vô minh vi tế chóng sạch. Trong kinh phần phụ dạy phải gìn giữ giới luật. Có giữ giới luật người tu thiền mới viên mãn quả giải thoát. Nếu tu thiền mà không có giới luật, tùy sự tu hành cao thấp, hoặc sanh làm quỉ thần, hoặc sanh vào các cõi trời. Tu thiền mà có giới luật là đi đúng đường của đức Phật dạy, sớm muộn gì cũng đến Phật quả.

Nếu người tu có nhiều ma chướng, Phật dạy có thể trì thần chú Lăng Nghiêm phụ giúp cho ma chướng chóng tiêu.

Biết ma: Sau cùng bộ kinh, Phật nói về Ngũ ấm ma. Người tu thiền vượt qua mỗi ấm có mười thứ ma làm chướng ngại. Ma ấy vốn từ sự tu hành dằn ép của Thiền giả mà phát hiện. Thiền giả khéo thấy những cảnh lạ, tự biết đừng chấp thì cảnh ấy đều là tốt, khởi chấp mình đã được đạo, chứng Thánh v.v… là rơi vào lưới của ma.

Tóm lại, đường lối tu hành trong kinh Lăng Nghiêm lấy Thiền làm căn bản. Song muốn tu thiền trước phải đốn ngộ sau mới tiệm tu. Quả nhiên kiến tánh khởi tu của Thiền cùng đốn ngộ tiệm tu của Kinh rõ ràng không có hai pháp.