Kinh nghiệm phòng không tên lửa chống không quân Mỹ tại Việt Nam 1972
Thứ sáu 19/08/2011 23:35

Tháng 12 năm 1972. Năm đỉnh cao của lực lượng không quân chiến lược Mỹ với vai trò chủ đạo là máy bay ném bom chiến lược B52 Stratofortressa. 18 tháng 12 năm 1972. Lần đầu tiên 127 chiếc máy bay ném bom chiến lược pháo đài bay B-52 xuất kích vào không phận Miền Bắc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với mục tiêu. Đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá.

Đại tá Tiến sỹ Alexcander Malgin


Giáo sư Viện Hàm lâm quân sự, giảng viên.

Viện khoa học phòng thủ hàng không vũ trụ Liên bang Nga.

Đại tá, Tiến sỹ Mikhain Malgin.

Chuyên viên nghiên cứu khoa học.

Viện nghiên cứu khoa học quân sự Bộ quốc phòng Liên bang Nga.

Chiến thắng không thể nào đạt được với máy bay ném bom hiện đại

Tạp chí phòng không, phòng thủ vũ trụ VKO nhiều lần đăng các bài viết về kinh nghiệm chiến tranh không quân và phòng không trong cuộc chiến tranh mang nhiều dấu ấn lịch sử giữa Mỹ và Việt Nam dân chủ cộng hòa từ năm 1965 đến năm 1973. Trong bài viết này VKO đưa ra những thông số mang tính kỹ chiến thuật đối với lực lượng không quân Mỹ và lực lượng phòng không Việt Nam trong 1 giai đoạn vô cùng căng thẳng của chiến tranh Việt Nam – năm 1972. Trong bài viết này tác giả không bình luận nhiều về chiến dịch Linebacker II. Các bài viết về nó đã có rất nhiều. Ở bài viết này, tác giả tổng kết kinh nghiệm phòng thủ bầu trời của lực lượng phòng không Việt Nam trong một năm cao điểm nhất của chiến tranh đường không.


Lực lượng phòng không Việt Nam với chiến dịch Linebacker II


Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1972, biên chế tác chiến của lực lượng không quân Mỹ khu vực Đông Nam Á tăng cường lực lượng không quân chiến lược lên 3 lần, không quân Hải quân tăng cường 1,5 lần. Cũng từ tháng 3 năm 1972, không quân Mỹ tăng cường tần xuất không kích các mục tiêu kể cả mục tiêu dân sự trên địa bàn Miền Bắc Việt Nam.

Sau tuyên bố của Tổng thống Mỹ Richard M. Nixon về việc đưa Hà Nội về thời kỳ đồ đá, tần suất không kích của lực lượng không quân chiến lược và chiến thuật với sự tham gia của 207 máy bay ném bom chiến lược B52 và hơn 2000 máy bay cường kích đánh chặn của không quân và hải quân Mỹ. Mật độ không kích cao nhất là từ 18/12 đến 30/12. Cuộc không kích đã bị lực lượng phòng không Việt Nam đáp trả xứng đáng với những tội ác mà nó gây lên.

Lực lượng phòng không tên lửa Việt Nam trong chiến tranh phòng không

Năm 1972, lực lượng phòng không Việt Nam, như trước kia, thực hiện các nhiệm vụ tác chiến chủ yếu ở 3 khu vực chính. Quân khu Hà Nội, Quân khu duyên hải với thành phố Hải Phòng, và quân khu 4. Trong giai đoạn đó, trên các trận địa phòng không có khoảng từ 30 đến 36 tiểu đoàn tên lửa phòng không S-75.


Sơ đồ bố trí lực lượng tên lửa phòng không khu vực Hà Nội -
Hải Phòng



Nếu tính toán hệ số sẵn sàng chiến đấu thì các tiểu đoàn tên lửa phòng không có hệ số là 0,6 – 0,7. Khả năng phóng đạn đánh chặn các đợt không kích sẽ là khoảng 22 – 25 tiểu đoàn (nếu tính những tổn thất và tính chất của các đòn tấn công liên tiếp thì các tiểu đoàn tên lửa sẵn sàng phóng đạn còn thấp hơn) Trên các bệ phóng tên lửa của các phân đội sẵn sàng từ 10 – 12 tên lửa. Các tên lửa còn lại tập trung tại các điểm cách xa bệ phóng, nạp nhiên liệu và chuẩn bị kỹ thuật( trực tiếp trên các xe vận tải đạn. Trong trường hợp đó, khả năng sống còn và phản kích của các phân đội tên lửa hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng đảm bảo cung cấp tên lửa kịp thời lên bệ phóng của các phân đội trong quá trình đánh trả lực lượng không quân đối phương.


Sơ đồ bố trí các đài radar cảnh báo của phòng không Việt Nam


Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng phòng không Việt Nam là bảo vệ các mục tiêu ở Hà Nội và Hải phòng, các mục tiêu kinh tế công nghiệp của miền Bắc, các tuyến đường vận tải và sân bay quân sự trên địa bàn cả nước. Bảo vệ tuyến vận tải huyết mạch từ Bắc vào Nam và các mục tiêu ven biển của Vịnh Bắc bộ.

Trong cả năm 1972, không quân Mỹ tham chiến với các tần suất khác nhau. Vì vậy có thể chia ra thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 bắt đầu từ tháng 3 đến giữa tháng 10, giai đoạn 2 tính từ 18/12 đến 30/12/1972. nêu nghiên cứu các hoạt động của không quân Mỹ và các hoạt động tác chiến của phòng không và không quân Việt Nam, có thể thấy:

Giai đoạn 1: tần suất hoạt động của không quân Mỹ không cao. Hệ thống tên lửa phòng không Việt Nam phóng đạn 55 lần và bắn hạ 23 máy bay không quân hải quân chiến thuật với 4 máy bay không người lái. Bình quân 4 tên lửa cho 1 máy bay, hiệu quả phóng đạn là 0,5. Không quân cường kích sử dụng nhiễu ở cường độ trung bình và cường độ thấp. Tầm cao bay tác chiến là từ 1 đến 5 km.


Phân tích kết quả các đòn tấn công của không quân Mỹ vào trận địa
tên lửa



Kết quả những đòn tấn công của không quân Mỹ vào các trận địa của các phân đội phòng không với mức độ cơ động trung bình trong một đợt tác chiến vào năm 1972.

Giai đoạn 2 Giai đoạn triển khai chiến dịch Linebacker II. Với mật độ bay và lực lượng lớn nhất trong lịch sử không quân Mỹ với mục tiêu san phẳng Hà Nội Hải Phòng và các mục tiêu khác

Để chống lại lực lượng phòng không tên lửa, không quân Mỹ đã triển khai kế hoạch tấn công phủ đầu các trận địa tên lửa của các cụm phòng không.

Đợt tấn công thứ 1 của không quân Mỹ trong chiến dịch Linebacker II. Không quân chiến thuật Mỹ đã tập kích với 12 đòn tấn công vào trận địa phòng không tên lửa bị phát hiện (6 quả bom và 6 quả tên lửa chống radar) Theo kết quả gây tổn thất cho 7 phân đội tên lửa (hai bệ phóng – 1 tên lửa Shrike). Các tiểu đoàn di chuyển 6 lần trong một giai đoạn tác chiến-1 đợt không kích ( khoảng 2 lần trong 1 tháng). Để chống lại tên lửa chống radar điều khiển Shrike, loại tên lửa đã gây nhiều khó khăn cho các khẩu đội tên lửa.

