kết quả từ 1 tới 5 trên 5

Ðề tài: GIÁO SĨ ĐẮC LỘ VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NA

  1. #1

    Talking GIÁO SĨ ĐẮC LỘ VÀ GIÁO HỘI CÔNG GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NA



    Chúng ta có cuốn Lịch sử Đàng Ngoài in tại Roma bằng tiếng Ý năm 1650, bằng tiếng Pháp 1651 và bằng tiếng Latinh 1652. Cuốn này Đắc Lộ đã viết năm 1636 tại Macao, viết bằng La ngữ. Khi về Roma, ông viết thêm và soạn lại bản tiếng Ý, mục đích gây dư luận và đánh động các hồng y và giáo quyền ở thủ đô Giáo hội. Như Borri đã làm, ông chia cuốn sách này ra làm hai phần rõ rệt, phần một giới thiệu Đàng Ngoài với danh hiệu, địa lý, thổ sản, phong tục, văn hóa, tiếng nói, lịch sử và phần hai là lịch sử việc truyền giáo ở Đàng Ngoài kể từ 1626 cho tới năm 1646. Sách dày 326 trang, bản tiếng Pháp.

    PHẦN MỘT - I. ĐI RAO GIẢNG

    [1]

    Không phải chỉ tới năm 1615 mới có người đến giảng đạo ở nước Việt Nam. Trước đây mấy chục năm, đã có các tu sĩ dòng Phan Sinh, dòng Đa Minh, dòng Autinh tới nước ta, đi theo các tàu buôn làm tuyên úy. Nhưng họ không ở lâu, họ thường làm việc linh hồn nơi các thủy thủ, họ chưa chủ ý làm việc truyền giáo lâu dài trên đất nước ta.

    Thực ra, vì có sự bắt đạo ở Nhật nên các giáo sĩ dòng Tên được chỉ định đi Nhật đều trở thành thất nghiệp: họ đã nghĩ tới cái nước Việt Nam bé nhỏ cho tới nay ít thương gia để ý tới. Do đó năm 1615 cha Buzomi người Ý và một thày Nhật đã tới Đàng Trong. Buzomi đã thông thạo tiếng Nhật, nhưng vì đã có tuổi, nên học tiếng Việt rất chậm. Bề trên ở Macao liền phái những người trẻ hơn tới. Năm 1617 có Francois de Pina, người Bồ. De Pina cũng đã học tiếng Nhật, nhưng vì còn trẻ lại có khiếu, nên học tiếng rất giỏi.

    Năm 1618 khi Borri tới thì đã thấy de Pina giảng mà không cần thông dịch viên, trái lại Buzomi vẫn cần tới người thông dịch, mà phiên dịch rất sai, rất vụng. Năm 1624, Đắc Lộ được phái tới Đàng Trong. Như đã có một duyên nợ gì với Việt Nam, Đắc Lộ rất thích thú khi nghe người bản xứ nói: họ không nói mà hát, giọng họ líu lo như chim hót, nhất là khi phụ nữ nói. Đắc Lộ đã bắt đầu nản, vì làm thế nào có thể học được. Thế nhưng ông đã thấy người đồng sự của ông là Francois de Pina nói rất giỏi tiếng Việt. Và ông kiên trì và quyết tâm học. De Pina dạy ông, lại thêm cậu bé Đàng Trong nữa. Ông tỏ ra rất có khả năng: sau bốn tháng ông đã có thể ngồi tòa giải tội và sau sáu tháng đã giảng được bằng tiếng Việt.

    Ông theo De Pina tới thăm bà Minh Đức Vương Thái Phi, thứ phi của Nguyễn Hoàng. Bà này đã theo đạo khi được nghe cha De Pina giảng. Nhưng rủi thay, cha De Pina đã chết đuối năm 1625 khi đi thăm các thủy thủ người Bồ cập bến Hội An. Đắc Lộ không viết nhiều về hoạt động của ông trong thời kỳ này. Tuy nhiên, người ta được biết là công cuộc truyền giáo tiến triển rất khả quan. Đã có một tập sách giáo lý đại cương được soạn bằng tiếng Đàng Trong, hẳn là bằng chữ nôm và có thể có một bản chữ quốc ngữ. Hẳn cũng có một cuốn từ vựng để tiện cho việc học hỏi tiếng Việt. Công cuộc này chắc phải có tay của De Pina trước hết và sau này có Gaspar Luis tới đây năm 1625.

    Chúa Nguyễn Phúc Nguyên và người con trưởng là hoàng tử Kỳ rất quí mến các giáo sĩ. Họ vừa phục tài vừa trọng đức các người xa lạ đến đây. Họ rất thích thú khi được nghe nói rành rọt những hiện tượng về thiên văn địa lý, nhất là tính toán xác đáng những ngày, những đêm xảy ra nhật thực, nguyệt thực. Các nhà toán học của họ còn khá lờ mờ, còn tính sai từng mấy ngày, nếu so với cách tính của các giáo sĩ.

    Nhưng năm 1626, lần đầu tiên có thương thuyền người Bồ đưa cha Baldinotti và một thày trợ sĩ người Nhật tới Kẻ Chợ Đàng Ngoài. Vì là lần đầu tiên, nên hành trình đã kéo dài hơn một tháng. Tới Kẻ Chợ, phái đoàn được Trịnh Tráng đón tiếp ân cần. Vì dẫu sao, Trịnh Tráng cũng đã biết, Nguyễn Phúc Nguyên ở Đàng Trong đã được người Bồ giúp đỡ về vũ khí và đạn dược. Đến lượt ông, ông có dịp cậy nhờ họ. Vả sự buôn bán trao đổi giữa hai bên, cũng có đường thuận tiện cho ông.

    Trịnh Tráng đã mấy lần đàm thoại, đúng hơn bút thoại với nhà truyền giáo khiêm tốn. Ông được mở tầm con mắt, hiểu biết những kiến thức mới, không những về thiên văn địa lý, mà còn về cả máy móc, cơ giới và những sản phẩm lạ của ngoại quốc. Về phía nhà truyền giáo, Baldinotti chỉ muốn chinh phục người bản xứ. Nhưng khổ một điều, giáo sĩ không hiểu, không nói được tiếng Việt. Baldinotti liền bí mật, hết sức bí mật phái một người vào Đàng Trong, xin Bề trên sai một người thông thạo tiếng ra Đàng Ngoài. Nhưng cha dặn chớ đi thẳng từ Đàng Trong mà phải về Macao đã, rồi mới từ Macao tới Đàng Ngoài, để tránh nghi ngờ của Trịnh Tráng, lúc này là thù địch của Nguyễn Phúc Nguyên.

    Đàng Trong, người ta đã nghĩ ngay đến Đắc Lộ và Đắc Lộ được chỉ định về Macao, rồi từ Macao tới Đàng Ngoài. Tháng 7 năm 1626 Đắc Lộ rời bỏ Đàng Trong trở về Macao để rồi ngày 12 tháng 3 năm 1627 bỏ Macao tới Đàng Ngoài. Lần này, các thủy thủ đã quen đường lại gặp may mắn thuận buồm xuôi gió, chỉ một tuần, đúng một tuần, tàu đã cập bến Cửa Bạng thuộc Thanh Hóa, đúng ngày lễ kính thánh Giuse 19 tháng 3. Thấy rất đông người kéo đến xem người ngoại quốc, Đắc Lộ vì nói sõi tiếng Đàng Trong, đã lên tiếng thay viên thuyền trưởng trả lời những câu người bản xứ hỏi. Và ông cũng đã giảng bài đầu tiên trên đất Đàng Ngoài.

    o0o

    CHÚ THÍCH

    [1]. "Câu truyện các nữ tu đã làm cho bà đau đớn khôn tả, và bà rất mực quí mến, đến nỗi bà không sao rời bỏ các nữ tu được. Để cho nhẹ bớt những tâm tình nhớ thương, sau lúc li biệt vội vàng thì bà muốn được một bộ áo dòng, để cho khi bà nhắm mắt lìa đời, bà được khâm liệm trong tấm áo đó. Các nữ tu vui lòng nhận tặng bà với tất cả bằng chứng về sự thương yêu tương hỗ, rồi các bà từ biệt nhau sau những cái hôn thánh thiện và tất cả những sự trỚuvm nấc a tình bác ái toàn vẹn, rồi ngày sau đó, các nữ tu bỏ về hải cảng Đà Nẵng" (De Rhodes, Tường Trình về Đàng Trong).
    Trong Hành Trình, Đắc Lộ viết câu truyện này và thêm một vài chi tiết: "Còn bà Maria, bà dì của chúa, bà đã tới đón họ trong một chiếc thuyền đậu thật xa bến. Bà tỏ tình, quyến luyến và tặng nhiều quà. Bà rất trọng tấm áo dòng của các nữ tu. Còn các nữ tu thì tạm tặng bà một dây thắt lưng bằng thừng chão, và hứa sẽ gửi biếu sau một áo dòng. Và thực ra các nữ tu đã trung thành giữ lời hứa khi tới đất Phi Luật Tân".

    II. PHƯƠNG PHÁP DẠY GIÁO LÍ

    Trong Hành Trình và Truyền Giáo, Đắc Lộ kể lại rằng: khi tới Goa ở Ấn độ, ông thấy người ta bắt người Ấn độ khi theo đạo thì cởi bỏ y phục bản xứ mà mặc theo người Bồ, tức người Âu châu. Cũng vậy, khi ông tới Trung quốc, ông thấy người ta bắt dân Trung quốc khi theo đạo thì phải cắt tóc ngắn theo kiểu để tóc ngắn của người Bồ, tức người Âu châu. Đắc Lộ đã phản đối việc làm sai trái này, vì đạo Chúa đòi hỏi con người những niềm tin mới, còn cách ăn mặc thì theo dân tộc mỗi dân mỗi nước.

    Việc này tỏ ra Đắc Lộ đã có một phương pháp trình bày giáo lí thích hợp với một nền văn minh rất cổ như ở Trung quốc và một phần nào ở Việt Nam. Hẳn Đắc Lộ có chịu ảnh hưởng phương pháp trình bày giáo lí của hai giáo sĩ người Ý hoạt động ở Trung quốc trước đây mấy chục năm.

    Năm 1584 giáo sĩ Micae Ruggieri, người Ý, thường gọi là Minh Kiên đã cho in tại Trung quốc cuốn Thiên Chúa thực lục chính văn để trình bày giáo lí công giáo cho người Trung Hoa. Cuốn này, năm 1585 đã được tặng cho một viên quan Việt Nam đi Bắc Kinh. Ông quan này đã đưa về nhà làm của quí truyền lại cho con cháu. Khi Đắc Lộ giảng ở Kẻ Chợ thì có một người đưa cho ông cuốn đó coi và ông nhận thấy ngay đây là cuốn chứa đựng những giáo lí như giáo lí ông đang giảng dạy. Vào năm 1603 giáo sĩ Mathêu Ricci thường gọi là Lợi Mã Đậu đã cho hủy những bản khắc cuốn của Minh Kiên và cho ấn hành cuốn Thiên Chúa thực nghĩa để thay thế vào. Hẳn là khi Đắc Lộ tới Đàng Ngoài, ông đã mang theo một vài cuốn vì đã có lần ông đưa sách cho mấy người nho học đọc.

    Phương pháp của Đắc Lộ đã được trình bày về nguyên tắc trong một chương Lịch sử Đàng Ngoài. Đại khái ông nói: có người chủ trương theo lời đấng tiên tri, đó là trước hết phải hủy diệt để rồi xây dựng sau. Dĩ nhiên cũng không phải xây dựng trước khi hủy diệt. Ông chủ trương một con đường trung dung, có nghĩa là thoạt đầu hãy cho con người công nhận những lẽ phải tự nhiên về một đấng Tạo Hóa, những điều con người suy nghĩ về lẽ tự nhiên, sau đó mới đề cập tới lí thuyết về một Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ và duy trì vũ trụ, để rồi mới nói tới những mầu nhiệm cao cả của đạo, sau khi đã bác bỏ những sai lạc. Nếu bắt đầu bác bỏ những tin tưởng cố hữu của họ thì làm cho họ bất bình và như thế khó cho họ nhận những giáo thuyết của chúng ta.

    Phương pháp trung dung này đã được đem ra thi hành trong cuốn Phép Giảng tám ngày. Cũng phải nói ngay rằng: cuốn phép giảng không phải là cuốn giáo lí đại cương, vắn tắt với câu hỏi và lời thưa, nhưng là những bài diễn giải, suy luận dành riêng cho người giảng, người thuyết giáo. Cuốn sách không chia riêng thành chương mà thành tất cả tám ngày. Ngày thứ nhất và ngày thứ hai, đề cập tới những vấn đề chung chung về ước muốn thâm sâu của con người về một thứ hạnh phúc lâu bền, một ít quan niệm về thượng đế, về vũ trụ và loài người, về cái nguyên lí đầu hết của mọi vật. Đến ngày thứ ba, mới nói tới công cuộc sáng tạo các thiên thần, nhất là việc Thiên Chúa dựng nên vũ trụ, vạn vật và loài người trong sáu ngày theo sách Sáng thế. Về điểm này, rất có thể khá thích hợp với bản năng con người Việt Nam, những người vốn tin có một "Ông Trời" làm nên trăng, sao, mây, nước và vạn vật. Cho tới ngày thứ bốn sau khi nói qua về Đại Hồng Thủy và Noe với tháp Babel, thì mới bắt đầu vạch trần những sai lạc vốn có trong ba thứ đạo cổ truyền gia nhập từ Trung quốc đó là tam giáo Phật, Lão, Khổng và một số tin tưởng dân gian khác.

    Cũng phải nói ngay rằng, những phê phán của Đắc Lộ vẫn còn có những khắt khe thuộc chủ quan, những lệch lạc vì chưa hiểu rõ ba giáo lí uyên thâm đã làm nên con người Việt Nam kể từ lâu đời. Đặc biệt đối với Phật giáo, Đắc Lộ đã có những lời lẽ làm chói tai độc giả ngày nay. Dầu sao nếu ông chưa hiểu giáo lí đạo Phật và học thuyết của Lão Tử, thì ông cũng có một chút cởi mở đối với việc "thờ kính" đức Khổng Tử. Còn dĩ nhiên ông thóa mạ những tập tục đốt vàng, đốt mã kính vong linh người chết, cũng như những dị đoan mê tín khá phổ thông nơi dân gian thời đó.

    Rồi mãi tới ngày thứ năm, ông mới giảng về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi rồi tiếp sau mới nói tới Mầu Nhiệm Chúa làm người và chuộc tội thiên hạ. Tới ngày thứ tám, sau khi giảng về phán xét chung thì đề cập tới Mười điều răn để rồi bắt đầu dạy những điều cần thiết để chịu Phép Rửa Tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời. Nói đạo thánh Đức Chúa Trời, chứ không phải đạo Pha Lang hay Phất Lang, có ý chỉ đạo người Bồ, hay đạo Hoa Lang, một cách phát âm khác của Pha Lang, người Bồ.

    Có hai điểm làm chúng tôi rất thích thú, một là khi Đắc Lộ sử dụng những quan niệm hay tư tưởng các nhà nho ta lúc đó để đưa họ về giáo lí đạo Chúa, hai là những lí luận cổ điển phái Tômít để diễn giảng về Thiên Chúa và Ba Ngôi Thiên Chúa.

    Mở đầu lời giảng ngày thứ nhất trong Phép Giảng, Đắc Lộ nói: "Ta cầu cùng Đ.C.T. giúp sức cho ta biết tỏ tường đạo Chúa là nhường nào. Vì vậy ta phải hay ở thế này chẳng có ai sống lâu: vì chưng kẻ đến bảy tám mươi tuổi chẳng có nhiều".

    Không phải mãi cho tới năm 1969, người ta mới nghe nói tới câu thơ của Đỗ Phủ "nhân sinh thất thập cổ lai hi" nghĩa là "người thọ 70 xưa nay hiếm". Nhà thơ danh tiếng của chúng ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm, từ thế kỉ 16 đã viết: "nhất nhân sinh bảy tám mươi". Và Đắc Lộ đã học biết điều đó. Ông nắm lấy cơ hội để đưa người ta vào một suy nghĩ triết học và thần học: ước muốn trường sinh đắc đạo và cách thế để đạt tới. Thật là đặc biệt.

    Rồi Đắc Lộ lại tung ra câu nói trong dân gian, tương tự như thế này: phô ông thường nói "sinh kí, tử qui", như vậy phô ông chủ trương cuộc sống này thế nào. Sống gửi thác về, sống gửi là sống tạm bợ, còn chết về mới là về đời sau bền vững lâu dài. mấy giòng sau, Đắc Lộ còn như ngây ngô nói: "sinh là kí dã, tử là qui dã". Câu nói khấp khểnh, vụng về, ngây thơ vừa Hán vừa Nôm này đã làm cho nhà học giả Nguyễn Văn Tố rất đắc ý. Thật là tuyệt: sinh là kí dã, tử là qui dã. Vậy đã là tạm bợ thì phải tìm đàng nào cho được sống lâu mãi mãi. Hẳn vì thấy nhà nho của ta rất thích nói chữ, rất hay trưng câu thánh hiền, trích dẫn nơi sách nho, từ Tứ Thư Ngũ Kinh, nên Đắc Lộ cũng ném ra mấy câu chữ nho. Ông giảng: "Có chữ Annam nói rằng: Kiên thằng khả kế ngưu giác, lí ngữ năng phục nhân tâm, dây bền khá buộc được sừng trâu, lẽ thật khá phục được lòng người ta", như vậy, nếu là đạo lí đạo phải thì phô ông phải tin theo chứ. Và Đắc Lộ tiếp tục thỉnh thoảng lại đưa ra một vài chữ nho khác. Phô ông nói: thiên phú địa tái thì có nghĩa gì? Có nghĩa là trời che đất chở. Đã là trời che đất chở thì không thể là đối tượng cho ta thờ được. Hơn nữa tại sao phô ông nói: Nữ oa phụ thạch đới thiên, "đàn bà gọi là Oa đội đá vá trời", trời rách nát gì mà phải vá. Rồi phô ông còn viết: từ tạo thiên lập địa. Như vậy phải có một sự tạo dựng nào đó chứ. Và sau đây là lời lẽ Đắc Lộ tung ra để minh chứng Đấng tạo thành trời đất và muôn vật, chúa trời đất, Đức Chúa trời đất, đây mới chính là "thiên địa vạn hữu chi chân Chúa". Khi bác bỏ những cái sai lệch của Lão Tử, của Đạo Giáo, Đắc Lộ cũng tỏ mình như đã có đọc tới Đạo Đức Kinh, khi ông nói tại sao người ta lại viết: "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật". Cái hay ở đây là giáo sĩ đã chọn một số câu nói thông dụng để tấn công vào tư tưởng hủ nho của ta và để trình bày hay đúng hơn dọn đường trình bày giáo lí.

    Biết các nhà nho của ta theo thuyết duy lí, lấy lí lẽ suy luận làm cơ sở cho hành động, Đắc Lộ hơn một lần cho họ thấy khía cạnh hữu lí của đạo giáo. Ông viết: "Có phải mlẽ thì phải làm, chẳng phải thì chớ" (tr.17). Hoặc: "ví bàng phải mlẽ thì thờ, chẳng phải mlẽ thì chớ" (tr.31). Vào cuối sách, ngày sau cùng, ngày thứ tám, Đắc Lộ nhắc lại các nguyên tắc đẹp đẽ đó như sau: "cho nên ta thấy sự gì phải mlẽ thì ta theo, mà ta xem việc gì tlái mlẽ thì ta tlánh" (tr.278-279).
    VietCatholic News (06/05/2005) Giáo sĩ Đắc Lộ (1593-1660): Phương pháp dạy giáo lí [2]

    Đắc Lộ đi vào thần học về Thiên Chúa, theo lí thuyết kinh viện hay Tômít về một nguyên lí đệ nhất. Theo chúng tôi thì cái lối suy luận, biện luận này khá mới đối với giới trí thức của ta thời đó. Họ lâu năm dùi mài kinh sử, nghiền ngẫm sách thánh hiền, nhưng thực ra đầu óc họ đầy chữ nghĩa mà vẫn rỗng tuếch. Khi đi thi hội, thi đình để đỗ ông nghè ông cống, đề tài nhà vua nhà chúa đưa ra thường thuộc về phép trị dân, về những thời Ngũ Đế, thời Thuấn Nghiêu. Hơn nữa bài luận thuyết một là bị hạn chế bởi những điều kiêng kị, hai là phải biết nịnh kẻ cầm quyền. Có thể là lần đầu tiên, họ nghe một người đưa ra lí luận như sau:

    "Bây giờ phải giảng thật Đức Chúa Trời là ai, Đức Chúa Trời ở đâu, bởi đâu có Đức Chúa Trời. Sự sau này cho ta giảng trước. Ta nói rằng thật Chúa trời đất chẳng ai làm mà có, vì chưng Đức Chúa Trời là cội rễ đầu, làm mọi sự". Đắc Lộ đã tìm được một từ ngữ rất nôm, rất bình dân, rất ảnh hưởng để dịch một từ triết học và thần học "causa efficiens", nguyên nhân tác thành. mấy giòng dưới, bản latinh còn đổi chữ "causa efficiens" thành "radix et causa", nghĩa là phối hợp hai từ lại để chỉ một thực tại, đầu cội rễ mọi sự. Và từ tư tưởng về cội rễ này Đắc Lộ đưa ra thí dụ về nguồn cội cây cối chứng tỏ phải có một căn nguyên mọi sự. Chữ "căn nguyên" này cũng được dùng tới. Rồi ông chứng minh Ngọc Hoàng, Mục Mũi đều không phải là Đấng tạo thành thiên địa vạn vật.

    Khi luận về bản tính Đức Chúa Trời thì Đắc Lộ đã đưa ra những lí luận thuộc siêu hình, thuộc thần học kinh viện và đối với thính giả thời đó, những lí luận này rất lạ, rất mới. Đức Chúa Trời "thật có phép hay biết vô cùng", dịch từ chữ latinh là "infinita potentia & sapientia", Đức Chúa Trời "thật là tính thiêng liêng vô cùng mà chớ", dịch từ chữ latinh "infinita ejus Divinitas et essentia infinita". Tính, bản tính, căn nguyên đều là tiếng từ ngữ học thuyết kinh điển.

    Ông tiếp tục: "Ví bằng tính Đức Chúa Trời là tính có cùng, lại có phép và hay biết vô cùng, làm sao được?", nhà nho thời xưa lí luận với những bồ chữ "chi hồ giả dã", nhưng không đi ra ngoài môn học từ chương. Đắc Lộ vẫn giảng về Đức Chúa Trời hằng có "mà chẳng có trước cũng chẳng có sau, vì tính vô cùng thật là phải có hằng sống vô cùng, bằng tính vô cùng".

    trên đây chúng ta đã thấy Đắc Lộ lấy tư tưởng trường sinh bất tử trong đạo Lão, nghiền ngẫm qua các thi gia của ta, như một Nguyễn Bỉnh Khiêm, một thi gia nào khác đó thời Hồng Đức, tới đây, ông lại dùng tới chữ "thanh nhàn" để chỉ trạng thái "niết bàn" trên thiên quốc, trạng thái hay đúng hơn bản tính Thiên Chúa trên Nước Người. Ông viết: "Trong mình (ĐCT) rất vui vẻ, vì trong mình duy (vốn) có mọi sự vui vô cùng; khi chưa có thế giới này, cũng đã vui vẻ, mà dầu chẳng có ai nữa, một Đức Chúa Trời cũng trọn vui vẻ, thanh nhàn vô cùng".

    Cái lí tưởng của đạo Nho nhuộm màu Lão Tử thời xưa, ít ra ở một số nho gia, đó là sự thanh nhàn vô sự, "thanh nhàn vô sự tiểu thần tiên" như Nguyễn Bỉnh Khiêm viết, vô sự là không vướng mắc trách nhiệm triều đình, hết chức vụ làm quan, thời kì nghỉ ngơi, hạnh phúc. Tư tưởng thanh nhàn vui vẻ này từ ba thế kỉ vẫn là tư tưởng then chốt trong sách bổn của chúng ta, bởi vì câu đầu trong sách bổn là câu: Hỏi phải làm đí gì cho được thanh nhàn vui vẻ vô cùng? Thưa, Phải giữ đạo thánh Đức Chúa Trời. Tất cả từ ngữ lẫn tư tưởng đều lấy từ Đắc Lộ, trong Phép Giảng tám ngày, trong thần học của Đắc Lộ vậy. Mãi cho tới những năm 1965-1967 khi sửa lại sách bổn, người ta mới thay thế câu hỏi trên bằng: Hỏi: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa: Ta sống ở đời này để nhận biết, thờ phượng và kính mến v.v.

    Cuốn Yếu lí của Giáo hội công giáo 1992 bắt đầu bằng khát vọng Thiên Chúa của con người ta: "Khát vọng Thiên Chúa được ghi trong lòng con người". Phép Giảng bắt đầu bằng:

    "Ta cầu cùng Đức Chúa Lời giúp sức cho ta biết tỏ tuầng đạo Chúa là nhuầng nào. Vì vậy ta phải hay ở thế nầy chẳng có ai sống lâu vì chưng kẻ đến bảy tám mươi tuểi chẳng có nhèo vì vậy ta nên tìm đàng nào cho ta được sống lâu là kiếm hàng sống vậy".

    Trên đây là luận về một "thiên địa vạn vật chân Chúa", còn khi diễn giảng về "tam vị nhất thể Thiên Chúa giả" thì Đắc Lộ đã đề cập tới như thế nào? Như chúng ta đã biết, Đắc Lộ không nói về Ba Ngôi ngay ở chương đầu, ngày thứ nhất. Mãi tới ngày thứ năm, ông mới bàn tới. Nhưng trước khi diễn giảng, ông đã rào trước đón sau, chuẩn bị cho người ta hiểu và nhận một mầu nhiệm trọng đại. Bởi vì nếu cho tới đây người ta có thể nhận một Chúa trời đất, nhưng chưa chắc đã chịu một lí lẽ về một Chúa Ba Ngôi. Ông viết: "Rày thì giảng hai điều nhất trong đạo thánh Đức Chúa Trời, và rất siêu nhiệm cũng rất cao là đều giảng (Sanctissima Trinitas) lời nói chẳng hết lẽ sốt, và đều giảng phép cả Đức Chúa blời ra đời, làm cho ta hãi".

    Cũng nên biết là Đắc Lộ nhất định không dùng "Thánh Thần" để chỉ Đức Chúa Thánh Thần. Ông nhận chữ "thiên thần" để chỉ đức thánh thiên thần, thần trời. Bởi vì theo ông, chữ "thần" còn nhuốm quá mầu sắc ngoại giáo: dân gian người ta tin thần, quỉ, tà thần, hung thần, thần sông, thần núi, thần gió, thần biển... đâu đâu cũng có thần. Cho nên Đắc Lộ vẫn giữ nguyên văn La ngữ hay Bồ ngữ "Sanctissima Trinitas" hay "Sanctissima Trinidade" và nhất là Spiritus Sanctus hay Spirito Sancto (Thánh Thần). Dẫu sao, chúng ta đã có "tam vị nhất thể" và "ba ngôi một tính", vị là ngôi, thể là tính. Ông còn nói: một tính, một tòa. Ba ngôi đó là đức Cha, đức Con, và đức Spiritus Sanctus. Đắc Lộ cắt nghĩa: "là đức Cha, thật là Cha vì đẻ ra Con hằng vô cùng vậy, lại đức Con thật là Con vì có Cha đẻ hằng vô cùng vậy mà lại đức Chúa Trời là đức Spirito Sancto, thật là Spirito Sancto, vì chịu thông qua hằng vô cùng bởi đức Cha và bởi đức Con yêu nhau vậy".

    Theo đúng thần học kinh viện, Đắc Lộ tiếp tục diễn giải về liên quan giữa Ngôi Cha và Ngôi Con: "Đức Chúa blời là đức Cha hằng biết bậc trọn lành mình vô cùng mà sinh ra ảnh thiêng mình hay là lời vô cùng mà thông ra trót tính mình, cho ra đức Con cũng bằng đức Cha". Hình ảnh là tiếng thánh Phaolo dùng để chỉ Con Thiên Chúa và lời là từ ngữ thánh Gioan viết ngay ở chương đầu sách Phúc âm của Ngài. mấy giòng sau, Đắc Lộ còn tiếp tục giảng: "Đức Cha xem thấy tính thiêng liêng mình như gương rất sáng, vậy thì đẻ ra ảnh mình rất khéo rất sáng mà tự nhiên thì thông ra trót tính mình cho ảnh ấy, mà bức ảnh ấy là đức Lời đức Chúa trời hằng có vậy". Chúng tôi có cảm tưởng một cách thô kệch, là người thời đó cũng hẳn chỉ coi như những lời bí ẩn trong Đạo đức Kinh của Lão Tử hay trong Kinh dịch huyền nhiệm, nhưng diễn giải bằng chữ bình dân, bằng lời nói thông thường mà thôi. Về Chúa Thánh Thần, Đắc Lộ viết: "Sự đức Cha cùng đức Con yêu nhau vô cùng làm vậy, gọi là đức Spirito Sancto...". Nói tóm lại là "đức Cha và đức Con và đức Spirito Sancto, cùng một Đức Chúa Trời, là một tính mà thôi thì có ba ngôi, là căn nguyên và cội rễ đầu mọi sự, và mọi sự thì cùng về một Đức Chúa Trời".

    Riêng về những từ ngữ vẫn còn là tiếng Latinh thì thực ra cũng không gây phiền hà khó khăn gì. Phật giáo truyền qua nước ta do ngả Trung quốc là phần nhất, nên người ta vẫn tụng kinh bằng chữ Hán và vẫn còn có nhiều câu vẫn bằng tiếng phạn. Chỉ sau này, dần dần, chúng ta mới dịch toàn thể từ ngữ thần học ra chữ nôm hay chữ Việt, tiếng Việt.

    Trên đây, chúng tôi mới chỉ vắn tắt trình bày một vài điểm có thể gọi là chính yếu trong việc dẫn giải thần học và giáo lí. Phải đọc lại để một là nhận thấy sự cố gắng của tác giả, hai là để thưởng thức cái hương vị ngọt ngào của những bản văn đơn sơ, ngô nghê nhưng không kém phần sâu sắc./.

    o0o

    CHÚ THÍCH

    [2]. "Khi tôi đến từ biệt ông, thì tôi rõ ràng tỏ tâm tình tôi giữ trong lòng và thấy ông đã tới tuổi thọ bát tuần và hơn nữa, thế nhưng tới nay, vẫn trì hoãn, chưa theo đạo là đàng thật, đàng độc nhất cứu rỗi đời đời; bà vợ cũng hết sức sốt sáng khuyên dụ ông xin chịu phép thánh tẩy. Tôi nhận được lời từ lâu mong đợi, là ông tự nguyện trao thân trong tay tôi và tôi tùy ý dạy đạo cho ông. Thế là tôi bắt đầu giảng mấy điều chính yếu trong đạo, nhưng phải tỏ cho ông biết những việc phải làm, những điều phải nhận khi thành Kitô hữu...".

    Sau khi viên cựu trấn thủ có bà vợ công giáo này từ chối, thì Đắc Lộ viết cảm tưởng như sau:

    "Tôi đành để ông trong tình trạng khốn đốn và rất tiếc, chỉ bắt ông tự tay viết những tên thánh Jesu Maria và khuyên ông nên luôn cầu khẩn các ngài giúp đỡ. Tôi mong rằng Thiên Chúa sẽ thương ông khi cần, dựa vào sự cần mẫn và săn sóc liên tục của bà vợ rất lành thánh, bà coi sự hèn nhát của ông như một nhát dao đâm vào lòng bà".

    III. PHỤNG VỤ VÀ NGHI LỄ

    Không phải chỉ với Đắc Lộ, chúng ta mới có phụng vụ và nghi lễ. Nhưng nhờ Đắc Lộ và qua Đắc Lộ, chúng ta biết tổ chức nghi lễ ở thời này như thế nào. Trước hết là vấn đề lịch phụng vụ. nước ta vào thế kỉ này, việc soạn lịch kể là tối quan trọng. Chính quyền có một cơ quan, một bộ lễ để soạn lịch, nhưng đúng hơn, người của chúng ta ít có khả năng để soạn lịch; nói chung, phụng lĩnh lịch Trung quốc và ngày phát lịch là cả một nghi lễ trang trọng. Nơi dân gian, người ta biết các tháng trong năm và mỗi tháng có hai ngày trọng đại là ngày mồng một và ngày rằm theo cách tính mặt trăng. Lịch công giáo lại tính theo mặt trời, không theo mồng một ngày rằm, không theo thượng trung hạ tuần mà theo tuần lễ bảy ngày. Chính ra ngày thứ bảy là ngày Sabbato, ngày Thiên Chúa nghỉ sau khi tạo dựng vũ trụ và loài người trong sáu ngày. Nhưng trong Tân Ước thì Đức Giêsu đã sống lại ngày đầu trong tuần bảy ngày của người Do thái. Do đó chúng ta lấy ngày thứ nhất là ngày của Chúa, chủ nhật, ngày Chúa phục sinh. Vậy cần thiết làm lịch, không những để biết những ngày lễ chính yếu và các mùa liên hệ trong năm như mùa Vọng và Sinh nhật, mùa Chay và Phục sinh, mà còn các ngày của Chúa, chủ nhật, và ngày thứ sáu lúc đó còn giữ kiêng khem nghiêm chỉnh. Đắc Lộ nói đã cho khắc gỗ in lịch và phân phát cho các giáo đoàn qua trung gian các thày giảng và giáo dân hữu trách. Ông kể lại một câu chuyện hi hữu: ở một cộng đoàn kia, trong giáo dân không ai biết đọc, dĩ nhiên là chữ nôm, do đó phải thuê một "kẻ ngoại" đến nhà thờ đọc lịch và đọc sách thiêng liêng cho bổn đạo nghe.

    Đắc Lộ cũng cho biết giáo dân có thói quen hội nhau, đặc biệt là ngày chủ nhật, để đọc kinh và nghe sách, nghe thư chung giáo sĩ gửi tới. Vì thiếu linh mục nên giáo dân tổ chức với nhau. Việc đọc kinh sáng tối ở nhà cũng có từ thời này. Đắc Lộ kể đã có một lần giáo dân bí mật đến gặp giáo sĩ: họ đã bị phát giác chỉ vì ngay mới tinh sương, họ đã đọc kinh sáng làm cho lính canh để ý.

    Lễ Sinh nhật được cử hành rất cảm động, ở nhà thờ cũng như ở nhà tư. Thày Y Nhã đã một lần dự lễ Sinh nhật ở tư dinh bà Maria. Đã có thày giảng biết làm hang đá và trang hoàng đẹp đẽ, mĩ thuật. Hãy nghe Đắc Lộ nói về lễ Giáng sinh năm 1644 ở một thôn xóm thuộc Đàng Trong, tại một nhà giáo dân tên là Gioan Hảo, hình như ở Nước Mặn thuộc Qui Nhơn, nơi người dân làm muối:

    "Đây mới thật sốt sáng mừng đêm Giáng sinh: nửa đêm thanh vắng, tôi cứ tưởng như thấy mọi ánh sáng thiên đàng. Tôi không nói tới nguồn an ủi tôi nhận được ở đây, nhưng tôi quyết rằng trong những nhà thờ đẹp nhất, trong những bản nhạc hay nhất bên trời Âu, chưa bao giờ tôi thấy có gì tương tự, không ai thấu được, chỉ người đã thưởng thức mới biết mà thôi. Vào tảng sáng, tôi ra lệnh cho mọi người rút lui vì tôi vẫn nơm nớp sợ những gì có thể xảy ra khi chúng tôi chia tay".

    Đây là lời Đắc Lộ viết lại trong Hành trình xuất bản tại Paris năm 1653. Còn ở bản tường trình viết ngay tại Macao năm 1645 thì ông chỉ viết vắn tắt, nhưng có mấy chi tiết cảm động. "Trong làng này tôi đã mừng lễ Giáng sinh trong một nhà rộng lớn đã trang trí tươm tất, nhà này thuộc một người tên là Nicola Hảo, một Kitô hữu kì cựu nhất, đã được chịu phép rửa tội từ 25 năm nay do cha FranỄois Buzomi thuộc dòng chúng tôi và là người đầu tiên tới khu truyền giáo này năm 1615".

    Tới mùa Phục sinh, thì thật là cả một phương pháp giáo huấn và sống phụng vụ dồi dào. Đắc Lộ cho biết, một lần đi thuyền biển vào mùa Chay và Tuần thánh. Lúc dạt vào một hòn đảo, ngài đã cho các thày giảng lấy lá dừa rất có nhiều ở đảo này làm lá để rước lá. Rồi tới ba ngày thánh vì không đủ phương tiện hát kinh theo nghi lễ giáo hội thì Đắc Lộ soạn 15 ngắm, cứ sau mỗi ngắm thì tắt một trong 15 ngọn nến thắp sáng, theo thể thức hát kinh đêm trong ba ngày thánh. Đắc Lộ viết trong Lịch sử Đàng Ngoài:

    "Để cho họ khỏi bị thiệt thòi, thì chúng tôi đã chia các mầu nhiệm thương khó làm 15 đề tài chính. Cứ sau khi đọc chung mười kinh chuỗi hạt thì ngắm một đoạn và suy niệm một trong 15 sự thương khó, sau mỗi lần như thế thì lại tắt một trong 15 ngọn nến sáng theo tục lệ trong giáo hội Roma. Trong nghi lễ, họ khóc lóc, kêu gào và rên rỉ tỏ lòng thương mến những thống khổ và cái chết của Chúa Cứu Thế, người lân cận cũng đến nghe".

    Lại còn lễ Nến, Đắc Lộ cũng làm phép Nến rồi cho giáo dân đem nến phép về nhà để thắp khi có người qua đời. "Nến làm phép này giúp họ trong giai đoạn tối hậu và nguy hiểm của đời sống, để xua đuổi tướng lãnh tối tăm và địch thù ơn cứu rỗi".

    Đắc Lộ cũng cho thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, những ngày khá nguy hiểm theo ông, vì có nhiều tục lệ mà ông cho là dị đoan mê tín như dựng cây nêu, cúng bái tổ tiên, hái lộc nơi các đền điện chùa chiền. Thay vì cây nêu thì dựng cây thánh giá, ngày mồng Một kính Thiên Chúa Cha, Đấng tạo thành thiên địa, ngày mồng Hai nhận biết ơn Cứu chuộc kính dâng Con Thiên Chúa và ngày mồng Ba, cảm tạ Chúa Thánh Thần, Đấng đã gọi chúng ta "vào đạo Kitô".

    Trở lại việc ngắm 15 sự thương khó, chúng tôi đã so sánh bản hiện nay còn được dùng trong Mùa Chay với bản trong Phép Giảng thì chúng tôi thấy bản ngày nay có khá nhiều điểm chứa đựng trong Phép Giảng, đặc biệt mấy câu chuyện truyền thuyết không có trong Phúc âm, thí dụ năm nghìn đòn, bảy mươi hai cái gai, khăn bà thánh Veronica rày hãy còn ở thành Roma... Về từ ngữ thì bản ngày nay vẫn còn phản ảnh bản trong Phép Giảng. Thí dụ: đầy tớ cả, cả và, đí gì, giã (từ giã), Kẻ Chợ, là đá, mắng tiếng, min, rình sinh thì, thày cả Giu dêu... Hơn ba thế kỉ nay, hẳn đã có sự sửa chữa, nhưng tựu trung không thay đổi gì quan trọng./.

    IV. HỘI CÁC THÀY GIẢNG

    Đắc Lộ là một nhà truyền giáo, một tông đồ nhiệt thành, một nhà giảng giáo lí và tổ chức phụng thờ nghi lễ vừa bình dân vừa sốt sáng. Nhưng ông còn là một nhà lãnh đạo, một thủ trưởng có tài tổ chức. Giáo đoàn có nhiệt tâm, nhưng nếu không có lãnh tụ để chỉ dẫn thì giáo đoàn ấy không có cơ phát triển. Lúc này chỉ có các giáo sĩ ngoại quốc, chưa có linh mục bản xứ. Vậy việc tốt nhất là huấn luyện một lớp thày giảng người bản xứ, trao cho họ một nhiệm vụ nho nhỏ, như dạy giáo lí, sửa soạn người để chịu phép rửa tội. Họ là những cộng tác viên rất đắc lực của nhà truyền giáo, vì họ là người thuộc Đất Nước, biết phong tục của Đất Nước, nói tiếng bản xứ, dễ dàng đi lại tiếp xúc mà không bị nghi ngờ.

    Trong số những người được chọn và được huấn luyện thì có người có học, hoặc đã là thày đồ dạy học, đã là thày sãi. Khi họ theo đạo thì được Đắc Lộ giảng dạy giáo lí và cho đi thực tập tại chỗ, nghĩa là theo giáo sĩ. Đàng Ngoài, chúng ta được biết có mấy người chính yếu là Phanchicô, Anrê, Inhaxu và Antôn.

    Phanchicô là một thày sãi, một người thành tâm tìm đạo lí, nhưng sau khi nghe Đắc Lộ rao giảng thì ông liền bỏ đền chùa miếu mạo mà theo đạo. Ông cũng tò mò xin đến ở nhà giáo sĩ trú trọ, không phải để theo mà để xem các giáo sĩ ở đây có giữ những lời các ông dạy hay không. Khi thấy không những các giáo sĩ giữ mà còn giữ nghiêm khắc hơn lời giảng dạy, lúc đó ông mới thú nhận và xin làm người trợ giúp. Ông được đặt làm thủ trưởng các thày giảng. Phần 2 chương 19 trong Lịch sử Đàng Ngoài, có nói tới cuộc trở lại của ông. Khi Đắc Lộ lên đường để trở về Macao thì đem theo Phanchicô cho tới khi đến bến tàu. Phanchicô ngỏ lời muốn theo thày về Macao nhưng Đắc Lộ khuyên nên ở lại, vì giáo đoàn cần đến ông.

    Antôn là một thanh niên cường tráng, anh đã tự nguyện làm người giúp việc trong cộng đoàn. Sau được đi theo Đắc Lộ trong hành trình vào Thanh Nghệ năm 1629. Cũng thế Inhaxu cùng đi thuyền với Đắc Lộ khi bị trục xuất. Trên thuyền, vào buổi tối Inhaxu vì có tài thơ phú nên đã ca hát cho vui, và cũng là cơ hội tuyên truyền các giáo lí cơ bản.

    Trước khi trở về Macao năm 1630, Đắc Lộ đã tổ chức một lễ tuyên thệ long trọng và cảm động. Các thày đặt tay trên sách Phúc âm và thề ba điểm, một là giữ luật độc thân, hai là không giữ của cải riêng cho mình, ba là phải vâng lời thày thủ trưởng cho tới khi nào có các cha dòng tới. Phanchicô đọc lời thề trước hết rồi đến Anrê và Inhaxu, sau cùng là Antôn.

    Đó là ở Đàng Ngoài, còn ở Đàng Trong thì Đắc Lộ cũng cho tổ chức hội các thày giảng tương tự như thế. Đắc Lộ nói đoàn thể các thày giảng gồm có Anrê, Inhaxu, Vinh sơn và bảy người khác, rồi sau cùng thêm hai người nữa, làm thành 12. Anrê là người chứng thứ nhất, tử đạo tháng bảy năm 1644 trước mặt người cha, người thày và người anh là Đắc Lộ. Nhưng người nổi tiếng nhất là thày Inhaxu (Y Nhã) "trước kia làm quan, một trong những viên quan thời danh nhất và giỏi giang nhất trong phủ chúa". Đắc Lộ nói nhiều về thày, vì thày được trao cho những nhiệm vụ quan trọng, đưa phái đoàn lên miền Bắc giảng dạy thay Đắc Lộ; thày đứng ra tranh luận với một "tuyên úy" của Tống Thị và vì thế bị bà này căm thù và bị lên án tử. Mấy lần bị bắt và bị tra hỏi, thày vẫn cương quyết giữ vững niềm tin.

    Cũng như khi còn ở Đàng Ngoài, Đắc Lộ đã làm lễ tuyên thệ cho các thày giảng, thì ở Đàng Trong ngày 31 tháng 7 năm 1643, đúng ngày lễ thánh tổ Inhã, Đắc Lộ đã cho đoàn thể các thày giảng tuyên thệ. Trước khi rời Đàng Trong, Đắc Lộ đã ghi trên giấy những lời dạy dỗ và cắt đặt Inhã làm thủ trưởng. Inhã và Vinh sơn đã chết tử vì đạo thời chúa Nguyễn Phúc Lan ngày 22 tháng 6 năm 1646, chung qui cũng chỉ do lòng thù ghét của một người đàn bà nhân tình nhân nghĩa của Phúc Lan. Trong Hành Trình và Truyền Giáo, Đắc Lộ viết về cái chết vinh quang của hai thày. Còn Saccano là người tới Đàng Trong sau khi Đắc Lộ về Macao, nói tới cuộc tử đạo của hai người trong cuốn Tường Trình về Xứ Đàng Trong xuất bản tại Paris năm 1653. Saccano dành hai chương nói tóm tắt về cuộc đời thày giảng Inhã và thày giảng Vinh sơn. Bản tường trình được viết tại Đàng Trong năm 1646.

    Như vậy là vào thời Nguyễn Phúc Lan ở Đàng Trong đã có ba thày giảng chịu chết vì đạo: Anrê (Phú Yên), Inhã (Vinh Nghệ Tĩnh) và Vinh sơn (Quảng Ngãi).

    Tổ chức các thày giảng được duy trì mãi cho tới năm 1954 là năm có cuộc di cư lớn lao làm xáo trộn các qui chế đạo./.

    V. VẤN ĐỀ CÁC GIÁO SĨ BẢN QUỐC

    Như chúng tôi đã nói ở trên, Đắc Lộ trở về Âu châu với ba mục đích: một là thỉnh cầu Đức thánh Cha sai các giám mục tới Đàng Trong và Đàng Ngoài, hai là thông báo cho các vua chúa công giáo biết sự nghèo khó của các giáo sĩ truyền giáo ở những xứ này, và ba là cho Bề Trên Cả Dòng biết cần phải phái các giáo sĩ tới truyền giáo. Điều chúng tôi được biết là đã có khá nhiều giáo sĩ tình nguyện ra đi, trong số đó có cha J. Tissanier người Pháp và vẫn có người tiếp tục đi truyền giáo. Còn về việc phái các giám mục đi thì còn gặp nhiều trở ngại. Triều Roma chậm chạp. Nhưng ở Pháp đã có nhiều tổ chức sẵn sàng ủng hộ.

    Chúng tôi chưa nghiên cứu tường tận về thời kì Đắc Lộ vận động ở Roma cũng như ở Paris. Chúng tôi chỉ nghi nhận theo những gì hiện có tại Văn khố trụ sở các cha thừa sai Ngoại quốc Rue du Bac, thí dụ: Đắc Lộ tới Paris tìm được những người cộng tác, gặp cha Bagot, tới thăm phố Coupeaux, ca tụng cha Amatus đã bênh vực lập trường của Đắc Lộ. Ông gửi một bức thư cho M. de Meurs nói về tình trạng các khu truyền giáo ở Viễn Đông; một tài liệu khác cho biết các chi tiết về hành trình đi Trung quốc của các thừa sai; đơn xin thánh bộ phái các giám mục tới Đàng Ngoài và Đàng Trong, đơn gửi các Hồng y cũng về việc này, những vận động ở Roma, những lời giải thích vận động của ông, những cuộc hành trình vô ích, nghĩa là không được việc. Có mấy văn kiện được ghi rõ năm tháng, thí dụ đơn thỉnh cầu năm 1651, đơn thỉnh cầu đức Alexandre VII năm 1657 do Vincent de Meurs đọc. Lại còn bản tường trình Đắc Lộ viết, trong đó ông cho biết các lí do vì sao ông không muốn nhận chức giám mục mà người ta muốn phong cho ông, vào năm 1656. Có một tài liệu đầy đủ hơn cả tự tay Đắc Lộ viết, rõ hơn hết ở "volume 200 tr. 5-12". Chúng tôi thiết nghĩ ĐC Chappoulie cũng đã biết tới những văn kiện này và một phần các văn kiện cũng đã được Launay in trong tác phẩm Các tư liệu lịch sử giáo hội Đàng Ngoài.

    Hội Thừa Sai được thiết lập vào năm 1659, một năm trước khi Đắc Lộ mất tại Ba tư (1660), Đàng Trong và Đàng Ngoài được trở thành địa phận tông tòa. Một giám mục, năm 1659, được cử đi, nhưng không vào được Việt Nam. Đó là đức cha Fr. Pallu thuộc Hội Thừa Sai ngoại quốc Paris. Nhưng cũng từ đây xảy ra tranh chấp giữa các giám mục tông tòa và các giáo sĩ Dòng Tên.

  2. #2

    Mặc định

    PHẦN HAI - NHẬN ĐỊNH TỔNG QUÁT

    Để hiểu biết đất nước ta, thì chúng ta có những bộ sử như Đại Việt Sử Kí Toàn Thư, Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục. Những bộ sử rất có giá trị này đều là những sách biên niên của triều đình, ghi lại tất cả những sự việc vua chúa làm. Nhưng lịch sử không phải là lịch sử các vua mà còn bao gồm các sinh hoạt kinh tế, văn hóa, phong tục và đời sống thường ngày của dân gian. Vì thế để bổ túc, có thể có những tài liệu khác như gia phả các dòng họ lớn, những kí sự, tùy bút của người đồng thời, những bài hay sách tường thuật như hành trình và lưu trú của những người ngoại quốc đến xứ ta, như Sứ giao châu thi tập của Trần Lương Trung nhà Nguyên mà Lê Quí Đôn có nói tới trong Kiến văn Tiểu Lục (Hà nội trang 68), như Annam Tức Sự của Trần Phú tả lại điện đài của nhà Trần ở Thăng Long (Nguyễn Khắc Ngữ, Mỹ thuật cổ truyền Việt Nam, trang 145, Mỹ thuật thời Trần, Hà nội 1977, trang 13), như Sứ Giao Kỉ Sự và Lược Biên của viên sứ thần nhà Thanh và một viên quan nước ta dự đám tiếp đón, tường thuật tỉ mỉ về việc sứ thần Trung quốc tới sắc phong cho vua Lê năm 1682 (Hoàng Xuân Hãn, Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683, trong T.S.K.H.X.H. Paris 1977 trang 5...). Ngoài ra cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, cuối thế kỉ 17 cũng cho chúng ta biết về nhiều chi tiết trong đời sống văn hóa, xã hội và kinh tế vào thời kì này.

    Riêng về những sách người Âu châu viết về xứ ta, đặc biệt các nhà buôn và nhà truyền giáo, thì phải kể Marco Polo + 1324 (thực ra ông này có tới Chiêm Thành, chứ không đến nước ta), Ordonez de Cevallos người Tây Ban Nha, thế kỉ 16, rồi tới thế kỉ 17 thì có các giáo sĩ Dòng Tên. Những tài liệu hiện nay chúng ta được biết thì có Tường Trình của Gaspar Luis (1621), của Baldinotti (1626), của cha Borri (1631), rồi tới Đắc Lộ. Thực ra, Đắc Lộ là người đã để lại nhiều tác phẩm hơn cả, lại thuộc nhiều loại khác nhau, như chúng ta đã thấy.

    Nhưng Đắc Lộ không phải là người đầu tiên viết về nước ta, trước ông phải kể đến Borri tới Đàng Trong năm 1618, và bỏ về Macao và Âu châu năm 1622. Nhưng năm 1621 ông đã viết một cuốn Tường Trình về Đàng Trong rất đặc sắc. Sách gồm hai phần: phần 1 về tình hình đời và phần 2 về tình hình đạo. Khi Đắc Lộ viết Lịch Sử Đàng Ngoài thì ông cũng nói về tình hình đời ở phần 1, và tình hình đạo ở phần 2. Cả hai phần đều phong phú và chứa nhiều chi tiết cho ta biết thêm về con người và Đất Nước Việt Nam vào thế kỉ 17.

    Chúng tôi không thể bàn giải về hết những điều Đắc Lộ viết về con người và Đất Nước Việt Nam, bởi vì thời giờ không cho phép và chất liệu quá dồi dào. Riêng về Đàng Ngoài, nếu chỉ đưa mắt xem mục lục phần 1 của cuốn sách thì đã thấy như sau: danh hiệu và vị trí, về quyền hành chúa Trịnh, lực lượng, thuyền chiến, số binh lính, các nguồn lợi, cách trả lương quân sĩ, kỉ luật quân binh, hành chính trong nước, thi Hương thi Hội, hình luật, thổ sản, súc vật, hàng hóa và thương mại, tiền bạc trao đổi troig niớn,bncữtgam ổí rdn oưnc hhnn iêot nx dị đoan, Khổng giáo, Phật giáo và Lãoeốg áàng mã, giỗ chạp, gọi hồn, ngày khánh đản của nhà chúa, nghi thức cưới hỏi, Tết Nguyên Đán, về cung giọng và các dấu trong tiếng nói, về cách gọi tên trong gia đình. Có nhiều học hỏi đối với người đồng thời, thí dụ người ta được biết Đàng Ngoài ở vào vĩ tuyến 17 tới 23, Đàng Trong từ 12 tới 17 và toàn cõi từ 12 tới 23. Và trong khi những C. Colomb, Vasco de Gama, Magellan đã đi vòng quanh thế giới và vẽ địa đồ thì Con Trời vẫn còn tin trời tròn đất vuông - thiên viên địa phương - và vẽ nước mình lớn lao ở giữa và thiên hạ bé nhỏ bao chung quanh - Trung quốc.

    Cuốn Hành Trình có hai bài độc đáo, một nói về tục uống trà tàu và một về thuốc dân tộc: Đắc Lộ rất thích uống trà nhất là khi thức khuya để giải tội. Khi đau yếu ông ưa dùng thuốc nam hiệu nghiệm hơn thuốc tây.

    I. LỰC LƯỢNG THUYỀN CHIẾN

    Trước hết chúng tôi thấy bốn điều cần phải nói trước đã. Một là nước ta có rất nhiều sông ngòi. Có những con sông lớn ở Đàng Ngoài như sông Hồng và nhiều sông trung bình. Nếu đem sông Seine và sông Marne mà so sánh thì hai con sông của Pháp này chỉ là những con sông thuộc cỡ bé nhất của chúng ta mà thôi. Thứ hai là nước ta có một bờ biển dài, hãy tạm nói là từ 1500 tới 2000 kilomét. Thứ ba, mạng lưới cầu đường của ta vào thế kỉ 17 này còn rất lạc hậu, hầu như không có, nếu phải đi từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong theo con đường cái quan. Trong khi đó ở Lamã từ những thế kỉ thứ nhất trước sau công nguyên, họ đã có một kĩ thuật lát đường quan lộ rất tinh xảo kể từ thủ đô Roma cho tới các nước thuộc địa Pháp và Anh. Thứ bốn chúng ta vẫn chưa biết chế biến xe cộ dùng vào việc chuyên chở tư cũng như công, trong khi ở Âu châu, nhất là từ thời người Roma cổ, người ta đã có những xe chuyên chở hai ngựa, bốn ngựa chạy trên những đường trường rộng lớn. Vào năm 1660, Marini, người nói thật nói thẳng đã phải lên tiếng: xứ này không có xe carrosse! như vậy trên đường bộ người ta đi cáng, đi kiệu, đi ngựa (thực ra cũng rất hiếm, ngựa để cưỡi làm cảnh, cho các ông nghè vinh qui, các quan đi kinh lí). Có nói đến xe thì hẳn chỉ như xe lợn, xe cút kít bánh gỗ, đi rất chậm hoặc voi kéo lững thững mà thôi. Cho nên đường thủy kể là đường duy nhất để di chuyển và chuyên chở. Cầu lớn không thể có thì có đò ngang, chèo một tay hay hai tay. Và cũng vì thế, lực lượng thuyền chiến của Trịnh Tráng cũng như của Nguyễn Phúc Nguyên vào thời kì này khá quan trọng.

    Trước hết, cũng như Baldinotti, Borri, Đắc Lộ nhận thấy thuyền của ta, nhất là của nhà chúa, được sơn quét huy hoàng, sơn son thiếp vàng. So với thuyền ở Âu châu, thì thấy có khác. Phòng chỉ huy của ta đặt ngay đầu thuyền chứ không ở cuối như ở Âu châu. Người Việt Nam, chèo ngồi hay đứng, đẩy về đàng trước, chứ không kéo về phía sau. Còn khi chèo chung thì có tiếng sênh làm nhịp (ở Âu châu là tiếng còi). Người chèo các thuyền chiến đều là những binh lính tình nguyện hay chiêu mộ, chứ không phải là những người khổ sai bị phạt đi chèo thuyền. Đắc Lộ viết: "Thuyền thì dài và thấp như thuyền của ta và nhiều khi có tới 30, 35 hay 40 tay chèo. Tay chèo thì nhẹ hơn bởi gỗ nhẹ, cho nên chỉ một hay hai người đủ để cầm chèo".

    Về số thuyền chiến, Đắc Lộ cho rằng chúa Đàng Trong có tới ít ra 200, còn chúa Đàng Ngoài vì đất đai rộng lớn hơn, nên có tới gấp ba, nghĩa là từ 500 tới 600. Về kích thước, vũ khí thì ở hai nơi đều trang bị như nhau. Cửa sông ra biển thì ít nhất cũng có tới 50. Đàng Trong, các thuyền chiến thường đậu ở ba cửa biển lớn là Đà Nẵng (Hội An), Qui Nhơn và Phú Yên, gần ranh giới Chàm. Đắc Lộ còn viết: "Người Hòa Lan nghiệm thấy rằng đoàn thuyền chiến ấy có thể thắng nổi đoàn tàu lớn của mình, tuy họ tự coi mình là chúa biển".

    Khi Đắc Lộ viết trong Lịch Sử Đàng Ngoài về lực lượng thuyền chiến của Đàng Ngoài thì ở Âu châu người ta hoài nghi. Do đó trong Hành Trình và Truyền Giáo, ông minh chứng: "Tôi không hối, khi nói lên những gì tôi thấy. Tôi đã một lần đếm đủ 400 trong đạo binh của chúa Đàng Ngoài, tất cả đầy đủ trang bị, có thể không rộng dài hơn thuyền chiếy không lâu đây, kôi trở về, ở cửa b về,nữ giáo dân cũ, nên nhà thờ của iển thành Gênova và thành Marseille".

    Khi Đắc Lộ tới Đàng Ngoài thì đã gặp đoàn thuyền Trịnh Tráng đưa đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Đó là năm 1627. Đắc Lộ cho biết: ông đã thấy 100 chiếc đi đầu hay tiền quân, ở giữa đoàn này là thuyền của chúa, còn theo sau hay hậu quân gồm có hậu cần và thuyền chở các cung phi mĩ nữ cùng tải thóc gạo, lương khô cho binh sĩ, tất cả có chừng 500.

    Về thao diễn và biểu diễn, Đắc Lộ cũng được dự và rất phục tài ba của thủy quân khéo lượn vòng, đều đặn, ngay hàng thẳng lối, mấy chục tay chèo như một. Dẫu sao những loại thuyền chiến này thường là những thuyền đi trên sông lớn sông nhỏ và có thể đi biển với một vài điều kiện, chứ không phải những thuyền buôn vĩ đại như những chiếc C. Colomb, Magellan hay Vasco de Gama dùng để đi vòng quanh thế giới. Khi Đắc Lộ nói đã thấy những thuyền Âu châu đậu trong bến Gênova hay bến Marseille thì phải chăng đó mới chỉ là những thuyền nhỏ. Chứ thực ra vào thời này những hạm đội thủy chiến của những cộng hòa nhỏ như Gênova, Vênêzia, đã gồm có những thuyền tàu có thể vượt trùng dương rồi, hoặc ít nữa đi trên Địa Trung Hải mênh mông. Thực ra, trong một chương Lịch Sử Đàng Ngoài, Đắc Lộ đã phê phán rất xác đáng về các thuyền chiến của chúng ta, khi ông nói về ngành hàng hải của chúng ta như sau:

    "Người Đàng Ngoài không đi buôn bán ở các nước ngoài vì ba lí do chính này. Thứ nhất, họ không biết nghệ thuật địa bàn và nghề hàng hải, không bao giờ xa biển hay dãy núi của họ. Thứ hai, thuyền của họ không đủ sức chống chọi sóng lớn biển cả và những cơn bão lớn thường nổi lên trong cuộc hành trình lâu dài; ván và gỗ không được ghì chặt và đóng đinh đóng chốt, nhưng chỉ được cột lại, nên mỗi năm mỗi phải làm lại. Và thứ ba, chúa không cho phép họ ra nước ngoài, nơi ngành thương mại bắt thương gia phải qua lại, vì sợ mất thhếqtaâl ià cìng âm thtiun phcho chúa".

    Vì thế thuyền chiến chỉ đi trên sông và chạy ven biển, chứ không ra ngoài khơi xa hoặc vượt trùng dương. Đắc Lộ đã di chuyển nhiều lần trên các sông ngòi này, sông Hồng, sông Đáy. Ông đã lấy thuyền đi đi về về từ Thuận Hóa vào Đà Nẵng (Hội An), tránh đèo Hải Vân hiểm trở, ông đã lấy thuyền đi từ Hội An đến Qui Nhơn, từ Qui Nhơn tới Phú Yên. Tất cả đều là những lộ trình các đoàn thuyền chiến xử dụng, nhưng tuyệt nhiên không thấy nói tới lộ trình đi Macao, Nhật hay Phi Luật Tân. Tuy nhiên, thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã có những chiến thuyền chở sứ thần đi Campuchia.

    II. HAI BIẾN CỐ LỊCH SỬ QUAN TRỌNG

    Biến cố thứ nhất là cuộc bại trận của Trịnh Tráng năm 1627 khi ông đưa quân vào đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Sử Kí toàn thư không nói nhiều. "Tháng 2, Thanh đô vương hộ vệ thánh giá đi đánh, quân đến cửa biển Nhật Lệ, giặc cậy là biển, cố chống lại, đại quân mấy lần giao chiến không lợi, bèn trở về". Cương mục và Thực lục viết dài hơn và tương tự như nhau, cho biết: hai bên đối diện, quân Nguyễn dùng đại bác bắn làm quân Trịnh rút lui, và nhân có nước thủy triều lên, bên Nguyễn lại cho nổ súng. Trong khi bên Trịnh bắt đầu rối loạn thì quân Nguyễn phao tin là ở Bắc Hà, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp nổi loạn. Do đó Trịnh Tráng trở nên nghi ngờ, lại mấy trận thua liền, nên cho quân rút lui.

    Như vậy cuộc bại trận này, theo sử nhà Nguyễn, là do mấy sự việc chính yếu: Nguyễn Phúc Nguyên có hỏa lực trổi vượt hơn là một, nhờ nước thủy triều hay lợi dụng nước thủy triều để tấn công là hai và dùng phản tuyên truyền gây nghi ngờ nơi địch là ba. Quân Nguyễn còn đưa tượng binh ra chống đánh. Đắc Lộ cho biết thêm: Trịnh Tráng mộ quân quá nhiều, số lương thực đem theo tưởng đủ để nuôi quân, nhưng vì sức cầm cự bên địch rất vững, nên cuộc chiến phải kéo dài. Nếu Trịnh Tráng còn ngoan cố giữ quân chiến đấu lâu thì e không còn lương thực nuôi quân. Còn về nước thủy triều thì Đắc Lộ cho biết quân nhà Nguyễn đã "đóng cọc nhọn và mũi sắt với dây chằng dưới mặt nước...". Thế là thuyền bị mắc cạm bẫy khi nước rút.

    Khi Trịnh Tráng đưa thuyền về và gặp lại Đắc Lộ, thì người ta rất sợ cho giáo sĩ sẽ bị nhà vua quở trách và hất hủi. Đắc Lộ viết:

    "Lúc này không thiếu người báo tin cho chúng tôi, cho chúng tôi nghĩ rằng chúa Đàng Ngoài rất giận chúng tôi, vì người Bồ đã cung cấp vũ khí cho chúa Đàng Trong chống lại ngài. Điều này không đúng, tuy ban đầu có tin đồn như vậy, do mưu kế người Đàng Trong dùng: họ đặt trên đỉnh núi ở biên giới một số rất nhiều hình nộm mặc theq n ihuc người Blà mưu cơ vô tội vô hha àểmcuocs ôàtthôi".

    Dẫu sao, người Bồ đã thông thương vớừ năm 1615 khi họ đưa giáo sĩ Buzomi tới. Borri ở Đàng Trong từ 1618 tới 1622, ông đã cho biết người Đàng Trong đã có một số súng ống tịch thu được ở các tàu bè bị bão đánh dạt vào bờ biển và hàng ngày đem ra thao diễn. Vả lại trong hơn mười năm thông thương, Nguyễn Phúc Nguyên hẳn đã chuẩn bị cho quân binh một số súng ống đạn dược của người Bồ. Trái lại Trịnh Tráng mới gặp phái đoàn người Bồ năm 1626 với giáo sĩ Baldinotti và lần này, năm 1627 với Đắc Lộ. Biến cố lịch sử thứ hai là trận chiến giữa người Hòa Lan và thủy quân của Nguyễn Phúc Lan năm 1644. Năm này, năm có mặt của Đắc Lộ ở Đàng Trong, ở cửa Eo, có đoàn tàu người Hòa Lan đi ngang qua, vào đúng lúc có mặt của thủy quân ta. Thế là thế tử cho quân ta xông đánh bất ngờ. Thực lục viết: "Chiến thuyền trước sau bước nhanh như bay. Giặc trông thấy cả sợ, nhằm thẳng phía đông mà chạy, bỏ rơi lại một chiếc thuyền lớn. Thế tử đốc quân vây bắt. Tướng giặc thế cùng phóng lửa tự thiêu chết. Thế tử bèn thu quân về". Thế tử nói đây là con Nguyễn Phúc Lan sau này lên nối vị cha, tức là Nguyễn Phúc Tần.

    Trong Lịch sử Đàng Ngoài, nhân tiện viết về lực lượng chiến thuyền của Đàng Ngoài và Đàng Trong, Đắc Lộ đã thích thú kể lại trận thủy chiến này, chúng tôi ghi lại nguyên văn như sau:

    "Chúa Đàng Ngoài tấn công chúa Đàng Trong, như tôi sẽ nói sau, ba lần đem quân đi đánh đều thất bại. Chúa liền cầu cứu với thương gia người Hòa Lan chiếm đóng bến tàu Java Cả, gọi là Jacquetra hay Tân Hòa Lan. Chúa phái người đem lễ vật tới xin cung cấp cho mấy chiếc tàu tròn của họ, để nhờ đó chúa quyết định phá hủy hạm đội người Đàng Trong. Người Hòa Lan nhận lời ngay vì biết là để tấn công chúa Đàng Trong đã công khai từ mấy năm nay tự xưng thù địch với nước mình.

    Họ liền phái tới chúa Đàng Ngoài ba chiếc tàu tròn trang bị đầy đủ và có mấy khẩu súng. Đoàn tàu vô ý tới gần một hải cảng Đàng Trong vì bị gió đánh giạt, đúng lúc tình cờ chúa đang có mặt với mấy chiếc thuyền.

    Chúa nhận thấy đây là viện trợ người Hòa Lan gửi chúa Đàng Ngoài để gây chiến. Cơn giận nổi lên (như thể chúng dám táo bạo thách thức ở biên giới), chúa liền bàn xem có nên cho thuyền đuổi theo, chúa hỏi ý kiến một người Hòa Lan mấy năm nay sống sót sau cơn bão táp và ở lại phục vụ chúa lo việc binh đao. Tên lính này kiêu căng và khinh thị đáp rằng: đoàn tàu này chỉ sợ có thế lực và thịnh nộ vũ khí của ông Trời. Tức giận vì thái độ hỗn xược, chúa không thèm đáp, nhưng ra lệnh cho các thuyền trưởng lập tức cho nhổ neo rời bến và tấn công đoàn tàu Hòa Lan trông rõ ở ngoài khơi.

    Nhờ lúc biển lặng, chỉ có gió nhẹ thổi, nên việc tấn công đem lại kết quả: chỉ có chiếc tàu nhỏ hơn cả của người Hòa Lan nhờ gió nhẹ thổi mà chạy thoát, còn chiếc kia muốn chạy trốn đoàn thuyền rượt theo, mất hướng đụng phải cồn vỡ tan và chìm dưới làn sóng. Chiếc thứ ba lớn hơn hết, dĩ nhiên nặng nề hơn cả, gió không đẩy nổi, liền bị bốn chiếc thuyền bao vây và chiếm giữ, sau khi hết sức chống cự và bắn vô hiệu vào đoàn thuyền rất thấp đã tới nách.

    Tay lái và cột buồm bị phá. Trong cơn nguy khốn và cùng cực, liền châm lửa vào kho thuốc súng đốt chiếc thuyền cùng thủy thủ, tất cả chừng hai trăm, trừ bảy người tránh ngọn lửa nhẩy xuống biển trôi theo làn sóng, được thuyền chiến Đàng Trong vớt và đem trình chúa ở trên bến đang đợi đoàn tàu chiến thắng trở về...".

    Đắc Lộ còn cho….(mất 1 đoạn)… Hòa Lan xấc láo cùng bảy tên lính sống sót, lại còn cho cắt mũi tất cả, kể cả những người chết đuối dạt vào bờ và gửi ra biếu Trịnh Tráng với những lời chế nhạo. Về phần Trịnh Tráng, ông ra lệnh không tiếp đón chiếc tàu chạy thoát: họ phải hướng về phương bắc và xin đậu cùng xin lương thực ở Trung quốc. Về trận thủy chiến này, sử Hòa Lan cũng có nói tới và người ta được biết thuyền trưởng người Hòa Lan là Pierre Breck và ba chiếc tàu có tên là Kievil, Nachtegaels và Wockende. Còn về việc Đàng Ngoài thông thương với người Hòa Lan, thì Phạm Văn Sơn trong Lịch sử Tân Biên cho biết có hai văn kiện tức hai thư, một của Lê Thần Tông và một của Thế Tử viết cho người Hòa Lan ngỏ lời xin giúp quân nhu đạn dược để chống với thù địch xắc xược, một thư đề ngày 22.02.1641 và một đề năm 1641 tháng 7. (coi: Phạm Văn Sơn, sd. q. trang 133-136).

    III. MỘT SỐ NHÂN VẬT TRONG LỊCH SỬ

    Tống Thị

    Hoàng tử Hoàng tử Kì

    Hoàng tử Hoàng tử Khê

    Bà Minh Đức Vương Thái Phi

    Công Chúa Ngọc Liên

    Công Chúa Ngọc Đỉnh

    Thanh Đô Vương Trịnh Tráng

    Nguyễn Phúc Nguyên

    Nguyễn Phúc Lan

    1. Tống Thị

    Người đầu tiên chúng tôi nói tới ở đây là một thiếu phụ đã gây tang tóc cho giáo đoàn và nhất là đã nhúng tay gián tiếp hay trực tiếp vào vụ giết ba thày giảng Anrê, Y Nhã và Vinh Sơn, ba đồ đệ và cộng tác viên của Đắc Lộ. Nhưng trước hết, chúng tôi cũng phải nói là Đắc Lộ không viết rõ tên các nhân vật ông ghi trong các trang sách, ông chỉ viết là ông hoàng nọ ông nghè kia, hoặc bà hoàng nọ bà chúa kia, hoặc ông trấn thủ này ông trấn thủ nọ mà thôi. Tên các nhân vật trọng yếu không bao giờ được nói rõ. Do đó phải có sự tìm tòi, so đọ, đối chiếu với thời gian sưu tầm và suy nghĩ, chúng ta mới khám phá ra danh tánh và sự nghiệp, như chúng tôi sẽ có dịp bàn giải thêm ở sau đây.

    Trong Hành Trình, Đắc Lộ nói tới một buổi tranh luận, trong đó có nhiều người chống đối lí lẽ giáo sĩ đưa ra, nhưng giáo sĩ đã nhờ thày Inhaxu hiểu biết vấn đề hơn đứng ra đối đáp. Thế là họ chịu thua. Xấu hổ, họ điên cuồng lên. "Từ đó họ thề sẽ hãm hại thày, và để đạt ý định, họ nhờ một bà mà chúa coi như vợ chúa, mặc dầu trước đây bà là vợ người anh của chúa, điều mà luật xứ này ngăn cấm, nhưng sắc dục đâu có biết luật lệ là gì". một chương sau, trong vụ âm mưu bắt thày Inhaxu, Đắc Lộ lại nhắc tới người đàn bà này. Ông viết: "Vào tháng 7 năm 1644 quan trấn tỉnh Quảng Nam từ phủ chúa về, đem theo sắc lệnh không phải của chúa, vì chúa vẫn tỏ thịnh tình với tôi, nhưng của bà chúa xưa nay vốn ghét đạo, như tôi đã nói và nhất là bà đã thề sẽ hãm hại Inhaxu. Ông bắt đầu bắt giam một ông già cũng tên là Anrê, rồi sai một toán lính đến nhà chúng tôi để bắt Inhaxu đem giết". Vì hôm đó Inhaxu không có mặt, nên họ đã bắt thày giảng trẻ tuổi Anrê.

    Những điều Đắc Lộ viết về người phụ nữ nguy hiểm này thì lại được Saccano nhắc tới, khi ông này đến thay Đắc Lộ truyền giáo ở Đàng Trong năm 1646. Saccano viết: "Nhất là hoàng hậu, bà này trước đây là vợ người anh cả của chúa và hiện nay là như chính phi, tuy theo luật nước bà chưa được kể là hoàng hậu, bà vô cùng ghét Inhaxu hơn mọi Kitô hữu khác...".

    Chúa nói ở đây là Nguyễn Phúc Lan, con Nguyễn Phúc Nguyên. Còn người anh cả của chúa ở đây là Hoàng Tử Kì (chúng tôi sẽ nói thêm sau). Kì được đặt làm trấn thủ Quảng Nam năm 1614 và mất năm 1631. Còn về người vợ của người anh cả của chúa là Kì, thì nay góa chồng. Thực lục viết: "Tống Phước Thông (bấy giờ làm cai cơ) trốn về với họ Trịnh. Đầu là con gái Phước Thông là Tống Thị lấy hoàng tử Kỳ, sinh được ba con trai. Phước Thông mừng cho rằng sau này hắn được vinh hiển. Kịp khi Kỳ mất, Phước Thông đại thất vọng, bèn dẫn gia quyến lẻn ra ngoài cửa Eo (hiện nay là cửa biển Thuận An) trốn đi, duy có Tống Thị ở lại". Thế là chúng ta đã nắm được đầu dây để biết về Tống Thị vợ hoàng tử Kì.

    Năm 1635 Nguyễn Phúc Lan lên nắm chính quyền và năm 1639 Thực lục viết: "Vợ lẽ cố Hoàng tử Kỳ là Tống Thị vào yết kiến. Tống Thị có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đối, từng nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi (ngọc) bách hoa để dâng. Chúa thương tình, cho được ra vào cung phủ. Thị thần có người can, nhưng chúa không nghe".

    Việc Tống Thị vừa dựa vào nhan sắc vừa đánh vào sở thích của Nguyễn Phúc Lan thì phù hợp với những gì Saccano sau này viết về ông: ông rất thích ngọc trai, cho nên mỗi lần người nào tới thường đem dâng ngọc trai. Có lần ông thích ưa lên mũi hít lấy hít để. Thế rồi năm 1648, Thực lục viết: "Trước là Tống Thị đã được vào chầu cung phủ, đưa đón thỉnh thác, của cải chất đầy như núi. Trưởng cơ Trung mưu giết đi, Tống Thị sợ".

    Và Thực lục cho biết tiếp là Tống Thị lại ngầm đưa ngọc trai ra Đàng Ngoài và mật báo cho Trịnh Tráng cất quân đánh nhà Nguyễn, sẽ có quân nội ứng. Năm 1648 Trịnh Tráng cất quân vào đánh nhưng Nguyễn Phúc Lan có Thế Tử thay làm tướng, đã đẩy lui được quân Trịnh Tráng. Thế nhưng Nguyễn Phúc Lan mất trên đường trở về phủ.

    Nguyễn Phúc Tần lên ngôi và đặt chú ruột là Hoàng tử Trung làm chưởng cơ. Năm 1654 Thực lục cho biết: vì thấy Tống Thị làm chuyện bậy bạ nên Trung muốn trừ đi. Tống Thị sợ, bèn tìm cách tư thông với Trung, và xúi Trung đứng ra làm phản, bắt mối với Đàng Ngoài. Việc bị bại và Trung bị giam bị giam xuống ngục rồi chết. Bèn giết Tống Thị, lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân".

    Đó là số phận một người đàn bà có một không hai trong lịch sử, một người gian dâm gieo hoang tàn trong phủ chúa, giết hại người vô tội, năm 1644 đã cho xử tử Anrê và 1646 Inhaxu và Vinh Sơn. Tới nay 1654, sau bao tội ác, đã bị chết thê thảm. Như Thực lục có chép rành rành, người vợ của anh cả nhà chúa Nguyễn Phúc Lan chính là Tống Thị vậy.

    2. Hoàng tử Nguyễn Phúc Kì

    Trong Tường Trình Gaspar Luis viết từ Macao gửi về Roma năm 1621, có nói tới một ông nghè ở tỉnh Quảng Nam, ông này có cảm tình với đạo, nhưng vì có nhiều thiếp và vì giữ chức lo việc nghi lễ trong phủ và các đám ma chay tang chế, nên ông không thể tin theo đạo được. Theo từ điển thì ông nghè là một công chức được vào làm trong cung điện nhà vua. Tới đời Lê, chỉ có những người đỗ đạt cao mới được cử vào những chức vụ này. Do đó mới có thành ngữ ông nghè, chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng. Và ở phủ chúa Nguyễn Đàng Trong lúc này tuy chưa tổ chức thi hương thi hội, nhưng người giữ chức cao vào bậc nhất sau nhà chúa, trấn thủ Quảng Nam cũng được gọi là ông nghè.

    Borri trong Tường Trình viết năm 1621 và xuất bản năm 1631, cũng nói tới ông nghè này. Hẳn vì phải lo việc soạn lịch, nên ông rất ham học hỏi với các giáo sĩ về cách tính toán ngày giờ có nhật thực, nguyệt thực. Đã có lần ông theo các giáo sĩ nên đã tính đúng giờ đúng lúc, trái với cách tính sai của các nhà toán học thuộc phủ chúa. Vì thế ông rất phục các giáo sĩ và còn cho các nhà toán học của ông tới học các giáo sĩ. Năm 1624 khi Đắc Lộ tới Đàng Trong thì đã nghe nói tới ông nghè. Hơn nữa năm 1625 khi giáo sĩ De Pina mất trong vụ đắm tàu ở Hội An thì đã xảy ra một việc vu khống làm cho Nguyễn Phúc Nguyên bắt các giáo sĩ phải về tất cả ở Hội An và trừng trị giáo dân. Thế là theo lời Đắc Lộ "chúng tôi đã tìm cách xoay trở vấn đề, cậy nhờ con trưởng của chúa có thịnh tình với chúng tôi, xin cho chúng tôi được phép ở lại một trăm ngày để lo đám tang cho cha De Pina...". "Người con trưởng củũng là "quan cai tỉnh có thịnh tì hiáo sĩ không là ai khác ngoài hoàng Kỳ đang làm trấn thủ Quảng Nam. viết trong hành trình vào Tt về ông như sau: "Ông nghè giúp rất nhiều vào việc truyền giáo này từ khi ông tới, như chúng tôi đã nói ở chương sáu phần hai này, khi các cha quả quyết về nhật thực. Ông hằng công bố khắp nơi rằng không có đạo nào thật hơn đạo các cha rao giảng". Còn Đắc Lộ thì viết: "Ông đã giúp đỡ chúng tôi như một giáo dân tốt mà chúng tôi có thể mong được".

    Nhưng năm 1631, Thực lục viết: "Hoàng tử cả là Hữu Phủ Chưởng phủ sự Kỳ mất. Kỳ ở Quảng Nam, ân uy đều nổi tiếng. Khi mất dân sĩ đều thương tiếc. Được gia tặng Thiếu Bảo Khánh quận công và được táng theo lễ tước công". Như vậy cả sử đời, cả sử đạo đều nhận thấy ông nghè là một người có nhân có nghĩa, lo cho sự an vui toàn dân, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Chỉ tiếc về phía người vợ mọn là Tống Thị như chúng tôi đã nói ở trên.

    3. Hoàng tử Nguyễn Phúc Khê

    Về nhân vật này, Đắc Lộ viết rất ít, thế nhưng lịch sử lại cho phép khám phá ra một người hết sức quan trọng trong triều đình Nguyễn, vào cái buổi sơ khai dựng cơ nghiệp và thanh thế ở Đàng Trong.

    Năm 1644 khi Đắc Lộ tới Đàng Trong, ông đã phái thày Inhã đi lên phía Bắc, còn ông thì trẩy vào phía Nam. Đắc Lộ cho biết lễ Giáng Sinh năm đó, Inhã đã tổ chức ở nhà "một bà quí phái tên là Maria, thân mẫu của chú nhà chúa". Đó là lời viết trong Tường Trình Đàng Trong. Còn trong Hành Trình, Đắc Lộ còn nói về người chú đó như sau: "Trong tư dinh bà Maria, có người quản lí các công việc của con bà cũng là chú của chúa, đã đắc lực giúp vào dự định của chúng tôi". Vậy ông chú này là ai. Bản Pháp văn viết rõ là "oncle du roi" mà chú "oncle" này trong tiếng Pháp có thể hiểu là bác, nhưng cũng còn hiểu là chú. Và chú thì đúng hơn, bởi vì thuộc vào hàng bào đệ của chúa, thuộc ngành trưởng, nên mới được làm thế tử và lên nối vị.

    Lúc này là Nguyễn Phúc Lan và thân phụ Nguyễn Phúc Lan là Nguyễn Phúc Nguyên, sau này lên làm chúa từ 1613 tới 1635, còn con ông là Nguyễn Phúc Lan thì nối ngôi từ 1635, mất 1648. Như vậy ông chú nói đây là bào đệ của Nguyễn Phúc Nguyên.

    Thực lục, sử nhà Nguyễn cho biết Nguyễn Hoàng được 10 người con trai. "Hoàng tử cả là Hà, thứ hai là Hán, thứ ba là Thành, thứ tư là Diễn đều mất trước. Hoàng tử thứ năm là Hải thì làm con tin ở Bắc". Hoàng tử thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên, khi Nguyễn Hoàng còn sống, thì làm trấn thủ Quảng Nam từ năm 1602.

    Hoàng tử thứ sáu nối nghiệp cha năm 1613, thì năm 1620 Hợp và Trạch hai người em, con thứ bảy và thứ tám của Nguyễn Hoàng, làm loạn, định làm nội ứng cho Trịnh Tráng đến thanh toán Thuận Quảng. Việc phát giác hai người em này "xấu hổ sinh bệnh chết".

    Tới năm 1612, Thực lục cho biết về người con thứ 10 của Nguyễn Hoàng như sau: "Gia cho chưởng cơ Hoàng tử Khê, (con thứ 10 của Thái Tổ) làm tổng trấn Tường quận công. Bấy giờ chúa tuổi đã cao, việc quân quốc phần nhiều sai Khê quyết định, duy có án nặng tử tù, sau khi phúc xét, thì đợi chúa quyết định".

    Như vậy chỉ còn lại có Nguyễn Phúc Khê là em Nguyễn Phúc Nguyên mà thôi. Hoàng tử thứ 9 thì không được chính sử nói tới, nhưng một nguồn tài liệu khác cho biết tên là Dương. Thế là ông chú nhà chúa mà Đắc Lộ nói tới là Hoàng tử Khê. Chúng tôi sẽ nói sau về ông khi đề cập tới bà Maria thân mẫu của hoàng tử. Và chúng ta tiếp tục biết thêm về ông chú của nhà chúa. Năm 1631 trước khi Nguyễn Phúc Nguyên mất thì đã cho gọi Khê và thế tử đến để dặn bảo trối trăn. Riêng với Khê, nhà chúa nói: "Ta vâng nối nghiệp trước, chí ta cốt trên giúp nhà vua, dưới cứu sinh dân. Nay thế tử chưa lịch duyệt, mọi việc lớn quân quốc ta ủy hết cho hiền đệ quyết định". Khê cúi đầu khóc nói: "Thần dám đâu không đem hết sức ngựa hèn để lo báo đáp". Thế là rõ rệt, Nguyễn Phúc Nguyên trao cho Khê là "hiền đệ" mọi việc lớn trong nước và đồng thời ủy thác thế tử cho Khê để ý nâng đỡ. Khê là chú Nguyễn Phúc Lan.

    Thế nhưng chưa xong, ngay năm Phúc Nguyên mất và con lên nối ngôi năm 1635 thì hoàng tử Anh là em của Phúc Lan lúc đó làm trấn thủ Quảng Nam đứng ra làm nội ứng cho nhà Trịnh đưa quân vào. Việc bại lộ, Phúc Lan không biết xử trí ra sao, liền bàn với Khê. Phúc Lan kết thúc câu nói vci Khê: "Vậy tôi muốn nhường ngôi để tắt sự tranh giành, chú nghĩ sao?".

    Nhưng ông chú của chúa không nhận vì lòng trung với chúa vẫn không hề phai lạt. Khê bèn đem quân đi bắt được hoàng tử Anh và theo luật nước đem xử cùng tất cả bọn đồng lõa. Lịch sử về sau đánh giá Khê rất cao bởi vì nếu lúc đó Khê định lên nắm chính quyền thì rất thuận lợi, rất hợp pháp. Lòng trung tín của Khê sẽ còn có dịp khác được thổ lộ ra. "Chúa cho rằng Hoàng tử Khê có công lớn thưởng cho một cỗ kiệu sơn then và một quả ấn đồng". Nhưng Phúc Lan nể và kính phục ông chú vì lí do chính trị và đức trung tín, còn về mặt tôn giáo thì ông không nhượng bộ. Đắc Lộ kể trong Tường Trình về Đàng Trong là đã có sự xung khắc giữa Khê và ông cháu. Là vì Khê thường giao thiệp với nhiều người ngoại quốc ra vào tư dinh, nên ông cũng thường theo lề thói người ngoại quốc làm các trò đùa, ăn nói vui vẻ và thoải mái. Thế là Phúc Lan tỏ ý không bằng lòng và còn đưa lời chê trách. Hẳn Phúc Lan cũng có niềm ghen tị và nghi ngờ, cho nên ông chú ruột mới dám ra tay hay cho người ra tay phá hủy ngôi nhà nguyện công giáo của thân mẫu mình. Đắc Lộ viết: "Ngay đến nhà chúa cũng bỡ ngỡ vì sự khéo tay và nhanh nhẹn trong mấy trò mua vui để giải trí, ngài nghĩ ngợi và sợ hãi, quay về phía ông chú là em của đức thân phụ, ngài khiển trách ông vì đã học được nhiều điều, vì ông để cho các người của chúng tôi đi lại quen thân với ông, bởi vì thân mẫu ông theo Kitô giáo". Chúng tôi sẽ nói thêm sau về việc này. Và để kết thúc, chúng tôi đọc lời Thực lục nói về cái chết của ông chú nhà chúa, năm 1646: "Tổng trấn Nguyễn Phúc Khê mất. Khê là người họ thân của chúa, giúp việc chính trị trước sau 41 năm, trải qua ba triều, đức lớn công to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thời. Khi mất 58 tuổi. Chúa thương tiếc lắm, tặng tá lý tôn thần bình chương quân quốc đại sự Tường quận công, thụy là Trung Nghị (năm Gia Long thứ 5 cho tòng sự ở Thái Miếu; năm Minh Mệnh thứ 12 phong Nghĩa Hưng quận vương)".

    Theo gia phả nhà Nguyễn thì Khê được 13 trai 16 gái. Trong số con gái này, cháu của bà Minh Đức, có người theo Kitô giáo.

    4. Bà Minh Đức Vương Thái Phi

    Khi nói về hoàng tử Khê thì một phần nào đã đề cập tới bà Minh Đức. Nhưng nên viết sơ lược nguồn ngọn vấn đề như thế này. Đọc hai tác phẩm của Đắc Lộ Tường Trình về Đàng Trong (Paris, 1652) và Hành Trình (Paris, 1653), người ta thấy nhắc tới hai người: bà Maria, bà Madalêna, có khi lại là bà Maria Madalêna. Dần dần sau khi phân chia ranh giới thì thấy nổi lên tên một người khá đặc biệt gọi là Maria, thỉnh thoảng lại là Maria Mađalêna, nhưng tựu trung thì thường là Maria.

    Trong Tường Trình, bà Maria này thường được gọi một cách kính cẩn bằng tiếng Pháp là: une Grande Dame hay une Dame (Bà Quí Phái hay Bà), mère de l'oncle du roi (thân mẫu của chú của chúa Nguyễn Phúc Lan),acctúe Pgincesse (bà Thái Phi đó), tante du roi (bà dì của chúa).

    Năm 1624, khi Đắc Lộ tới Đàng Trong thì được De Pina đưa đi thăm bà quí phái này, "một bà hoàng, họ gần với chúa và rất sùng thần ngoại, nhưng khi nghe cha De Pina giảng thì được ơn Thiên Chúa soi sáng. Từ đó bà là điểm tựa của giáo đoàn này. Gương của bà và thế giá của bà đã giúp rất đắc lực cho việc chinh phục lương dân và duy trì lòng nhiệt thành nơi những kẻ chịu phép rửa (Hành Trình 2,5).

    Nhưng khi viết lại một kỉ niệm từ 28 năm (1625-1653) về trước, Đắc Lộ ghi thêm: "Tôi vẫn thường gặp bà suốt thời kì tôi ở xứ này và tin rằng bà vẫn kiên trì từ 28 năm trong việc thi hành các nhân đức đạo Chúa Kitô". Có họ gần với chúa (proche parente du roi), Đắc Lộ chỉ nói có vậy.

    Chúa đây là chúa Nguyễn Phúc Nguyên, bào huynh của con bà là nguyễn Phúc Khê. Thực ra cũng không biết cách xưng hô thế nào vì Nguyễn Hoàng có nhiều thứ phi và các anh em phần nhiều là anh em cùng cha khác mẹ trong chế độ đa thê. Bà Maria này khi nghe thấy cha De Pina giảng thì lấy tên Maria trên đây là tên thánh. Tư dinh của bà hẳn cũng là tư dinh của con bà, Hoàng tử Khê được bào huynh Nguyễn Phúc Nguyên tín nhiệm trao cho chức vụ rất lớn trong quốc gia như đã nói ở trên. Nhưng trong tư dinh, bà đã cho xây cất một nhà nguyện công giáo: các giáo sĩ đi về thường tới tư dinh và cử hành các nghi lễ trong nhà nguyện. Giáo dân vùng lân cận vẫn lui tới nhà nguyện và được bà ân cần săn sóc, nếu không là chở che. Tháng 12 năm 1640 Đắc Lộ tới Đàng Trong lần thứ hai, thì đã ở trong tư dinh của bà và cử hành Tuần Thánh tại nhà nguyện trong tư dinh của bà.

    Đắc Lộ kể lại lễ Giáng Sinh năm 1643, khi Đắc Lộ còn ở Macao, thày Inhaxu đã tổ chức nghi lễ ở nhà Bà: "Inhaxu trở về phủ để mừng lễ Giáng Sinh với đám đông các Kitô hữu và cả lương dân; một máng cỏ được trang hoàng rất đẹp trong một nhà bà quí phái tên là Maria, thân mẫu của chú nhà chúa, một nữ Kitô hữu kì cựu, có đức tin can tràng qua nhiều biến cố thử thách. Lòng thành kính của bà nổi bật trong ngày hôm nay, bà cho con bà và các cháu bà đến thờ lạy và tôn kính Vua vinh quang giáng trần, bà rao giảng những vinh quang Thiên Chúa cho những người từ các ngả tuôn đến viếng máng cỏ thánh". Bà quí phái, bà có họ gần với chúa thì dễ hiểu, còn bà vương phi, chúng tôi dịch chữ princesse, không phải là công chúa, cũng không phải là nữ hoàng, hẳn không thể là thái hậu hay hoàng hậu, bởi vì chỉ có thân mẫu của thế tử được chức này và cũng chỉ có bà này được ghi trong sử sách và giòng tộc nhà vua mà thôi.

    Chữ tante du roi hơi khó dịch. Nói "thân mẫu chú nhà chúa" thì rõ hơn, còn nếu gọi tante du roi thì phải hiểu là "Bà Dì", chứ không phải dì, Grande tante, của Nguyễn Phúc Lan. Nhưng cứ theo văn mạch và ý nghĩ của tác giả mà hiểu: Bà Dì chúa Nguyễn Phúc Lan cũng là bà thân mẫu của ông chú chúa Nguyễn Phúc Lan, hoàng tử Khê.

    Tuần thánh năm 1644, bà Maria được gặp Đắc Lộ và xưng tội rước lễ vì từ gần hai năm bà chưa gặp một linh mục nào. Lễ Lá năm đó Đắc Lộ đã cử hành trong nhà nguyện tư của bà dựng ngay trong tư dinh.

    Nhưng đã có một nghi ngờ về phía nhà chúa. Nguyễn Phúc Lan sợ rằng Đắc Lộ hiểu biết về thiên văn địa lý, có thể giúp cho giòng họ Khê làm lớn, nếu Đắc Lộ chỉ dẫn cho cách để mồ, để mả, vì năm nay bà đã ngoại thất tuần. Do đó người ta đã canh phòng tư dinh của bà và giáo sĩ cũng rất e ngại không dám lui tới nhiều.

    Thêm vào việc chúng tôi đã nói trên, Nguyễn Phúc Lan tỏ ý khiển trách hoàng tử Khê vì hay bắt chước người ngoại quốc làm trò vui và ăn nói thoải mái. Dụng ý của nhà chúa cho Khê biết không nên liên hệ nhiều với người ngoại quốc. Do đó, hi sinh chữ hiếu và giữ chữ trung, Khê cho phá nhà nguyện của bà. Đắc Lộ cho biết : bà như điên như dại, rất sầu khổ, đi lang thang tám ngày, không về nhà. Bà coi như có lỗi trong việc này. Đắc Lộ đã phải giải thích cho bà biết đây không phải lỗi bà và bây giờ có thể hội họp nhau ở nơi khác, chứ không cứ phải ở đây.

    Khi có tàu chở ba nữ tu Clarít và hai cha tuyên úy người Tây Ban Nha dạt vào Hội An vì bị b oạđánh bạt, bà cũng rất muốn đến để xem mặt và phục vụ các "thánh nữ". Nhưng bà sợ làm phiền tới con bà và cả nhà chúa. Bà đã lén lút thuê chiếc thuyền nhỏ để đến thăm. Khi từ biệt các nữ tu, bà ao ước nhận được một áo dòng của nữ tu để khâm liệm xác bà khi bà được gọi về với Thiên Chúa. Thật là cảm động cảnh biệt li. Phải đọc nguyên văn mới thấy thấm thía (1).

    Sau khi hoàng tử Khê mất năm 1646 thì bà sống cô đơn, không người che chở. Năm 1648 Nguyễn Phúc Lan cũng qua đời. Người ta phỏng đoán bà cũng mất năm 1649. Người ta cũng cho biết khi bà mất, các cháu đã hỗn xược vào lục soát các đồ vật của bà trong đó có các ảnh thánh, di vật thánh và một khăn nhỏ thấm máu. Đây hẳn là máu thánh tử đạo, nhưng họ phao ra là bà đồng bóng phù thủy.

    Như trên đã nói Đắc Lộ không biết gì về danh tánh đích thực của bà mà chỉ gọi trống mà thôi. Coi Thực lục là sử nhà Nguyễn, chúng ta khám phá ra hoàng tử Tôn Thất Khê là con bà. Nhưng còn bà thì không có trong sử sách chính thức. Nhưng may thay trong gia phả giòng họ nhà Nguyễn là của Gia Long có viết "Khê là con thứ 10 (của Nguyễn Hoàng), mẹ là bà Minh Đức Vương Thái Phi".

    Vậy tất cả sự nghiệp của bà Minh Đức Vương Thái Phi đều nằm trong sự nghiệp con bà là hoàng tử Khê (1588-1646), còn về tôn giáo thì bà là một trong những Kitô hữu then chốt gây dựng Giáo hội nguyên thủy Việt Nam. Nếu đã có hoàng hậu Hêlêna mẹ vua Constantin, đã có hoàng hậu Clotilde vợ vua Clovis thì chúng ta cũng có một bà vương phi vợ chúa Nguyễn Hoàng. Giáo hội công giáo Việt Nam hiên ngang vì đã có một nữ tín hữu vào tầm cỡ bà vương phi này. Chúng tôi có một mơ ước, sau khi theo vết chân các bậc đàn anh để tìm hiểu bà Maria này, như L. Cadière (Une princesse Chrétienne à la cour des premiers Nguyễn, BAVH), như Phạm Đình Khiêm (Minh Đức Vương Thái Phi, Saigon 1957), tôi đề nghị nên cổ động tôn sùng bà và có nguyện vọng xin lập hồ sơ phong thánh cho người bày tôi của Thiên Chúa, bà Maria, bà Minh Đức thứ phi chúa Nguyễn Hoàng, thân mẫu của hoàng tử Khê, mẹ bào đệ của Nguyễn Phúc Nguyên, bà dì của Nguyễn Phúc Lan. Cha Cadière cho biết đã tìm đến mộ Nguyễn Hoàng ở làng Thạch Hãn gần Quảng Trị, mộ hoàng tử Khê ở xã Hiền Sĩ về Bắc Kinh thành, nhưng còn mộ bà Minh Đức thì ở đâu, nếu không là ở trong lòng những ai biết và mến Bà, trong số đó có chúng tôi và giáo dân Việt Nam.

    5. Công chúa Ngọc Liên

    Cũng như khi nói về bà Minh Đức Vương Thái Phi, Đắc Lộ chỉ gọi bà Maria, thì khi nói tới công chúa Ngọc Liên ông cũng chỉ gọi là Maria hoặc Maria Madelena mà thôi. Với bà này, chúng tôi được biết thêm một người trong hoàng tộc đã theo công giáo.

    Đắc Lộ gặp bà khi đi thăm các giáo dân ở tỉnh Phú Yên năm 1641 mà ông gọi là bà Maria Madalêna, vợ ông trấn thủ Phú Yên. Có vậy thôi. đây Bà đã mở bệnh xá để chữa và chứa trọ các bệnh nhân, có cả người cùi. Có lần, nhân vụ bắt bớ và phá nhà thờ, ông cho biết người ta cũng không nể bà Madalêna "có họ với chúa". "Có họ với chúa" nhưng liên hệ họ hàng như thế nào thì không ai biết. Vào thời kì này là thời Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Năm 1644, có thể là trấn thủ Phú Yên đã đổi về Quảng Nam, hoặc về hưu trí nơi đây và nếu có giữ một chức vụ gì đó thì cũng chỉ như cố vấn mà thôi. Đắc Lộ viết trong Tường Trình về Đàng Trong:

    "Viên quan trấn thủ năm ngoái cai trị tỉnh Phú Yên có bà vợ rất nhân đức, bà này có thể sánh về nhiệt tình và đạo hạnh với bất cứ bà lớn nhân đức nhất nào khác bên trời Âu của chúng ta. Bà liên tục mong cho chồng bà trở lại đạo. Năm nay ông được bổ nhiệm làm trấn thủ tỉnh Quảng Nam, nơi có những Kitô hữu tiên khởi của cả nước Annam và ở đây ông đã theo ý bà cho xây cất một nhà thờ ở ngay cạnh tư dinh, để các Kitô hữu hội nhau vào các ngày lễ và ngày chủ nhật, chính ông cũng thỉnh thoảng đến thờ phượng Thiên Chúa".

    Thực ra trong bản Pháp văn ông dùng chung chữ "gouverneur" là quan cai trị, cho nên và chắc chắn ông không phải làm quan trấn thủ, như chúng tôi vừa nói ở trên. Ông quan cựu trấn thủ Phú Yên này rất hiểu biết đạo và để cho bà vợ theo, nhưng phần ông, ông không theo. Đã có lần Đắc Lộ lăm le và làm phép rửa tội cho ông, nhưng tới phút cuối cùng, ông lại từ chối. Có ba lí do, một là ông còn vướng mắc nhiều thê thiếp, hai là ông thuộc hàng tướng tá, mỗi lần ra quân đều phải cúng tế thần và ba là (hay không nói ra) ông ngại triều đình và sợ dư luận. Bà Madalêna rất thất vọng vì bà tin rằng bà đã thuyết phục được chồng và Đắc Lộ đã giảng giải ngành ngọn về giáo lí cho ông hiểu (2).

    Khi thày giảng Anrê bị bắt và bị điệu ra tòa, Đắc Lộ đã muốn cậy nhờ ông can thiệp. Đắc Lộ viết:

    "Sau khi đã vận động hết sức với quan tòa mà không được việc gì thì chúng tôi nhờ trung gian quan cựu trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu, nhưng ông này tỏ ra sợ sệt, không muốn dính dấp vào vụ này, để mặc cho quan tòa thừa hành lệnh từ phủ đưa tới, ông còn thêm là ông sợ chúa cho chặt đầu ông vì vợ ông là Kitô hữu".

    Câu nói Đắc Lộ thường dùng để chỉ viên quan này là "quan trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu". Dầu sao, cũng có lần người ta nể bà trấn thủ mà tránh được một phần tai hại. Đắc Lộ viết: "Khi quan tòa ra lệnh cho triệt hạ các nhà thờ ở Qui Nhơn, Bến Đá và Quảng Ngãi, các Kitô hữu ở vùng thứ nhất đã vận động rất khéo, nhờ trung gian bà vợ quan trấn thủ, một nữ giáo dân cũ, nên nhà thờ của họ chỉ bị phá có một nửa".

    Sống trong một chế độ căng thẳng vì ghét đạo mà một người đàn bà, cho là vợ quan lớn, dám đương đầu công khai tỏ mình là Kitô hữu thì hẳn bà phải có uy thế với triều đình lắm. Can đảm hẳn có thừa, nhưng cũng phải có một nương tựa đó là "có họ hàng với chúa Nguyễn Phúc Lan". Nhưng họ hàng thế nào thì Đắc Lộ không biết. Khi tàu các nữ tu Clarít dạt vào bến Đà Nẵng, như đã nói ở trên, thì bà tận tình đến săn sóc. Đắc Lộ viết:

    "Hơn tất cả các bà khác trong xứ, bà Maria Mađalêna, vợ quan trấn, tỏ ra rất trọng quí các "thánh nữ", tên người ta gọi như vậy. Mỗi ngày bà gửi một món quà mới để tặng, đến thăm thường xuyên và cho con gái một của bà đến với các nữ tu trong mấy ngày. Cô này chừng 13 xuân xanh, đã đem lòng quí mến các nữ tu và khâm phục nhân đức đến nỗi đã quyết định đi theo. Và người ta phải vất vả lắm mới làm cho cô đổi ý định đi theo qua Phi Luật Tân cùng với các nữ tu".

    Hình như cô gái độc nhất nói đây là con nuôi, chứ không phải con đẻ.

    Còn Đắc Lộ sau khi được gặp các tuyên úy chiếc tàu chở các nữ tu thì về trú trọ nơi nhà bà vợ cựu trấn thủ Phú Yên, lúc này đã đổi về Quảng Nam. Vì trong các lời lẽ của Đắc Lộ có nhắc tới quan trấn thủ Phú Yên nên kể từ cha Cadière cho tới Phạm Đình Khiêm, các người nghiên cứu lịch sử Giáo hội đã nghĩ ngay đến mấy bản văn trong bộ sử nhà Nguyễn, Thực lục tiền biên. Theo Thực lục thì tỉnh Phú Yên mới được đặt làm phủ Phú Yên cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào năm 1611. Nguyễn Hoàng sai Văn Phong làm lưu thủ đất này vì có công đánh chiếm được của Chiêm Thành. Tới thời Nguyễn Phúc Nguyên năm 1629, Văn Phong làm phản xui dân Chiêm Thành vào hùa với mình. Vì thế Nguyễn Phúc Nguyên truất phế Văn Phong và đặt con rể lên thay. Thực lục viết:

    "Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống, lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm hệ tính Nguyễn Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trấn biên. (Khi mới mở mang, những nơi đầu địa giới đều gọi là trấn biên), vì có công ấy đặc biệt cho dùng ấn tín".

    Như vậy ông trấn thủ Nguyễn Phúc Vinh có công dẹp được ngụy quân cựu trấn thủ Văn Phong, lại là rể Nguyễn Phúc Nguyên vì lấy công chúa Ngọc Liên. Việc được dùng ấn tín cũng là dấu hiệu được tín nhiệm nơi nhà chúa. Có thể Nguyễn Phúc Vinh giữ chức trấn thủ Phú Yên mãi cho tới năm 1644 mới đi hưu trí về ở tỉnh Quảng Nam. Sử không nói gì hơn. Nguyễn Phúc Nguyên mất năm 1635 và tới Nguyễn Phúc Lan, hẳn cũng chưa có sự thay đổi lớn mãi cho tới những năm 1644-1645 này.

    Thế là chúng ta có thể và có chứng cớ (tuy mong manh) cho rằng bà Maria Madalêna hay Madalêna, vợ trấn thủ Phú Yên, người có họ hàng với chúa là công chúa Ngọc Liên, con Nguyễn Phúc Nguyên, và ông trấn thủ (Phú Yên) có bà vợ là Kitô hữu rất có thể và hẳn chắc chắn là Nguyễn Phúc Vinh nói trong Thực lục. Vì nói phải có sách, mách phải có chứng, nên cha Cadière cũng mới chỉ đưa ra "giả thuyết" mà thôi. Bây giờ với Phạm Đình Khiêm chúng tôi thấy điều này là khá chắc chắn.

    Về công chúa Ngọc Liên thì một tài liệu sau này cho biết vào cuối năm 1663, bà bị bắt cùng với một số đông giáo dân tỉnh Quảng Nam. Trong số 100 người, tất cả đều chối đạo trừ 5 phụ nữ trong đó có bà Maria, 4 người là thường dân thì bị voi dày, còn bà vì thuộc huyết thống nhà chúa nên người ta nhốt bà để cho bà chết đói chết k"ác.oBb hhutđđợi căế ghyt hà chịồ ưìcknám

    ngày, nhưng rồi vì khát quá bà đã xin gặp quan trấn và bà đã chối đạo. Được inbn yãgcáố âạ. ấĐ ợs uik ổàv iáo dâncr t Nầá ghrồi bà (cùng một số người vì yếu đuối đã chối đạo) đi evreuil. Lần đầu tiên cha từ chối cố ý cho bà biết tội rất nặng của bà. Nhưng mấy ngày sau, trước khi cha bị trục xuất và ra đi thì cha đã giải tội cho bà và cho bà rước lễ.

    Đó là vào năm 1665 đầu tháng 3. Trong bản văn viết vào thời kì này, các giáo sĩ vẫn dùng những từ ngữ rất tôn trọng để chỉ "bà Maria" này. Có một bản văn viết bằng tiếng Pháp mà ghi rõ bằng tiếng Việt là "Bà Maria" quả phụ một quan lớn (grand mandarin). Ngoài ra người ta gọi bà là "La maitresse qui s'appelait Ba Maria", "la maitresse fort vénérable". Rồi sau không biết bà mất vào năm nào và mất trong những hoàn cảnh nào.

    6. Công chúa Ngọc Đỉnh

    Khi chúng tôi nói về bà Minh Đức Vương Thái Phi, thì chúng tôi đã dựa vào nhiều đoạn văn Đắc Lộ viết về bà này và nửa giòng ghi trong gia phả Nguyễn Phúc Khê, ông này được nói nhiều Hàng trình của Đắc Lộ, chúng tôi bàn giải về công việc của ông cũng dựa vào một số bản văn của Đắc Lộ và một đoạn trích trong Thực lục nói về ông trấn thủ Nguyễn Phúc Vinh, mà cũng chỉ có một đoạn thôi. Tới công chúa Ngọc Đỉnh thì tuyệt nhiên, Đắc Lộ không cho biết gì hết.

    Khi Đắc Lộ lên thăm giáo dân ở vùng lũy Trường Dục hay lũy Thầy ông viết:

    "Sau khi rảo khắp trung tâm đất nước này, cuối cùng tôi tới tỉnh Quảng Bình, ở sát biên giới Đàng Ngoài có lũy kiên cố chia đôi hai nước. Người Đàng Ngoài thường dồn hết lực lượng để chiếm, nhưng đều vô hiệu. Tôi đến thành phố chính của tỉnh và đem lễ vật đến tặng quan trấn. Ông rất niềm nở đón tiếp tôi. Ông nói rất thành thạo về các mầu nhiệm đạo ta, làm cho tôi tưởng xưa kia ông là giáo dân, điều mà không bao giờ ông thú nhận" (Đắc Lộ, Hành Trình, 9.2 ch.27).

    Đó là năm 1644. Chúng tôi xin trưng thêm một đoạn Saccano viết năm 1647 khi xảy ra việc bắt ba giáo dân và chính quan trấn thủ Quảng Bình là người được nhà chúa cho đứng ra xử tử. Saccano viết:

    "Quan trấn thủ là Kitô hữu, nhưng chỉ có tên mà thôi, ông không sao ngăn cản được, cũng không sao cứu người vô tội thoát án tử hình, bởi vì khi ông định, hoặc là lẩn tránh, hoặc ít ra kéo dài việc thi hành bản án chúa ban ra, thì một viên quan thuộc phái nhà nho nài nẵng đòi chúa quyết định truyền thi hành án tử ngay, thế là ông buộc mình phải cho thi hành". Còn về sách đạo thì ông truyền không được đốt bằng cách nào khác, mà phải treo lên trên không, ông nói: "Vì là sách đạo Thiên Chúa, nên không được phép để cho chạm tới đất" [3].

    Tìm về Thực lục năm 1623 thấy nói tới một sự việc như sau:

    "Lấy Nguyễn Phúc Kiều (vốn họ Nguyễn, cho theo quốc tính, sau đổi là (hệ tính) Nguyễn Cửu) làm cai đội, coi đội mã cơ. Kiều từ Đông đô đem mật thư của Ngọc Tú về dâng. Chúa rất mừng, đặt trao cho chức ấy, rồi gả công chúa Ngọc Đỉnh cho".

    Việc gả công chúa cho Nguyễn Phúc Kiều đã là dấu hiệu tin tưởng và quí mến, nhưng tới năm 1633, Nguyễn Phúc Nguyên còn trao cho Kiều chức trấn thủ Quảng Bình. Thực lục viết:

    "Mùa Thu tháng 8, triệu trấn thủ Quảng Bình là Hoàng tử Tuấn về, cho Nguyễn Phúc Kiều thay".

    Thế là ở hai ngọn đầu đất nước, nhà chúa đặt hai chàng rể thân tín: Nguyễn Phúc Vinh ở Phú Yên và Nguyễn Phúc Kiều ở Quảng Bình.

    Nếu Thực lục chỉ ghi danh tánh Nguyễn Phúc Vinh lấy công chúa Ngọc Liên và làm trấn thủ Phú Yên có một lần, thì sử nhà Nguyễn nói về Nguyễn Phúc Kiều khá nhiều, bởi vì ông này là một tướng giỏi đương đầu với quân nhà Trịnh ở Đàng Ngoài đánh vào.

    Thời Nguyễn Phúc Lan, Thực lục còn ghi chiến công của Nguyễn Phúc Kiều năm 1640 và 1648, năm ông chúa này mất. Như vậy thời kì Đắc Lộ tới Quảng Bình thì ông trấn thủ ở đây là ai nếu không phải là Nguyễn Phúc Kiều và khi xảy ra vụ án xử tử hai Kitô hữu, Autinh và Alexis năm 1647, theo lời tường thuật của giáo sĩ Saccano, thì quan trấn thủ cũng là Nguyễn Phúc Kiều, "một Kitô hữu, nhưng chỉ có tên mà thôi", theo Saccano.

    Dầu sao, ông quan này cũng có thiện chí cứu các nạn nhân mà không được. Ông cố trì hoãn nhưng rồi cũng thi h thành công trong vinh trọng các sách đ

    Có một chi tiết khtrọng cần phải nói ở chắc chắnết chắc chắn cuộc tử hình được diễn ra ở tại tỉnh Quảng Bình và do ông trấn thủ Quảnga ở tại tỉnh Quảng Bình và do ông trấn thủ Quảng Bình thi hành, đó là điều Saccano viết rất rõ ràng:

    "Lệnh thi hành bản án được trao cho quan trấn thủ Quảng Bình, hơn nữa ông cũng được lệnh bắt các Kitô hữu và cho một hình phạt làm gương, tùy ông xét xử". "L'ordre de faire exécuter tout cela, fut donné au Gouverneur de Quanbinch et d'abondant lui fut commandé, qu'autant qu'il attraperait de Chrétiens, il en fit une punition exemplaire selon qu'il jugerait" (Metelle Saccano, Relation, Paris 1653, p.97).

    Thế nhưng còn một chi tiết độc nhất làm cho chúng ta có thể phỏng đoán - và phỏng đoán mà thôi - đó là chi tiết người can đảm dám táo bạo đem chiếu điều trải trước mặt hai người sắp bị chém đầu. Saccano viết: "Các tử đạo của chúng ta bị đưa tới nơi hành hình, lương dân và binh lính cùng các nhân viên tòa án đứng một bên, còn một bên là các Kitô hữu. Cả đàn ông và cả đàn bà, làm thành một hàng rào rộng lớn. Có một Bà Kitô hữu tỏ lòng bác ái và can đảm ở chốn hành hình rộng lớn này: Bà tiến đến gần các tù nhân, trải chiếu cho các vị quì lên trên, để cho máu không thấm xuống đất và mặc dầu các vị khiêm nhường hết sức từ chối danh dự này, nhưng cuối cùng các vị phải thua sức mạnh của lòng thương mến: Bà không sợ sắc lệnh chúa mà viên lục sự vừa mới công bố: Hết những ai bị bắt tin theo đạo người Bồ thì bị chém đầu".

    Phải chăng đây là bà công chúa Ngọc Đỉnh, phu nhân Nguyễn Phúc Kiều, trấn thủ Quảng Bình. Chỉ có một người tầm vóc như bà, mới dám ra mắt công khai trong việc này mà không sợ bị liên lụy.

    Nếu Đắc Lộ nói nhiều về bà Minh Đức, về bà công chúa Ngọc Liên thì về công chúa Ngọc Đỉnh phu nhân Nguyễn Phúc Kiều, Đắc Lộ cũng như Saccano, đều không nói gì tới. Người tới giải chiếu cho các tử đạo quì, cũng theo giả thuyết, phỏng đoán, có thể là Ngọc Đỉnh chăng? Và chúng tôi không dám nói gì thêm.

    Còn về Nguyễn Phúc Kiều thì Thực lục cho biết năm 1648 "trấn thủ Nguyễn Phúc Kiều xin giữ lũy Trường Dục để làm kế cố thủ". Năm 1652 vào thời Nguyễn Phúc Tần, Kiều được lệnh bỏ thuốc độc cho Thị Thừa chết đi. Năm 1655 trong một trận chiến, Kiều đưa quân lên làm tiên phong. Trận kéo dài và năm 1656 ông tử trận. Thực lục viết:

    "Kiều bị thương rồi chết (tặng là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân Tả quân đô đốc phủ tả đô đốc Nghĩa quận công, lập đền thờ ở xã Dương Xuân, cấp cho tự phu 50 người".

    Cũng nên biết, khi Nguyễn Phúc Khê mất thì được tôn là "Tường quận công", còn Kiều thì được tặng chức như Khê đó là "Nghĩa quận công".

    7. Thanh Đô Vương Trịnh Tráng (1623-1657)

    Chúng ta không thể không nhắc tới Trịnh Tráng, hiệu Thanh Đô vương. Ông được Đắc Lộ trân trọng gọi là chúa lần đầu tiên đã tiếp đón các giáo sĩ Dòng Tên. Và thật vậy năm 1626 ông chúa này đã hậu đãi phái đoàn thương gia người Bồ có cha Baldinotti đi làm tuyên úy, nhưng thực ra đi tìm đường truyền giáo ở Đàng Ngoài. Theo Tường Trình của cha, thì thấy Trịnh Tráng cởi mở, khôn ngoan và ham học. Là con một nữ ca sĩ, ông thích hát ca xướng họa. Có lần ông mời cha Baldinotti đi dự, nhưng cha từ chối, để cho người Bồ đi mà thôi. Ông cũng ham học hỏi, thường cho người tới mời cha đến giảng cho mình nghe về thiên văn, về việc vận chuyển các hành tinh, về nguyệt thực, nhật thực. Ông tiếp đãi phái đoàn người Bồ rất nồng hậu, thường cho người đem bánh kẹo, quà cáp đến tặng. Giáo sĩ cho biết ông thao luyện võ niht,ôcgitnaự, ubện cõn, gxệm,cgèt ah y nắc iung, xem chèo thuyền chiến. Thế nhưng ông rất cẩn thận lo việc nước, nhất là lúc này đang chuẩnấb àưl cunnyvđonđ nh ẩg yịnđ a q âNguyên.

    Thực ra, ông muốn liên lạc và nhất là mua súng ống đạn dược. Biệt đãi các người ngoại quốc, nhưng khi ông được người ta cho biết giáo sĩ đã mật cho người đem thư vào Đàng Trong để xin Bề trên phái người thông thạo tiếng ra Đàng Ngoài giảng đạo, thì ông nghi ngờ, rồi ông không cho phái đoàn ra đi như đã định. Ông bắt lập đền thờ và bắt phải thề là không có liên hệ gì với Nguyễn Phúc Nguyên, ông bắt phái đoàn phải thề trung thành với ông và không liên lạc với Đàng Trong. Trước khi phái đoàn ra đi, ông còn mở tiệc khoản đãi và mở kho tàng của mình cho họ coi, như thể bảo ngầm họ rằng: ta có những thứ này, có súng lục, có ngọc trai, các ông liệu đem cho ta những thứ ấy.

    Khi Đắc Lộ năm 1627 tới thì được Trịnh Tráng tiếp đón nồng hậu vào lúc nhà chúa đưa quân đi đánh Nguyễn Phúc Nguyên. Người Bồ khôn khéo đã tặnp ờn ồmktôk ẩh oúđg đặ gựôvg. Độc Lh uãstnn ể tự vệ. Đắc Lộ đã tặ,gmột đồng hồ bằng cát và một đồng hồ máy báo thức, có chuông kêu khi vặn đúng giờ đó. Đắc Lộ còn tặng ông một cuốn sách bằng chữ nho do các giáo sĩ Dòng Tên bên Tàu ấn hành. Đó là cuốn Kỉ hà nguyên bản, sách hình học của Euclide mà Từ Quang Khải cộng tác với cha Ricci đã dịch và in tại Trung quốc. Trịnh Tráng rất thích hai đồng hồ và dĩ nhiên khẩu súng nữa. Có lần ông đợi lâu chưa thấy chuông reo "báo thức" ông sốt ruột hỏi lại Đắc Lộ. Có lần ông mời giáo sĩ qua thuyền ông để nghe hát: giáo sĩ tới dự và Trịnh Tráng tò mò hỏi xem bên trời Âu người ta ca hát thế nào. Trịnh Tráng cũng cho vời Đắc Lộ tới để cắt nghĩa toán học, giải thích sự vận chuyển các hành tinh cho mình nghe. Nhưng khi giáo sĩ muốn từ thiên văn địa lí giảng đạo cho ông nghe thì ông xin khất lần khác.

    Trịnh Tráng đưa phái đoàn người Bồ trong đó có Đắc Lộ và cha Marguez, một người lai Bồ, bố Bồ mẹ Nhật, về Thăng Long Kẻ Chợ, và cho phái đoàn ngụ tại phủ chúa. Nhưng sau giáo sĩ xin ở ngoài phủ để tiện việc đi lại của những người muốn đến học đạo. Trịnh Tráng đã cho một khu nhà đẹp đẽ sang trọng như nhà các qual tủọ gẻ Chợ h như bị thất lạc vì chiếc tàu chở phái đoàn về đã gặp tai nạn và đắm ở đảo Hải Nam. Dân ở đảo tìm được và cha Bề trên Palmier đã bỏ tiền ra chuộc lại, hiện còn được lưu trữ tại thư viện Vaticăng.

    Theo bức thư thì thấy Trịnh Tráng cũng đã chủ ý tìm hiểu và có những lời lẽ rất thích hợp cảm ơn cha Bề trên đã phái hai "giáo sĩ tinh thức thiên văn địa lí" đem "Thánh giáo" dạy "thập giới tổng hợp tại tam" dạy cho "chúng sinh". Trịnh Tráng khá lịch thiệp khi nói mình cũng rất khâm phục "Thánh giáo" và tiếp đãi các giáo sĩ cho ngụ ở một nơi thuận tiện "xem hiện tượng trời đất và xét nghiệm điềm lành". Nhưng dẫu sao, Trịnh Tráng không quên việc giao thông buôn bán. Việc "thông hảo. .. thuận nhân tình, tiện dân dụng chi sự", dĩ nhiên không cần phải nói. Kèm theo thư Trịnh Tráng gửi tặng: trầm hương, nhị cân, Bạch tế bố, bát thất. Cát nhàn nhất lâu, trọng thập cân.

    Thế là các văn kiện thời Trịnh Tráng không còn cho tới ngày nay, trừ bức quốc thư Trịnh Tráng gửi cha Bề trên Dòng Tên ở Macao năm 1627. Trịnh Tráng còn khá lịch thiệp và biết cư xử nhất là đối với người ngoại quốc, bởi vì năm 1629 khi ông nghe theo lời cận thần xúi giục mà ra lệnh trục xuất hai giáo sĩ thì ông cho người đem cho hai giáo sĩ hai đồng êcu và vải quí, cung cấp cho một chiếc thuyền có đủ thuyền trưởng và người chèo để dẫn vào Đàng Trong.

    Thực ra năm 1629 này là năm đói kém vì thế vua Lê mới đổi niên hiệu Vĩnh Tộ ra Đức Long. Và cũng năm này, theo Đắc Lộ, Trịnh Tráng không thấy phái đoàn người Bồ tới như đã mong, đã hẹn: chiếc tàu năm 1627 khi trở về, đã bị đắm ở đảo Hải Nam như vừa nói, nên có sự trậm trễ, ngại ngùng của các thương gia.

    Nhưng khi Đắc Lộ còn nằm chờ ở Thanh Nghệ Tĩnh thì người Bồ ở Macao đã trở lại Đàng Ngoài đem theo giáo sĩ Gaspar d'Amaral người Bồ. Thế là cả D'Amaral và Đắc Lộ cùng lên Kẻ Chợ, được Trịnh Tráng tiếp đãi, vì có người Bồ tới làm công việc thương mại (và biết đâu có bán vũ khí mà Trịnh Tráng đang cần để đối phó với Đàng Trong). Cũng năm đó khi phái đoàn trở về Macao thì giáo dân Đàng Ngoài đã đệ một bức thư lên đức giáo hoàng Urbanô VIII, đề: "tự Thiên Chúa giáng sinh chí kim, nhất thiên lục bách tam thập niên. thần bổn đạo đẳng, Kê thủ đốn thư, túc trình tư thư". Chúng tôi tất cả bổn đạo cùng nhau cúi đầu kính đệ bức thư mọn này. (Coi Võ Long Tê, Lịch sử văn học công giáo Vietnam, Saigon, 1965 trang 116.) Như vậy, mới có 3 năm thụ giáo mà giáo dân Đàng Ngoài đã ăn nói đĩnh đạc, suy nghĩ chín chắn về đạo như thế và Trịnh Tráng cũng tỏ ra hiểu biết như thế, thì hẳn là do hoạt động rất tích cực của Đắc Lộ và cũng nhờ vào óc cởi mở của Trịnh Tráng. Không cởi mở mà Trịnh Tráng đã để dòng họ nhà mình có người theo Kitô giáo, đó là bà em Trịnh Tráng cùng cụ thân mẫu đã theo đạo: bà Catarina đã nói ở trên. Nhưng cũng phải nói Trịnh Tráng đã cho xử tử một giáo dân tên là Phanchicô chỉ vì ông này không chịu bỏ việc đi chôn xác người nghèo. Nhà chúa không thể chịu để người khiêng cáng, khiêng kiệu cho ông mó tay vào xác chết (Sd. 9.2 ch. 38). Có thể coi đây là người chứng thứ nhất ở Đàng Ngoài. Thực ra cũng đã có người Kitô hữu phục vụ trong nhà chúa, phủ chúa, như viên binh sĩ pháo thủ trước kia làm việc với người Bồ, thông thạo về pháo binh, nay phục vụ cho nhà chúa và chết vì tai nạn bắn pháo (Sd. 9.2 ch. 26).

    Trịnh Tráng còn sống cho tới năm 1657 và giáo sĩ Tissanier, Marini còn tường thuật và cho biết nhiều chi tiết khác về ông chúa này.

    8. Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)

    Đàng Trong, việc truyền giáo bắt đầu sớm hơn ở Đàng Ngoài, nghĩa là vào năm 1615 dưới thời Nguyễn Phúc Nguyên. Nhưng trong các bài tường trình, ít nói trực tiếp đến ông chúa Nguyễn này. Người ta chỉ nói tới ông nghè Quảng Nam, Hoàng tử Kì con trưởng Nguyễn Phúc Nguyên, ông chú của chúa Nguyễn phúc Khê, bà dì của chúa hay thân mẫu của bào đệ của chúa là bà Vương Thái Phi Minh Đức mà thôi.

    Tuy nhiên với một số người thân thích có cảm tình với Kitô giáo như thế thì nhà chúa cũng không thể có ác cảm được. Trong những vụ nhật thực, nguyệt thực, người ta được biết là Nguyễn Phúc Nguyên có những nhà toán học riêng của mình, còn Hoàng tử Kỳ cũng có những nhà toán học riêng của mình. Mà vì Kỳ đã cho các cộng tác viên của mình đến học với Ấá ủi oìsh,đnn học viitc cígháo sĩn ày giờ xảy ra nhật thực, nguyệt thực đúng hơn các chuyên gia của Nguyễn Phúc Nguyên.

    Theo Borri thì Nguyễn Phúc Nguyên có gả một công chúa cho nhà vua Campuchia, lại cung cấp chiến thuyền và võ khí cho nhà vua để đương đầu với Thái Lan đe dọa nơi biên thùy. Điều này sử ta không nói tới nhưng quốc sử Campuchia ghi rõ rệt (Nguyễn Đình Đầu, Địa lý lịch sử thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí văn hóa T.P. H.C.M., 1987, trang 148).

    Vẫn theo Borri, chính Nguyễn Phúc Nguyên phái sứ thần Đàng Trong đi Campuchia: ông này đã nể lời bà vợ là Kitô hữu tân tòng mà xin chịu phép rửa tội trước khi cho căng buồm trẩy đi Campuchia. Nguyễn Phúc Nguyên còn có hai tướng làm rể, lấy công chúa Ngọc Liên và Ngọc Đỉnh, Nguyễn Phúc Vinh và Nguyễn Phúc Kiều, cũng như có bà Minh Đức Vương Thái Phi là bà dì theo Kitô giáo.

    Theo lời các giáo sĩ để lại, nhất là Borri thì thấy Nguyễn Phúc Nguyên rất cởi mở, rất sáng suốt. Ông tỏ ra không sợ ai, người Hòa Lan, người Bồ, người Nhật, hay ncưBi,T

    ug ờn hởtc aađón nhận hết và cho phương tiện hoạt động thông thương buôn bán. Kể từ đời Nguyễn Hoàng, hai cửa biển Hội An và Qui Nhơn là hai hải cảng lớn, Nguyễn Phúc Nguyên không cần biết tới tôn giáo mới, nhưng ông cần buôn bán với người Bồ, cần súng ống đạn dược của người Bồ, để chống lại quân của Trịnh Tráng. Người Bồ đã xúi ông không cho người Hòa Lan tới, nhưng ông không nghe: ông có nhãn quan thương mại chứ không có nhãn quan ý thức hệ.

    Năm 1624 Đắc Lộ tới Đàng Trong vào thời Nguyễn Phúc Nguyên, nhưng chỉ hai lần gián tiếp nhắc tới ông này. Một lần Đắc Lộ theo De Pina đến thăm bà Minh Đức và một lần xin ông nghè hoàng tử Hoàng tử Kỳ thỉnh cầu nhà chúa cho ở lại một trăm ngày để lo lễ giỗ De Pina chết đắm tàu ở Hội An năm 1625.

    Sử nhà Nguyễn Thực lục tiền biên viết nhiều về sự nghiệp của Nguyễn Phúc Nguyên. Chúng tôi không nhắc tới ở đây. Chỉ biết vào thời ông, Giáo hội Kitô tương đối được bình an thịnh trị. Ông mất năm 1635 và người con thứ là Nguyễn Phúc Lan lên kế vị.

    9. Nguyễn Phúc Lan (1635-1648)

    Chúng tôi đã mộú cha nhà chúa Hoàng tử Khê hay bà dì của nhà chúa, thân mẫu ông chú nhà chúa là bà Minh Đức Vương Thái Phi, nhất là Tống Thị, quả phụ bào huynh của nhà chúa là hoàng tử Hoàng tử Kỳ. Nguyễn Phúc Lan quả là người có vấn đề. Trước khi Nguyễn Phúc Nguyên mất, đã nhờ hoàng tử Khê để ý giúp đỡ thế tử trong việc trị nước. Mới lên kế vị đã có người em làm loạn khiến Nguyễn Phúc Lan chán nản muốn trao quyền trị nước cho người chú là Khê. Nhưng rồi vướng vào vụ Tống Thị, mê sắc dục tham ngọc trai, Nguyễn Phúc Lan tỏ ý chê trách ông chú làm cho ông này cho người phá nhà nguyện công giáo của bà Vương Thái Phi. Lan cũng ra lòng xa lánh Đắc Lộ và bà Vương Thái Phi vì sợ Đắc Lộ có tài địa lí tìm cách để mồ để mả cho phát, ngõ hầu dòng họ bà Vương Thái Phi sau này lên cầm quyền.

    Cũng dưới thời Nguyễn Phúc Lan do ảnh hưởng xấu của Tống Thị mà Anrê Phú Yên bị chết vì đạo rồi tiếp theo sau mấy năm là hai thày giảng khác, Y Nhã và Vinh Sơn.

    Tính khí ông chúa này khá kì dị. Năm 1645 khi chiếc tàu Tây Ban Nha chở bốn nữ tu Clarít và hai giáo sĩ Phanchicô bị bão đánh dạt vào cửa Hội An thì Nguyễn Phúc Lan và bà chính phi tò mò muốn một mực bắt các nữ tu phải ra mắt cho chúa ông và chúa bà xem mặt. Sau nhiều lo lắng và do dự, thuyền trưởng người Tây Ban Nha phải nhượng bộ. Thế là thuyền trưởng và quan sĩ tùy tùng cùng với năm chục thủy thủ người Tây được đưa về Thuận An. Đắc Lộ kể lại chỉ vì người ta đồn thổi là các nữ tu thánh thiện không để tóc mà cạo trọc đầu.

    Nghi lễ đón tiếp các nữ tu được tổ chức cực kì long trọng. Thuyền trưởng người Tây Ban Nha với hai viên quan tháp tùng cùng hai giáo sĩ đi theo. Một bữa tiệc thịnh soạn khoản đãi phái đoàn, có ca múa, hát xướng. Có chừng bốn nghìn lính gác. Các nữ tu vẫn che kín mặt và chỉ bằng lòng vén khăn khi đi qua trước mặt chúa bà mà thôi. Tuy nhiên để chiều ý chúa bà, một bà đi theo hầu được phép sờ đầu một nữ tu đã có tuổi và rồi nói lớn tiếng cho chúa bà biết là có cạo đầu trọc thật.

    Dầu sao các nữ tu được trọng kính và vì nể, được nhiều quà tặng. Giáo dân đến nghe các bà hát kinh và là một dịp làm phấn khởi giáo đoàn.

    Hôm đó Nguyễn Phúc Lan cho thao diễn một trận thủy chiến trên sông Hương. Còn thế tử thì biểu diễn ngựa trận ở trên đất liền. Hôm sau lại có một cuộc thao diễn chiến thuyền khác. Ngày thứ ba Nguyễn Phúc Lan còn tổ chức tế vong linh tiên tổ có tới sáu ngàn binh lính túc trực. Đó là vào ban sáng, tới ban chiều lại thao diễn một trận thủy chiến nữa.

    Đó, tính khí kì cục của ông chúa này được biểu lộ trong cuộc tiếp đón các nữ tu như vậy đó.

    Đắc Lộ có lần muốn yên tâm truyền giáo thì đã phải dâng chúa tặng phẩm như đồng hồ có khắc chữ nho. Chính Nguyễn Phúc Lan đã ra lệnh trục xuất Đắc Lộ năm 1645. Từ đó ở Macao người ta biết ông chúa này thích ngọc trai, nên mỗi lần tới thông thương buôn bán thì biếu chúa những hạt trai quí. Giáo sĩ Saccano, người tiếp sau Đắc Lộ tới Đàng Trong, đã nói rằng Nguyễn Phúc Lan khi mới được tin người Bồ tới Cửa Hàn tức Hội An và đem theo ngọc trai, thì ông đã vội vã cho người tới đưa họ về phủ. Và khi nhận được từ tay người Bồ bốn hòn ngọc trai thì Nguyễn Phúc Lan đưa lên hít lấy hít nể, sung sướng. Thực lục cũng cho biết: Tống Thị đã dâng chúa một chuỗi ngọc bách hoa để được ra vào cửa phủ nhà chúa, kể từ năm 1639.

    Năm 1648 Nguyễn Phúc Lan đưa quân chống lại quân Trịnh phạm cửa Nhật Lệ. Nhưng rồi ông rút quân về, tới Phá Tam Giang thì băng ở thuyền ngự. Thực lục kể lại như thế. Còn Lê Quí Đôn trong Phủ biên tạp lục thì lại viết: "Phúc Lan trúng độc của người yêu là Tống Thị, rút quân về, ngày 26 tháng 2 về đến Phá Tam Giang thì chết". (Sd. tr. 55)

    o0o

    CHÚ THÍCH

    [3]. Như vậy về viên quan trấn thủ Quảng Bình, Đắc Lộ chỉ nói tới có một lần với sự dè dặt cần phải có, còn Saccano thì quả quyết hơn, vì việc xử hai giáo dân xảy ra vào thời Saccano đang hoạt động ở Đàng Trong. Sử của chúng ta nói nhiều hơn về quan trấn thủ Quảng Bình này.

  3. #3

    Mặc định

    THAY LỜI KẾT

    Con người Đắc Lộ

    Tới đây, sau khi đã nói tới sự nghiệp lớn lao của Đắc Lộ trong ba việc: hình thành Giáo hội công giáo Việt Nam, hiểu biết con người và đất nước Việt Nam, hình thành chữ quốc ngữ, chúng tôi thấy rất mến con người Đắc Lộ, rất giản dị, chất phác, nhiều khi như ngây ngô, nhưng cũng rất mực sâu sắc. Ông ra vào cửa công, quen thân với đủ hạng người, từ vua chúa quan quyền tới hàng thứ dân, bao giờ ông cũng được người ta quí mến. Một người có một sức khoẻ dồi dào, khi thấy ông vượt biển mấy lần, đi bộ, đi sông, đi biển và mê say làm việc truyền giáo. Là một người hoạt động luôn luôn trên đường giảng dạy, nhưng cũng là con người học hỏi tinh tường cặn kẽ, lại là một nhà viết sách viết văn. L. Cadière đã vhến tăấ. Lh Àadière cãnnnậh ihấy như vậy và còn ngciênh chân dung Đắc Lộ, chân dung một nhà nho, một Kẻ Sĩ, một nhà hiền triết phương đông, dựa theo chân dung M. Ricci (Lợi Mã Đậu), linh mục Dòng Tên người Ý tự xưng là Tây Sĩ, một "nhà nho" Tây phương đến với các nho sĩ Trung Hoa. Và chân dung Ricci cũng dựa theo lối ăn mặc các nho gia Tàu, theo chân dung ông Thày của mình, đức thánh của mình, là Khổng Tử. Vậy đây là một bậc Thày, một bậc thánh, một ân nhân mà chúng ta mừng 400 năm sinh nhật (1593-1993), một người đã để lại cho người Việt Nam chúng ta một câu nói lưu truyền: "Xác tôi rời bỏ Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhưng thực ra lòng tôi vẫn quyến luyến cả hai và tôi chắc không bao giờ lòng tôi lại quên được hai xứ ấy" (Hành Trình và Truyền Giáo).

    Bia kỉ niệm

    Ngày thứ năm 29 tháng 5 năm 1941, ở Hà Nội đã làm lễ khánh thành bia kỉ niệm Đắc Lộ ở đường Francis Garnier, nay là phố Đinh Tiên Hoàng, cạnh hồ Hoàn Kiếm, dưới sự chủ tọa của toàn quyền Decoux có ban tổ chức gồm các ông Pierre de Feyssal, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Văn Tố, Paul Bouchet. Theo Đỗ Quang Chính thì bia này đã bị hạ vào năm 1957. Năm 1983 khi chúng tôi về Hà Nội quả thực không còn bia, nhưng còn mái che bia. Tới năm 1986 thì không còn mái nữa và ở đây đã có một đài quyết tử quân, nếu chúng tôi không lầm. Tại Saigòn trước 1975 có một con đường Alexandre de Rhodes, nhưng sau đã biến mất.

    Trong đời một con người, thường có những nhiệt tình đưa tới lầm lỗi. Vậy có nên trả lại cho Đắc Lộ hai cái vinh dự chính đáng kia không? Chúng tôi được biết năm 1960, ở Saigòn bộ Văn Hóa và Viện Khảo Cổ đã tổ chức húy nhật 300 năm giáo sĩ Đắc Lộ (1660-1960). Thế nhưng ở Hà Nội, người ta tỏ ra rất bất bình và cho chúng tôi làm công việc thuộc ngành tâm lí chiến. Tờ Nghiên Cứu lịch sử số 63 tháng 6 năm 1964 đã lên tiếng chỉ trích nặng lời. Người ta cho chúng tôi là "xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc chân lí khoa học". Bài của hai ông Hoàng Văn Lân và Đặng Huy Vận khá gay gắt.

    Thế nhưng, theo nhận xét của chúng tôi thì người ta cũng đã uốn nắn lại tư duy. Chưa biết ai đã xuyên tạc lịch sử, chân lí khoa học. Những bài viết về Đắc Lộ, về Maiorica đã được giới văn học để ý. Và nhất là ở Saigòn, với sự cộng tác của các nhà văn học như Đỗ Quang Chính, Thanh Lãng, người ta đã thấy đâu là sự thực lịch sử, đâu là chân lí khoa học. Từ điển văn học

    Thế nhưng Đắc Lộ với ba cuốn Khái Luận Việt Ngữ, Phép Giảng Tám Ngày và Từ điển Việt Bồ La (1651) vẫn bị loại ra không được ghi nhận trong Từ điển Văn học, 2 tập, do nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội ấn hành năm 1983.

    Hôm nay nhân ngày chúng ta, một nhóm người ở Giáo Xứ, mừng kỉ niệm 400 năm sinh nhật Đắc Lộ (1593-1993) và nhắc nhở tới thân thế và sự nghiệp của giáo sĩ, chúng tôi có một nguyện vọng là Ban Biên tập Từ điển Văn học lần tái bản, đưa Đắc Lộ với ba tác phẩm của ông vào Từ điển Văn học. Không là cách ghi công ơn của Đắc Lộ mà là tôn trọng chân lí khoa học và sự thực lịch sử như hai tác giả bài biên khảo trong Tạp chí lịch sử nói ở trên, đã hơn một lần nhấn mạnh.

    Lịch sử văn học Nga đã bắt đầu bằng những sách phụng vụ và Kinh thánh viết bằng thứ chữ do một nhà truyền giáo người Hy lạp miền Thessalonique, sáng chế ra từ tự mẫu Hy lạp, ngày nay vẫn gọi là tự mẫu cyrillique, bởi tên nhà truyền giáo đó là ông thánh Cyril, thế kỉ 10. Văn học Việt Nam không bắt đầu bằng chữ quốc ngữ vì chúng ta đã có chữ nôm, nhưng lịch sử chữ quốc ngữ trong đó có lịch sử ngữ pháp học, lịch sử từ điển đã bắt đầu bằng những bài viết của các giáo sĩ truyền giáo và đặc biệt của Đắc Lộ với ba tác phẩm in năm 1651. Chúng ta không có mặc cảm, trái lại là khác. Chúng tôi tin vào trí sáng suốt và óc khoa học của những nhà làm công tác văn học.

    Đắc Lộ là người của chúng ta, người con tinh thần của Đất Nước chúng ta, người đã để lại cho chúng ta, ngoài các tác phẩm khác, có ba cuốn đặt nền tảng cho chữ viết của chúng ta ngày nay, gọi là chữ quốc ngữ.

    Viết xong ngày 11-03-1993

    Tác giả Nguyễn Khắc Xuyên

    ( nguồn : http://www.dunglac.org/index.php?m=h...detail&ia=4491 )

  4. #4

    Mặc định

    Chuyện giáo sỉ Đắc lộ ăn cắp công của người khác này bị vạch trần trên sachhiem.net rồi mà? Sao còn đưa lên đây gạt gẩm người chưa biết? Tôi tôn trọng tôn giáo của bạn nhưng tôi phản đối chuyện lập lờ công tội của kẻ giả danh truyền đạo để làm gián điệp, chiếm đóng dất nước tôi!

  5. #5

    Talking Tiếng Việt có sức sáng tạo kỳ diệu



    Chữ quốc ngữ xuất hiện cách đây khoảng 500 năm, đến nay đã ổn định, mang tính biểu đạt cao. Tiến sĩ ngôn ngữ Trần Trí Dõi, tác giả cuốn Ngôn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội mới xuất bản đã có cuộc trò chuyện chung quanh sự phát triển của chữ quốc ngữ.

    - Một số ý kiến tỏ ra nghi ngờ giá trị tiên phong của Alexandre De Rhodes trong việc tạo ra chữ Quốc ngữ. Chúng ta phải dựa vào tiêu chí nào để đánh giá đúng công lao của giáo sĩ Đắc - Lộ (tên Việt của giáo sĩ Alexande De Rhodes) đối với văn hóa Việt?

    - Đây là một vấn đề lớn, phức tạp, đòi hỏi phải có cái nhìn bao quát, khoa học. Trong bài tựa của bộ Từ điển Việt - Bô-la, giáo sĩ Đắc - Lộ đã nhắc đến công lao của hai giáo sĩ Gaspar d'Amaral và Autonio Barbosa, một người soạn bộ từ điển Việt - Bồ, một người soạn từ điển Bồ - Việt. Giáo sĩ Đắc - Lộ khiêm cung thừa nhận sự ảnh hưởng của hai giáo sĩ này. (Sự khiêm cung thường gặp của tất cả các nhà khoa học đối với người đi trước dù có nhiều trường hợp ảnh hưởng của người đi trước không lớn thực sự). Tuy nhiên chúng ta không thể tìm ra được hai cuốn từ điển đó. Giới khoa học có lẽ chỉ dựa vào lời của giáo sĩ Đắc - Lộ mà phán đoán. Tôi cho là mọi điều cần phải được chứng minh bằng văn bản, tư liệu rõ ràng. Trong những tư liệu, văn bản mà chúng ta xác định được thì giáo sĩ Đắc - Lộ chính là người đầu tiên tạo ra một hệ thống chữ viết hoàn chỉnh bằng cách dùng ký tự la-tinh để ghi âm tiếng Việt. Hệ thống đó là nền tảng cơ bản của tiếng Việt hiện đại: năm 1651, tại La-mã, giáo sĩ Đắc - Lộ đã xuất bản ba cuốn sách in đầu tiên của chữ Quốc ngữ. Đó là ba cuốn: Phép giảng tám ngày, Văn phạm Việt ngữ, Từ điển Việt - Bồ - La.

    - Nhưng nhiều nhà nghiên cứu của ta và Pháp đã khẳng định rằng có một vài văn bản chữ Quốc ngữ xuất hiện trước năm 1651 của các giáo sĩ khác. Đặc biệt là các văn bản chép tay của giáo sĩ Francessco de Pina, thầy dạy tiếng Việt của giáo sĩ Đắc - Lộ?

    - Đó là vấn đề chuyên biệt của ngôn ngữ mà ta phải hiểu rõ. Có thể tồn tại những văn bản như các nhà khoa học nói tới, không chỉ một mà nhiều văn bản. Nhưng vấn đề chúng ta đang đề cập đến không hẳn ở đó. Khi các nhà ngôn ngữ lên miền núi nghiên cứu về tiếng nói của các dân tộc anh em, mỗi người đều có cách "ghi" ký hiệu riêng về tiếng nói vùng đó. Đó là ký hiệu có tính chất "cá nhân" hoàn toàn không phải là chữ viết. Những ký hiệu đó chỉ biến thành chữ viết thực sự khi nó có hệ thống ngữ pháp, từ điển rõ ràng. Tôi cho rằng nếu tồn tại các văn bản như trên thì có thể chúng tồn tại ở dạng ký hiệu cá nhân. Giáo sĩ Đắc - Lộ có thể tiếp xúc và học hỏi ở các văn bản này. Tôi xin nhắc lại trong những văn bản đã được xác định thì chỉ có các tác phẩm của giáo sĩ Đắc - Lộ tạo ra được một hệ thống chữ viết thực sự.

    - Như vậy, chúng ta có thể khẳng định giáo sĩ Đắc - Lộ là người tạo ra chữ Quốc ngữ?

    - Chúng ta phải hiểu rõ khái niệm "Quốc ngữ". Bất kỳ loại ngôn ngữ nào muốn trở thành "Quốc ngữ" phải được cộng đồng dân tộc cùng sử dụng. Giáo sĩ Đắc - Lộ ghi âm tiếng Việt có tính chất khách quan, để phục vụ công cuộc truyền giáo của mình. Đó chưa thể gọi là chữ Quốc ngữ được. Nhưng do để học đạo dễ dàng hơn, cộng đồng công giáo bắt đầu dùng chữ của giáo sĩ Đắc - Lộ. Tuy nhiên, việc sử dụng chỉ giới hạn trong đời sống cộng đồng ấy. Tôi cho rằng chính họ, những người dân Việt đã góp phần "truyền sự sống" cho chữ viết của giáo sĩ Đắc - Lộ. Một điểm đáng chú ý là ngay cả chữ Nôm một thời cũng được coi là chữ Quốc ngữ. Như vậy khái niệm "Quốc ngữ" dành cho hệ thống ký tự của giáo sĩ Đắc - Lộ chỉ xuất hiện bắt đầu từ phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục khi các nhà yêu nước thấy sự tiện dụng của chữ viết này.

    - Sự bùng nổ của phong trào Thơ Mới phải chăng do tác động của sự kiện giới trí thức tiếp nhận sử dụng chữ Quốc ngữ?

    - Về khía cạnh ngôn ngữ, phong trào Thơ Mới và Tự Lực Văn Đoàn đóng góp những giá trị vô cùng quan trọng. Các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra một thứ tiếng Việt trong sáng về ngữ âm, ngữ pháp đạt tới độ chuẩn tiếng Việt hiện đại. Hơn nữa, trong các tập thơ, tiếng Việt được thay đổi kết cấu, tạo ra nhiều nghĩa mới. Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã chính xác khi đặt Tản Đà ở phần mở đầu. Tiếng Việt của Tản Đà một phần theo lối hiện đại, một phần vẫn theo lối cổ. Nhưng đến các nhà thơ Mới thì tiếng Việt thay đổi hoàn toàn. Nhiều tác phẩm thời đó vẫn còn là chuẩn mực về khía cạnh ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại.

    - Sự tác động của ngôn ngữ này đến một ngôn ngữ khác khi giao lưu với nhau là điều tất yếu. Ngôn ngữ của các dân tộc anh em ảnh hưởng đến tiếng Việt như thế nào?

    - Ngôn ngữ của các nhà dân tộc anh em liên quan mật thiết đến ngôn ngữ Việt. Nhiều yếu tố "tối cổ" của tiếng Việt được lưu giữ lại trong các ngôn ngữ khác. Khi đọc bản dịch Quốc Âm Thi Tập, giáo sư Kenji Tonyta (đại học Osaka), một người rất giỏi tiếng Việt, nói rằng tiếng Việt chỉ có chữ "là" khi ảnh hưởng tiếng Pháp, vậy tại sao lại dịch là "Đường đi là đá mòn". Sau khi nghiên cứu ngôn ngữ của người Rục, chúng ta mới tìm được chữ "đá" là chữ "latá". Hay trong ngôn ngữ của người Thái, là ngôn ngữ của một dân tộc có sự cộng cư và hòa huyết với dân tộc Việt, dấu vết tiếng Việt cổ còn đậm nét hơn. Từ "sâu thẳm" chẳng hạn. Chữ "Thẳm" trong tiếng Thái là "Hang", hay "chim chóc", "cỏ rả" phần "chim", "cỏ" là tiếng Việt còn "chóc", "rả" của người Thái (vẫn có nghĩa là "chim", "cỏ")... Ngôn ngữ của các dân tộc anh em một mặt lưu giữ lại các yếu tố cổ của tiếng Việt, một mặt làm phong phú thêm cho tiếng Việt.

    - Trong sự giao lưu văn hóa của đời sống hiện đại, tiếng Việt chịu tác động từ nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau. Vậy tiếng Việt gặp khó khăn nào trong đời sống hiện đại?

    - Ngôn ngữ như khí thở, ai cũng hít thở được nhưng không phải ai cũng biết không khí có bị ô nhiễm hay không! Tiếng Việt hiện đại dùng sai nhiều cả ngữ pháp lẫn cách phát âm. Học sinh lại lười học tiếng Việt. Hơn nữa ngay các trường cũng không chú trọng đến việc dạy tiếng Việt. Nhiều trường dùng các thầy cô ở bộ môn khác để dạy tiếng Việt. Điều đó dẫn tới môn tiếng Việt trở nên khô cứng, nhàm chán. Nhiều sinh viên học tiếng Anh, tiếng Pháp, khi ra trường không thạo công việc của mình vì đơn giản là họ không thạo tiếng Việt. Theo tôi thì chúng ta phải chấn chỉnh lại hệ thống dạy tiếng Việt trong nhà trường.

    - Trong văn học, cũng không ít các nhà văn làm tổn hại đến tiếng Việt quý giá bằng những hình thức ngô nghê của mình. Một nhà văn cần phải sử dụng tiếng Việt thế nào để được gọi là nhà văn đạt đến sự sáng tạo tinh khiết của tiếng Việt?

    - Tôi cho rằng văn bản phải tuân theo các quy tắc ngữ pháp phổ thông. Tác phẩm phải để cho người đọc hiểu trọn vẹn tầng nghĩa, ngữ pháp - tầng nghĩa đầu tiên. Thứ hai là bằng sự kết hợp mới không nằm ngoài chuẩn ngữ pháp, nhà văn tạo ra những tầng nghĩa sâu hơn tầng nghĩa ngữ pháp. Thông qua tầng nghĩa ngữ pháp, người đọc sẽ hiểu các tầng nghĩa khác. Đó là lao động ngôn ngữ chân chính. Tiếng Việt sẽ bừng nở và tỏa hương đối với nhà văn nào trân trọng và yêu mến tiếng Việt thực sự.

    Quỳnh Nhi thực hiện
    (Báo Văn nghệ)

    ( nguồn : http://www.cinet.gov.vn/vanhoa/vanho...iengvietst.htm )

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Hành trình về phương Đông
    By Itdepx in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 19
    Bài mới gởi: 16-09-2013, 08:57 PM
  2. NHÀ TRỪ QUỶ KỂ CHUYỆN
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 87
    Bài mới gởi: 24-07-2012, 09:28 PM
  3. TÂM VŨ TRỤ
    By doxuantho in forum Đạo Việt Nam
    Trả lời: 242
    Bài mới gởi: 26-03-2012, 02:27 PM
  4. Đạo gì?
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 10:42 AM
  5. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 31-03-2011, 02:13 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •