Pháp Tịnh Hóa Kim Cương Tát Ðỏa
Tông Phái Phật Giáo - Mật Tông
Tác giả: Lục Thạch
[hr]

Ở đây pháp đối trị nghiệp xấu là pháp thiền quán Vajrasattva và trì chú. Hành giả tác pháp này với Bồ đề tâm và có ý thức về sự vô ngã của chủ thể, đối tượng và hành động để đạt kết quả tốt nhất. Trong việc giải trừ nghiệp xấu, Bồ đề tâm vô cùng quan trọng và cũng là lực thứ nhất trong bốn lực đối trị. Bồ đề tâm có thể giải trừ đại ác nghiệp và đại chướng ngại trong tu tập. Bồ đề tâm giống như lửa cuối thời mạt pháp, như Ngài Tịch Thiên (Shantideva) nói trong Nhập Bồ Tát Hạnh Luận:
Giống như lửa cuối đại kiếp, Bồ đề tâm diệt mọi điều xấu, Lợi ích vô lượng của Bồ đề tâm, Ðã được Bồ Tát Di Lặc dạy cho Tu Đà Na.

...Không có lực thệ nguyện thì việc thanh lọc không trọn vẹn, vì vậy hành giả nên cố gắng tạo thói quen giữ tròn lời thệ nguyện hơn là phát nguyện quá nhiều nhưng không thể giữ vẹn. Cách tốt nhất nguyện bỏ điều xấu trong một ngày và thực hành tịnh hóa nghiệp xấu mỗi ngày.



Pháp Tịnh Hóa Kim Cương Tát Ðỏa
Lục Thạch dịch
Khi thực hành đến giai đoạn này, hành giả có thể tác pháp Tịnh Hóa Kim Cương Tát Ðỏa (Vajrasattva). Vì đối với người sơ cơ, việc giải trừ chướng ngại rất quan trọng nên pháp Tịnh Hóa Kim Cương Tát Ðỏa sẽ được giải thích kỹ càng dưới đây. Dẫu vậy, đạo sư Tsong khapa lại không đưa pháp Tịnh Hóa Kim Cương Tát Ðỏa vào trong luận thư của Ngài, "Ðộc Giác Kim Cương Ðại Phẫn Nộ Minh Môn".

Tsong Khapa nói rằng nếu hành giả không đưa pháp tịnh hóa này vào việc tụng đọc tu pháp (Sadhana) hàng ngày cũng không mắc lỗi thiếu sót. Hai đạo sư, Tri Gyaltsan Senge và Lhundrup Pandita, cũng có cùng quan điểm với Tsong Khapa.

Hành giả trước tiên niệm ba lần bài kệ Quy Y và Phát Bồ Ðề Tâm:

"Con quy y Tam Bảo

Nguyện giải thoát chúng sinh

Ðưa họ tới bờ giác

Nay phát Bồ đề tâm”

Bài kệ này đã được giải thích ở chương 3.

Kim Cương Tát Ðoả Quán Pháp

(Visualisation of Vajrasattva)

Hành giả quán tưởng trên đỉnh đầu mình một đóa sen xuất hiện từ chủng tự PAM, và ở trên hoa sen đó là một mặt trăng xuất hiện từ chủng tự AH. Trên đó nữa, từ chủng tự HUM xuất hiện một chày kim cương năm nhánh màu trắng, trên trục của chày có chữ HUM. Từ chày kim cương, những tia sáng phát ra, nhập trở lại và biến thành một Kim Cương Tát Ðỏa có thân màu trắng, một mặt và hai tay, cầm chày kim cương và chuông, ôm vị minh phi là Vajrasattvamanani màu trắng, một mặt và hai tay, cầm đao và chén sọ. Hai vị quàng khăn lụa và có những món trang sức. Kim Cương Tát Ðỏa ngồi thế kim cương, ở nơi tim của Ngài bên trên một mặt trăng là chữ HUM trắng phát ra những tia sáng, triệu thỉnh các đấng trí huệ như Ngài. Hai vị phối hợp và trở thành bất nhị. Từ chữ HUM ở tim Ngài lại phát ra những tia sáng triệu thỉnh các vị thần ban cho lực gia trì. Tất cả chư Như Lai đồng thanh khuyến thỉnh:

"Xin gia trì lực cho vị này" (Vajrasattva)

Sau khi khuyến thỉnh như vậy, chư Phật nâng bình cam lộ trí huệ của các Ngài lên ban cho lực gia trì, và tuyên đọc thần chú:

Om Sarva Tathaga Abhi Shekata Samaya Shriye Hum

Khi được ban phép quán đảnh như vậy, thân của Kim Cương Tát Ðỏa tràn đầy cam lộ trí huệ và có một hình A Súc Bệ Phật trang nghiêm trên đầu trên đầu mình.

"Bạch Ðấng Thế Tôn Kim Cương Tát Ðỏa (Bhagavan Vajrasattva), xin Ngài tịnh hóa con cùng tất cả chúng sinh khỏi tội lỗi, vô minh, và mọi vi phạm giới nguyện".

Ðược thỉnh cầu như vậy, từ chữ HUM ở tim Ngài những tia sáng phát ra, tịnh hóa chúng sinh khỏi nghiệp xấu và vô minh, cúng dường chư Phật cùng đệ tử của các Ngài.

Tất cả các phẩm tính của chư Như Lai tụ lại thành ánh sáng và ánh sáng này tan nhập vào chữ HUM nơi tim Ngài khiến oai lực của Ngài trở nên siêu diệu.

Om Vajrasattva Samaya, Manu Palaya,

Vajrasattva Iveno

Patisha, Dridho Me Bhava, Sutoshyo Me Bhava,

Suposhyo Ma Bhava, Anurakto Me Bhava,

Sarva Siddhi Me Prayacha,

Sarva Karma Sucha Me,

Chittam Shriyam Kuru Hum! Ha Ha

Ha Ha Hoh Bhagavan, Sarva Tathaga,

Vajra Ma Me Muncha,

Vajra Bhava, Maha Samaya Sattva Ah Hum Phat

"Vì vô minh và do không biết,

Con đã phạm lỗi lầm.

Xin đức Lama Hộ Pháp hộ trì con

Ðấng Trì Thủ Kim Cương Tối Thượng đại từ bi

Cha lành của muôn loài, con nguyện quy y Ngài!"

Từ miệng của Kim Cương Tát Ðỏa phát ra:" Hỡi đệ tử của dòng truyền thừa, mọi nghiệp xấu vô minh và vi phạm giới nguyện của con đã được tịnh hóa". Nói xong, Kim Cương Tát Ðỏa tan nhập vào hành giả, và thân, khẩu, ý của hành giả trở nên bất khả phân với thân, khẩu, ý của Kim Cương Tát Ðỏa.

* Pháp Thực Hành.

Cùng với pháp tịnh hóa Kim Cương Tát Ðỏa, hành giả dùng bốn lực đối trị để tịnh hóa nghiệp xấu. Quyển “Bồ Tát Nguyện Hạnh Vương Kinh” nói:

"Ðệ tử vốn tạo các vọng nghiệp

Giai do vô thỉ tham, sân, si

Tùng thân, ngữ, ý chi sở sanh

Nhất thiết ngã kim giai sám hối."

Bốn lực đối trị đó là:

Lực của đối tượng

Lực này thường được coi là đối tượng của việc sám hối. Theo Je Phabongkha Rinpoche và Tri Gyaltsan Senge thì mọi nghiệp xấu đều có liên quan đến Tam Bảo hoặc chúng sinh. Vi phạm giới nguyện, từ bỏ giáo pháp hay gây bất hoà trong Tăng Ðoàn là những nghiệp xấu liên quan tới Tam Bảo. Sát sinh, trộm cướp, nói dối là nghiệp xấu liên quan đến chúng sinh. Khi ngã xuống đất, người ta dùng chính đất đó làm chỗ tựa để đứng dậy. Cũng vậy, chúng ta xem Tam Bảo là đối tượng quy y của mình, và coi chúng sinh là đối tượng từ bi của mình khi phát Bồ đề tâm thì tâm sẽ thanh lọc mọi nghiệp xấu của mình. Vì vậy, quy y và Bồ đề tâm là lực của đối tượng.

Saigon42