Theo tính toán của các cán bộ chiến sỹ trắc thủ điều khiển phóng, khi kíp trắc thủ điều khiển phát hiện tên lửa chống radar Shrike hoặc trên các trạm quan sát phát hiện đối phương phóng tên lửa Shrike. Trắc thủ điều khiển có thể kịp thời quay anten và cắt nguồn phát tín hiệu cao tần. Kỹ thuật này sẽ làm tên lửa Shrike mất sóng dẫn đường, đánh trượt mục tiêu. Đầu nổ nổ cách mục tiêu hàng trăm mét cách xe điều khiển.

Đã có những trường hợp trắc thủ khẩu đội tên lửa không kịp thời đánh lạc hướng tên lửa Shrike toàn bộ khẩu đội bị tổn thất và mất khả năng chiến đấu. Một khẩu đội tên lửa trong chiến dịch Linebacker II không kịp thời cắt Shrike. Tên lửa phát nổ cách xe điều khiển 6 m, trên cánh radar thu phát bị 70 lỗ đạn bi xuyên qua, tên lửa cắt đứt hơn 10 cuộn cáp vi mạch và cáp cao tần của radar, trên bệ phóng cáp nguồn điện và cáp điều khiển bị cắt đứt. Khẩu đổi bị loại hoàn toàn khỏi trận địa, tổn thất sinh lực không.

Trong chiến tranh, các hoạt động tác chiến đều do các chiến sỹ điều khiển tên lửa Việt Nam đảm nhiệm, các chuyên gia quân sự Xô viết chỉ giới hạn nhiệm vụ hỗ trợ trong các hoạt động chuẩn bị trang bị khí tài, vũ khí, sửa chữa và khai thác sử dụng, thống kế kết quả phóng đạn và đưa ra những đề xuất, kiến nghị về nghệ thuật tác chiến. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng các ban chỉ huy các đơn vị tên lửa Việt Nam rất chú trọng tiết kiệm đạn (không ít lần phóng 1 tên lửa, dẫn đến hiệu quả phóng không cao) Có khoảng 70% lần phóng là 2 quả đạn liên tiêp và 28% lần phóng là 1 đạn. Trong đợt tấn công lần 1 của chiến dịch Linebacker II tỉ lệ tổn thất 3,8. Có nghĩa là cứ một khẩu đội tên lửa bị tổn thất là có 4 đơn vị bay của đối phương bị bắn rơi. Có thể coi tỷ lệ đó là rất cao, nhưng so với những năm trước 1966 – 1968 tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.

Đợt tấn công thứ 2 của chiến dịch Linebacker II, tần suất tấn công của không quân Mỹ tăng gấp nhiều lần, đặc biệt là không quân hải quân và không quân chiến thuật. đồng thời tăng cường gây nhiễu chiến thuật đến mức độ cực đại. Giai đoạn này các khẩu đội phóng 500 tên lửa, bắn rơi 185 máy bay, trong đó có 177 máy bay chiến thuật và không quân hải quân. 8 máy bay B52. Tỷ lệ hiệu quả tác chiến là 5 tên lửa trên 1 máy bay. Tỷ lệ khẩu đội tên lửa với máy bay đối phương là 0,37, với máy bay ném bom B52 là 0,16. Tỷ lệ đạn cho 1 máy bay B52 là 8 tên lửa/1 B52. Mật độ nhiễu xạ bầu trời và độ phức tạp phòng không khi phóng đạn đạt đỉnh cao nhất, gần 90% khó phát hiện mục tiêu.


Sơ đồ tác chiến của bộ đội tên lửa phòng không đợt 1 chiến dịch
Điện Biên Phủ trên không


Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến dịch Linebacker II, để phát hiện và đánh dấu các mục tiêu trận địa phòng không và hệ thống phòng không, người Mỹ đã sử dụng cả máy bay trinh sát chiến lược SR-71. Trên tất cả các trận địa tên lửa bị tấn công 111 lần. Bom và tên lửa Shrike đã gây tổn thất cho 32 trong tổng số 37 tiểu đoàn tên lửa phòng không. 3 trong số 10 tiểu đoàn kỹ thuật bị tấn công. Có những phân đội bị tấn công nhiều lần (2 hoặc 4 lần) một nửa là bằng bom, số còn lại là tên lửa. Các phân đội tên lửa bị tổn thất là 54 lần, bị tổn thất do tên lửa Shrike là 10 phân đội, các kíp xe trắc thủ đã nhanh chóng học được phương pháp tránh tên lửa Shrike. Hiệu quả của tên lửa Shrike giảm xuống chỉ còn 0,16.

Hệ số cơ động của các đơn vị tên lửa tăng cao. Trong giai đoạn tác chiến này, các phân đội thực hiên đến 12 lần cơ động sang vị trí mới (tương đương khoảng 4 lần cơ động trong 1 tháng). Đồng thời hệ số khó khăn trong cung cấp đạn cũng tăng cao. Bộ tư lệnh quân chủng Phòng không Không quân lại quyết định chỉ lệnh tiết kiệm đạn cao nhất khi bắn nhằm mục tiêu chủ yếu là B52.

Chính vì thế khoảng 70% lần phóng là 1 tên lửa. tất nhiên, trong điều kiện quá phức tạp của chiến trường khả năng tiêu diệt mục tiêu rất khó khăn. Chính vì vậy, việc tiết kiệm đạn lại dẫn đến việc tiêu hao đạn cao hơn. Tỷ lệ giữa các khẩu đội tên lửa và máy bay bị bắn hạ là 3,4. Có nghĩa là cứ 1 khẩu đội tên lửa bị đánh trúng chỉ còn 3,4 máy bay bị bắn rơi. Đây là tỷ lệ hiệu quả nhỏ nhất trong toàn bộ những năm chiến đấu của phòng không không quân Việt Nam.

Đợt tấn công thứ 3 của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, các phân đội tên lửa phóng 290 tên lửa, bắn hạ 110 máy bay, trong đó có 104 máy bay chiến thuật và không quân hải quân, 6 máy bay ném bom chiến lược B52. Tỉ lệ bắn hạ máy bay là 4,5 tên lửa / 1 máy bay, hiệu quả bắn là 0,38.

Hiệu quả tiêu diệt máy bay ném bom chiến lược B52 là 0,6, tỷ lệ cao nhất trong toàn bộ chiến tranh ở Việt Nam. Trong giai đoạn này, các phân đội tên lửa phòng không quân khu 4 đã tấn công B52 bằng phương pháp phục kích. Khi máy bay B52 chưa kích hoạt máy gây nhiễu tích cực. Từ phương án khác, các chiến sỹ trắc thủ điều khiển tên lửa đã học được phương phát vạch nhiễu để phát hiện máy bay. Khi máy bay bật nhiễu tích cực và gây nhiễu dầy đặc hoặc khi máy bay địch bay lượn vòng, biểu đồ các thông số nhiễu thay đổi và tín hiệu máy bay hiện ra rất rõ trên màn hình radar ngay cả trong trường hợp nhiễu dày đặc nhất.

Trong khu vực có khả năng tiêu diệt mục tiêu của tên lửa, khi phát hiện nhiễu bắt đầu dày đặc, các phân đội tên lửa Việt Nam lập tức phóng đạn vào hướng mục tiêu. Trong rất nhiều trường hợp đạn đánh trúng mục tiêu khi đội hình hành tiến của không quân Mỹ chưa kịp triển khai đội hình chiến đấu. Trong khu vực tác chiến mật độ phức tạp đạt đến 100% do nhiễu thụ động, nhiễu tích cực, tác chiến điện tử và chế áp điện tử, các hoạt động nghi binh của không quân, các đòn tấn công của tên lửa Shrike, bom đánh tọa độ vào khu vực trận địa phòng không…


Biểu đồ số lượt xuất kích của các loại máy bay Mỹ trong năm 1972