Chánh kinh: Phật bảo A Nan: Nói chung, chư thiên nhân dân trong mười phương thế giới chí tâm nguyện sanh về cõi kia gồm có ba bậc.


Giải: Phẩm trước là mười phương chư Phật khen ngợi, đó chính là kết quả của nguyện ‘chư Phật khen ngợi’. Ấy là vì chư Phật muốn cho chúng sanh nghe danh hiệu phát tâm, ức niệm, thọ trì, thỏa nguyện được vãng sanh. Phẩm này bàn về các loại nhân hạnh để vãng sanh.

Phàm phu sau khi nghe danh hiệu Phật liền phát tâm. Do tín nguyện có sâu cạn nên phát tâm có lớn hay nhỏ, trì tụng nhiều hay ít, tu tập có siêng, lười nhiều nỗi sai khác. Túc căn của chúng sanh có vô lượng sai biệt; phước đức, nhân duyên lại càng sai khác hơn nữa. Người người khác nhau, kẻ kẻ bất đồng. Do đó, đã có vô lượng chúng sanh trong mười phương vãng sanh thì phẩm loại của họ cũng phải vô lượng.

Ðối với vô lượng phẩm loại sai khác như thế, đức Thế Tôn chỉ tạm phân chia một cách tổng quát nên trong phẩm này chỉ nói đến ba bậc: thượng, trung, hạ. Ðấy là cách phân chia giản lược nhất. Mỗi bậc lại tách ra làm ba loại nhỏ nên thành ra chín loại; Quán kinh gọi là ‘chín phẩm’. Mỗi phẩm trong chín phẩm đó lại có chín phẩm, thành ra tám mươi mốt phẩm. Cứ lần lượt khai triển như thế đến vô lượng.

Trong vô lượng thứ bậc ấy, nói một cách tổng quát thì gồm có ba bậc. Dẫu phẩm loại của những người vãng sanh thật khác xa nhau, nhưng khi luận đến cái nhân chủ yếu để vãng sanh thì chẳng gì khác hơn là ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật’. Ðấy chính là cương tông của toàn bộ kinh này, là chìa khóa để vãng sanh Cực Lạc.

Ba bậc vãng sanh chính là để phân loại bọn phàm phu chúng ta sau khi đã vãng sanh về Tịnh Ðộ. Nguyện hạnh, công đức của từng bậc chính là khuôn phép để chúng ta noi theo hòng cầu được vãng sanh. Nếu lòng chơn thành cầu được vãng sanh thì phải nên tuân theo những khuôn phép đó, khác nào tấm gương sáng để ta luôn soi mình.

Nên nhớ rằng Tịnh tông được xưng tụng là Dị Hành Ðạo (đạo dễ hành) là vì so trong tám vạn bốn ngàn pháp môn mà nói thì chỉ có pháp môn này dễ dàng nhất nên mới gọi là ‘dị hành đạo’; chứ nếu xét theo những điều được dạy trong kinh này, ta thấy vãng sanh cũng chẳng phải là việc dễ. Nếu chẳng thật vì sanh tử phát tâm Bồ Ðề, dùng tín nguyện sâu một dạ chuyên niệm mà mong vãng sanh thì không thể nào được.

Kính mong những hành nhân trong hiện tại chớ đừng thoáng nghe Tịnh tông là dễ tu liền sanh khinh mạn, tín tâm hời hợt, chí nguyện lơ là, miệng bàn Tịnh nghiệp, tâm tiếc trần duyên; như vậy mà cầu sanh thì biết đến bao giờ mới được!

Khi phán định chín phẩm trong Quán kinh có tương đương với ba bậc trong kinh này hay không, cổ đức đã lập ra lắm thuyết bất nhất:

a. Trường phái coi những phẩm loại được nói trong hai kinh là giống nhau thì gồm những vị như Ðàm Loan đại sư, Cảnh Hưng, Gia Tường, Liên Trì, Thiên Thai… Trong tác phẩm Lược Luận An Lạc Tịnh Ðộ Nghĩa, ngài Ðàm Loan nói: ‘Kinh Vô Lượng Thọ nói người sanh về An Lạc chỉ có ba bậc: thượng, trung, hạ; kinh Quán Vô Lượng Thọ nói mỗi phẩm lại chia ra làm thượng, trung, hạ. Ba lần ba thành chín, hợp thành chín phẩm’. Tịnh Ảnh Sớ lại viết: ‘Phàm các nhân dân trong mười phương thế giới nguyện sanh cõi ấy thì có ba bậc. Gộp chung lại để nói thì như trong Quán kinh; nếu chia sơ lược thì có ba bậc, chia tỉ mỉ thì thành ra chín’. Ngài Gia Tường cũng viết trong Quán Kinh Sớ như sau: ‘Kinh Vô Lượng Thọ chỉ nói ba bậc, còn trong kinh đây (chỉ kinh Quán Vô Lượng Thọ) chia ba bậc thành chín bậc. Ba bậc là thượng, trung, hạ. Chín bậc là thượng phẩm có ba; trung, hạ cũng có ba nên thành chín bậc’. Ngài Cảnh Hưng cũng bảo: ‘Do chín phẩm trong kinh kia (Quán kinh) gộp lại thành ba bậc trong kinh này nên giáo nghĩa dạy trong hai kinh chẳng khác nhau’. Ngài Liên Trì lại bảo: ‘Ba bậc, chín phẩm phù hợp khít khao với nhau, nào còn ngờ chi!’ Trong Quán Kinh Sớ, ngài Thiên Thai cũng bảo: ‘Chín phẩm trong kinh này (Quán kinh) chỉ là để cho biết địa vị cao hay thấp, chúng chính là ba bậc trong Ðại kinh’.

b. Phái chủ trương các bậc, phẩm nói trong hai kinh là khác nhau thì có các vị như Linh Chi, Cô Sơn… Ngài Linh Chi bảo ba bậc trong Ðại kinh chỉ tương ứng với thượng phẩm của Quán kinh chứ không dính dáng gì đến sáu phẩm kia vì trong trung phẩm và hạ phẩm không nói đến việc phát Bồ Ðề tâm. Quan điểm của ngài Cô Sơn thoáng hơn; ngài cho rằng ba bậc trong kinh này chỉ tương ứng với thượng phẩm và trung phẩm, chứ chẳng thuộc ba phẩm hạ vì: người vãng sanh thuộc ba bậc trong kinh này đều là thiện nhân; còn người thuộc ba phẩm hạ trong Quán kinh đều là ác nhân, lúc lâm chung sám hối niệm Phật nên được vãng sanh. Vì vậy, các vị trên đều cho rằng chẳng thể phối hợp các phẩm loại của hai kinh này với nhau.

Trong tác phẩm Sớ Sao, Liên Trì đại sư đã dung hội các thuyết trên như sau:

‘Sách Thảo Am Phụ Chánh Giải bảo: “Ngài Thiên Thai coi chín phẩm giống với ba bậc là vì xét theo thứ bậc mà nói chứ chẳng xét trên nhân hạnh mà bàn. Ý các vị như Cô Sơn, Linh Chi chẳng trái nghịch ý ngài Thiên Thai, vì sao vậy? Do ngài Thiên Thai phán định trên phương diện thứ bậc nên ba bậc và chín phẩm tương đồng. Hai vị đại sư lại chỉ xét trên nhân hạnh nên ba bậc chỉ tương ứng với trung, thượng phẩm. Mỗi bên có cơ sở lập luận riêng nên giáo nghĩa chẳng đồng. Do vậy, ý kiến các ngài chẳng trái nghịch nhau”.

Dựa trên Thật Ðế mà luận thì phiền não khác gì Bồ Ðề, sự ác lúc ban đầu nào trở ngại sự lành lúc chung cục. Ác nhân đã thành thiện thì lẽ đâu chẳng xếp vào hàng hiền thánh. Ba bậc chín phẩm thật phù hợp khít khao với nhau há còn ngờ chi’.

Quan điểm dung thông của ngài thật khế hợp pháp yếu bởi vì chủ trương phối hợp hai kinh với nhau của những vị như Thiên Thai v.v… là chú trọng vào địa vị sau khi vãng sanh, chẳng luận đến sự hành trì khi còn tu nhân; các vị như ngài Linh Chi v.v… coi hai kinh khác nhau vì chú trọng về mặt hành trì khi tu nhân nên mới xét đến việc chưa từng phát Bồ Ðề tâm lẫn hành vi thiện ác lúc bình thời. Do vậy, [hai vị cho rằng] ba phẩm hạ trong Quán kinh chẳng tương ứng với bậc hạ nói trong kinh này.

Trong đoạn văn trên của ngài Liên Trì, câu cuối: ‘Sự ác lúc ban đầu nào trở ngại sự lành lúc chung cục’ khế hợp thánh tâm rất sâu xa. Kẻ ác lúc lâm chung nếu có thể sám hối phát tâm, chí tâm niệm Phật thì kẻ ác đã thành người lành nên cũng được Phật nhiếp thọ, tùy nguyện vãng sanh. Do vậy, Liên Trì đại sư mới bảo: ‘Lẽ đâu chẳng xếp vào hàng hiền thánh’ đồng lên Cực Lạc. Do những điều trên ta thấy: ba bậc trong kinh này và chín phẩm trong kinh kia thật tương ứng với nhau chẳng còn ngờ gì nữa.

Sách Báo Ân Luận cũng nói: ‘Bậc thượng trong kinh này tương ứng với người xuất gia, hai bậc trung, hạ tương ứng với người tại gia. Do có quá nhiều phẩm loại nên chỉ đại lược nêu lên một cách tổng quát: “Nói chung có ba bậc”. Với ba bậc ấy, Quán kinh cũng tạm tách sơ lược thành chín phẩm. Kinh lại nêu hạng cực ưu và cực giáng để bao quát vô lượng nhân hạnh sai khác’.

Lời bàn này cực hay. Trong Quán kinh, có người chỉ trong khoảng búng ngón tay liền được vãng sanh, gặp Phật nghe pháp, liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn, trong khoảnh khắc đến phụng sự khắp các chư Phật, lần lượt được thọ ký, trở về nước mình, đắc vô lượng trăm ngàn đà ra ni môn. Ðấy chính là hạng cực ưu (ưu thắng nhất) trong ba phẩm.

Kẻ hạ hạ phẩm là hạng ngũ nghịch, thập ác. Khi tướng địa ngục hiện, lâm chung sám hối, mười niệm được vãng sanh là hạng cực giáng (thấp nhất) trong bậc hạ.

Quán kinh nêu lên hạng tối ưu cũng như bậc tối hạ nên luận mới nói: ‘Nêu lên hạng cực ưu và cực giáng’. Thoạt nhìn, dường như hai kinh khác nhau, nhưng thật ra ý chỉ của chúng lại tương đồng.

Chánh kinh: Bậc thượng là hạng bỏ nhà, lìa dục, làm sa môn, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật, tu các công đức nguyện sanh cõi kia. Những chúng sanh ấy lúc tuổi thọ sắp hết, A Di Ðà Phật và các thánh chúng hiện ra trước mặt. Trong khoảnh khắc liền theo đức Phật sanh về cõi kia, lại tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại.

A Nan! Do vậy, nếu có chúng sanh nào muốn trong đời này được thấy A Di Ðà Phật thì phải phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, lại nên chuyên nghĩ đến cõi nước Cực Lạc, thiện căn đã tích tập nên đem hồi hướng. Do đó, được thấy Phật, sanh trong cõi kia, đắc bất thối chuyển cho đến thành Vô Thượng Bồ Ðề.

Giải: Phàm phu có được dự phần vào bậc thượng vãng sanh hay không là một vấn nạn lớn trong Tịnh tông.

Cổ đức có vị bảo đây là hạnh Bồ Tát (như có thuyết bảo thượng thượng phẩm phải là Bồ Tát từ Tứ Ðịa đến Thất Ðịa, thượng trung phẩm phải là từ Sơ Ðịa đến Tứ Ðịa Bồ Tát; các phẩm khác cứ theo đó mà suy. Phàm phu chỉ có thể đạt từ trung phẩm trung sanh trở xuống mà thôi!). Nếu thật như vậy thì đại nguyện vô thượng của Phật Di Ðà, cõi sen Tây Phương độc diệu, pháp môn trì danh dễ hành, diệu pháp vãng sanh thù thắng đều thành hý luận, khiến cho diệu pháp Tịnh tông chẳng thể nghĩ bàn lại thành ra pháp có thể nghĩ bàn nổi ư! Vì vậy, đây chính là một điều cốt lõi của Tịnh Tông; trong phần khái yếu của bản chú giải này tôi đã tạm bàn đôi điều nhưng chưa giãi bày hết nổi ý chỉ này nên ở đây tôi lại thử trình bày rõ hơn.

Với cái sai lầm của cổ thuyết, chúng ta may mắn có được đại sư Thiện Ðạo đời Ðường. Ngài đã dẫn đủ các kinh luận để cực lực đả phá cựu thuyết. Trong Tứ Thiếp Sớ, đại sư đã luận như sau:

‘Lại xem phần Ðịnh Thiện trong Quán kinh và ý nghĩa kinh văn ba bậc thượng, trung, hạ thì toàn là sau khi đức Phật nhập diệt, phàm phu ngũ trược chỉ do gặp duyên sai khác nên đến nỗi có chín phẩm sai biệt.

Vì sao? Người trong ba phẩm trên là phàm phu gặp duyên Ðại Thừa. Người trong ba phẩm giữa là phàm phu gặp duyên Tiểu Thừa. Người trong ba phẩm hạ là phàm phu ngu ác, ác nghiệp, lúc lâm chung nhờ bạn lành, nương nguyện lực của Phật bèn được vãng sanh; đến khi hoa kia nở thì mới phát tâm, chứ phải đâu là người mới học Ðại Thừa (cổ đức bảo bậc hạ là người mới học Ðại Thừa). Nếu hiểu như thế thì mình lầm, làm người khác lầm, tai hại quá sức!’.

Trong bản sớ giải, ngài còn dẫn mười đoạn Quán kinh để chứng minh luận thuyết ấy, ở đây tôi không trích dẫn đủ. Chín phẩm đài sen cõi Cực Lạc đều là nơi để phàm phu đời trược vãng sanh, chỉ do người đời gặp duyên có Ðại Thừa, Tiểu Thừa sai khác nên sau khi vãng sanh bèn có bậc thượng, bậc trung, bậc hạ bất đồng.

Tịnh tông là giáo pháp tối cực viên đốn. Nếu phàm phu thuộc căn khí Ðại Thừa tin nhận được nổi thì sẽ giải ngộ trọn vẹn, tu chứng trọn vẹn thì sẽ vượt xa thường nhân cả kiếp (người căn cơ viên đốn tu một ngày bằng thường nhân tu một kiếp). Do đó, họ có thể ngay trong một đời công hạnh viên mãn chứng ngay thượng phẩm.

Nay với bản kinh này, tôi dùng các luận khác để chứng minh ba bậc vãng sanh thật sự là vì phàm phu mà chỉ kiêm vì thánh nhân:

* Phẩm Quyết Thành Chánh Giác trong kinh này có những câu kệ như sau:

‘Khiến các quần sanh ấy, đêm dài không ưu não, xuất sanh các thiện căn, thành tựu Bồ Ðề quả. Nếu tôi thành Chánh Giác, lập hiệu Vô Lượng Thọ. Chúng sanh nghe hiệu ấy, đều sanh trong nước tôi, thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn’.


Bốn câu đầu nói lên nguyên do phát khởi đại nguyện: muốn cho hết thảy chúng sanh trong đêm dài tăm tối được lìa các ưu bi khổ não, xuất sanh căn lành thành tựu Bồ Ðề. Ta thấy rõ ngài thật sự muốn cứu tế khắp hết thảy những phàm phu đầy rẫy phiền não còn trong đêm dài tăm tối, khiến cho họ phát sanh thiện căn.

Bốn câu kệ kế tiếp nói đến pháp ngài dùng để phổ độ: ‘Chúng sanh nghe danh sanh trong nước ta’. Các chúng sanh ấy cũng chính là quần sanh còn trong đêm dài ưu não. Bởi vậy, Thiện Ðạo đại sư mới bảo: ‘Ba bậc chín phẩm toàn là vì bọn phàm phu ngũ trược sau khi Phật nhập diệt’.

Hai câu kệ cuối cùng: ‘Thân sắc vàng như Phật, diệu tướng đều viên mãn’ cho thấy phàm phu ưu não một khi đã sanh cõi kia thì đều được chơn thân kim sắc, diệu tướng viên mãn đầy đủ giống như Phật.

Tiếp đó, kinh còn nói: ‘Cũng dùng tâm đại bi, lợi ích các quần phẩm. Ly dục, chánh niệm sâu, tịnh huệ tu phạm hạnh’, ý nói: những người vãng sanh khi hoa nở thấy Phật, thân tâm thanh tịnh ngay, trí huệ bén nhạy, đại bi vô lượng, tự giác, giác tha thành tựu Bồ Ðề. Ðấy đều là do sức oai thần, sức bổn nguyện, nguyện trọn đủ, nguyện rõ ràng, kiên cố, rốt ráo của A Di Ðà Phật nên mới có thể khiến cho phàm phu trong đêm dài ưu não đắc trí huệ thanh tịnh, thân tâm như Phật.

Rõ ràng là phàm phu mang tâm Ðại Thừa trong cõi này được Phật gia bị bèn vãng sanh trong thượng phẩm, đắc Vô Sanh Nhẫn thì có chi là lạ? Ngay câu đầu trong bài kệ tụng phát nguyện, tỳ kheo Pháp Tạng đã bảo:‘Tôi lập siêu thế chí’; những điều vừa nói trên chính là chỗ siêu thế, lẽ nào lại đem thói thường của mười phương để luận bàn phẩm vị cõi Cực Lạc ư?

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Sao còn bảo: ‘Ngài Cảnh Hưng bảo rõ ba bậc chín phẩm là phàm phu vãng sanh nên ngài giảng rằng: “Một là phàm tiểu vãng sanh, hai là đại thánh vãng sanh”. Chữ “phàm tiểu” chỉ ba bậc [vãng sanh]’.

Sách Du Tâm An Lạc Ðạo cũng viết: ‘Lại nữa, bốn mươi tám nguyện trước hết là vì hết thảy pháp phàm phu, rồi mới kiêm vì tam thừa thánh nhân. Do vậy, phải biết ý chỉ của tông Tịnh Ðộ là “vốn vì phàm phu, kiêm vì thánh nhân”.

Hơn nữa, ngay trong câu đầu của phẩm này đã bảo: ‘Nói chung, chư thiên, nhân dân trong mười phương thế giới chí tâm nguyện sanh cõi kia thì gồm có ba bậc’. Kinh nói cả ba bậc chỉ là chư thiên, nhân dân trong mười phương, chẳng hề nói họ là Bồ Tát hay Thanh Văn. Như vậy, ba bậc được nêu trong kinh này trước hết là nhắm đến phàm phu, nhưng trong kinh cũng nói kèm đến thánh nhân như phẩm Bồ Tát Vãng Sanh nói các hàng Bồ Tát trong mười phương thế giới ‘sẽ được vãng sanh; nếu chỉ nêu danh hiệu của họ thì hết cả kiếp cũng chẳng hết nổi’.

‘Bỏ nhà, lìa dục, làm sa môn’: ‘Bỏ nhà’ là xuất gia, ‘làm sa môn’ là trở thành Tăng. Tỳ Bà Sa Luận nói: ‘Nhà là nhân duyên phiền não. Xuất gia là để diệt cấu lụy nên phải xa lìa [nhà cửa]’. Huyền Uẩn pháp sư cũng bảo: ‘Xuất gia tạo ác rất khó như thuyền lướt trên đất; tại gia gây lỗi thật dễ như thuyền buồm trôi trên biển. Lại nữa, xuất gia tu đạo dễ dàng như thuyền buồm bơi trên biển; tại gia tu phước thật khó như thuyền đi trên cạn. Nhưng có kẻ tâm xuất gia mà thân chẳng xuất gia, có kẻ thân xuất gia tâm chẳng xuất gia. Nay cả thân lẫn tâm đều phải xuất gia nên mới bảo “bỏ nhà, lìa dục”.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận cũng bảo: ‘Hết thảy chúng sanh do khát ái nên có huyễn thân. Do huyễn thân nên có cõi nước. Bỏ nhà lìa dục thì khát ái thanh tịnh nên cõi nước cũng thanh tịnh.

Kinh Ðại Bát Nhã nói: “[Nếu] Bồ Tát Ma Ha Tát lòng ham muốn mình sẽ đến được các cõi nước Phật thì phải nên viễn ly hạnh tại gia”’. Như vậy, xuất gia là chánh nhân Tịnh Ðộ vì viễn ly bất tịnh’.

Trong sách Du Tâm An Lạc Ðạo, đại sư Hải Ðông Nguyên Hiểu đời Ðường đã viết:

‘Kinh Vô Lượng Thọ nói đến nhân [vãng sanh] của ba bậc. Bậc thượng gồm năm câu:

a. Một là “bỏ nhà lìa dục trở thành sa môn”. Câu này chỉ rõ phương tiện phát khởi chánh nhân.

b. Hai là “phát Bồ Ðề tâm”, đấy chính là chánh nhân.

c. Ba là «chuyên niệm đức Phật kia». Ðấy là tu quán.

d. Bốn là ‘làm các công đức’, đấy là khởi hạnh. Quán và hạnh để trợ giúp cho nghiệp được viên mãn (Sư Nguyên Hiểu coi Niệm Phật là trợ nghiệp; thuyết này chưa ổn, trong phần bàn về tông thú kinh, chúng ta đã bàn, ở đây không nhắc lại).

e. Năm là ‘nguyện sanh cõi kia’. Ðây chính là nguyện, bốn điều trên là hạnh. Hạnh nguyện hòa hợp mới được vãng sanh’.

Trong phần trên, Khởi Tín Luận đã bảo xuất gia là chánh nhân của Tịnh Ðộ, Nguyên Hiểu đại sư lại coi xuất gia chỉ là phương tiện để phát khởi chánh nhân. Hai thuyết hơi khác nhau, nhưng xét ra thuyết của ngài Nguyên Hiểu ổn đáng hơn!

Xét theo Quán kinh, trong cả ba phẩm thượng chẳng thấy nói phải xuất gia ; riêng trong phần trung phẩm thượng sanh có bảo ‘tu hành các giới’, trung phẩm trung sanh có nói: ‘Nếu một ngày một đêm trì giới Sa Di, hoặc một ngày một đêm trì Cụ Túc giới’. Trong cả chín phẩm của kinh ấy, chỉ mỗi hai phẩm trên nói rõ là xuất gia. Riêng kinh này khác hẳn, trong bậc thượng bảo là xuất gia, trong bậc trung lại bảo ‘chẳng thể hành hạnh sa môn’. Ấy là do chúng sanh cơ duyên vô lượng sai khác, sự tu hành lúc còn tu nhân cũng thiên sai vạn biệt, mỗi người mỗi khác chẳng ai giống nhau.

Tôi trộm nghĩ: kinh chỉ phân chia các phẩm vị một cách sơ lược để giảng sơ về thứ bậc; đây chỉ là tùy bịnh cho thuốc, tùy cơ thuyết pháp nên chúng ta chẳng nên câu nệ một chiều, chết cứng nơi văn tự.

Tôi trộm đoán rằng trong pháp hội Vô Lượng Thọ, ngài A Nan là đương cơ, lại có một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo, năm trăm vị tỳ kheo ni hiện diện. Các bậc đại đức xuất gia như vậy đều đáng dự vào hạng vãng sanh bậc thượng.

Vả lại, kinh này chính là bộ kinh đệ nhất của Tịnh tông nên những điều dạy trong kinh này đều là khuôn phép chánh tông: Bậc xuất gia tu được vãng sanh bậc thượng là chuyện thường tình nên đức Phật thuận theo nhân duyên ấy mà nói người vãng sanh trong bậc thượng là bậc xuất gia, lìa dục, tu hạnh sa môn.

Quán kinh khác hẳn kinh này: Ðương cơ trong pháp hội ấy là Vy Ðề Hy phu nhân, A Nan và Mục Liên chỉ đứng hầu hai bên đức Phật; Thích, Phạm chư thiên đứng trên không đổ mưa hoa [cúng dường]. Trong hội chỉ có hai vị A Nan và Mục Liên là bậc tỳ kheo đại quyền thị hiện, không có bậc xuất gia nào khác. Trong pháp hội, bậc đương cơ nghe pháp và hàng vãng sanh bậc thượng chủ yếu là những người tại gia như Vy Ðề Hy phu nhân… nên Phật ứng theo cơ duyên ấy chẳng nói đến chuyện xuất gia trong phần giảng về thượng phẩm vãng sanh.

Quán kinh cũng dạy: ‘Vy Ðề Hy và năm trăm thị nữ nghe lời Phật dạy, ngay lập tức thấy được tướng rộng lớn của thế giới Cực Lạc, được thấy thân Phật và thân hai vị Bồ Tát, tâm sanh hoan hỉ, khen là chưa từng có, hốt nhiên đại ngộ, đạt Vô Sanh Nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề, nguyện sanh cõi kia. Ðức Thế Tôn đều thọ ký họ sẽ được vãng sanh. Sanh trong nước ấy rồi sẽ đắc Chư Phật Hiện Tiền tam muội. Vô lượng chư thiên phát Vô Thượng Ðạo Tâm’.

Ta thấy rõ, trong pháp hội Quán kinh, bậc đương cơ toàn là căn khí Ðại thừa, lại đều là hạng tại gia phát tâm. Những người như thế chắc chắn là hạng vãng sanh trong bậc thượng.

Vả lại, Vy Ðề Hy phu nhân chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn ngay trong hiện đời nên ắt phải thuộc bậc thượng phẩm thượng sanh nơi cõi Cực Lạc. Vy Ðề Hy là phụ nữ tại gia lại chứng đắc pháp nhẫn ngay trong hiện đời, thượng phẩm vãng sanh đủ chứng tỏ người vãng sanh trong bậc thượng chẳng phải chỉ hạn cuộc trong hạng xuất gia, cũng như chứng tỏ diệu pháp Tịnh tông phá tan mọi quy cách, chí viên, cực đốn chẳng thể nghĩ bàn.

Hơn nữa, sách Báo Ân Luận có nói: ‘Ông Lưu Di Dân ba lượt thấy Phật, [được ngài] dùng áo phủ lên, [được] tay ngài xoa đầu, tự thấy mình thuộc về thượng phẩm, nhưng ông chẳng phải là bậc xuất gia. Với chư tổ của Liên Tông và các vị Duy Ma, Hiền Hộ v.v… hết thảy các bậc vãng sanh danh đức tăng lẫn tục, ta đều có thể dựa theo đó mà suy vậy’. Ðời Tấn, ông Lưu Di Dân hợp cùng ngài Huệ Viễn niệm Phật ở Lô Sơn, được vãng sanh trước cả ngài Huệ Viễn. Ngài Huệ Viễn lúc sắp tịch, vừa xuất định thấy A Di Ðà Phật thân chật cả hư không. Trong viên quang của ngài có các hóa Phật, Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lại thấy dòng nước tỏa quang minh chia làm mười bốn nhánh, cùng chảy lên rót xuống, diễn thuyết các âm khổ, không, vô thường, vô ngã. Phật bảo ngài Huệ Viễn: ‘Ta do bổn nguyện lực nên đến an ủi ông; sau bảy ngày nữa, ông sẽ sanh về cõi ta’. Tổ lại thấy, những vị trong Liên Xã đã vãng sanh trước như các vị: Phật Ðà Da Xá, Huệ Trì, Huệ Vĩnh, Lưu Di Dân v.v… đều đứng hầu bên Phật, bước đến bảo: ‘Sư phát tâm sớm nhưng sao về muộn thế?’ Lúc còn sống, ông Lưu Di Dân ba lượt thấy Phật; sau khi tịch theo Phật đến đón ngài Huệ Viễn. Ðấy là một chứng cớ chứng tỏ cư sĩ cũng có thể vãng sanh trong thượng phẩm.

Trong kinh Hoa Nghiêm, hàng tại gia chiếm đa số trong năm mươi ba vị thiện tri thức của Thiện Tài đồng tử. Trong Mật tông, tổ sư phái Cát Cư (Kargyupa) là cư sĩ (ngài Mã Nhĩ Ba (Marpa)). Do tổ sư là hàng bạch y nên phái ấy thường được gọi là Bạch giáo. Cư sĩ Duy Ma chính là Kim Túc Như Lai thị hiện. Mười sáu vị Hiền Hộ Chánh Sĩ đều là tại gia Bồ Tát, là thượng thủ hàng Bồ Tát trong hội này. Do vậy, ta chớ nên chấp vào tướng tại gia hay xuất gia mà sanh phân biệt!

Kinh này bảo thượng phẩm vãng sanh là hạng xuất gia, lìa dục; Quán kinh chẳng hề nói thượng phẩm vãng sanh phải là xuất gia. Vy Ðề Hy phu nhân là nữ nhân tại gia lại được thượng phẩm vãng sanh; năm trăm thị nữ cũng thượng phẩm vãng sanh.

Thật ra, hai kinh chẳng hề mâu thuẫn với nhau vì Vy Ðề Hy phu nhân đã mang tâm xuất gia. Ví dụ như ở Trung Hoa, phương Nam coi gạo là thực phẩm chủ yếu, phương Bắc coi lúa mì là thực phẩm chính. Gạo, mì tuy khác nhưng đều có công dụng làm thực phẩm chủ yếu nên cũng như nhau. Vì vậy, người tại gia mang tâm xuất gia cũng có thể sanh trong thượng phẩm.

Trong Quán kinh, sau bậc thượng phẩm, trung trung phẩm là người xuất gia; kinh Vô Lượng Thọ dạy người tại gia cũng có thể sanh trong phẩm này. Phối hợp cả hai kinh ta mới dễ nhận ra ý nghĩa chơn thật. Vì vậy, phải nên khéo hiểu thánh tâm, chớ đừng chấp chết cứng vào văn tự. Nếu hiểu câu ‘bỏ nhà, lìa dục’ là chú trọng tại tâm xuất gia thì ý chỉ cả hai kinh thật chẳng sai khác.

Câu ‘phát Bồ Ðề tâm, một dạ chuyên niệm A Di Ðà Phật’ chính là cương lãnh của toàn bộ kinh này. Câu này đã được bàn tỉ mỉ trong phần nói về tông thú. Sách Di Ðà Yếu Giải coi ‘tín, nguyện, trì danh’ là tông của kinh Tiểu Bổn; bản chú giải này lại dùng ‘phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm’ làm tông, nhưng vẫn cùng một ý chỉ. Tín - nguyện chính là một trong ba tâm nói trong Quán kinh: một là chí thành tâm, hai là thâm tâm, ba là hồi hướng phát nguyện tâm. Theo Tứ Thiếp Sớ:

a. Chí thành tâm là chơn thật tâm,

b. Thâm tâm là thâm tín tâm. Thâm tín tâm có hai điều:

- Một là tin quyết định một cách sâu xa rằng thân mình hiện tại là phàm phu tội ác, từ bao kiếp đến nay thường chìm đắm, lưu chuyển chẳng có duyên gì để xuất ly.

- Hai là tin quyết định một cách sâu xa rằng bốn mươi tám nguyện của đức Phật A Di Ðà nhiếp thọ chúng sanh không còn lo âu, ngờ vực gì. Nương theo nguyện lực của ngài, quyết định được vãng sanh.

c. Hồi hướng phát nguyện tâm là từ trong tâm tin tưởng sâu xa chơn thật, đem hết thảy thiện căn đã tu hồi hướng nguyện sanh cõi kia.


Do đó, ta thấy rằng ‘tín nguyện’ sách Yếu Giải nói đó chính là ba tâm của Quán kinh, mà ba tâm của Quán kinh lại chính là Bồ Ðề tâm nói trong kinh này. ‘Phát Bồ Ðề tâm’ nói trong kinh này chính là ‘tín nguyện’ nói trong Di Ðà Yếu Giải. Hơn nữa, ‘một bề chuyên niệm’ chính là Trì Danh. Do hai bản Ðại, Tiểu A Di Ðà kinh nguyên lai chỉ là một kinh nên tông của hai kinh ắt phải đồng nhất.

Trong phần giảng về tông thú đã giảng kỹ về ‘phát Bồ Ðề tâm’ nên ở đây chẳng bàn nhiều. Tôi chỉ trích vài đoạn trong phần luận về Bồ Ðề tâm của An Lạc Tập để độc giả tham khảo thêm. An Lạc Tập do ngài Ðạo Xước soạn, bàn luận những điểm rất tinh yếu.

Dưới đây tôi sẽ trích nguyên văn, có chú giải đôi chút nhằm giảng rõ phần nào lời luận. Ðạo Xước đại sư đã lập ra bốn điều nghị luận quanh việc phát Bồ Ðề tâm:

* Một là bàn về công dụng của Bồ Ðề tâm. Sách An Lạc Tập viết:

‘Thứ nhất là nêu lên công dụng của Bồ Ðề tâm. Ðại Kinh bảo phàm muốn vãng sanh Tịnh Ðộ thì phải lấy Bồ Ðề tâm làm gốc. Vì sao?

Bồ Ðề chính là tên gọi của Vô Thượng Phật Ðạo. Nếu muốn phát tâm làm Phật thì tâm ấy rộng lớn trùm khắp pháp giới. Tâm ấy rốt ráo, ngang với hư không. Tâm ấy lâu xa đến cùng tận đời vị lai. Tâm ấy trọn khắp, lìa nhị thừa chướng.

Nếu phát được tâm ấy thì khuynh đảo được sanh tử vô thỉ và trầm luân trong các cõi. Ðem tất cả công đức hồi hướng Bồ Ðề thì đều có thể đạt tới Phật quả, chẳng bị diệt mất’.

Tôi xin tạm giải thích thô thiển như sau: Trước hết, luận dẫn Ðại kinh để nói lên công dụng của Bồ Ðề tâm. Ðại kinh chính là kinh Vô Lượng Thọ. Các vị Tịnh Ảnh, Ðạo Xước, Thiện Ðạo đều gọi kinh Vô Lượng Thọ là Ðại kinh; ngài Thiên Thai gọi là Ðại Bổn.

Tâm Bồ Ðề chính là cái gốc để vãng sanh Tịnh Ðộ. Nếu chẳng phát được tâm này thì dẫu cứ siêng tu nhưng cũng khác nào nước chẳng có nguồn, cây không có cội nên trọn chẳng thể vãng sanh được. Từ chữ ‘cớ sao’ trở đi là lời giải nghĩa.

Bồ Ðề nghĩa là Giác. Vô Thượng Giác chính là Phật. Vì vậy, Bồ Ðề là danh xưng khác của Vô Thượng Phật Ðạo. ‘Phát tâm làm Phật’ nghĩa là phát khởi cái tâm ‘tâm này làm Phật, tâm này là Phật’.

Phát khởi được tâm như thế thì ta vốn đã là Phật, cái tâm ‘làm Phật’ này vốn sẵn đã là cái tâm ‘là Phật’ nên luận nói tiếp: tâm này ‘rộng lớn’; về chiều dọc thì suốt cả ba đời, về chiều ngang thì trọn khắp hư không. ‘Rốt ráo’ là chơn tế rốt ráo, là tột cùng của nguồn pháp. Chữ ‘lâu xa’ diễn tả tâm ấy sáng suốt, lặng lẽ, chơn thường, vĩnh viễn thoát khỏi sanh diệt. ‘Trọn khắp’ là đầy đủ hết thảy, không thiếu, không dư. Tâm như vậy có công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Nếu phát được tâm ấy thì có thể dẹp sạch mối sanh tử từ vô thỉ đến nay cũng như sự trầm luân trong các cõi. Nếu lại có thể đem công đức hồi hướng Bồ Ðề thì quyết định chứng được Phật quả. Tất cả công đức ấy nhất định chẳng luống uổng, cũng chẳng bị tổn thất hay diệt mất.

Lời dạy này của tổ Ðạo Xước đã chỉ thẳng vào ngay công dụng của Bồ Ðề tâm: vượt ra ngoài khả năng suy lường, hiểu biết của chúng ta, thật là vi diệu khó nghĩ bàn.

Xin lại dẫn Bồ Ðề Tâm Luận của Mật tông để chứng minh thêm; luận nói: ‘Tâm Bồ Ðề này chứa đựng hết thảy công đức của Bồ Tát. Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư cho hết thảy. Nếu quay trở về gốc thì chính là cõi nước Mật Nghiêm. Chẳng đứng dậy khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự’. Công dụng của Bồ Ðề tâm thật chẳng thể nghĩ bàn.

* ‘Thứ hai là nêu lên danh và thể của Bồ Ðề, nhưng Bồ Ðề có đến ba thứ: một là Pháp Thân Bồ Ðề, hai là báo thân Bồ Ðề, ba là hóa thân Bồ Ðề.

a. Pháp thân Bồ Ðề chính là Chơn Như, Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không, tự tánh thanh tịnh. Thể không uế nhiễm, lý xuất thiên chơn, chẳng cần phải tu thành nên gọi là Pháp Thân; là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ Ðề.

b. Báo thân Bồ Ðề là tu đủ vạn hạnh, cảm được cái quả báo thân Phật. Do quả tương ứng cái nhân nên gọi là báo thân. Viên thông vô ngại nên gọi là Bồ Ðề.

c. Hóa thân Bồ Ðề là từ báo khởi dụng, hướng đến muôn vàn căn cơ nên gọi là hóa thân, lợi ích chúng sanh một cách viên thông nên gọi là Bồ Ðề’.

Xin giải thích: Thứ hai là bàn về danh và thể của Bồ Ðề, chia ra thành Pháp, Báo, Hóa ba thân để luận.

Pháp thân Bồ Ðề chính là Chơn Như, Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không. Câu ‘tự tánh thanh tịnh, thể không nhiễm uế’ chính là như Lục Tổ bên Thiền Tông nghe câu ‘vô trụ sanh tâm’ chợt đại ngộ, bèn nói: ‘Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh’. Ý nghĩa của câu ‘lý xuất thiên chơn, chẳng cần phải tu thành’ giống như câu ‘nào ngờ tự tánh, vốn tự đầy đủ’ (‘lý xuất thiên chơn’ nghĩa là lý tự nhiên như vậy, khác nào những chơn lý hiển nhiên trong trời đất). Do vốn tự đầy đủ nên nào cần phải tu thành. Ngũ Tổ nghe nói như thế bèn trao y bát, lập ngài Huệ Năng làm Tổ thứ sáu. Ngài cũng nói: ‘Chẳng biết bổn tâm thì học pháp vô ích. Nếu biết rõ bổn tâm của chính mình, thấy tự tánh của chính mình thì đáng gọi là trượng phu, thiên nhân sư, Phật’.

Lúc ấy, đại sư Huệ Năng còn chưa xuống tóc, vẫn còn là người làm công trong chùa; một phen phát ngộ tâm này bèn thăng ngay lên địa vị tổ sư. Ðây chính là như Bồ Ðề Tâm Luận nói: ‘Nếu tu chứng xuất hiện thì làm đạo sư cho hết thảy… Chẳng đứng dậy khỏi tòa mà có thể thành tựu hết thảy Phật sự’.

Tâm Bồ Ðề vượt thoát phàm tình, công dụng khó nghĩ tưởng. Tâm tánh như vậy được gọi là Pháp Thân. Tâm tánh ấy là bản thể của Phật đạo nên gọi là Bồ Ðề.

Tiếp đó, ngài giảng về báo thân. Pháp thân vốn sẵn đủ chính là tánh đức. Có công tu đức thì tánh đức mới được hiển lộ. Vì vậy, phải tu đủ vạn hạnh, công đức trang nghiêm mới đắc báo thân Phật quả. Báo thân viên minh cụ đức, thông đạt vô ngại nên bảo là ‘viên minh vô ngại’, nên gọi là ‘báo thân Bồ Ðề’. Từ báo thân hiện ra hóa thân, tùy căn cơ mà hóa hiện, diệu dụng vô cùng nên bảo là ‘lợi ích chúng sanh một cách viên thông’ và gọi là báo thân Bồ Ðề.

* ‘Thứ ba là chỉ rõ phát tâm có sai khác. Nay nói về hành giả tu nhân phát tâm thì phải có đủ ba điều:

a. Một là cần phải hiểu thấu hữu, vô, tự tánh thanh tịnh từ xưa đến giờ.

b. Hai là duyên tu vạn hạnh, tám vạn bốn ngàn ba la mật môn v.v…

c. Ba là đại từ bi làm gốc, luôn lấy việc độ sanh làm bản hoài

Ba nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề nên gọi là phát tâm Bồ Ðề.

Lại như Tịnh Ðộ Luận (tức là Vãng Sanh Luận) bảo: «Nay phát Bồ Ðề tâm chính là tâm nguyện làm Phật. Tâm nguyện làm Phật chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh chính là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh vào cõi có Phật. Nay nguyện sanh Tịnh Ðộ thì trước hết cần phải phát Bồ Ðề tâm».

Xin giải thích: Phát tâm có sai khác nghĩa là có hai loại phát tâm:

- Trước hết, trong khi còn tu nhân cần phải phát khởi ba thứ tâm sau đây:

a. Một là cần phải hiểu thấu hữu, vô và tự tánh vốn sẵn thanh tịnh từ xưa đến nay.

Câu ‘hiểu thấu có, không’ chính là mấu chốt huyền nhiệm để giải ngộ cái tâm. ‘Vô’ chính là như những chữ ‘vô’ được nêu lên liên tục từ ‘vô nhĩ căn’ cho đến ‘vô trí diệc vô đắc’ trong Tâm kinh; và cũng giống như kinh Niết Bàn dạy: ‘Lần lượt thuận, nghịch nhập siêu thiền định như thế, lại bảo đại chúng: «Ta dùng Phật nhãn xem khắp hết thảy các pháp trong tam giới, tánh của vô minh bổn tế vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn chẳng thể được. Do gốc là không nên với cành lá đều được giải thoát. Giải thoát khỏi vô minh cho đến với lão tử đều được giải thoát. Do nhân duyên ấy, ta nay an trụ trong Thường Tịch Diệt Quang, gọi là Ðại Niết Bàn». Ðây chính là lời dạy từ bi tha thiết tối hậu của đức Thế Tôn. Ðại sư Vĩnh Minh đã nguyện trong vô lượng kiếp sẽ lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực biên chép đoạn văn trên để báo đáp từ ân.

Vô minh vốn là không nên làm gì có cành lá; hiểu vọng vốn là không nên chơn tánh tự hiển lộ. Ðó là hiểu biết nghĩa cốt yếu của chữ ‘Vô’. Còn ‘biết hữu’ là như nhà Thiền thường bảo: ‘Cần phải biết hữu thì mới đắc’. Trong Tâm Vương Minh, ngài Phó Ðại Sĩ cũng bảo: ‘Muối hòa trong nước, nước vẫn trong veo, quyết định là có nhưng chẳng thấy hình dáng. Tâm vương cũng thế: ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, thích ứng theo từng tình huống tự tại vô ngại, hoàn thành các việc’. Bài minh đã dùng thí dụ để chỉ rõ ai cũng tự có tâm vương. Tâm vương quyết định là có, tùy theo sự vật, tình huống phát huy diệu dụng nhưng chẳng thấy được hình dáng của tâm vương.

Kinh Niết Bàn còn dạy: ‘Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh’. ‘Biết hữu’ là biết có Phật tánh vậy. Sách Tâm Ðăng Lục bảo: ‘Do đó, cổ đức đều muốn ai cũng phải biết hữu. Nếu chẳng biết hữu thì toàn là hư vọng’. Trên đây tôi đã giải thích thế nào là ‘biết hữu’ và ‘biết vô’ để giảng câu ‘thấu đạt hữu, vô’.

‘Hiểu thấu’ còn có nghĩa là hiểu rõ cái tâm, thấu đạt cái gốc, hiểu rõ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh từ xưa đến nay. Tánh ấy giống như trực tâm được nói trong Ðại Thừa Khởi Tín Luận. Trực tâm là chánh niệm pháp Chơn Như.

b. Hai là ‘duyên tu vạn hạnh’, điều này tương đương với thâm tâm trong bộ luận trên: thích tu hết thảy các hạnh lành.

c. Ba là ‘đại từ bi làm gốc’ tương đương với đại bi tâm trong luận Khởi Tín: muốn dẹp tan hết nỗi khổ của chúng sanh.

Ba thứ phát tâm như vậy tương đương với ba tâm trong luận Khởi Tín nên bảo: ‘Ba nhân ấy tương ứng với Ðại Bồ Ðề’. Vì vậy, phát lên ba tâm ấy chính là phát Ðại Bồ Ðề tâm.

- Tiếp đó, ngài Ðạo Xước dẫn Vãng Sanh Luận: Bồ Ðề tâm chính là tâm nguyện thành Phật độ sanh, tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi có Phật.

Thoạt nhìn, nếu so với tâm trước thì tâm này dễ phát khởi hơn, nhưng thật ra chẳng phải như vậy. Bởi vì pháp môn Vãng Sanh Tịnh Ðộ thật là pháp khó tin. Tín tâm chưa sanh làm sao phát tâm nổi? Trong kinh A Di Ðà, mười phương chư Phật đã xưng tán đức Bổn Sư ở trong đời ngũ trược ‘nói pháp hết thảy thế gian khó tin được nổi’. Phẩm ‘Riêng lưu lại kinh này’ của kinh Vô Lượng Thọ đây cũng bảo: ‘Nếu nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì được thì đó là điều khó nhất trong các điều khó, không có gì khó hơn nổi’. Rõ ràng là tin nổi pháp môn Tịnh Ðộ đã là một điều khó khăn nhất trong các điều khó trong thế gian!

Tin được pháp khó tin này thì chính là đại trí. Thuận theo tín tâm ấy phát khởi chí nguyện thành Phật độ sanh cùng chứng Tịnh Ðộ; đó chính là tâm Bồ Ðề. Chỉ cần chơn thật tin nhận thì tự nhiên phát nổi những tâm như trên đã nói. Ðây lại chính là phương tiện thù thắng của Tịnh Tông.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Tin sâu phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Ðề’. Bởi vậy, người niệm Phật cần phải sớm sanh tín, nguyện vì đó chính là phát tâm Bồ Ðề vậy.

* ‘Thứ tư là vấn đáp, giải thích.

Hỏi: Nếu tu đủ muôn hạnh cảm được Bồ Ðề, được thành Phật quả, thì sao kinh Chư Pháp Vô Hành lại bảo: «Nếu ai cầu Bồ Ðề thì chẳng có Bồ Ðề. Người ấy cách xa Bồ Ðề như trời với đất!».

Xin giải thích: Có kẻ dựa vào kinh Chư Pháp Vô Hành dạy: Nếu ai cầu Bồ Ðề thì chẳng có Bồ Ðề để đắc, sự mong cầu ấy càng cách xa Bồ Ðề như trời cách xa đất. Nếu đã là như vậy, thì nay tại sao lại bảo phải tu vạn hạnh để đạt được quả Bồ Ðề ngõ hầu thành Phật? Dưới đây là lời đáp của tổ:

‘Chánh thể của Bồ Ðề là lý cầu vô tướng. Nay dùng tướng để cầu thì chẳng đúng với thật lý nên bảo là người ấy xa cách. Vì vậy, kinh dạy chẳng thể dùng tâm, chẳng thể dùng thân để đắc Bồ Ðề’.

Xin giải thích: Bản tánh chơn chánh của Bồ Ðề khế hợp với lý nên không có hết thảy tướng. ‘Lý’ là thật tế lý thể, cũng chính là Chơn Như Thật Tướng. Hành nhân nếu dùng tướng để cầu, ý mong cầu quả Bồ Ðề và có pháp để cầu Bồ Ðề thì đều là pháp chấp, đều là tạo tướng nên tự xa lìa thật tế lý thể. Do vậy, mới bảo là ‘chẳng đúng với thật lý’. Vì vậy, người ấy xa cách Bồ Ðề.

‘Nay tuy biết tu hành cầu vãng sanh, hiểu biết rõ ràng lý thể là vô cầu, nhưng chẳng hoại giả danh nên tu đủ các hạnh. Do đó, sẽ cảm được Bồ Ðề. Vì vậy, Trí Ðộ Luận bảo: «Nếu ai thấy Bát Nhã là bị trói buộc. Nếu ai chẳng thấy Bát Nhã thì cũng bị trói buộc. Nếu ai thấy Bát Nhã thì được giải thoát, nếu ai chẳng thấy Bát Nhã thì cũng được giải thoát». Long Thọ Bồ Tát giảng: «Nếu ở trong ấy mà chẳng lìa được tứ cú (4) thì bị trói buộc. Lìa tứ cú thì được giải thoát». Nay muốn cầu Bồ Ðề thì chỉ nên tu hành như thế, ấy chính là chẳng hành mà hành. Chẳng hành mà hành là chẳng trái nghịch đại đạo lý Nhị Ðế’.

Xin giải thích: Chẳng hành mà hành chính là vô cầu mà cầu. Tuy biết lý thể là vô cầu, Bồ Ðề chẳng thể đắc nhưng vẫn tu đủ vạn hạnh để cảm Bồ Ðề, khéo khế hợp với Trung Ðạo nên có thể cảm ứng, khế hợp.

Tiếp đó, sách An Lạc Tập dựa vào Tịnh Ðộ Luận đề xướng: phàm muốn phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề thì trước hết phải xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn:

‘Một là môn nương vào trí huệ, chẳng cầu tự vui do xa lìa ngã tâm, tham chấp tự thân.

Hai là môn nương vào từ bi, dẹp khổ cho hết thảy chúng sanh do xa lìa tâm chẳng an lạc chúng sanh.

Ba là môn nương vào phương tiện, tâm thương xót hết thảy chúng sanh do xa lìa tâm cung kính, cúng dường thân mình.

Ðó gọi là xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn’.

Xin giải thích: Ba thứ pháp trái nghịch được nói trong luận chính là: một là ‘ngã tâm, tham chấp tự thân’, hai là ‘tâm không an lạc chúng sanh’, ba là ‘tâm cung kính cúng dường tự thân’. Cần phải xa lìa ba tâm này.

Sách An Lạc Tập viết tiếp: ‘Bồ Tát xa lìa ba pháp trái nghịch Bồ Ðề môn như thế liền đắc ba pháp tùy thuận Bồ Ðề môn. Những gì là ba?

a. Một là Vô Nhiễm Thanh Tịnh tâm do chẳng vì thân mình cầu các sự vui. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh vô nhiễm, nếu vì tự thân cầu sự vui thì trái nghịch với Bồ Ðề môn. Do đó, tâm vô nhiễm thanh tịnh là tùy thuận Bồ Ðề môn.

b. Hai là An Thanh Tịnh tâm vì dẹp trừ hết thảy khổ cho chúng sanh. Bồ Ðề là chốn thanh tịnh an ổn hết thảy chúng sanh; nếu chẳng khởi tâm làm cho hết thảy chúng sanh được lìa cái khổ sanh tử thì trái nghịch với Bồ Ðề môn. Do vậy, dẹp hết thảy nỗi khổ của chúng sanh là tùy thuận Bồ Ðề môn.

c. Ba là Lạc Thanh Tịnh tâm vì muốn cho hết thảy chúng sanh đắc đại Bồ Ðề, vì để nhiếp thủ chúng sanh sanh về cõi Phật ấy. Bồ Ðề là chốn thường vui một cách rốt ráo. Nếu chẳng làm cho hết thảy chúng sanh được hưởng cái vui rốt ráo thì trái nghịch với Bồ Ðề môn.

Nương vào đâu để đạt được cái vui rốt ráo ấy? Cần phải nương vào Ðại Nghĩa Môn. Ðại Nghĩa Môn chính là cõi Phật An Lạc. Vì vậy, ta phải làm cho hết thảy chúng sanh chuyên chí nguyện sanh cõi kia, muốn cho họ chóng chứng Vô Thượng Bồ Ðề’.

Trên đây, trong lời luận về pháp trái nghịch và tùy thuận Bồ Ðề môn, thật ra ngài Ðạo Xước đã chỉ rõ sự sai khác giữa những pháp tùy thuận và trái nghịch với phát tâm. Hễ đã phát tâm thì phải tu Tịnh nghiệp, thường phải nên lãnh hội rốt ráo, chớ tự trái nghịch Bồ Ðề môn, trái nghịch bổn nguyện, tự mình chướng ngại việc vãng sanh của chính mình.

Với tông chỉ ‘một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật’, sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Trong hết thảy phương tiện, tìm lấy pháp thẳng chóng nhất, pháp viên đốn nhất thì không có gì bằng pháp niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ. Lại trong hết thảy pháp niệm Phật, tìm lấy pháp giản dị nhất, pháp ổn đáng nhất thì không gì bằng tín nguyện, chuyên trì danh hiệu’.

Sách còn viết: ‘A Di Ðà Phật là vạn đức hồng danh. Dùng danh hiệu để chiêu cảm vạn đức thì không công đức nào là chẳng đạt được. Do đó, chấp trì danh hiệu là chánh hạnh, chẳng cần phải tu các hạnh: quán tưởng, tham cứu v.v…thật rất giản dị, rất thẳng chóng’.

Sách Viên Trung Sao cũng nói: ‘Kinh này dạy kẻ phàm phu sơ tâm chỉ cần có miệng xưng niệm được, có tâm để tưởng niệm được thì đều tu được. Vì vậy kinh này dạy ra pháp môn hết sức đơn giản, hết sức dễ dàng vậy’, ‘nếu chấp trì danh hiệu thì chẳng luận bận, rảnh, chẳng kể động, tịnh, đi, đứng, nằm, ngồi đều tu được cả. Do vậy kinh này dạy ra pháp môn hết sức thẳng tắt vậy’ và: ‘Pháp xưng danh chẳng lựa hiền, ngu, chẳng phân biệt nam, nữ, dù giầu hay nghèo, dẫu sang hay hèn cũng đều tu được. Vì vậy kinh này chỉ ra pháp môn nhiếp trọn các căn cơ hết sức rộng lớn vậy’.

Sách Du Tâm An Lạc Ðạo cũng nói: ‘Danh hiệu chư Phật do vạn đức chung đúc thành. Chỉ cần niệm được danh hiệu một đức Phật thì trong một niệm ấy đã niệm đủ vạn đức’ và: ‘Vô thỉ ác nghiệp từ vọng tâm sanh, công đức niệm Phật từ chơn tâm khởi. Chơn tâm như mặt trời, vọng tâm như bóng tối. Chơn tâm vừa khởi, vọng tâm liền mất như mặt trời vừa mọc, các sự tối tăm đều tiêu’.

Sách An Lạc Tập còn dẫn kinh Quán Phật Tam Muội như sau:

‘Phật khuyên phụ vương hành Niệm Phật tam muội. Phụ vương bạch Phật:

- Quả đức của Phật địa là Chơn Như Thật Tướng, Ðệ Nhất Nghĩa Không, sao Phật chẳng dạy đệ tử hành theo?

Phật bảo phụ vương:

- Quả đức của chư Phật có vô lượng cảnh giới thâm diệu, thần thông giải thoát, chẳng phải là cảnh giới của phàm phu hành nổi nên Phật khuyên phụ vương hành Niệm Phật tam muội.

Phụ vương bạch Phật: ‘Công năng của niệm Phật ra sao?’

Phật bảo: - Như giữa cánh rừng y lan rộng đến bốn mươi do tuần, có một cây ngưu đầu chiên đàn tuy đã bén rễ, nảy mầm, nhưng chưa trồi lên khỏi mặt đất, rừng y lan chỉ có mùi thối không thơm tho gì. Nếu có kẻ nào ăn phải hoa quả của cây y lan sẽ phát cuồng mà chết. Lúc sau, mầm cây chiên đàn dần dần tăng trưởng, vừa sắp mọc thành cây thì mùi thơm đã ngào ngạt, đủ sức biến đổi cả khu rừng đó thành ra thơm ngát cả. Chúng sanh trông thấy sanh lòng hy hữu.

Phật bảo phụ vương:

- Tâm niệm Phật của hết thảy chúng sanh trong sanh tử cũng giống như thế. Chỉ cần hệ niệm chẳng ngơi thì quyết sẽ sanh ở trước Phật. Một phen đã vãng sanh liền biến cải hết thảy các ác thành đại từ bi như cây có mùi thơm kia biến cải cả rừng y lan’.

Rừng y lan vừa nói ví cho tam độc, tam chướng, vô biên các tội trong thân chúng sanh. Chiên đàn ví cho tâm niệm Phật của chúng sanh. ‘Vừa sắp mọc thành cây’ là hết thảy chúng sanh chỉ cần niệm liên tục chẳng ngơi thì đạo nghiệp sẽ hoàn thành.

Kinh Ðại Bi cũng dạy: ‘Xưng danh hiệu Phật một tiếng thì do căn lành ấy nhập vào Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận’.

Kinh Xưng Dương Chư Phật Công Ðức cũng nói: ‘Nếu có kẻ được nghe danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật Như Lai mà nhất tâm tin ưa, trì, phúng (5) tụng niệm… kẻ ấy sẽ được vô lượng phước, sẽ vĩnh viễn xa lìa ách nạn tam đồ. Sau khi mạng chung đều được vãng sanh trong cõi đức Phật kia’.

Kinh Văn Thù Bát Nhã cũng nói: ‘Chúng sanh ngu độn tuy quán nhưng chẳng hiểu nổi, chỉ nên dạy họ [giữ được] tiếng niệm liên tục thì sẽ tự được vãng sanh’.

Sách Tịnh Tu Tiệp Yếu còn khen ngợi pháp môn Niệm Phật như sau: ‘Sáu chữ thống nhiếp vạn pháp, một môn chính là phổ môn. Toàn thể sự là lý, toàn thể vọng đều quy về chơn, hoàn toàn từ tánh khởi tu, hoàn toàn tu nơi tánh. Học rộng vốn là thâm nhập, chuyên tu chính là tổng trì. Từng tiếng, từng tiếng đánh thức chính mình, từng niệm, từng niệm chẳng lìa bổn tôn’.

Sách còn viết: ‘Vô Lượng Thọ Quang là Bổn Giác của ta. Khởi tâm niệm Phật gọi là Thỉ Giác. Mượn y báo, chánh báo của Phật để hiển lộ tự tâm của chính mình. Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng rời nhau, thẳng tiến trên con đường giác ngộ. Mới hơi trái nghịch đã đọa vào vô minh’.

Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận cũng nói: ‘Cần phải biết rằng một pháp Trì Danh thật là giản yếu nhất. Hành giả lúc sơ phát tâm phải chú trọng định khóa: Mỗi ngày niệm ngàn tiếng hoặc vạn tiếng hoặc mười ức tiếng, từ ít đến nhiều, từ tán nhập định, tùy theo niệm lực đều được vãng sanh’.

Sách An Lạc Tập cũng bảo: ‘Xưng danh cũng như vậy, chỉ nên chuyên chí liên tục chẳng dứt thì quyết định sanh về trước Phật. Nay khuyên hàng hậu học nếu muốn lãnh hội Nhị Ðế thì chỉ cần hiểu niệm niệm là bất khả đắc, đấy chính là Trí Huệ Môn. [Tuy hiểu như vậy] nhưng vẫn hệ niệm liên tục chẳng ngơi thì chính là Công Ðức Môn.

Vì vậy, kinh nói Bồ Tát Ma Ha Tát luôn dùng công đức và trí huệ để tu tâm mình. Nếu là kẻ mới học chưa thể phá được tướng thì chỉ nên dựa theo tướng mà chuyên chí thì không ai chẳng được vãng sanh, chẳng còn ngờ gì nữa’.

Những hành nhân hiện tại nên tin chắc lời dạy ấy, chẳng cần phải ly tướng trước làm gì, chỉ cần trì danh chăm chỉ, ròng rặt, bền chắc: ‘Nương theo tướng mà chuyên chí thì không ai chẳng được vãng sanh’. Ðấy chính thật là kim chỉ nam để dẫn chúng sanh vượt khỏi biển sanh tử vậy.

Trên đây, tôi đã dẫn rộng các kinh luận để chứng minh lợi ích thù thắng của pháp Trì Danh Niệm Phật.

Trì Danh phải chuyên chí, phải ‘một bề chuyên niệm’ như sách Quán Niệm Pháp Môn bảo: ‘Phật nói hết thảy chúng sanh căn tánh bất đồng, có: thượng, trung, hạ. Với mỗi căn tánh, Phật đều khuyên chuyên niệm danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật.

Hỏi: Năm thứ nhân duyên (chỉ ngũ niệm môn) đều là Tịnh nghiệp, sao lại chỉ với pháp Niệm Phật bảo phải ‘nhất hướng’?

Ðáp: Có ba nghĩa:

a. Một là do phế các hạnh [khác, chỉ] lập Niệm Phật mà nói như thế.

b. Hai là để hỗ trợ chánh nghiệp Niệm Phật nên nói ra các hạnh trợ nghiệp.

c. Ba là do Niệm Phật là chánh, các hạnh là phụ nên bảo là nhất hướng’.

Xin giải thích như sau: Câu ‘nhất hướng chuyên niệm’ (một bề chuyên niệm) có đến ba nghĩa:

a. Một là phế bỏ các hạnh, chuyên lập hạnh Niệm Phật, chỉ đề xướng một câu Phật hiệu, thâm nhập một môn, chẳng lẫn tạp các pháp khác; phế hết các hạnh, chỉ lập một pháp niệm danh hiệu Phật. Ðấy gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

b. Hai là chỉ lấy Niệm Phật làm chánh nghiệp. Ðể hỗ trợ chánh nghiệp này nên tu các hạnh khác. Niệm Phật là chánh, các hạnh khác là phụ trợ. Chánh nghiệp thống lãnh các trợ nghiệp, trợ nghiệp phụ thuộc chánh nghiệp. Chánh và trợ viên dung, cùng vào trong Di Ðà Nhất Thừa nguyện hải nên bảo là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

c. Ba là Niệm Phật là chánh, các hạnh là phụ. Chánh, phụ khác nhau, thứ tự phân minh. Lấy nhất hướng chuyên niệm là chủ yếu tuy chẳng bỏ tu các hạnh khác thì vẫn gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

Lời luận trên rất ổn đáng. Vì thế, người niệm Phật không ai chẳng kiêm tu các môn lễ bái, phát nguyện, hồi hướng v.v…

Theo như những thuyết trên thì người niệm Phật có thể kiêm trì các chú Vãng Sanh, Ðại Bi, Chuẩn Ðề… hoặc kiêm trì tụng các kinh như Tâm Kinh, Kim Cang v.v… nhưng phải phân định rạch ròi chánh hạnh, trợ hạnh, niệm Phật miên mật thì mới chẳng trái với ‘nhất hướng chuyên niệm’. Sách Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận đã giảng rõ ý chỉ ấy. Sách viết:

‘Hành giả đã phát tâm Bồ Ðề thì nên tu vạn hạnh Bồ Tát. Với tất cả điều thiện thế gian hay xuất thế gian dù là nhỏ như mảy lông cho đến vô biên công đức đều dùng thâm tâm, chí thành tâm hồi hướng Cực Lạc thì cũng gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’. Chẳng cần buông bỏ trăm việc mới gọi là chuyên niệm. Do Phật tánh hiện diện trọn khắp hết thảy chỗ nên còn có buông, có bỏ thì chẳng gọi là Niệm Phật’.

Lời luận này thật khế hợp thời cơ, người đời hiện tại bận bịu lắm việc khó lòng buông bỏ tất cả để suốt ngày niệm Phật. Chỉ cần tin sâu, nguyện thiết cầu sanh Tịnh Ðộ. Gặp việc cứ làm, xong việc lại niệm Phật. Thế pháp vốn chẳng trở ngại Phật pháp; huống hồ là với hết thảy hạnh lành thế gian, xuất thế gian đều dùng cái tâm chí thành hồi hướng Cực Lạc. Làm được như vậy thì cũng gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’.

Theo Khởi Tín Luận, kiêm hành pháp thiện thế gian còn được gọi là ‘nhất hướng chuyên niệm’ huống là kiêm tu các pháp xuất thế. Chẳng hạn như, trong cuốn Phạm Thất Ngẫu Ðàm, Ngẫu Ích đại sư đã viết: ‘Lại nữa, thiền giả muốn sanh về Tây Phương thì chẳng cần phải đổi sang niệm Phật, chỉ đầy đủ tín, nguyện thì tham thiền chính là hạnh Tịnh Ðộ’. Hơn nữa, đại sư từng bế quan kết đàn trì chú Vãng Sanh cầu sanh Tịnh Ðộ. Ngài lại còn viết những bài kệ để phát thệ. Kệ rằng:

‘Con dùng chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng tâm, đốt tay ba cây hương (dùng ba cây hương đốt cánh tay), kết một thất tịnh đàn (kết đàn nghiêm tịnh để tụng chú trong bảy ngày liền), chuyên trì chú Vãng Sanh, chỉ trừ lúc ăn ngủ. Nguyện đem công đức này cầu quyết sanh An Dưỡng’. Những việc ấy chứng tỏ chỉ cần đủ tín nguyện cầu vãng sanh thì dù tham thiền hay trì chú cũng đều là hạnh Tịnh Ðộ.

Tác giả của bộ Di Ðà Viên Trung Sao là U Khê đại sư cả đời tu các pháp sám Pháp Hoa, Ðại Bi, Kim Quang Minh, Di Ðà, Lăng Nghiêm không sót ngày nào. Lâm chung biết trước thời khắc, tay viết năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh rồi cao giọng xướng tựa đề kinh vài lượt, an nhiên mà tịch.

Như vậy, tu sám, trì kinh đều là hạnh Tịnh Ðộ. Do đó, đã phát Bồ Ðề tâm, trì danh hiệu Phật thì dẫu có kiêm tu các pháp khác cũng được coi là ‘nhất hướng chuyên niệm’, cũng được vãng sanh.

Nhưng kiêm tu nhiều môn chẳng bằng thâm nhập một môn, nhất tâm chuyên chí xưng niệm Di Ðà thì mới dễ khiến chỗ chín biến thành chỗ sống, chỗ sống biến thành chỗ chín. Ái nhiễm tham đắm là chỗ chín của chúng sanh. Bồ Ðề chánh niệm là chỗ sống sít của chúng sanh. Chỗ sống sít biến thành chín rục thì lúc lâm chung, khi bị các khổ bức bách mới vẫn khởi lên được câu niệm Phật hòng cảm được Phật tiếp dẫn để được vãng sanh.

Vì vậy Thiện Ðạo đại sư khai thị: ‘Ðại Thánh bi mẫn khuyên thẳng chuyên xưng danh hiệu chính là vì xưng danh là dễ, xưng danh liên tục liền được vãng sanh. Nếu niệm được liên tục thì lấy cả đời làm hạn, mười người tu mười người được vãng sanh, trăm người tu trăm người được vãng sanh. Vì cớ sao? Vì không tạo nghiệp duyên nên được chánh niệm, vì được tương ứng với bổn nguyện của Phật, vì chẳng trái nghịch lời dạy, vì thuận theo lời Phật vậy. Nếu bỏ chuyên niệm đi tu tạp niệm thì trong trăm người tu chỉ được một hai kẻ vãng sanh, trong ngàn người tu chỉ mong được ba bốn người vãng sanh’.

Nói tóm lại, Trì Danh Niệm Phật chính là bổn hoài của chư Phật, là phương tiện rốt ráo, là con đường tắt nhất trong các đường tắt. Ðấy thật là lời luận muôn đời chẳng suy xuyển bởi vì người lúc lâm chung bị muôn khổ bức bách, ngoại trừ trì danh ra khó lòng khởi các hạnh khác nổi. Quán kinh nói: Kẻ ngũ nghịch thập ác đáng đọa ác đạo, lúc lâm chung gặp thiện tri thức ‘dạy cho niệm Phật nhưng người ấy bị khổ bức bách chẳng niệm Phật nổi, thiện hữu bảo rằng: «Nếu ông chẳng niệm đức Phật ấy nổi (tức là chẳng quán tưởng nổi) thì hãy nên xưng danh Vô Lượng Thọ Phật». Chí tâm như thế chẳng để ngớt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật thì do xưng danh đức Phật ấy, trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Lúc lâm chung thấy hoa sen vàng giống như vầng mặt trời ở trước mặt người ấy, như trong một niệm liền được sanh về thế giới Cực Lạc’.

Kinh nói lâm chung chẳng thể quán Phật, chỉ có thể niệm danh hiệu Phật; rõ ràng là pháp Trì Danh rất dễ dàng. Lâm chung dễ niệm nên được vãng sanh thật là hết sức ổn đáng vậy. Câu ‘trong mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử’ chỉ rõ pháp này hết sức viên đốn. Kẻ ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung mười niệm liền được vãng sanh. Phàm phu mang theo nghiệp được bằng ngay với bậc Bổ Xứ.

Pháp trì danh niệm Phật không những đã giản dị, ổn thỏa đến cùng cực mà còn là pháp tối cực viên đốn nên mười phương Như Lai cùng khen ngợi, ngàn kinh muôn luận cùng nêu. Các hành nhân thật phải nên mau phát đại tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật.

Kinh này lấy ‘phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’ làm tông. Hai điều trên chẳng thể tách rời được vì phát Bồ Ðề tâm là tín, nguyện; nhất hướng chuyên niệm là hạnh. Ba thứ tín, nguyện, hạnh chẳng thể thiếu một thứ.

Sách Di Ðà Yếu Giải nói: ‘Tin sâu phát nguyện chính là Vô Thượng Bồ Ðề, tín nguyện hợp lại chính là kim chỉ nam cho Tịnh Ðộ. Do vậy, chấp trì danh hiệu mới là chánh hạnh’. Ý ngài nói: tâm Vô Thượng Bồ Ðề là kim chỉ nam để tu Tịnh Ðộ. Nhà hàng hải dùng kim chỉ nam để xác định phương hướng. Nếu muốn vượt biển sanh tử về thẳng bờ kia Cực Lạc thì phải dùng Bồ Ðề tâm để dẫn đường nên tu Tịnh nghiệp chẳng thể không phát Bồ Ðề tâm! Lại do Bồ Ðề tâm ấy mà trì danh hiệu thì mới là chánh hạnh. Nói cách khác: không có Bồ Ðề tâm thì dẫu có trì danh hiệu cũng chưa phải là chánh hạnh.

Sách Di Ðà Yếu Giải bảo: ‘Nếu không tín, nguyện thì dẫu có trì danh hiệu đến mức gió lay chẳng động, mưa chẳng thấm ướt khác nào tường đồng, vách sắt thì cũng chẳng đắc cái lý vãng sanh. Kẻ tu Tịnh nghiệp chẳng thể chẳng biết điều này’. Nói cách khác, tuy phát Bồ Ðề tâm nhưng chẳng có nguyện, hạnh cầu sanh Tịnh Ðộ, lại tu môn khác thì chẳng phải là căn cơ Tịnh Ðộ nên cũng chẳng được vãng sanh!

Vì vậy, trong cả ba bậc vãng sanh, kinh này đều bảo: ‘Phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm’, nghĩa là đó là điều kiện phải có để vãng sanh của ba bậc.

‘Tu các công đức’: xem trong lời nguyện thứ mười chín ‘nghe danh phát tâm’ của đức Di Ðà, ta thấy lời nguyện như sau: ‘Nghe danh hiệu tôi phát tâm Bồ Ðề, phụng hành sáu ba la mật’. Bản Hán dịch còn ghi: ‘Ðối với vô vi đạo, bậc đệ nhất tối thượng sẽ hành Bồ Tát đạo, phụng hành sáu ba la mật, làm sa môn mà chẳng khuyết phạm kinh giới… chí tinh tấn muốn sanh trong cõi Phật Vô Lượng Thọ thì nên niệm chí tâm, chẳng để đoạn tuyệt’. Tổng hợp ý nghĩa cả hai kinh, ta thấy rằng ‘tu các công đức’ là phụng hành sáu ba la mật.

Phần nói về thượng phẩm thượng sanh trong Quán kinh cũng bảo ‘nên đầy đủ giới hạnh’, ‘đọc tụng Ðại thừa’ và ‘tu hành sáu niệm (sáu niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên), hồi hướng phát nguyện’. Thật ra đó cũng chỉ là hành sáu ba la mật.

‘Nguyện sanh cõi ấy’ là như câu: ‘Tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi ta’ trong nguyện thứ mười tám; câu‘lại đem thiện căn hồi hướng nguyện sanh cõi ta’ trong nguyện mười chín, câu ‘chí tâm hồi hướng muốn sanh Cực Lạc thì không ai chẳng được toại ý’ và‘phát Bồ Ðề tâm, chán ngán thân nữ nguyện sanh cõi ta’ trong nguyện hăm mốt. Những nguyện như vầy đều khuyên phát nguyện hồi hướng, cầu sanh Tịnh Ðộ. Kinh A Di Ðà nói: ‘Chúng sanh nghe vậy phải nên phát nguyện nguyện sanh cõi kia’ và ‘nếu có ai tin thì phải nên phát nguyện sanh về cõi kia’. Kinh cũng bảo: ‘Nếu có kẻ đã phát nguyện, nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước Phật A Di Ðà thì những người ấy đều đắc bất thối chuyển nơi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề’. Rõ ràng ‘nguyện sanh cõi ấy’ là điều trọng yếu để được vãng sanh Cực Lạc.

‘Lúc mạng sắp dứt, A Di Ðà Phật và các thánh chúng hiện ra trước người ấy’ chính là nguyện thứ 20 ‘lâm chung tiếp dẫn’ được thành tựu.

Di Ðà nguyện hải chuyên ban cho cái lợi chơn thật. Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ nói: ‘Lúc các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân ấy lâm chung thì Vô Lượng Thọ Phật và vô lượng Thanh Văn đệ tử của ngài, các vị Bồ Tát cùng vây quanh trước sau, đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu khiến người ấy tâm chẳng loạn. Ðã xả mạng rồi, liền theo Phật chúng hội sanh trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới của Vô Lượng Thọ Phật’. Câu ‘từ bi gia hựu khiến người ấy tâm chẳng loạn’ là tâm tủy của Tịnh tông.

Do Phật lực gia bị nên hành nhân tâm mới được chẳng loạn. Khi đó, mười niệm liên tục liền được vãng sanh. Vì vậy, Tịnh tông được xưng tụng là Quả Giáo, là tha lực pháp môn, là đạo dễ hành, là thuyền từ độ khắp muôn loài ; những lời khen ngợi như vậy đều bắt nguồn từ câu ấy. Kinh nói: ‘Kẻ trong bậc hạ lâm chung mộng thấy đức Phật ấy cũng được vãng sanh’ lại càng hiển thị rõ tha lực thật chẳng thể nghĩ bàn!

‘Tự nhiên hóa sanh trong hoa sen bảy báu’: Kinh nói tự nhiên hóa sanh nhằm chỉ rõ chẳng phải là cách hóa sanh như bốn cách sanh: noãn, thai, thấp, hóa như sách Pháp Hoa Văn Cú nói: ‘Thai Kinh nói: ‘Sanh trong hoa sen chẳng phải là cách hóa sanh như trong bốn cách sanh: noãn, thai, thấp, hóa. Chẳng phải là hóa mà nói là hóa’; lại cũng chẳng phải là thấp sanh như kinh Niết Bàn nói: Cô gái Am La Thọ sanh từ bông hoa của cây ấy (cây Am La) nên gọi là thấp sanh. Do thảo mộc trong uế độ thường có khí ẩm, những kẻ như cô Am La Thọ nương theo hơi ẩm đó mà sanh ra. Trong Tịnh Ðộ, hoa sen cùng người cùng sanh trong một lúc, tự nhiên hóa hiện, chẳng nhờ đến khí ẩm mà sanh nên chẳng phải là thấp sanh vậy.

‘Trí huệ dũng mãnh’ là trí huệ sáng suốt, nhạy bén, phá được quân giặc phiền não, kiêu mạn nên bảo là ‘dũng mãnh’. Trí Ðộ Luận nói: ‘Mũi tên trí huệ cứng bén phá các giặc kiêu mạn’. Kinh Duy Ma cũng bảo: ‘Dùng gươm trí huệ phá giặc phiền não’. Kinh Tâm Ðịa Quán cũng nói: ‘Pháp bảo ví như gươm trí huệ bén nhọn chặt đứt sanh tử vì lìa khỏi hệ phược’.

‘Thần thông tự tại’ là thần thông vô ngại như kinh dạy: ‘Có thể cầm hết thảy thế giới trong lòng bàn tay’.

Quán kinh đã giảng rõ ba phẩm thuộc bậc thượng, nay tôi xin lược trích vài đoạn trong cuốn Quán Kinh Nghĩa Sớ của ngài Gia Tường:

‘a. Thứ nhất là thượng phẩm thượng sanh: phát Bồ Ðề tâm, tu hành suốt bảy ngày thì sanh về cõi ấy, thấy thân Phật ấy, nghe giảng diệu pháp liền ngộ Vô Sanh Pháp Nhẫn. Phải biết rằng đấy là mức vô sanh của bậc Thất Ðịa.

b. Thứ hai là thượng phẩm trung sanh: chẳng nhất thiết phải đọc tụng kinh Ðại Thừa, chỉ khéo hiểu được nghĩa lý, tin sâu nhân quả, chẳng báng Ðại thừa, đem công đức ấy nguyện sanh cõi kia thì sẽ được vãng sanh trong hoa sen lớn trong ao bảy báu nơi cõi đó. Qua một đêm hoa nở, trải qua một tiểu kiếp đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ðấy chính là mức vô sanh của bậc Thất Ðịa. Trong phẩm trên, thấy Phật nghe pháp đắc ngay vô sanh, còn trong trung phẩm phải qua một tiểu kiếp mới đắc vô sanh.

c. Thứ ba là thượng phẩm hạ sanh. Hạng này cũng tin nhân quả, chẳng báng Ðại thừa, ở trong hoa sen cõi ấy qua một ngày một đêm hoa sen mới nở. Lại phải qua ba tiểu kiếp mới đắc bách pháp minh môn, trụ Hoan Hỷ Ðịa. Do hạ phẩm đắc Sơ Ðịa vô sanh nên ta biết hai phẩm trên là Thất Ðịa vô sanh’.

Sách Di Ðà Sớ Sao lại bảo trong bậc thượng thượng phẩm, cao nhất là bậc Bát Ðịa. Sách viết: ‘[Giai vị trong] trong thượng thượng phẩm là từ Nhất Ðịa cho đến Bát Ðịa. Một phẩm đã gồm nhiều phẩm nên với các phẩm khác cứ suy ra mà biết’. Như vậy, bậc thượng vãng sanh thấy Phật nghe pháp liền ngộ vô sanh có thể đạt tới bậc Bát Ðịa, đủ chứng tỏ họ là bậc ‘trí huệ dũng mãnh’.

Câu ‘muốn trong đời này được thấy A Di Ðà Phật’ ý nói: hết thảy chúng sanh trong hiện tại và tương lai muốn ngay trong một đời đích thân mắt thấy A Di Ðà Phật. Quán kinh nói thượng phẩm thượng sanh thì ‘A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn tỳ kheo Thanh Văn đại chúng, vô lượng chư thiên, cung điện bảy báu. Quán Thế Âm Bồ Tát tay cầm đài kim cang cùng Ðại Thế Chí đến trước hành giả. A Di Ðà Phật phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, các đại Bồ Tát đưa tay nghênh tiếp. Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí và vô số Bồ Tát khen ngợi hành giả, khích lệ tâm hành giả. Hành giả nghe xong hoan hỷ hớn hở, tự thấy thân mình ngồi đài kim cang theo sau chân Phật như trong khoảng khảy ngón tay vãng sanh cõi kia’.

Thượng phẩm trung sanh thì ‘lúc mạng sắp hết, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí, vô lượng đại chúng, quyến thuộc vây quanh, cầm đài tử kim đến trước hành giả, khen rằng: «Ông hành đại thừa hiểu đệ nhất nghĩa; vì vậy ta nay đến nghênh tiếp ông». Ngàn vị hóa Phật cùng xòe tay, hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư Phật, như trong khoảng một niệm liền sanh trong ao bảy báu nơi cõi nước kia’.

Còn thượng phẩm hạ sanh thì ‘hành giả lúc mạng sắp dứt, A Di Ðà Phật và Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí và các Bồ Tát cầm hoa sen vàng hóa ra năm trăm vị Phật đến đón người ấy. Năm trăm vị hóa Phật cùng lúc đưa tay khen rằng: ‘‘Pháp tử! Nay ông thanh tịnh phát Vô Thượng Ðạo tâm, ta đến đón ông’’. Lúc thấy sự đó liền tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng. Ngồi xong chắp tay theo sau Thế Tôn, liền được vãng sanh trong ao bảy báu’.

Quán kinh và kinh này cùng bảo trước lúc hành giả chết thấy Phật đến đón; đó chính là ‘ngay trong đời này thấy Phật A Di Ðà’. Ðời ác ngũ trược hiện nay là lúc không có Phật mà lại thấy được đức Phật Di Ðà thì thật là hy hữu, toàn là nhờ vào Nhất Thừa nguyện hải của Phật Di Ðà, sức bất khả tư nghì của sáu chữ hồng danh. Lại cũng do vì hành giả phát tâm Bồ Ðề, một dạ chuyên niệm, rộng tích công đức, phát nguyện hồi hướng, cầu sanh cõi kia nên tương ứng với lời nguyện của Phật. Do đó, có thể thấy đức Phật. Do thấy Phật nên liền được vãng sanh, vĩnh viễn chẳng thối chuyển, ắt chứng Vô Thượng Bồ Ðề.

Cuối đoạn kinh này lại nhắc lại: ‘Phải nên phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề, lại nên chuyên nghĩ đến cõi nước Cực Lạc’. Ðấy chính là chánh nhân vãng sanh, lại còn bảo thêm: ‘Nên hồi hướng thiện căn đã tích tập’. Do nhân thù thắng nên ắt phải cảm được quả báo mầu nhiệm. Do đó, kinh bảo: ‘Do vậy thấy Phật sanh trong cõi kia, được bất thối chuyển cho đến thành Vô Thượng Bồ Ðề’.

Do lời giải thích này đề cao tha Phật sợ rằng sẽ có kẻ ngờ vực, hiểu lầm Tâm tông nên ở đây tôi xin dẫn lời ba cuốn luận để chứng minh thêm.

a. Một là Linh Phong đại sư viết trong sách Yếu Giải rằng:

‘Hỏi: Tâm này đã làm Phật, tâm này đã là Phật thì sao lại chẳng nói đến tự Phật là rốt ráo mà cứ cho tha Phật hơn tự Phật là vì sao thế?

Ðáp: Pháp môn này hoàn toàn ở chỗ hiểu rõ tha Phật chính là tự Phật. Nếu kiêng nói đến tha Phật thì chính là tha kiến chưa hết. Nếu thiên trọng tự Phật lại là ngã kiến điên đảo.

Hơn nữa, trong bốn lợi ích tất đàn (6), ba thứ lợi ích cuối chẳng thể tự mình phát khởi. Nếu chẳng thể mừng tin sâu xa nơi thế giới [Cực Lạc] thì hai thứ lợi ích: vui [Tịnh Ðộ], chán [Sa Bà] còn chẳng phát sanh nổi huống là ngộ nhập được đức Phật nơi lý tánh. Chỉ có thể dùng sự trì để thấu đạt lý trì. Bởi vậy, Di Ðà và thánh chúng hiện tiền chính là bổn tánh hiện rõ. Vãng sanh cõi kia, thấy Phật nghe pháp chính là thành tựu huệ thân chẳng do người khác mà ngộ.

Pháp môn này thâm diệu phá tan hết thảy hý luận, chặt sạch hết thảy ý kiến, chỉ bậc như Mã Minh, Long Thọ, Trí Giả… mới có thể triệt để gánh vác, thực hiện nổi! Còn thì những kẻ thế trí biện thông, bọn tinh thông cả Thiền lẫn Nho tận sức suy lường thì càng suy nghĩ càng xa vời vợi, chẳng bằng bọn ông già bà lão dốt nát siêng ròng niệm Phật lại ngầm thông được với Phật trí, thầm hợp đạo mầu’.

b. Hai là như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận nói:

‘Hỏi: Lâm chung thấy Phật thì Phật đó là tự Phật hay là tha Phật? Nếu là tha Phật thì thành ra nghiệp ma; nếu là tự Phật lại do tưởng lực tạo thành, hư vọng chẳng thật, làm sao vãng sanh được?

Ðáp: Tự Phật hay tha Phật cũng đều là hý luận.

Ta, người cùng mất, tự tha nào khác. Pháp thân chư Phật trạm nhiên thường tịch. Do bổn nguyện nên cảm ứng đạo giao, là tự mà cũng chính là tha, chẳng hư, chẳng thật, chỉ là một Chơn Như trọn khắp pháp giới.

Chúng sanh do nghiệp duyên nên có sanh tử phần đoạn một cách hư huyễn giống như người ru rú trong nhà chẳng thấy mặt trời. Niệm lực chơn thành, vững chắc thì huyễn duyên hết sạch như thể mái nhà bị thủng, mặt trời chiếu sáng lòa. Tùy ý vãng sanh nhưng vẫn thuộc trong cái vốn sẵn có’.

Lời luận này quét sạch hết thảy phân biệt: tự hay tha, chúng sanh hay Phật đều thành hý luận. Chỉ có một Chơn Như không lay động, trọn khắp, tùy ý vãng sanh Cực Lạc nhưng vẫn không ngoài tự tâm.

c. Ba là như Di Ðà Sớ Sao nói:

‘Chấp sự mê lý thì khác nào trẻ nít, kẻ u mê đọc sách của bậc thánh nhân đời xưa; mê muội, ấu trĩ nên chỉ đọc mà chẳng hiểu rõ nghĩa. Bởi vậy suốt
ngày niệm Phật mà chẳng biết Phật niệm gì.

Chấp lý mê sự thì khác nào kẻ nghèo vớ được bằng khoán của người giàu có liền tự bảo mình giàu to, chẳng biết là mình chỉ đếm của cải người ta, ăn nhằm gì đến mình!

Cũng thế, kẻ tuy biết tâm chính là Phật, Phật chính là tâm lại đi phán đoán tâm chẳng phải là Phật. Vì thế, ước về lý thì không có gì để niệm được; ước theo sự thì trong cái không có gì để niệm được, ta cứ khăng khít niệm. Do niệm tức là vô niệm nên sự lý song tu, bổn trí trở lại thấu đạt Phật trí. Có như vậy mới gọi là đại trí’.

Sách Sớ Sao còn nói: ‘Dẫu chấp sự mà niệm thì vẫn chẳng mất công lao, vẫn đạt được các phẩm; ngược lại, chấp lý mà tâm chưa tỏ ngộ thì bị mắc họa đọa lạc’.

Lời Sao viết: ‘Giả sử cuồng huệ phóng túng tham đắm ngoan hư (ngoan không), chưa từng tỏ ngộ bổn tâm mà lại khinh Tịnh Ðộ, miệt thị vãng sanh thì cái hại ấy chẳng nhỏ; tức là: mới hiểu loáng thoáng cái Không đã bác bỏ nhân quả, vội vội vàng vàng chiêu cảm họa ương’.

Xin độc giả hãy đọc những lời này hai ba lượt, chớ đừng chấp lý, phế sự, kiêng nói tha Phật, khinh rẻ Tịnh Ðộ để tự chiêu cảm ương họa.

Xem Thêm: http://www.quangduc.com/kinhdien/213voluong1.html
Chú Giải Kinh Phật Thuyết Ðại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác