kết quả từ 1 tới 14 trên 14

Ðề tài: QUANG MINH TU ĐỨC - ĐÀO VIÊN MINH THÁNH KINH

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định QUANG MINH TU ĐỨC - ĐÀO VIÊN MINH THÁNH KINH

    ĐÀO VIÊN

    MINH THÁNH KINH
    DIỄN NGHĨA

    MINH THÁNH KINH
    DIỄN NGHĨA

    Kính lạy đức Quan Thánh Đại Đế,
    Khí cả lẫy lừng mây bạc,
    Lòng son sáng suốt vừng hồng,
    Giúp mối chánh rạng ngời tín nghĩa, Oai dậy chín châu; trọn tiết lành vẹn vẻ trung trinh, linh soi ngàn thuở. Trừ tà dẹp giặc, đời đời tạc để công cao; cứu thế dạy dân, chốn chốn kính dâng lời báu. Vận sánh chín tầng vững đặt, đức nhuần trăn họ bình an.

    Nay, đệ tử ………………………..kính thành cầu nguyện, xin cao minh chứng chiếu tấc lòng.
    Ngày nay là ngày …….tháng……..năm…………….
    Tên con là:……………………………họ……… ……..niên canh……………..tuổi……………xin cầu……………………………………… …….., khấn hứa giữ trọn đời y theo đạo Thánh.
    Nhập đạo hằng ngày trì tụng, lời Thánh linh thuộc lấy làm lòng. Minh kinh dốc dạ doản cầu nẻo huyền diệu ghi vào trong trí, lần bước vào đường chân chánh, tấm lòng cầu đặng sáng soi ngưỡng trông lượng Thánh từ bi, che chở đức cả bao xiết phận hèn ngu muội, nhuần gội ơn sâu. Cẩn cáo.

    LỜI SẮC TẶNG đức CHÂU ĐẠI TƯỚNG QUÂN

    Dốc lòng làm lễ Thánh linh, danh Dũng tướng cửa Trời lừng lẫy, oai Mãnh Thần mặt Đất dọc ngang. Đường đường tướng mạo phi thường, mặt đen môi đỏ. Lẩm lẩm hình dung cổ quái, râu sắt răng ngần. Người thảy kiêng vì Kỉnh tiết, lòng thường vẹn giữ tinh Trung, việc dữ lành hết sức khảo tra, cõi trần thế ra công Giám sát, ngời ngời oai hiển hách, chốn chốn bước du tuần, trừ loài gian, sẵn dạ thương dân, trừ ác đẳng, dày công cứu thế, ai trung thần ai nghĩa sĩ, phò trì cho thẳng bước hiển vinh, bọn nghịch tử, bọn quái nhi, giận chém quách làm gương trừng trị, nối bền giềng Thế giáo, sửa chánh đạo nhân luân, hộ pháp huyền, giết sạch loài yêu, dìu dân chúng lần theo đạo cả ( đại đạo), rất linh bấy một vì chân tể, rất hiển thay một bậc thần quân. Thẳng ngay ủng hộ triều quốc, sắc phong Trung Dũng Đại Thần Thiên Tôn. ( 3 lạy)

    LỜI SẮC TẶNG đức QUAN THÁNH THÁI TỬ

    Dốc lòng tin làm lễ thánh linh, tước Linh hầu, ngôi Thái tử, tài võ văn gồm đủ kinh luân, lòng hộ quốc chí khuôn vương, gương đức nghĩa sánh tày Nhật Nguyệt, Hiếu Trung vẹn vẽ, tiết nghĩa hoàn toàn. Tây Thục sớm dựng nên công cả, Bắc Ngụy thêm kiêng nể tài cao, lòng một mực, đại trung đại hiếu, tiếng muôn đời, chí dũng chí chân, giúp Đất Trời trong cuộc lưng vơi, phò Thánh Đế gia công bồi đắp, triều quốc một tay ủng hộ, hiếu trung tấc dạ ân cần, Cửu Thiên oai dậy xa gần, sắc phong
    Linh Hiển Đại Thần Thiên Tôn. ( 3 lạy)

    LỜI SẮC TẶNG đức TRƯƠNG TIÊN ĐẠI ĐẾ

    Dốc lòng làm lễ thánh linh, trong Quế điện cầm quyền chủ hạt, sao Văn Xương bên tả hành cung, bảy mươi hai biến hóa pháp thân, trăm ngàn vạn kiếp căn vận số, giúp Thiên hạ dài dòng con cháu, dạy Nhân gian biết lẽ tà chính, đeo bên mình kim đạn trúc cung, trừ mối hại Cô Thần- Quả Tú, thương con nít tuổi còn thơ ấu, vệ thông quang đổi đốt tật nguyền, giúp đàn bà trong lúc thai sinh hộ sản khỏi bề trắc trở, trí thông minh càng lớn càng thêm, bịnh ban trái càng ngày càng giảm, con nuôi khó vái van thì chẳng khó, bịnh lâu lành cầu khẩn đặng mau lành, tiến roi truyền đại nguyện đại bi, đời xưng tụng đại từ đại thánh, Ngọc Hoàng hạ lịnh, kim sắc gia phong Cửu Thiên Phụ Nguyên Khai Hóa, linh ứng Trương Tiên Đại Đế,
    Thất Khúc Dực Đức Thiên Tôn.
    ( 3 lạy)

    LỜI SẮC TẶNG đức VƯƠNG THIÊN QUÂN

    Dốc lòng làm lễ thánh linh, tước trời chịu Tiên Thiên Chúa Tướng, sắc linh phong Nhứt Khí Trần Quân, Quan Đại linh tra xét khắp trời, tướng Mãnh liệt phân minh ba cõi, mắt vàng tóc đỏ quản trăm xe, Thiên hỏa lôi công, miệng phụng răng ngần thống muôn đạo, âm binh trần tướng, cưỡi gió lướt mây ra oai sấm sét, xuống mưa làm nắng trị bệnh trừ tà, vâng lịnh Ngọc Đế mười hai niên, xét việc lỗi lầm, thề giúp Tổ sư trăm ngàn vạn nên công đồ sộ, đời khen tài trí dũng trí cang, người gội đức cứu sinh cứu tử, nơi nơi đều mở dạy, chốn chốn thảy khai đàng, lòng son thường tạc chữ trung lương, hộ pháp cứ trừ loài yêu quái, sắc Trời phong chức Vương Thiên Quân Thái Ất.
    Lôi Thinh Ứng Hóa Thiên Tôn
    ( 3 lạy)

    LỜI SẮC TẶNG đức QUAN THÁNH ĐẠI ĐẾ

    Dốc lòng làm lễ Thánh linh, oai thần tột bực, văn võ gồm hai, tiết cả lẫy lừng trung trinh vẹn một, cơ nghiệp sánh ngôi Trời đồ sộ, ân đức nhuần đạo cả ( đại đạo) rộng truyền, đạo Nho, đạo Phật, đạo Tiên, tam giáo thuộc một tay thống chưởng, cõi Trời, cõi Người, cõi Đất, tam tài gồm muôn mối quyền hành, trên xét Trời ba mươi sáu cõi lớn nhỏ các sao, dưới giữ gìn Đất bảy mươi hai châu U minh khắp chốn, cầm số sanh quyền thưởng phân minh người công đức điểm son thêm tuổi thọ, giữ bộ tử oai hình nghiêm trọng, kẻ độc gian nét mực giảm ngày xuân, khảo sát khắp nào Thần nào Phật, giám chế cùng các Thánh các Tiên chứng minh người thiện quả phước duyên, phổ độ kẻ tu chân dưỡng tính, ngàn thuở tiếng chí linh chí thánh, muôn nước truyền chí thượng chí tôn Phục Ma Đại Đế, Quan Thánh Đế Quân, Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh, Đại Từ, Chân Nguyên Hiển Ứng, Chiếu Minh Dực Hán Thiên Tôn. ( 3 lạy)

    ( CÒN TIẾP)
    Last edited by Tuduong; 07-12-2012 at 10:20 AM.

  2. #2

    Mặc định QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN GIÁNG BÚT CHÂN KINH

    QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
    GIÁNG BÚT CHÂN KINH

    Vâng lời giáng bút chân kinh,
    Kính đem quốc ngữ diễn thành một chương.
    Triều Đại Hán, tước Quan Thánh Đế,
    Sắc dụ cho trần thế rõ hay.
    Trên đời lắm việc rủi may,
    May nhờ một điểm lòng hay chân thành.
    Chân thành có Thần minh ủng hộ,
    Gian hung thời đoản thọ đừng than.
    Đế ra phò tá Hán bang,
    Chí đồng kết nghĩa Lưu, Trương ba người.
    Vườn đào nguyện ngàn đời còn tạc,
    Hội đơn đao bỉnh chúc lưu danh.
    Ngụ Tào đi ở phân minh,
    Nhốt Ngô vì Hán bỏ mình quản chi.
    Ngọc Hoàng cảm Đế vì trung cảnh,
    Sắc phong Ngài tuyên lịnh đôi nơi.
    Thần thông dạo khắp dưới Trời,
    Nào trung nào nịnh xét soi rõ ràng.
    Kìa những kẻ tham tàn gian xảo,
    Hẳn ngày sau quả báo rành rành.
    Trước răn trong bọn học hành,
    Sau răn quan hoạn dân binh một lần.
    Thứ nhất chớ phụ ơn cha mẹ,
    Ra ngoài đừng hiếp kẻ xóm làng.
    Cựu giao chớ luận hèn sang,
    Cũng trong năm đấng đạo hằng dám sai.
    Nền phước thiện hằng ngày vun vén,
    Trời chẳng cho tật bệnh tai truân.
    Tào Mang độc hiểm quá chừng,
    Âm minh đương chịu khổ hình biết bao.
    Đức Gia Cát Võ Hầu trung nghĩa,
    Khắp U minh đảnh lễ nơi nơi.
    Lòng ngay đặng hưởng phúc Trời,
    Càng gian xảo lắm càng tai họa thường.
    Tội lỗi sáng dường gương Nhật Nguyệt,
    Chẳng vị ai Trời Đất công bình.
    Dẫu là nhi nữ chớ khinh,
    Đến đâu Quỷ sợ Thần kiêng nể mình.
    Lập mưu kế dỗ dành gái sắc,
    Vợ con mình người ắt dâm ô.
    Gian tham lường gạt giựt đồ,
    Bạc bài đĩ điếm có mô đặng giàu.
    Khoe hay giỏi tranh nhau mãi mãi,
    Gặp nghèo hèn hủy hoại thường thường.
    Mau mau xét nghĩ kỹ càng,
    Đừng đừng dong duổi xuống hang sâu hoài.
    Ba kiếp phải luân hồi hèn hạ,
    Ngàn năm người nhục mạ khóc than.
    Làm quan ngòi viết độc gian,
    Lưỡi như gươm bén giết oan cả nhà.
    Giận mấy đứa đàn bà lang độc,
    Thói điêu ngoa mạ nhục họ hàng.
    Hiếp chồng xỉ mạ gia nương,
    Đế vừa ngó thấy giận càng xiết bao.
    Xảy tượng đất hươi đao nghiêm xử,
    Mẹ con vương một lưỡi đứt hai.
    Mừng cho thảo thuận mấy người,
    Gạo mang củi gánh hôm mai phụng thừa.
    Hóa ngựa đất gió đưa Tống chúa,
    Muôn dặm đường cứu hộ cùng Quân.
    Muốn cầu trường thọ nuôi con,
    Phải nghiêm giới sát lại còn phóng sanh.
    Loài trâu chó con đừng sát hại,.
    Thịt không ăn thì khỏi ngục tù
    Vâng theo lời Đế dặn dò,
    Gặp cơn hoạn nạn Đế phò hộ ngay.
    Đế ngự đến dẹp bầy Yêu Quỷ,
    Dấu đao quang sấm dậy máu trôi.
    Trăm chiều giúp nước chẳng dời,
    Công dài tước cả ơn Trời vẻ vang.
    Trải đời đặng giàu sang thịnh vương,
    Sống lâu và khỏi vướng tai nạn.
    Ai mà xuôi ngược trá gian,
    Lòn cân tráo đấu gạt đoàn dân ngu.
    Trên dương thế chẳng cho tái phục,
    Dưới A tỳ hình phạt xiết van.
    Lúc chừ hết kịp ăn năn,
    Khá mau vâng chịu khuyên răn mọi điều.
    Hồi tâm lại chớ theo việc ác,
    Gắng sức ra làm các sự lành.
    Mấy lời Đế dạy rành rành,
    Khuyên lơn trăm họ phụng hành chớ khinh.

    ( CÒN TIẾP)
    Last edited by Tuduong; 08-12-2012 at 05:13 PM.

  3. #3

    Mặc định

    con thấy việc xưng tụng này cần xem xét!
    vị quan thánh đế quân trong thơ này xưng rõ hán triều: kết nghĩa lưu bị, quan công và trương phi. ở đây vị quan thánh này cứ cho là đã một lần hóa thân vào quan vân trường.
    thử hỏi ? thời tam quốc tao loạn kia cũng chỉ là trò mua vui cho thiên hạ. công nghiệp nhà hán đã mạt đã gượng được ngày nào ?
    giống ta, còn 90 triệu dân này, còn tiếng nói này, còn một nhúm đất để trú ngụ này là nhờ ai ?
    nhờ bọn quan thánh đế quân kia à ?
    nếu có ông này phải xưng trong thơ tụng kia là đã hóa thân vào ai ở việt nam chứ ?
    thưa các bậc nhiều chữ ? cái gì mà mù mờ thì cho qua còn động đến lịch sử thì cần cẩn thận, kẻo dước chó sói, mèo mả về thờ.
    lũ kia là giống ăn cướp làm sao sang đây để chen vào tứ thánh của ta
    ta có tứ bất tử thánh là:
    tản viên sơn thánh nguyễn tuấn, một đấng trung liệt, núi tản non nùng còn làm chứng
    chử đồng tử đạo tổ, vừa là một tổ đạo riêng của việt nam vừa là ông tổ nghề trài lưới
    đổng sóc thiên vương oanh liệt, ngài đã được nhân dân đúc tượng trên núi sóc sơn 2010, ngài đang đợi lũ giặc ân kia lại sang lần nữa đây!
    mẹ liễu hạnh còn đang thờ ở phủ dày kia!
    chưa hết, đến đời an dương vương còn có ngài thánh chèm lý ông trọng
    đến đời lý 1010 sau này còn có hai vị thánh đang thờ kia
    thánh láng, pháp sư từ đạo hạnh, thờ ở chùa láng
    thánh nguyễn - thiền sư nguyễn minh không - người đứng ra lo toan đúc tứ đại pháp khí.
    đời trần có đức thánh trần , tên ngài là trần quốc tuấn, hiệu hưng đạo vương
    hay trần hưng đạo, đến dân ta xa xứ ở đậu ở tháiland vẫn còn lập đền hương khói ngài!
    ngay cả mới đây "bắc thời khí tận nam trường xuất bôn"
    giống ta lại sinh ra ngài nguyễn hoàng hay chúa tiên vào nam "mang gươm đi mở cõi"
    công nghiệp vạn nan khó khăn đến nay 300 rồi mới có kêt
    quả.
    cái " vạn đại dung thân" kia đâu phải là sai gì, nó đúng cho cả tiền đồ dân tộc này chứ cho riêng một dòng họ nào ?
    nhờ công nghiệp của ngài nguyễn hoàng và các vua chúa sau này mà ta mới có cửu long giang oanh liệt,
    công nghiệp đó quan vân trường sánh thế nào được, đây là so sánh công quả để phong thánh đấy!
    quan vân trường kia so với ngài quang trung hoàng đế của ta còn chẳng đáng, thì làm sao so được với ngài nguyễn hoàng
    ấy thế mà lại thả thơ ra đây xưng tụng ngài đó là sao ?
    thử hỏi không có các bậc tiên hiền liệt sĩ thì ngày nay ta còn không mà mở mồm xưng tụng quân ăn cướp kia?
    này các thầy bà!
    chúng ta phải nhìn sự thật, sự thật là khi ta còn là nô lệ của hán tàu thì nước chăm pa đã độc lập riêng từ đầu thế kỉ 1.
    thế mà họ sau 1500 năm đến thế kỷ 16 bị sức mạnh nam tiến của đại việt tiêu diệt
    chúng ta còn đến ngày hôm nay thì chớ quay mông chổng đít vào tổ tiên ta, mà kẻ sùng hán thì ca ngợi tàu, kẻ sùng mỹ thì ca ngợi mỹ.
    vọng ngoại tất vong,
    vả tên gia cát lượng hay chư cưa leng kia đã là gì so với các bậc quân sư hết lòng vì dân vì nước của ta. công nghiệp của chư là gượng lúc tàn, phò đến đời con lưu thì cũng uổng công.
    ngài nguyễn trãi ức trai của ta, phò chúa đắc thành, mà chết oan không oán.
    ấy thế ngài lê thánh tông mới có lời: tâm ức trai sáng tợ sao khuê
    giống dòng ta là giống tiên rồng, không lo tìm cội nguồn gốc rễ rửa nhục cho tổ tiên, lại dước mấy đưa ngoại bang về ca tụng ?
    thế là thế nào ?
    các thầy bà thích ca tụng ai thì ca. nhưng động đến nhân vật lịch sử thì miễn cho, vì những nhân vật này có hành trạnh rõ ràng có thể cân đo đong đếm được.
    kính bút!

  4. #4

    Mặc định ỨNG NGHIỆM ĐÀO VIÊN MINH THÁNH KINH

    ỨNG NGHIỆM ĐÀO VIÊN
    MINH THÁNH KINH

    Tước Hán Thọ Đình Hầu nhà Hán,
    Kinh Đào Viên đặt để dõi truyền.
    Chân Thần giáng hạ Ngọc Tuyền,
    Đêm thanh ứng mộng cửa Thiền đại tăng.
    Rằng kinh điển muôn ngàn có thảy,
    Minh Thánh Kinh chưa thấy ban hành.
    Dặn Tăng phải nhớ rành rành,
    Chép truyền trần thế chớ khinh làm thường.
    Vọng bàn vái thắp hương tụng niệm,
    Phước lành kia ứng hiện tới liền.
    Ai mà sao, tống, ấn truyền,
    Ắt là bệnh hoạn tật nguyền cũng qua.
    Kinh này phụng trong nhà kính lễ,
    Yêu Quỷ kia hóa bụi xa bay.
    Tàu thuyền thờ tụng kinh này,
    Gắp cơn sóng gió hãy rày bình an.
    Người hành khách thường mang kinh ấy,
    Trải dặm trường mạnh giỏi không lo.
    Xem kinh mấy kẻ học trò,
    Thang mây nhẹ bước sớm cho gặp thời.
    Đàn bà biết phụng thờ kinh ấy,
    Sanh năm trai hai gái thành thân.
    Nếu vì kẻ thác niệm thường,
    Vong hồn lên chốn Thiên Đường rất mau.
    Làm con biết gìn câu hiếu kính,
    Phụng kinh này thành tín trước sau.
    Vì cha vì mẹ khẩn cầu,
    Thung huyên ắt đặng sống lâu phước dày.
    Năm ba biến thường ngày trì tụng,
    Hoặc trăm ngàn tiếng cũng thêm hay.
    Chư Thần nghe đẹp vui thay,
    Lại trong nhà cửa từ rày quang minh.
    Việc dữ hóa việc lành cũng chóng,
    Phước lộc thêm thọ cũng thêm lần.
    Trên vì Thái Thượng Lão Quân,
    Cùng trong tam giới chư thần rất linh.
    Thần Ngũ Nhạc Lôi đình hiển hiện,
    Thần Ngũ Hổ bốn biển linh thông.
    Đôi vừng Nhật Nguyệt Tây Đông,
    Bắc Nam Đẩu tú soi cùng nơi nơi.
    Thành Hoàng khắp dưới Trời vâng lệnh,
    Thổ Địa trong muôn cảnh nghe truyền.
    Tướng trị Ngoạt (tháng) tướng trị Niên,
    Thần chuyên trị Nhật Thần chuyên trị Thời.
    Hắc Sắc Soái đêm sai săn sóc,
    Họa Khiết Binh ngày trót xem coi.
    Qua qua lại lại xét soi,
    Mỗi đều tinh tế chẳng sai phân hào.
    Thần Gia trạch hội vào chứng kiến,
    Đức Táo quân cứ chuyện trực trần.
    Ai mà tụng niệm ân cần,
    Hoặc trai hoặc gái tấu văn hay liền.
    Hoặc ban những phước duyên thọ khảo,
    Hoặc cho thêm con thảo cháu lành.
    Muôn Thần tấu đối Thiên đình,
    Dưới Trời đâu đó ban hành rất mau.
    Đế vốn học Xuân Thu luận Mạnh,
    Sớm lão thông kinh Thánh chuyện Hiền.
    Trước là Hiếu Đễ vẹn toàn,
    Giữ mình trị nước bổn nguyên suy lần.
    Xảy gặp lúc Huỳnh Cân rối loạn,
    Họa binh qua tứ hướng hại dân.
    Mười năm siêu giáp liền thân,
    Chẳng an đêm ngũ chưa từng bữa no.
    Đánh dẹp lũ tặc đồ giông duổi,
    Non sông vừa một buổi chia ba.
    Râu mày điểm điểm tuyết pha,
    Đao mòn ngựa mỏi sức đà kém suy.
    Trải gan ruột lo vì việc nước,
    Nguyện sắt son sau trước một lòng.
    Huân lao Kim ấn hầu phong,
    Làu làu tiết nghĩa gan trung giữ trần.
    Nay những lũ loạn thần tặc tử,
    Lòng ngược xuôi độc dữ xiết chi.
    Gian tham sàm nịnh nhiều bề,
    Lập ra đảng nọ đảng kia tranh cường.
    Nào nghĩ đến cang thường luân lý,
    Nào kể chi Hiếu Đễ ngay tin.
    Nghinh ngang mỗi việc hoành hành,
    Nhiều điều tự đắc nhiều lần cầu may.
    Ngôi Vua tiếm tôi ngay bị hại,
    Của cải tham sắc gái càng mê.
    Đem lòng độc dữ gớm ghê,
    Biết bao tính mạng chịu bề oan khiên.
    Chỉnh tham việc nhãn tiền khoái lạc,
    Nào kiêng chi tội ác về sau.
    Thánh Hiền xưa lắm công lao,
    Chớ đem lòng trá cưỡng cầu hiển vinh.
    Kìa mây gấm thủy tinh rực rỡ,
    Nọ trăng trong hoa nở tốt tươi.
    Mây tan ngọc nát rã rời,
    Hoa tàn nguyệt khuyết vậy trời như không.
    Nếu chẳng biết rằn lòng giữ may,
    Như gươm linh bị gãy có khi.
    Làm ngang ở ngược ra chi,
    Gây nên oan nghiệt bởi vì dễ ngươi.
    Vay cũng chẳng mấy hồi phải trả,
    Lâu mau thì Thiên hạ đều hay.
    Lẽ thường báo ứng đâu sai,
    Đố ai ráp cánh mà bay khỏi trời.
    Lúc vị ngộ chờ thời mới phải,
    Vui nghiệp thường chớ trái mạng trời.
    Thử xem trăm việc trong đời,
    Làm mà dối trá vật thờ khó tinh.
    Cây chẳng dưỡng lá nhành không tốt,
    Lúc dối trồng bông hột nào mong.
    Văn thần trải mấy thơ công,
    Võ thần trăm trận mới hòng hiển vinh.
    Đế vốn đấng trung trinh nhật nguyệt,
    Trải muôn đời đại tiết càn khôn.
    Trời chẳng mòn Đất chẳng mòn,
    Còn Trời còn Đất hãy còn Thánh linh.

    (CÒN TIẾP)

  5. #5

    Mặc định

    THI RẰNG:

    Vì sao số Sáu- hiệp Ngôi Trời,
    Đế xuống phàm - trần độ khắp nơi.
    Tuy khuất hình dung thần hiển ứng,
    Oai phong lẫn liệt trải muôn đời.

    Kinh Minh Thánh tỏ lời răn dạy,
    Khuyên chúng sinh cả thảy lắng nghe,
    Cung Tử Vi Thần Châu Y,
    Đế gồm văn võ hai vị Đại tinh.

    Trương – Tiên chứa an vinh chủ hạt,
    Sắc theo Ngài kiểm soát trần gian,
    Hộ phò thiếu nữ thiếu nam,
    Bọn hư khí huyết bặt điềm quế lan.

    Tống sanh với sản nàn cấp cứu,
    Mị - yêu cùng chẩn đậu thương tàn,
    Thắp hương tụng niệm cầu an,
    Họa xoay ra phước rõ ràng hiển linh.

    Ai thờ Đế lên hình vẽ tượng,
    Họa Trương- Tiên cung đạn hầu gần,
    Trong đời Chiến quốc phân vân,
    Trời sai Đế xuống cứu dân khỏi nàn.

    Ngọc Hoàng đặt tên sang Ngũ Tử,
    Trải năm đời lịch sử trung lương,
    Ải Đồng một hội tranh cường,
    Đế tài Minh- phủ phi thường ai đang.

    Cứu chư Hầu khỏi mang nạn cả,
    Ép gian Tần rời rã lòng tham,
    Sở Bình Vương tửu hoang dâm,
    Trung- thần luống bị miệng sàm oan thay.

    Quá quang khỏi nạn này một lúc,
    Đại cừu kia báo phục vừa xong,
    Mấy phen Ngô Việt tranh hùng,
    Đao binh rối loạn chẳng không ngày nào.

    Lòng thành Đế trời cao soi thấy,
    Gương Hiếu – Trung trải bấy nhiêu đời,
    Ngọc Hoàng hạ sắc sai Ngài,
    Tiền Đường cai quản đêm ngày hộ dân.

    Tới thời Hán gian thần phe đảng,
    Đổi họ tên hạ giáng trần Trung,
    Ngựa Xích Thố ấy Hỏa Long,
    Đao Thanh Long ấy cũng Rồng nước sanh.

    Mày tầm vẽ phân minh bát tự,
    Mắt phụng thêm rực rỡ song tình,
    Râu rồng năm khóm rành rành,
    Trán hùm chói rạng Thiên đình oai nghiêm.

    Thao – lược đã sánh gồm Tôn – Tẩn,
    Cơ mưu càng so lấn Phạm- Tăng,
    Xuân – Thu chí cả ai bằng,
    Giải- lương quê quán vẫn tằng danh vang.

    Nhà đạo đức họ Quan giòng giống,
    Sanh gặp thời Hán thống phân mang,
    Nhỏ du lịch lớn làm quan,
    Anh hùng bốn biển giang san một nhà.

    Lo chi thiếu trảo nha huynh đệ,
    Vào vườn Đào bỗng thấy hai người,
    Hình dung kỳ dị khác vời,
    Non sông đâu tá là nơi anh hùng.

    Oai lẫm liệt lạ lùng Trương tướng,
    Đường đường thay khí tượng Lưu hoàng,
    Nay mừng gặp chúa phi thường,
    Nước Thiên đàng rửa đảng gian có ngày.

    Rồng Cọp hội gió mây đã hãn,
    Giết trâu đen ngựa trắng lễ phô,
    Nguyện cùng Cao Thẳm biết cho,
    Anh em kết nghĩa khuôn phó Hán bang.

    Huỳnh Càn phá Đổng tàn Bố giết,
    Không Dinh lầm chước Tào mang,
    Từ châu gặp lúc chia tan,
    Canh hồng man mác xe loan dắt dìu.

    Ngọn đuốc thiêu mưu sâu văn viễn,
    Dòm vách coi nghĩa vẹn vườn Đào,
    Thề phò Hán chẳng hàng Tào,
    Tôi trung phò chúa lòng nào đổi hai.

    Ấn Hán thọ quyết nài chữ Hán,
    Tiệc Hoa viên them chén tình gian,
    Lấy đầu hai tướng Văn Nhan,
    Ở đền ơn mới về toàn nghĩa xưa.

    Kế về Bắc bây giờ mới quyết,
    Tin Lưu hoàng đã biết rõ nơi,
    Vàng niêm rồi ấn treo rồi,
    Ba phen từ Tháo mấy hồi nhớ Lưu.

    Hộ xe chị qua cầu vượt ải,
    Tìm dấu anh xuống bãi lên đèo,
    Dặm ngàn vó ngựa buông theo,
    Lòng trung khí nghĩa rạng nêu mặt trời.

    Năm ải dẹp đôi nơi khói bụi,
    Sáu tướng vươn một mũi đao rồng,
    Bắc nam ly hiệp anh hùng,
    Cổ thành ai nhỡ trùng phùng anh em.

    Trí quyết thắng vẫn hiềm mình thiếu,
    Tài kinh luân phải triệu người ta,
    Mao Lư ba dội dẩy xa,
    Rồng nằm chưa dậy bóng đà gần trưa.

    Điềm trị loạn ai chưa sớm đoán,
    Bình sanh ta trù toán không sai,
    Giấc xuân lều cỏ vừa phai,
    Trì trì bóng nhật hiên ngoài lân la.

    Đức Gia Cát chưa ra một bước,
    Số tam phân định trước rành rành,
    Võ hầu nguyên Quảng Huệ Tinh,
    Hán tiền Nghiêm tử Tống đình Văn công.

    Luân hồi đã đa dòng Sư tướng,
    Hết xuống trần phối hưởng miếu giao,
    Vạc Lưu chia bởi Ngô Tào,
    Giang san dời đổi biết bao anh hùng.

    Lưu - Hoàng ngự trong cung Thanh – phủ,
    Thánh - Đế nay trấn thủ Thiên – môn,
    Tứ Xuyên thổ cốc nhuần ân,
    Hoàng Hầu trung - nghĩa làm Thần đến nay.

    Sau đời Tống đầu thai Võ Mục,
    Trước đời Đường hiệu Thục - thơ – Dương,
    Ba triều trung liệt tiếng vang,
    Ngôi - Thần hộ quốc Ngọc - Hoàng sắc phong.

    Binh qua nhỏ vẫn không sai tướng,
    Nguy nan to sẽ xuống cứu trần,
    Cho hay chính trực làm Thần,
    Thành – Hoàng tướng - tướng xoay vần xưa nay.

    Cảm Trời – Đất bởi dày trung hiếu,
    Hiển Phật – linh há thiếu trì chay,
    Cần chi ăn mặc phí xài,
    Tùy gia phong – kiệm chớ nài chớ chê.

    Cầm thú cũng thuộc về sanh mạng,
    Không việc chi nào đánh, sát sanh,
    Cũng đều mạng sống như mình,
    Giương cung bủa lưới tầm quanh sao đành.

    Cây cỏ chớ phá nhành bông trái,
    Trải đông tàn, xuân lại phát sinh,
    Muôn loài Trời Đất hóa sinh,
    Theo thời sanh trưởng cũng in như người.

    Ai mà biết thương loài sinh vật,
    Phước nhóm về họa ắt lánh xa,
    Chớ rằng lành nhỏ bỏ qua,
    Chớ rằng dữ nhỏ làm mà hại chi?

    Việc ngay vạy lưới trời khôn tránh,
    Định vinh hư Thần Thánh đã lường,
    Làm người gốc tại cang - thường,
    Hiếu Đễ Trung Tín Lễ Nhường Sỉ Liêm.

    Vâng lời Đế cứ làm việc phải,
    Có mây lành che đỡ cho mình,
    Cửa Trời Đế lãnh quyền hành,
    Muôn Thần tấu đối Thiên Đình trước hay.

    ( CÒN tIẾP)

  6. #6

    Mặc định

    Người đức thiện thêm bề quan tước,
    Kẻ độc gian hại ngược về sau,
    Cho hay thiện ác đáo đầu,
    Làm lành gặp phước lâu mau tùy thời.

    Chớ tưởng Trời không tai không mắt,
    Việc tối tăm nhỏ nhặt đều hay,
    Thờ Thần kính trọng hằng ngày,
    Chẳng nên thất lễ cợt lời dễ khinh.

    Khắp bốn biển kiền thành kỉnh lễ,
    Tặng Đế là Trung- Nghĩa độc tôn,
    Tượng hình rạng giữa kiền khôn,
    Anh hùng như Đế dễ còn mấy ai.

    Vâng Thượng Đế đặt sai Ngự - sắc,
    Xét phàm gian thiện ác mỗi người,
    Tinh trung Nhật Nguyệt sáng soi,
    Đất Trời nghĩa khí trong ngoài tiếng vang.

    Lòng son thắm mặt càng đỏ cháy,
    Khí nghĩa xung râu lại thêm dài,
    Anh hùng nghĩa khí tột vời,
    Đuốc tàn phá vách cho người tiết cao.

    Kìa tước lộc của Tào chẳng sá,
    Vàng niêm phong ấn đã treo rồi,
    Đao Rồng trăng vọi càng tươi,
    Hỡi anh em cũ bao giờ gặp nhau.

    Mày tầm chạnh bấy lâu châu ủ,
    Non sông buồn lắm nỗi đổi dời,
    Công danh trùm cả muôn đời,
    Tước quyền Nguyên soái cửa Trời gia phong.

    Cúi đầu trước sân Rồng phụng chỉ,
    Thể lòng trên Ngọc Đế ban hành,
    Hỏa lôi Phong võ chư linh,
    Giúp người sao tụng thiệt tình kỉnh tin.

    Vâng lệnh dạy tu nhân tích đức,
    Trải ngàn năm đeo ngọc phủ vàng,
    Vẹn toàn việc tốt dường gương,
    Nguy nga một cửa vẻ vang ba đời.

    Tuân Pháp - chỉ mấy lời phân rõ,
    Nhòm Thần Tiên các bộ thi hành,
    Hội - đồng Cứu- khổ đại Tiên,
    Hiệp ngôi Thái thượng cung tiền Kim tinh.

    Kiển duyệt tất phân minh chú giải,
    Chẳng ai nên nghịch cãi luận bàn,
    Kinh này bốn biển rộng ban,
    Giúp nên nước thịnh bình an lâu dài.

    Tôi trung lương ra tài giúp nước,
    Con thảo hiền giữ trước như sau,
    Thanh Liêm vàng chẳng tham cầu,
    Tiết ngay vẹn vẻ sợ đâu nguy nàn.

    Lời Minh Thánh ngọc vàng thắm thiết,
    Chẳng nên khi là việc tầm thường,
    Trung Hiếu Liêm Tiết bốn chương,
    Có lời Tam Thánh tỏ tường giải phân.

    ( CÒN TIẾP)
    Last edited by Tuduong; 10-01-2013 at 08:57 PM.

  7. #7

    Mặc định

    TRUNG CHƯƠNG

    Trên Minh Quân ân cần lễ hậu,
    Dưới bề tôi thờ Chúa hết lòng,
    Cơm Vua lộc Nước ngày dùng,
    Phải lo bổn phận lập công đền bồi.

    Tôi trung- nghĩa khuôn phò Xã –tắc,
    Tướng công bình dìu dắt ba quân,
    Chớ che việc lỗi Văn – thần,
    Chớ đem công trạng Võ –thần lấp đi.

    Điện Văn- hoa chép ghi rành rõi,
    Cung Kiến- chương tấu đối rõ ràng,
    Lòng son vừng Nhật in ngang,
    Ngôi cao hãng đặng lên hàng Tam – Công.

    Kìa Tần – Cối bất trung quá đỗi,
    Hóa loài muông đền tội Nhân- gian,
    Nhạc – Vương Võ Mục Trung- cang,
    Dự trong bốn Soái Thiên Đàng sắc phong,

    (CÒN TIẾP)

  8. #8

    Mặc định

    HIẾU CHƯƠNG

    Làm con trước thảo cùng cha mẹ,
    Thảo – thuận là hai lẽ liền nhau,
    Khiến vui chớ để buồn rầu,
    No cơm ấm áo ngõ hầu đơn sai.

    Lúc đau ốm thuốc thầy kiểm điểm,
    Mình sắc rồi miệng nếm tay dâng,
    Hôm mai chầu trực bâng khuâng,
    Quên ăn quên mặc đỡ nâng đêm ngày.

    Mầy hiếu thuận con mầy sẽ hiếu,
    Xem giọt mưa tiếp nhiễu trước hiên,
    Đại Thuấn hiếu ngôi Vua truyền,
    Hai mươi bốn thảo đầu giềng hiếu chương.

    Cha mẹ sống chẳng thương chẳng dưỡng,
    Để chết rồi tế hưởng Linh tiền,
    Quân bất hiếu bị tai khiên,
    Hùm tha rắn mổ tật nguyền gớm thay.

    Phép nước bị tù đày giam vạ,
    Lưới Trời thêm thủy hỏa lôi oanh,
    Chết treo chết chém hủy thân,
    Những đồ bất hiếu Thánh Thần phải răn.

    Hãy gấp gấp ăn năn chừa cải,
    Nếu dần dà theo mãi càng thâm,
    Người đời ai khỏi lỗi lầm,
    Lỗi mà biết cải mới làm người khôn.

    Người khôn giữ Thần hôn trọn đạo,
    Mấy ngàn năm gương thảo vẫn còn,
    Xử sao cho xứng phận con,
    Rồi ra trăm nết vuông tròn từ đây.

    (CÒN TIẾP)

  9. #9

    Mặc định

    LIÊM CHƯƠNG

    Liêm – khiết khiến thường ngày kính sợ,
    Xét xem tường tránh sự hiềm nghi,
    Thánh hiền an mạng là chi,
    Thung dung học lễ học thi mới mầu.

    Vi – Tề ẩn lúa châu chẳng xá,
    Thú – Dương còn mảnh đá lưu danh,
    Giá cao sánh với ngọc lành,
    Chí dường sắt đá kiên trinh mọi bề.

    Giữ lộc mình chớ hề tham quấy,
    Xâm của người mang lấy họa tai,
    Người liêm chê của Ta – lai,
    Chí cao chẳng uống nước khe Đạo tuyền.

    Từ bổng tiếng nguyên hiền liêm cẩn,
    Sợ vàng khen Dương – chấn thanh cao,
    Truyển – cầm sắc gái không xiêu,
    Lỗ - liêng trọng nghĩa vàng cao chẳng mạng.

    Thịt ngỗng đâu quý hơn trái lý,
    Cải rau ngon dưa tế đâu bằng,
    Lễ nghi nhờ của lộc ban,
    Cả nhà chi phí kiệm cần cũng xong.

    Của thất tiết chất chồng trăm lớp,
    Tiền muội tâm giựt xấp đầy rương,
    Oan hình ngó xuống thảm thương,
    Ngước lên còn có Thiên – Thương trên này.

    Dung tôi tớ như bầy lang hổ,
    Mưu lấn giành điền – thổ quân dân,
    Đến khi vận đốn thời truân,
    Nhà tan mã nát khôn phân thế nào.

    Của kim cốc lúa vào đã trái,
    Đám phù vân thoảng lại như không,
    Gái dâm trai đạo đến cùng,
    Trả sao cho xứng mấy đồng tiền oan.

    ( CÒN TIẾP)

  10. #10

    Mặc định

    TIẾT CHƯƠNG

    Tiết người ta sánh ngang Trời Đất,
    So loài tre vầng nguyệt cũng bằng,
    Sáng soi cao thẳm khôn ngăn,
    Mười phần tròn trịa mười phần sạch trong.

    Mình ngay thẳng nào cong nào khuất,
    Trải tuyết sương thường tốt thường tươi,
    Một màu xanh biếc Đất Trời,
    Trăng thanh gió mát thảnh thơi mọi bề.

    Châu mấy giọt dầm dề rừng trúc,
    Tiết ngàn thu gửi khúc Tương – linh,
    Khiến người qua bến Động – đình,
    Càng thương càng mến Nga- anh bồi hồi.

    Gậy Tô – Võ mười hai lóng chẵn,
    Xứ Hung – Nô mười chín năm tròn,
    Lý – Lăng tiếng xấu khôn mòn,
    Tô – Công tiết liệt tiếng còn đến nay.

    Ban – Trọng – thăng cõi Tây phụng sứ,
    Băm sáu phương còn nhớ ân quang,
    Mấy người tiết nghĩa vẹn toàn,
    Thánh – Thần soi đến hỉ hoan dường nào.

    Hoặc ngự chức Thiên Tào quyền chưởng,
    Hoặc bổ làm các đấng Thành Hoàng,
    Công hầu nối nghiệp vẻ vang,
    Ngàn năm hưởng phước giàu sang lâu dài.

    Kìa loạn tặc nào ai chẳng ghét,
    Hại trung lương thảm thiết quá chừng,
    Thấy nhau giả mặt vui mừng,
    Mà lòng với miệng vẫn từng khác nhau.

    Lòng sụt sụt tám mâu chỏi ngược
    Ý hằm hằm ba thước đao châm,
    Lưỡi như gươm bén phải lầm,
    Giết người chẳng thấy hơi tăm chút nào.

    Hễ sàm nịnh hùng hào gian xảo,
    Thì thân gia điều hảo tuyệt dòng,
    Đế xưa cũng chẳng chay ròng,
    Dị đoan tà khuyết Đế cùng chẳng tin.

    Địa ngục cũng như Thần quản hạt,
    Tam bửu là Nhật Nguyệt Tinh Thần,
    Đỡ che cấp nạn Nhân dân,
    Giây oan tháo mở lần lần sạch trơn.

    (CÒN TIẾP)

  11. #11

    Mặc định

    TỔNG KẾT CHƯƠNG

    Bốn chương ấy tỏ tường thâm thiết,
    Trung Hiếu và Liêm Tiết rành rành,
    Còn hai mươi bốn vị Tinh,
    Sau này thứ lớp phân minh kề liền.

    Thần Mãnh Dõng*(1) đinh thiên pháp lực,
    * Dũng Mạnh
    Chống bầu Trời đỡ Đất mạnh thay,
    Xoay vần Nhật – Nguyệt đông tây,
    Ấy Thần Phổ Chiếu (2) đêm ngày sáng soi.

    Thần Minh Lãng(3) an bài Tinh tú,
    Trong đêm thanh chiếu tỏ đều Trời,
    Hằng ngày cưỡi ngút nương mây,
    Kìa sao Phi Lộ(4)vãng lui du tuần.

    Thần Oai(5)Liệt lẫy lừng không xiết,
    Chớp bủa giăng sấm sét tưng bừng,
    Kêu mưa hú gió lẫy lừng,
    Nhiễu nhương oai dậy đùng đùng bốn phương.

    Sao Biến Thông(6)rưới sương sa tuyết,
    Làm đượm nhuần thảo mộc sơn hà,
    Thưởng lành phạt dữ gần xa,
    Có Thần Chánh Trực(7) xét tra công bình.

    Thần Trung Nghĩa(8) hành hình đảng ác,
    Phò độ người tích cực tu nhân,
    Dạy kẻ ngu dỗ kẻ ngoan,
    Có Thần Cảm Ứng((9) liệu toan trong đời.

    Thần Từ Tường (10)cho người trường thọ,
    Đuổi Ôn Hoàng Dịch Lệ(11) cứa dân,
    Cát bay đá chạy rần rần,
    Ấy Thần Triệt Lộ (12)đón ngăn tư bề.

    Thần Ngũ Hổ(13) chưởng về phong cảnh,
    Vâng lệnh Trời biến đổi dời sông,
    Đạp xô lở núi sập non,
    Sức Thần Thiết Giáp(14) ai còn dám đang.

    Sao Kiết Hóa(15) làm tan tuyết giá,
    Hoặc làm đông đặc cả sông ngòi,
    Làm co trổ lá nảy chồi,
    Vì Sao Phát Dục(16)dưỡng loài cỏ cây.

    Sao Kiều Mỵ (17) đơm đầy bông trái,
    Cây vẻ vang người lại hưởng nhờ,
    Lúa tươi nếp tốt sởn sơ,
    Nhờ Sao Ích Huệ(18)giúp người đủ no.

    Sao Bổ Tróc(19)hộ phò các loại,
    Là cầm bay thú chạy trong Trời,
    Cá tôm cua trạch đua bơi,
    Nhờ Sao Dõng Dước(20) hóa đầy biển sông.

    Sao Triền Nhiễu(21) rải cùng Thế giới,
    Loài côn trùng bay nhảy tơi bời,
    Văn chương chữ nghĩa vẽ vời,
    Sao Văn Xương(22) ấy dạy người thông minh.

    Sao Vũ Khúc(23) bày binh bố trận,
    Muôn nước dùng chống vững cõi bờ,
    Chư công bá nghệ đều nhờ,
    Vì Thần Xảo Tác(24) dạy người đua chen.

    Chúng Tinh nghe lệnh truyền khắp cả,
    Về Bổn Dinh biến hóa phát sinh,
    Cúi đầu lạy trước Minh Thánh,
    Công đức cả cao xanh mấy từng.

    Đức Thánh Đế sắc rồng phán thị,
    Vương Thiên Quân vâng chỉ cửa Trời,
    Đế thường gắn bó mấy lời,
    Trên Trời mặt Nhật trong người Trái Tim.

    Mặt Trời chiếu đâu xem cũng sáng,
    Lòng người tua tỏ rạng như vầy,
    Trong đời muôn việc rủi may,
    Cội nguồn cũng ở lòng này mà ra.

    Năm Thường ấy Nho gia làm chủ
    Tam Bửu kia Thích đạo làm đầu,
    Quản bao giải lẽ cao sâu,
    Đạo nào cũng phải suy cầu Tâm Nguyên.

    Nhân chẳng chi hơn Trung Hiếu
    Nghĩa thì không đặng thiếu Tiết Liêm,
    Năm Thường thử kể ra xem,
    Trước làm Nhân Nghĩa đã kiêm cả rồi.

    Đức Thánh Nhân sánh Trời giúp hóa,
    Thành Phật Tiên Đạo cả nhờ đây,
    Mở Trời dựng Đất đến nay,
    Nhóm về một lẽ rõ bày chân nguyên.

    Trải Đế vương Thánh Hiền Tiên Phật,
    Kinh điển truyền ghi tạc muôn đông,
    Đạo dẫu cách Tâm vẫn đồng,
    Nói trong lẽ ấy làm trong việc này.

    Đế vốn trong Tử Vi Cung tọa,
    Bẩm tinh anh Sao Hỏa giáng sinh,
    Tính oai liệt Tượng Ly Minh
    Văn Xương – Văn Khúc quyền hành hai cung.

    Văn chủ Nhân Hiếu Trung là gốc,
    Võ chủ Nghĩa Liêm Tiết làm đầu,
    Nghĩa Nhân nếu chẳng suy cầu,
    Thành Hiền Tiên Phật khó hầu sánh vai.

    Không đêm ví ngày hoài đâu có,
    Có Dương không Âm nọ được sao?
    Siêu Phàm Nhập Thánh huân lao,
    Nghĩa Nhân trọn đủ mới hầu thành công.

    Trải Chiến quốc mấy vòng mưa gió,
    Đến lúc sau Hán Tổ suy vi,
    Đế ra hết sức phò trì,
    Cứu dân giúp nước trăm bề gian truân.

    Niệm thiện- quả sửa lòng thiên hạ,
    Kinh Đào Viên tạc đá ghi vàng,
    Hiện thân thuyết pháp rõ ràng,
    Càng thâm thiết lắm lại càng đinh ninh.

    Muốn hoằng hóa chúng sinh tốt trọn,
    Mà trước người phải trọn điều hay,
    Người đời sao lạ lùng thay,
    Lãng xao tính thiệt lòng ngay đâu rồi.

    Thấy Kinh nói mấy lời dị nghị,
    Chẳng rằng kiêu thì nghĩ rằng thường,
    Hay là muốn việc lạ dường,
    Năm Kinh đặt lại để thường đọc chăng?

    Bọn ngu tục nói năng nào quản,
    Đám văn nho nhạo báng mới kỳ,
    Đế noi chú giải Châu Hy,
    Ôn nhuần nghĩa lý bấy nay đặng tường.

    Nếu ai dám thị thường quen thói,
    Nhạo Thánh Kinh soi bói nhiều điều,
    Nhẹ thì ôn hóa bấu theo,
    Nặng thì Châu Tướng chém đầu chớ than.

    Minh Thánh Kinh giải bàn thêm rõ,
    Gốc bởi đâu mà có Kinh này,
    Ngọc Tuyền Sư gặp duyên may,
    Đêm thanh ứng mộng thuật bày về sau.

    Hai chữ Hán đầu câu phải hiểu,
    Chữ Hán trên là hiệu danh đời,
    In ghi sắc đá không rời,
    Chính triều Đại Hán là đời Đế sinh.

    Còn chữ Hán Thọ Đình nối đó,
    Là chỉ tên rõ chỗ Hầu phong,
    Non mài sông giải muôn đông,
    Còn Trời còn Đất tiếng Ông còn dài.

    Trước những bảo những người tụng niệm,
    Tai tiêu mà Phước nhóm mọi đường,
    Thánh Kinh linh nghiệm tỏ tường,
    Khuyên người phúng tụng thường thường chớ kinh.

    Đoạn trong nói Trung trinh Nghĩa khí,
    Sánh Trời Trăng lại vớ cao dài,
    Chính trong Mạnh Tử sách này,
    Nói rằng “Chính khí lấp lại lưỡng giang”.

    Mặt vẫn đỏ làng càng đỏ chói,
    Râu vẫn dài Nghĩa lại dài ghê,
    Anh hùng tài mạo càng xuê,
    Xem trong Kinh điển phán phê rõ ràng.

    Đại Học rằng “Thể bàng Tâm quảng”,
    Nghĩa là người tướng trạng phương phi,
    Lại đem sách Mạnh mà suy,
    Mặt tươi Trăng rạng nghĩa thì chẳng sai.

    Nói tới câu đầu thai chuyển kiếp,
    Nhà Nho rằng là chuyện cao xa,
    Việc này Thích Đạo hai nhà,
    Luận bàn chí lý há là không tuân.

    Thử xem chuyện xoay vần thuở trước,
    Những thay hồn đổi xác biết bao,
    Trải qua mưa gió mấy trào,
    Sinh sinh hóa hóa biết bao Anh hùng.

    Tại Chiến quốc tại trong đời Hán,
    Tại Tống Đường chỉ phán mấy câu,
    Thiệt là chẳng phải dối đâu,
    Sử xanh còn đó suy cầu thử coi.

    Chương Trung nói Đạo Tôi rành rõi,
    Văn Võ Quan đều phải tuân theo,
    Chính là các bậc Anh hào,
    Ra đời về trước Y Cao Long Quì.

    Chương Hiếu phải xét suy cho kỹ,
    Câu nào thì chuyện ấy không sai,
    Chẳng rồi áo tối cơm mai,
    Thăm nom cơm thuốc ai tày Văn Vương.

    Xem giọt mưa chảy thường theo giọt,
    Con thảo hiền nối gót theo mình,
    Khi Vua Đại Thuấn hiếu thành,
    Danh thơm tạc để sử đình muôn thu.

    Hăm bốm Hiếu người đâu chuyện đó,
    Trải xưa nay rạng tỏ đôi vầng,
    Trời Đất chứng Quỷ Thần mừng,
    Rõ ràng bằng cớ biết chừng nào hay.

    Chữ Liêm vẫn tỏ bày Châu- lễ,
    Này thử xem Lục-kế thanh tra,
    Bởi trong chữ Nghĩa sinh ra,
    Của gì phi- lễ lấy mà làm chi.

    Đế vì kẻ ngu si răn dỗ,
    Một hai lời ví dụ đã tường,
    Suối Liêm nước Đạo đôi đường,
    Tiếng đời tốt xấu rõ ràng chăng nhe?.

    Tiết ví tre vì tre có lóng,
    Tiết ví Trăng vì bóng soi thường,
    Xưa nay Tiết lớn dình dàng,
    Trăng trong tre tốt Nghĩa càng vẹn phân.

    Đế sắc mạng chư Thần tra kiểm,
    Phò hộ người tu niệm theo Kinh,
    Đế đà trải hết lòng lành,
    Từ bi độ chúng đinh ninh mấy điều.

    Ai chê Đế rằng kiêu rằng siển,
    Đế vui lòng chẳng biến chẳng dời,
    Muốn cho thảy thảy mọi người,
    Theo kiêu siển ấy ở đời cũng hay.

    Tính tình cứ hằng ngày tu luyện,
    Ắt tự nhiên quả thiện vẹn toàn,
    Đặng về hưởng Phước Thiên đàng,
    Sánh vai Thần Thánh Đế càng hỉ hoan.

    Đế sắc hạ Linh quan truyền thị,
    Cho thập phương ai lấy châu tri,
    Hết lòng phát nguyện quy y,
    Tâm tâm niệm niệm tụng trì kỉnh tin.

    Tấm lòng phải giữ gìn thường sáng,
    Sánh Mặt Trời tỏ rạng trên không,
    Tín Thành hai chữ rèn lòng,
    Đêm ngày tụng niệm chớ hòng đơn sai.

    Nam Mô Cái Thiên Cổ Phật Chiêu Minh,
    Dực Hán Đại Thiên Tôn.

    THI THÁN

    Từ bi cứu thế, Trung – Nghĩa khuôn quân,
    Diễn giáo thuyết pháp độ quần sinh,
    Chính khí mãn Càn – Khôn,
    Vô lượng độ nhân, thọ- trì lợi- ích hanh.

    Đại Thánh Phục Ma, Cứu Khổ, Cứu Nạn Đại Thiên Tôn ( 3 lần)


    HẾT PHẦN ỨNG NGHIỆM ĐÀO VIÊN MINH THÁNH KINH.


    (CÒN PHẦN MỘT SỐ Ý KIẾN CỦA Tuduong chia sẻ cùng đồng đạo)
    Last edited by Tuduong; 30-01-2013 at 01:28 AM.

  12. #12

    Mặc định

    Kinh nghiệm của Tuduong: khi mua tranh thờ thì chọn sao cho lưỡi đao đừng chém vào chỗ mình đi, mình ở.
    Tham khảo Thiện Thư Kinh có đoạn Phật Quan Âm Thế Âm nó về Ngưu Khuyển: ý là không giết, không ăn thịt trâu chó.
    Kinh Tu Đức tâm Kinh cũng có câu: kiêng thịt trâu chó muôn vàn Phúc hay, hay ăn thịt trâu chó khó thoát lao lý tù đày.
    Thờ Quan Thánh Đế Quân cũng phải kiêng như nói trên.
    Dùng một chai dầu thơm loại tốt trước khi khấn Ngài nên xịt một chút vào hình ảnh Ngài, ý dùng dầu thơn cho râu Ngài thơm mượt (kính trọng Ngài).
    Tại Đền Ngọc Sơn giữa Hồ Hoàn Kiếm Hà Nội có thờ:
    Ban Công Đồng: Ngài Quan Thánh Đế Quân, Ngài Thuần Dương Lã Tổ, Ngài Văn Xương.
    Hậu Cung: Thờ Đức Thánh Trần.
    Có tới có thờ có lễ mới hiểu. Thánh Nhân đâu chỉ là Thánh của một quốc gia.
    Tại huyện Hồ Văn tỉnh Quảng Tây Trung Quốc có đền thờ Quan Thánh. Khi người Việt hỏi Quản Đền vì thấy hai hàng chữ: Trung Quốc – Việt thì được trả lời Ông vốn người Việt được cống, lúc đó Quảng Tây còn thuộc Việt. Nhưng ngày nay người ta làm Đền vẫn có hai dòng chữ Việt – Trung. Có phải ý Ngài không thì không biết. Nhưng những người Tu Đức thì lấy giáo lý của Ngài làm kim chỉ nam chứ không có phân biệt quốc gia lãnh thổ. Đạo Quang Minh Tu Đức là Đạo Trời, lý của của Thiên Địa mà con người là Nhân phải noi theo.

  13. #13

    Mặc định

    ơ các cụ à, tui biết bọn quan vân trường này khi sống chỉ phong tước công mà, có ai phong nó làm quan thánh đế quân đâu?
    mà sao ta lại đi thờ tên quan công này mà không thờ thánh trần để tăng nội lực?
    dước tên này vào thờ sao không dước nốt bác mao về thờ cho vui
    trung quốc có 32 tỉnh rồi thêm việt nam là tỉnh 33 càng vui/ chờ cho trung quốc chiếm vietnam song thao hồ mà thờ bọn mạt hán này/ ô lực cười thay/ đến cao đài còn thờ tôn trung sơn và víc to huy gô làm thánh thì vietnam này sắp hết nhân tài rồi/ bà con chịu khó học chữ tàu đi là vừa/ lần này thì học cả tiếng nữa vì công nghệ ngôn ngữ tàu đã có cải tiến vượt bậc/chúc mọi người thành công trên con đường tàu hóa

  14. #14

    Mặc định

    ô lại còn bảo thánh nhân không phân biệt quốc gia/ có ai bảo thằng quan vân trường là thánh nhân bao giờ đâu?
    các ông có thấy tàu nó thờ trần hưng đạo/ nguyễn trãi không?
    các ông có biết thánh nhân là cái gì không
    đạo trời à?
    đọc mấy bài thơ thối này tôi không thấy cái đạo trời đâu hết?
    thánh nó được sinh trong mỗi quốc gia/ hộ vệ cho quốc gia đó
    hồi thằng cao biền nó chấn yểm linh khí bắc việt/ chỉ còn núi tản viên không chấn yểm được vì núi đó có thánh khí/ thánh khí dùng kim không diệt được thế nên ta chưa là một khu tự trị của tàu như choang quảng tây đấy/ hoặc vong gốc như zuệ quảng đông đấy/
    đạo của các ông đúng là đạo nội đấy nhưng vọng ngoại thế thì vong/ ai theo, thà như đạo phật/ thiên chúa/ nó phổ biến/

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 24
    Bài mới gởi: 22-09-2013, 09:15 PM
  2. TRUYỀN TÍCH CÁC VỊ THÁNH ( SƯU TẦM)
    By honghoavnn in forum Đạo Mẫu,Đạo Tứ phủ
    Trả lời: 86
    Bài mới gởi: 21-07-2013, 07:38 AM
  3. Trả lời: 48
    Bài mới gởi: 14-04-2013, 11:00 AM
  4. BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - TÁC GIẢ VƯƠNG KIM
    By vankhuc in forum Bửu Sơn Kỳ Hương
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 04:47 PM
  5. Ý Nghĩa Của Công Đức Và Phúc Đức
    By dinhlong64 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 11-04-2011, 10:45 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •