Maria (tiếng Do Thái: מִרְיָם, Miriam; Trong tiếng Việt bà có rất nhiều tên gọi, nhưng thường được còn được gọi là Đức Mẹ, hoặc đơn giản là bà Mary) là một phụ nữ người Do Thái[4] quê ở Nazareth, thuộc xứ Galilea, sống trong khoảng những năm cuối thế kỷ 1 TCN đến đầu thế kỷ 1 SCN. Theo Tân Ước[5] và kinh Qur'an, bà là mẹ của Chúa Giêsu. Các Kitô hữu coi Giêsu con trai bà là "Đấng Kitô" (nghĩa là: Người được xức dầu) và "Chúa Con Nhập Thể" (xem thuyết: Ba Ngôi), trong khi người Hồi giáo coi ông là Đấng Messiah[6], là vị tiên tri quan trọng nhất của Thiên Chúa gửi đến cho dân tộc Israel và là tiên tri cao trọng thứ hai sau tiên tri Muhammad.
Trong Phúc âm Matthew và Phúc âm Luke, Maria được mô tả là một trinh nữ (tiếng Hy Lạp: παρθένος, parthénos[7]. Theo truyền thống, các tín đồ Kitô hữu tin rằng bà mang thai và sinh ra Giêsu là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Người Hồi giáo tin rằng bà được thụ thai theo lời phán của Thiên Chúa. Việc mang thai này xảy ra khi bà - lúc đó còn là một thiếu nữ khoảng 12 tuổi - đã đính hôn với Giuse, và ông bà đang trong thời gian chờ hoàn thiện nghi thức kết hôn theo tập tục của người Do Thái. Sau khi biết mình có thai, bà và Giuse cùng chuyển đến vùng Bethlehem, tại đây bà đã hạ sinh Giêsu.
Những lời đầu tiên mà kinh Tân Ước tường thuật về cuộc đời của bà Maria là "biến cố Truyền Tin", theo đó, sứ thần Gabriel đã hiện ra với bà để báo tin rằng bà được Thiên Chúa chọn để làm mẹ của Giêsu. Sau này, Tân Ước có một đôi lần nhắc đến người mẹ Giêsu trong một vài sự kiện khác. Một số truyền thuyết trong các giáo hội Kitô giáo còn cho rằng cha mẹ của Maria là Gioakim và Anna. Một số nguồn thông tin khác không thuộc quy điển Kinh Thánh có viết về sự qua đời và hồn xác lên trời của bà Maria.
Bà Maria đã sớm được tôn kính trong đức tin của Kitô giáo, đặc biệt là trong Giáo hội Công giáo Rôma và Chính Thống giáo Đông Phương. Họ gọi bà là Đức Mẹ. Trong Tin Lành và Hồi Giáo, Maria cũng được nhìn nhận với một vị trí đặc biệt. Trong một thời gian dài, bà Maria là chủ đề được ưa thích trong các tác phẩm hội họa, âm nhạc và văn học Kitô giáo. Ngày lễ mừng kính bà được Công giáo Rôma, Chính thống giáo Đông phương và Anh giáo đồng cử hành là ngày 8 tháng 9. Ngoài ra, còn có thêm rất nhiều ngày lễ suy tôn bà Maria, tính theo những tước hiệu và sự kiện, được Giáo hội Công giáo mừng kính vào các ngày khác trong năm[8]. .
Gia đình và thời thơ ấu


Thiên thần hiện đến cùng bà Maria để báo tin bà được chọn, (L' Annonciation) tranh của Philippe de Champaigne năm 1644
Tiểu sử về bà Maria được nói đến rất ít trong Tân Ước. Bà có họ hàng với bà Elizabeth (vợ của tư tế Zachariah) thuộc dòng dõi Aaron (Luca chương 1:5, chương 1:36). Theo phỏng đoán thì Maria sống cùng với cha mẹ tại Nazareth, xứ Galilea khi đã đính hôn với Giuse (Joseph), thuộc dòng dõi nhà David. Một số học giả bảo thủ không tin rằng, Giuse là con cháu Vua David (vì nhiều suy đoán hợp với phong cách ngôn từ và việc giới thiệu gia phả trong Phúc Âm Matthew). Trong thời gian đã hứa hôn (là thời kì đầu theo phong tục Do Thái), Maria được thiên sứ Gabriel đến báo tin rằng cô sẽ trở thành mẹ Đấng Messiah theo ý định của Thiên Chúa. Giuse chưa nhận ra việc mang thai của Maria là do quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Thần nên tỏ ra hoài nghi và muốn rời bỏ Maria một cách kín đáo. Nhưng trong một giấc mơ, Giuse được thiên thần mách bảo đừng lo nghĩ mà hãy nhận Maria về làm vợ mình để hợp với lề luật Do Thái.
Khi được thiên thần báo tin về việc người chị họ Elizabeth mang thai lúc tuổi già, Maria vội vã đến thăm Elizabeth (Luca 1:39). Vừa đến nhà, Maria thiết tha gọi Elizabeth thì được Elizabeth đáp lời bằng câu: "Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?" và họ đã đọc một bài Thánh ca Ngợi khen, được biết đến nhiều với cái tên Magnificat (Luca 1:46). Ba tháng sau, Maria quay trở về nhà mình. Theo Phúc âm Luca, một sắc lệnh của Hoàng đế La Mã Augustus quy định, Giuse phải cùng hôn thê mình về Bethlehem (gần Jerussalem) để đăng kí nhân khẩu. Khi họ đang ở Bethlehem, Maria đã sinh ra Giêsu và đặt đứa trẻ trong chiếc máng cỏ cho súc vật ăn vì họ không tìm được nhà trọ nghỉ chân. Sau tám ngày, con trẻ được cắt bì và được đặt tên là Giêsu, đúng như những gì Giuse được thiên thần chỉ dạy trong giấc mơ. Sau cuộc viếng thăm của ba nhà đạo sĩ Phương Đông, gia đình họ phải lánh sang Ai Cập. Khi Herod Đại đế chết, họ mới quay trở về.
[sửa]Trong cuộc đời Giêsu
Năm 12 tuổi, trên đường từ Jerusalem trở về sau Lễ Vượt Qua, Maria và Giuse bị lạc mất Giêsu và họ tìm thấy Giêsu trong Đền thờ Jerusalem, đang trò chuyện cùng với các thầy tu ở đây. Sau khi Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả và bị ma quỷ cám dỗ trong hoang địa, Maria lại được biết đến trong một tiệc cưới ở Cana, khi đó, Giêsu đã làm phép lạ đầu tiên: biến nước lã thành rượu và bắt đầu công việc giảng đạo (Gioan 2:1-11). Trong Phúc âm Máccô 6:3, Maria còn được giới thiệu cùng với những người anh em của Giêsu: "Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông James, Joseph, Judas và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?".
Trong cái chết của Giêsu, Maria đứng cạnh người môn đệ Giêsu yêu quý, cùng với bà Maria vợ ông Clopas và bà Maria Magdalene (Gioan 19:25-26). Maria cũng là người đã ôm xác Giêsu sau khi hạ từ thập giá xuống, nhưng chi tiết này không được ghi chép trong Kinh Thánh, đó là một mô-típ nghệ thuật phổ biến gọi là "pietà" hoặc "piety" (nghĩa là Đức Mẹ Sầu Bi). Dựa theo Phúc âm Gioan thì nhiều Kitô hữu suy đoán rằng, sau khi Chúa Giêsu chịu chết thì bà Maria đã về nhà sống cùng Gioan - người môn đệ Chúa Giêsu yêu quý. Hai câu trong Tân Ước sau đây củng cố niềm tin này: "Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: "Thưa Bà, đây là con của Bà." Rồi Người nói với môn đệ: "Đây là mẹ của anh." Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Gioan 19:26-27)
[sửa]Sau khi Giêsu lên trời
Trong Sách Công vụ Tông đồ chương 1:26, bà Maria được nhắc lại trong sự kiện cùng với mười một tông đồ khác tụ họp trong căn phòng kín sau khi họ từ núi Ôliu trở về. Trong cuộc tụ họp này, họ đã tuyển chọn Mátthia thay thế cho Judas Iscariot trong nhóm mười hai. Một số suy đoán cho rằng "người đàn bà được tuyển chọn" đề cập trong thư thứ hai của Gioan chương 1:1 có thể là bà Maria. Từ thời điểm này, bà không còn được đề cập trong Kinh Thánh nữa, mặc dù một số học giả Thánh Kinh Công giáo cho rằng, "Người Phụ nữ" (và con Mãng Xà) trong Sách Khải Huyền chương 12:1 ám chỉ bà Maria.
Cái chết của bà Maria không được ghi lại trong Kinh Thánh. Tuy nhiên, truyền thống và giáo lý Công giáo lẫn Chính Thống giáo giả định rằng hồn và xác của bà đã được đem về thiên đàng. Niềm tin này phổ biến trong Giáo hội Công giáo cũng như Giáo hội Chính Thống giáo Đông phương và các giáo hội thuộc cộng đồng Anh giáo.
[sửa]Văn bản và truyền thống Kitô giáo sau này
Phúc âm James (không được xem là một bộ phận của Tân Ước) còn cung cấp những tư liệu sau đây về Maria, và được Chính thống giáo Đông phương coi là hợp lý: Maria là con gái của Gioakim (Joachim) và Anna (Anne). Trước khi có thai Maria, Anna được coi là hiếm muộn. Khi Maria ba tuổi, họ đưa Maria đến sống trong Đền Thờ Jerussalem, điều này trùng hợp với sự kiện Hana đưa Samuel vào Lều Thánh được ghi trong Cựu Ước.
Thánh Truyền của Công giáo Rôma và Chính thống giáo Đông phương tin rằng, trong khoảng 13 đến 15 năm sau khi Chúa Giêsu lên trời thì Maria qua đời (có thể tại Jerussalem hoặc Êphêsô) trong sự chứng kiến của các Tông đồ. Sau đó không lâu, các Tông đồ mở hầm mộ Maria ra thì bên trong chẳng còn gì, và họ xác quyết rằng Maria đã được mang về Thiên Đàng cả hồn lẫn xác.
[sửa]Sùng kính Maria trong Kitô giáo

[sửa]Từ thế kỷ thứ 2 tới thời Trung cổ


Dòng Chúa Cứu Thế là cộng đoàn nhận ủy thác của Tòa Thánh để cổ võ, phát huy một lòng sùng kính và biểu tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, tranh khoảng năm 1499, Rome
Lòng sùng kính bà Maria trong Kitô giáo được bắt đầu từ thế kỷ thứ 2. Đến thế kỷ thứ 5, sau Công đồng Êphêsô I năm 431, việc sùng kính bà Maria được quy định cụ thể trong phụng vụ. Công đồng được tổ chức tại giáo hội ở Ephesus, là nơi được để hiến dâng cho Maria cả trăm năm về trước.[20][21][22] In Egypt the veneration of Mary had started in the 3rd century and the term Theotokos was used by Origen, the Alexandrian Father of the Church.[23] Tại Ai Cập, việc sùng kính bà Maria bắt đầu vào thế kỷ thứ 3, thuật ngữ Theotokos (Thánh Mẫu) được các giáo hội khu vực này sử dụng.[23]
Kinh nguyện về Đức Mẹ được biết đến sớm nhất là Kinh Trông Cậy, xuất hiện từ thế kỷ thứ 3 (có lẽ là năm 270). Sau này bản văn của lời kinh này trên giấy cói được phát hiện lại vào năm 1917 ở Ai Cập.[24]<[25] Kể từ sau Sắc lệnh Milano năm 313, và đặc biệt là từ thời Trung Cổ, những hình ảnh nghệ thuật về Maria bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, một số nhà thờ được xây dựng dành riêng cho Maria, điển hình là Vương cung thánh đường Đức Bà Cả ở Roma.[26][27][28]
Vào thời Trung Cổ thì xuất hiện nhiều truyền thuyết về Maria bao gồm những truyền thuyết về bố và ông của bà.[29]
[sửa]Từ khi cải cách
Kể từ sau Cải cách Kháng Cách, việc sùng kính và tôn kính bà Maria đã có sự khác biệt theo từng giáo phái Kitô giáo. Ví dụ như các tín đồ Tin Lành thì việc sùng kính Maria rất ít nhưng đối với Chính Thống giáo Đông phương thì Maria được coi là nhân vật được tôn kính nhất, thậm chí còn được coi trọng hơn cả Cherubim và Seraphim.[30]
Nhà thần học Chính Thống giáo Sergei Bulgakov có viết: "Tình yêu và sự tôn kính của Đức Mẹ Maria đồng trinh thiêng liêng là linh hồn của đạo giáo Chính Thống Đông phương. Một đức tin trong đó chứa Giê-su phủ nhận mẹ của người là một đức tin khác, đều này có nghĩa là Maria và đức tin Chính Thống giáo Đông phương là một."[31]
Tuy công giáo Rôma và Chính Thống giáo tôn sùng và tôn kính Maria nhưng họ không coi Maria là thần thánh và cũng không có thờ lạy bà. Công giáo Rôma coi Maria ở dưới quyền chúa Giê-su nhưng bà lại hơn mọi sự khác.[32] Cùng quan điểm, thần học Sergei Bulgakov viết tuy cách nhìn Chính Thống giáo về Maria là vượt hơn mọi sự vật và không ngừng cầu nguyện với chúa qua bà là trung gian nhưng bà không thể thay thế đáng toàn năng là chúa Giê-su.[31] Ông còn viết: "Hãy tôn sùng Maria nhưng chỉ thờ lạy mỗi mình Chúa".[33] Công giáo Rôma dùng từ hyperdulia để chỉ sự tôn kính cho Maria thay vì chữ latria, chỉ dành cho Đức Chúa trời và chữ dulia cho các Thánh.[34] Các định nghĩa của ba thứ bậc latria, hyperdulia và dulia được phát nguồn từ hội đồng thứ hai của Nicaea vào năm 787.[35]
Sự tận tình đối với nghệ thuật chân dung của Maria khác biệt đối với các nhóm đạo Chúa khác nhau. Từ xưa đến này giáo hội Rôma đã có truyền thống vẽ chân dung của Maria, có lẽ bức họa nổi bật nhất của nghệ thuật Công giáo là bức Madonna.[36] Biểu tượng của Đức Mẹ đồng trinh trở thành biểu tưởng được tôn sùng nhất trong Chính Thống giáo.[37] Giáo hội Rôma và Chính Thống giáo cả hai đều tôn sùng hình ảnh và biểu tưởng của Maria, vì hội đồng của Nicaea năm 787 cho phép sự tôn sùng vì họ tin rằng khi tôn sùng hình ảnh của ai thì thật ra đang tôn sùng người đó[38] và vào năm 842 Synod của Constantinople ra luật tương tự đối với Chính Thống giáo.[39] Tuy nhiên, Chính thống giáo sẽ thờ lạy và tôn sùng những biểu tượng về Maria hai chiều (như chân dung) chứ không tôn sùng hình ảnh ba chiều của Maria (như tượng).[40]
Cách nhìn của Anh giáo thì nói chung nằm ở giữa so với cách nhìn của các đạo Tin Lành khác. Trong một quyển sách, nói về sự cầu nguyện với các hình tượng trưng cho Maria, do Rowan Williams, tổng giám mục của Canterbury, viết: "Chúng ta không thể hiểu Maria được nếu không nhìn thấy thấu chúa Giê-su; đồng thời chúng ta cũng không thể hiểu được chúa Giê-su nếu không thấy sự chú ý của chúa cho bà."[41][42]
[sửa]Các danh hiệu
Xem thêm: Kinh Cầu Đức Bà
Hầu như Công giáo và Chính Thống giáo đều dành cho bà Maria những danh hiệu tôn kính đặc biệt. Các danh hiệu phổ biến nhất của bà Maria là: Đức Mẹ, Mẹ Thiên Chúa, Đức Trinh Nữ Maria, Đức Bà và Nữ Vương Thiên Đàng. Các giáo phái Tin Lành và Hồi giáo không nhìn nhận các danh hiệu này, họ chỉ gọi đơn giản là bà Mary, mẹ Giêsu. Công đồng Êphêsô I (năm 413) tuyên bố rằng: "không có gì ngại ngùng khi phải nói rằng, Đức Trinh nữ là Mẹ Thiên Chúa", để nhấn mạnh đặc tính: con của Maria là Chúa Giêsu Kitô, thực tế cũng là Thiên Chúa[43].


Tượng Đức Mẹ và hai Thiên thần
Danh hiệu "Thánh Mẫu" được sử dụng vào buổi đầu Kitô giáo, vì Maria là mẹ của Chúa Giêsu - người đôi khi được gọi là "Vua muôn vua" do Giêsu thuộc dòng dõi vua David. Sự suy phục này lấy cơ sở từ Kinh Thánh Cựu Ước. Theo Sách Các Vua quyển I 2:19-20, mẹ vua Solomon là bà Bathsheba, được vua rất yêu mến và vinh danh. Và bà Maria được suy phục như thế[44].
Maria đôi khi cũng được gọi là Eva mới , làm nổi bật sự vâng phục của bà với Thiên Chúa (tương phản với sự bất tuân của Eva khi xưa)[45]. Trong nghệ thuật tạo hình, bà Maria cũng có một số danh hiệu như: Đức Mẹ Sầu Bi, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Nữ Vương Hòa Bình...
Tước hiệu Mẹ Giáo Hội: Công đồng Vatican II dành chương cuối cùng (Chương 8) trong hiến chế Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân) để nói về Ðức Maria, đây là hiến chế nói về Giáo Hội [46].
Tước hiệu Maria, Mẹ Thiên Chúa (trích từ lời của bà Élisabét nói với Maria[47] Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa vào thế kỷ thứ 5 đã gặp khó khăn khi giáo chủ Nestôriô chống đối. Công đồng Êphêsô với quyền chủ toạ của Giáo hoàng Ađrianô II, tuyên bố cắt chức giáo chủ Nestôriô và đánh đổ lạc thuyết của Ông. Công đồng Êphêsô đã tuyên xưng: ” Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì Người cũng đã thực sự sinh ra Đấng-Thiên-Chúa-làm người” [48].
Tước hiệu Ðức Mẹ Maria "được gìn giữ khỏi nguyên tội" (Immaculata)hay còn gọi là "Đức Maria vô nhiễm nguyên tội": Tước hiệu này đã gây ra những cuộc tranh cãi kịch liệt vào thời trung cổ giữa các nhà thần học, cuối cùng Giáo hoàng Piô IX đã công bố thành tín điều vào năm 1854[49].
Tước hiệu Đức Mẹ Laus (tiếng Việt (tạm dịch): Đức Mẹ Hồ Lụa). Đây là một trong số nhiều tước hiệu mà người Công giáo dành cho Đức Trinh nữ Maria. Tước hiệu này xuất phát từ việc Đức Mẹ được cho là đã hiện ra từ năm 1664 đến 1718 ở Saint-Étienne-le-Laus, Pháp với sự chứng kiến của Benoite Rencurel - một mục đồng nhỏ tuổi. Cuộc hiện ra đã được công nhận ở cấp giáo phận vào ngày 18 tháng 9 năm 1665 và được Tòa Thánh chính thức công nhận vào ngày 5 tháng 5, 2008[50][51].
Tước hiệu Đức Mẹ La Salette (tiếng Pháp : Notre-Dame de La Salette), đây cũng là một trong những tước hiệu mà người Công giáo dùng để gọi Đức Mẹ Maria. Tước hiệu này bắt nguồn từ các cuộc hiện ra của Đức Mẹ được cho là đã xảy ra tại La Salette, Pháp với hai trẻ em là Maximin Giraud và Melanie Calvat.[52]
Tước hiệu Đức Mẹ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Nuestra Señora de Guadalupe) còn được biết với tên gọi Đức Trinh Nữ Guadalupe (Tiếng Tây Ban Nha: Virgen de Guadalupe) là một tước hiệu mà Giáo hội Công giáo Rôma dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Hai tài liệu, được xuất bản trong thập niên 1640, một bằng tiếng Tây Ban Nha, một bằng tiếng Nahuatl (ngôn ngữ của người dân Aztec), cùng thuật lại một câu chuyện xảy ra trong khi đi bộ từ ngôi làng của mình đến thành phố Mexico vào sáng sớm ngày 9 tháng 12 năm 1531 (Ngày hôm sau là Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Đế quốc Tây Ban Nha)[53], nông dân Juan Diego thấy trên sườn đồi Tepeyac một cô gái chừng mười lăm mười sáu tuổi, được bao quanh bởi hào quang ánh sáng. Nói chuyện với anh ta bằng ngôn ngữ địa phương Nahuatl, Bà đã yêu cầu Juan Diego đi nói với giám mục xây dựng một nhà thờ ngay tại nơi đó. Từ những lời nói của bà, Juan Diego nhận ra đó chính là Đức Trinh Nữ Maria. Diego đã kể lại câu chuyện của mình với Tổng Giám Mục người Tây Ban Nha, Fray Juan de Zumárraga, người đã yêu cầu ông quay trở lại đồi Tepeyac để nói với người phụ nữ lạ là hãy cho một dấu hiệu để chứng minh. Dấu hiệu đầu tiên mà bà tỏ ra là việc chữa lành bệnh tật cho người chú của Juan. Đức Trinh Nữ nói với Juan Diego hãy leo lên đồi Tepeyac và hái những bông hồng. Mặc dù lúc đó đang là tháng mười hai đã rất muộn so với mùa hoa nở nhưng Juan Diego đã tìm thấy những bông hoa hồng Castilian trên đỉnh đồi cằn cỗi, không có nguồn gốc từ Mexico. Đức Trinh Nữ yêu cầu ông sắp xếp những bông hồng vào trong chiếc áo choàng tilma dệt bằng sợi xương rồng của mình. Điều kỳ lạ xảy ra khi Juan Diego mở áo choàng trước khi sự chứng kiến của giám mục Zumárraga vào ngày 12 tháng 12, những bông hoa rơi xuống sàn nhà nhưng ở vị trí đó lại xuất hiện hình ảnh của Đức Trinh Nữ Guadalupe một cách kỳ diệu được in trên vải[54].
Tước hiệu Đức Mẹ Akita là một tước hiệu của Đức Maria. Tước hiệu này bắt nguồn từ báo cáo về các cuộc hiện ra của Đức Mẹ vào năm 1973 bởi chị Agnes Katsuko Sasagawa ở Yuzawadai, gần thành phố Akita, Nhật Bản. Các thông điệp nhấn mạnh đến việc cầu nguyện và sám hối . Sasagawa nói rằng Đức Trinh Nữ Maria nói: "Hãy cầu nguyện rất nhiều bằng lời cầu nguyện của Kinh Mân Côi, Chỉ một mình Mẹ có thể cứu con khỏi thiên tai sắp tới. Những người đặt niềm tin nơi Mẹ sẽ được cứu"[55][56][57].
[sửa]Các ngày lễ kính
Các ngày lễ lớn đầu tiên liên quan đến bà Maria là ngày Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Trong Đền Thánh (Lễ Nến) có từ thế kỷ thứ 5, được tính theo ngày Lễ Giáng Sinh. Quan điểm này xuất phát từ việc Phúc Âm Luca (2:22-40) kể rằng, 40 ngày sau khi Chúa Giêsu giáng sinh, bà Maria đã đem con trẻ vào đền thờ Jerusalem để tận hiến theo phong tục của người Do Thái. Ngày nay, lễ này rơi vào ngày 15 tháng 2 (lịch Gregory) hoặc 2 tháng 2 (lịch Julian).
Theo thời gian, Kitô giáo xuất hiện nhiều ngày lễ gắn liền với sự kiện hoặc danh hiệu bà Maria cùng những việc thực hành tôn giáo kèm theo. Nhìnn chung, Giáo hội Công giáo Rôma có nhiều ngày lễ và nghi thức liên quan đến bà Maria hơn các nhánh Kitô giáo khác. Đặc biệt, một số ngày lễ có liên quan đến các sự kiện lịch sử cụ thể, ví dụ như Lễ Đức Mẹ Chiến Thắng được dựa trên sự thắng lợi của Nhà nước Giáo hoàng trong trận Lepanto năm 1571.
Sự khác biệt trong những ngày lễ về bà Maria cũng có thể bắt nguồn từ các vấn đề tín lý. Chẳng hạn, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ví dụ như vậy. Trong khi Công giáo cử hành lễ này trong ngày giả định là 15 tháng 8 thì một số nhánh Kitô giáo Đông phương cử hành ngày 28 tháng 8 (vì theo lịch Julian). Các giáo hội Tin Lành thì hầu như không hề có một ngày lễ nào về bà Maria.
[sửa]Giáo lý Kitô giáo liên quan
Theo học thuyết giáo lý Kitô giáo, Maria vẫn còn là một trinh nữ ít nhất là cho đến khi Chúa Giêsu được sinh ra (Mátthêu 1:25 và Luca 1:34-35). Hầu hết các giáo phái Tin Lành không tin Maria vẫn còn đồng trinh sau khi sinh của Chúa Giêsu vì sau đó bà còn sinh ra những người khác. Nhưng Công giáo Rôma, Chính thống phương Đông và một bộ phận Anh giáo vẫn tin Maria đồng trinh suốt phần còn lại của mình vì bà chỉ sinh duy nhất Chúa Giêsu mà thôi[58][59].
Các giáo hội Kitô giáo dạy nhiều học thuyết khác nhau liên quan đến Maria, và bà là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận. Có cả một bộ phận thần học Kitô giáo liên quan đến Maria được gọi là Mariology (Thánh Mẫu học). Những quan niệm cơ bản là việc mang thai Giêsu của bà được tin là do quyền năng Chúa Thánh Thần, và để ứng nghiệm lời tiên tri Isaiah rằng: "Một trinh nữ sẽ sinh một con trai và được gọi là Emmanuel" ("Thiên Chúa ở cùng chúng ta").
Công giáo Rôma, Anh giáo và Chính Thống giáo tôn kính với tước hiệu bà là "Mẹ Thiên Chúa" (Theotokos), người được Thiên Chúa ban ân sủng đặc biệt. Công giáo tin rằng, bà đã được sinh ra mà không có tội nguyên tổ, không có tội khi đang sống, cuộc sống ở trần gian là được Thiên Chúa chuẩn bị sẵn, khi hoàn tất thì cả hồn và xác được vào Thiên Đàng. Một số giáo phái Tin Lành bảo thủ không đề cập đến Maria trong học thuyết của họ. Maria cũng giữ một vị trí đáng tôn kính trong đạo Hồi.

:peace_sign::peace_sign::peace_sign::peace_sign: