Code:http://www.youtube.com/watch?v=8ZdULtQmlTkNgười sáng lập ra Aikido
Aikido, đúng như sự hình dung của người sáng lập ra nó, không chỉ là sự tổng hợp của việc luyện tập võ thuật của người sáng lập, mà còn bộc lộ triết lý riêng của ông về hòa bình và hòa hợp vũ trụ. Ngày nay, Aikido tiếp tục sự phát triển của nó từ võ thuật cổ, thành những thể hiện cực kì đa dạng của các võ sư khác nhau trên toàn thế giới.
Aikido được sáng lập bởi Ueshiba Morihei (14/12/1883 – 26/4/1969), cũng được các võ sinh coi là Người thầy vĩ đại. Ueshiba Morihei phát triển Aikido chủ yếu vào cuối những năm 1920 cho tới những năm 1930 qua sự tổng hợp các môn võ cổ mà ông đã học được. Aikido phát triển chủ yếu từ Daitō-ryū aiki-jūjutsu, mà Ueshiba Morihei đã học trực tiếp với Takeda Sokaku (1859 –1943). Thêm vào đó, Ueshiba Morihei cũng đã học Tenjin Shin'yō-ryū với Tozawa Tokusaburō (1848 – 1912) ở Tokyo vào năm 1901, Gotōha Yagyū Shingan-ryū với Nakai Masakatsu (1891 –1908) ở Sakai từ 1903 đến 1908, và judo với Kiyoichi Takagi (1894 – 1972) ở Tanabe vào năm 1911.
Daitō-ryū là môn có ảnh hưởng lớn nhất đến Aikido. Cùng với các kĩ thuật ném tay không và khóa khớp, Ueshiba Morihei kết hợp luyện tập di chuyển có vũ khí, như là giáo, gậy ngắn, và có thể cả đoản dao. Tuy nhiên, Aikido phát triển phần lớn các cấu trúc đòn đánh từ Kiếm thuật.
Ueshiba Morihei tới Hokkaidō năm 1912, và bắt đầu học dưới sự dạy dỗ của Takeda Sokaku vào năm 1915. Việc học Daitō-ryū tiếp tục cho đến năm 1937. Tuy nhiên, sau thời gian đó, Ueshiba Morihei bắt đầu xa rời Takeda và môn Daitō-ryū. Vào thời điểm đó, Ueshiba Morihei dùng từ "Aiki Budō" để nói đến môn võ của ông. Không rõ chính xác khi nào Ueshiba Morihei bắt đầu sử dụng cái tên "Aikido", nhưng nó trở thành tên chính thức của môn võ vào năm 1942, khi Dai Nippon Butoku Kai được tham gia vào việc tổ chức lại và tập trung hóa các môn võ Nhật Bản của chính phủ.
Sau khi Ueshiba Morihei rời Hokkaidō năm 1919, ông gặp và chịu ảnh hưởng lớn từ Onisaburo Deguchi, giáo chủ của đạo Đại Bản Giáo (Oomoto) ở Ayabe. Một trong những đặc điểm chủ yếu của đạo Oomoto là nó nhấn mạnh đến sự đạt được cõi hoàn hảo trong một đời người. Điều này tạo ảnh hưởng lớn đến triết lý của môn võ của Ueshiba Morihei về rộng mở tình yêu thương và sự cảm thông, đặc biệt đối với những ai muốn hãm hại người khác. Aikido thể hiện triết lý này trong việc nhấn mạnh rằng, nắm vững võ thuật để mà nhận đòn và chuyển hướng nó đi một cách vô hại. Trong trường hợp lý tưởng, không chỉ người nhận mà cả người tấn công cũng vô hại.
Aikido lần đầu tiên được truyền bá tới phương Tây vào năm 1951 bởi Minoru Mochizuki (1907 – 2003) trong một chuyến đi tới Pháp nơi mà ông giới thiệu các kĩ thuật Aikido tới các môn sinh Judo. Theo sau ông là Tadashi Abe (1926 – 1984) vào năm 1952 người trở thành đại diện Aikikai Hombu chính thức, ở lại Pháp trong bảy năm. Kenji Tomiki (1900 – 1979) đi du lịch với một đoàn đại biểu các võ sư khác nhau từ mười lăm bang của Hoa Kỳ năm 1953. Sau đó trong năm ấy, Koichi Tohei (sinh năm 1920) được gửi bởi Aikikai Hombu tới Hawaii, trong một năm tròn, nơi ông lập lên một vài dojo. Việc này được ủng hộ bởi một vài chuyến thăm khác và được xem là sự truyền bá chính thức Aikido tới Hoa Kỳ. Vương quốc Anh theo sau vào năm 1955; Italy năm 1964; Đức và Australia năm 1965. Ngày nay có các dojo Aikido để luyện tập trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam Aikido đôi khi còn được gọi là Hiệp khí đạo, theo nghĩa Hiệp là hòa hợp, Khí là thể của chất, Đạo là con đường, là phương pháp đưa ta tới mục tiêu tối thượng. Aikido được hai ông Đặng Thông Trị và Đặng Thông Phong chính thức truyền bá vào Việt Nam từ năm 1958. Ông Đặng Thông Phong từng trực tiếp thụ giáo Ueshiba Morihei và được Ueshiba trao ủy nhiệm thư, chính thức ủy quyền cho ông thành lập Tổng cuộc Aikido Tenshinkai để phát triển Aikido tại Việt Nam.
Đến những năm đầu 90, sau hơn 40 năm giới thiệu vào Việt Nam, Aikido chỉ tồn tại ở thủ đô Sài Gòn. Nỗ lực phát triển Aikido ở các tỉnh khá rời rạc do điều kiện kinh tế, xã hội và giao lưu trao đổi giữa các tỉnh với các võ đường Aikido ở thủ đô Sài Gòn.
Trong thời gian từ 1980-1990, mặc dù không có sự giúp đỡ của Aikido Sài Gòn, AIKIDO đã có mặt ở nhiều địa phương khác như Huế, Đà Nẵng, Bình Dương, Quảng Trị, Lâm Đồng và một số nơi khác với sự nỗ lực của các võ sư Lê Viết Đắc, Nguyễn Ngọc Thanh, Hoàng Ngọc Hùng, Cao Quảng Loan, Nguyễn Thiện Hữu. Các vị võ sư này đã dày công đào tạo nên các thế hệ võ sư đương đại đang duy trì và phát triển Aikido ở các địa phương.
Gần đây từ năm 2000, Aikido đã được giới thiệu ra Hà Nội, khời đầu với sự hướng dẫn của Võ sư Horizoe Katsumi, 7 Đẳng Aikikai và Philip Châu (một Việt Kiều Pháp) là chuyên gia của Bộ Nông nghiệp, với sự giúp đỡ của các võ sư ở Huế. Hiện tại các CLB này tiếp tục phát triển khá mạnh mẽ.
Mãi đến 2002, sau hơn 40 năm giới thiệu vào Việt Nam, với sự khởi xướng của Aikido Huế, lần đầu tiên Aikido Việt Nam có sự hội ngộ từ 3 miền, đánh mốc lịch sử về sự hiện diện ở khắp 3 miền. Trước mốc lịch sử này, Aikido tồn tại thực sự chỉ ở ngang tầm thành phố, quận huyện, chủ yếu là ở thủ đô Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên, Aikido được UBTDTT Quốc gia biết đến như một tổ chức. Các đại diện từ ba miền đã lần đầu tiên đặt vấn đề về việc hình thành một tổ chức mang tầm quốc gia.
Bookmarks