HẬU-THIÊN ÂM NGŨ-HÀNH

a/-khái-niệm:

Các số chẵn gọi là số âm, như: 2, 4, 6, 8, 10.

2-. Là THỨC-THẦN thuộc hỏa làm Đinh hỏa.

4- Là QUỈ PHÁCH thuộc Kim làm Tân kim.

6- Là TRƯỢC TINH thuộc thủy làm Quí thủy.

8- Là DU-HỒN thuộc mộc làm Ất mộc.

10-Là VỌNG Ý thuộc thổ là Kỷ thổ.

Đó là ngũ-vật. Hễ ngũ vật đủ rồi thì có ngũ-tặc ở trong đó. Ngũ-tặc là: Mừng, Giận, Buồn, Vui, Muốn.

Du-Hồn chủ sự ứng có tánh lành nên xúc động đến thì thành giận (nộ).

Thức-Thần rất linh-thiêng, có tánh tham, xúc động đến thì sanh muốn (dục) thuộc hậu-thiên ngũ-vật. Ngũ-tặc tuy là do ngũ-hành hóa ra mà trong đó có chỗ phân biệt. Trong ngũ-vật Tinh, Thần,Ý, đều sanh sau duy có Hồn, Phách sanh ra trước hết.

Hồn lại còn sanh trước Phách nữa, HỒN là hột giống luân-hồi đời đời kiếp kiếp, làm người hay làm quỉ là nó; làm Thánh, làm Hiền cũng là nó; làm lành làm dữ cũng là nó, mang lông đội sừng cũng là nó. Thân này tuy chưa sanh chớ nó đã có trứơc rồi, còn khí tuy chưa tuyệt chớ nó đã đi trứơc rồi. Trong lúc con người vừa xé bọc chui đầu ra, oa oa tiếng khóc chào đời, là lúc Hồn nhập khiếu.

Hồn vừa nhập khiếu thì nó thọ hậu-thiên-khí; một khí hiệp cùng tiên-thiên Nguơn-tánh. Cái gỉa mượn cái thiệt mà tồn tại. Cho nên, ant-nhi xổ ra mà không có tiếng oa oa thì chẳng thành con ngừơi, vì du-hồn chưa nhập. Tuy là có nguơn-tánh mà một mình đâu có tồn tại được.

Cái giả nhờ cái thiệt mà tồn tại. Cái thiệt nhờ cái giả mà hơn lên. Còn Phách thì lấy phần linh của khí huyết thọ kim khí mà đoàn-kết.

Hồn là một vật hay rời rạc chẳng định, lìa cái này thì bắt cái kia, lìa cái kia thì bắt cái nọ, luân-hồi không cùng, nhiều kiếp mà chẳng hề hư-hoại. Phách mất hay còn đều do thân này. Thức-thần tuy thọ hỏa-khí mà sanh chớ cũng ở trong hồn mà ra. Trược tinh tuy thọ thủy mà sanh chớ cũng do phách mà thành, Ý là tư-lự động tác dùng nó mà xử khiến. Tinh, Thần, Hồn, Phách cũng là tứ-vật.

Ngũ-vật, ngũ-tặc đều có sau khi sanh thân này nên gọi là “dĩ sanh xuất”, nghĩa là đã sanh ra rồi. Do bởi việc này xảy ra sau khi sanh thân nên gọi là hậu-thiên. Còn Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận đã trược mà lại có hình chất nên không được kể vào đây.

Lúc ban sơ mới sanh, hậu-thiên ngũ-hành với tiên-thiên ngũ-hành hai cái hiệp chung làm một. Ngũ-vật nhờ ngũ-nguơn dẫn dắt, còn ngũ-tặc nhờ ngũ-đức kềm chế, mỗi khi cử-động đều là Tiên-thiên làm chủ-tể, Hậu-thiên chẳng qua là tay sai mà thôi.

Cho nên hồi anh-nhi vô-thức, vô-tri thì tốt lành, chẳng có một mảy dữ là chí Nhân (nhân cùng bực). Nhân ấy là mối manh của nguơn-tánh.

Nhân ngã đều quên là chí nghĩa, nghĩa ấy là mối manh của nguơn-tình. Thế nên, sách Tam tự kinh khởi đầu bằng câu “Nhơn chi sơ tánh bổn thiện” (con người mới sinh ra ra cái bổn tánh vốn hiền lành).

Thinh sắc cũng mê là chí Trí, ấy là mối manh của nguơn-tinh.

Tâm-khí bình-hòa là chí Lễ, Lễ ấy là mối manh của nguơn-thần. . Một lòng thành chẳng đổi hay là chí Tín. Tín ấy là mối manh của nguyên khí.

Lúc nó tịnh là ngũ nguơn khí, nó động là ngũ đức. Mà động tịnh đều là tiên-thiên hành sự. Trong lúc đó dẫu mừng, giận, buồn, vui nhưng đều vô-tâm cả.

Mừng mà không giữ lâu (bám chặt)

Giận mà không đổi đạc (giận lâu)

Buồn mà không xót-xa (đau đớn)

Vui mà không thái-quá (dâm dật).

Mừng, Giận, Buồn, Vui chưa phát thì gọi là TRUNG, chừng nó phát ra rồi trúng tiết (nhầm lễ) thì gọi là HÒA. Trung với Hòa có ý-nghĩa là không dục-vọng, không dục-vọng ắt là tinh, thần, hồn, Phách, ý, mỗi thứ đều yên ngôi, vâng theo mạng lịnh Tiên-thiên.

Đức Hộ-pháp có dạy “Vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc vui buồn thấm vào chơn tánh” là vậy.

Tiên-Thiên, Hậu-Thiên, Âm dương giao-phối tinh-hoa trong nhị ngũ mà hiệp đúng phép mới đoàn-kết. Hoặc Tiên-thiên động thì Hậu-thiên thành, chơn không rời giả, giả chẳng rời chơn. Chơn nhờ giả mà vẹn toàn, giả nhờ chơn mà tồn tại. Trọn hết là một khí, không chút nào tổn-thương; tròn đầy; đầy-đủ như ngũ-hành trong họa-đồ. Âm dương đồng ở một chỗ, tượng hình một khí lưu-hành.

Cổ-nhân dạy người phải nương lấy cái “sanh diện”, nghĩa là cái diện-mục của mình khi mẹ sanh ra là chỉ vào đây.

Đến năm 16 tuổi (nhị bát) tiên-thiên khí đầy đủ, Dương cực thì Âm lần sanh và giao tiếp với Hậu-thiên nên



hồn-phách chẳng định, Thức-Thần nổi lên thì khai tinh khiếu (cửa lọc tinh ba), ý loạn, tâm mê, ngũ-vật đều dấy lên, ngũ-tặc phá hại, ngũ-nguơn, ngũ-đức tiêu mòn dần. Như vậy ngày nầy qua ngày kia, năm kia tới năm nọ, âm khí thuần rồi dương khí tận, thì không chết sao được !?

Đây là Đạo đi thuận thì sanh ra con người. Duy bực Thánh-nhơn có học phép tiên-thiên mới biết bảo dưỡng lúc tiên-thiên chưa tuyệt, mới biết thối âm khi hậu-thiên khởi sanh. Thánh-nhân lấy cái hậu-thiên mà hàm dưỡng tiên-thiên, lấy cái tiên-thiên mà chế hóa hậu-thiên, chánh đạo vô-vi thẳng vào cõi Thánh.

Cái Đạo vô-vi chẳng ra ngoài cái diệu-lý của Hà-Đồ bắt từ trong mà sanh ra âm-dương Ngũ-hành, tức là đạo “thuận-sanh”, sanh ra con người. Còn ngũ-hành âm-dương trong Hà-Đồ hiệp nhau trọn hết là một khí, tức là đạo “nghịch-vận” sanh ra Thánh-nhân.

Nghịch-vận không phải lấy nghĩa phản huờn, ấy là đem ngũ-hành tàng ẩn như trước (trả lại) nơi TRUNG-HUỲNH THÁI-CỰC (Tâm). Đây cho thấy trở lại cái diện mục hồi lúc cha mẹ chưa sanh.

Mạnh-Tử nói rằng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí bốn đức tánh nầy căn cứ tại Tâm. Cái sắc anh-hoa của nó hiện nơi mặt đầy-đặn, hình ra sau lưng, oai-nghi bày ra tay chân. Tay chân chẳng đợi mình bảo mà tự-nhiên hiểu biết cử-động hiệp nghi (như cái tay chẳng đợi bảo phải cung khoanh mà tự nhiên biết cung kính; cái chân chẳng đợi bảo trung-hậu mà tự nhiên biết trung-hậu (Tận-Tâm thượng /Mạnh-Tử).

Nguyên-nhân là tâm làm chủ cả cái thân có đủ các đức là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Nếu lấy một cái Tâm mà vận Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ròng là Thiên-chơn hành-sự. Ngũ-vật, Ngũ-Tặc đều theo lệnh nó, khiến ngũ-hành đoàn-kết, tứ-tượng hòa hiệp thì TÁNH tức là MẠNG; MẠNG tức là TÁNH. Tánh Mạng một nhà, âm dương trọn hòa. Hình Thần đều đặng huyền-diệu cùng Đạo hiệp một lẽ Chơn, căn cứ tại Tâm mà sanh sắc anh-hoa. Chẳng đợi bảo mà hiểu biết tự-nhiên, như thế cái tâm đó mới gọi là tâm không (không phải cái tâm không biết rung động), mà gọi là “thiên địa chi tâm”天地之心(tâm của trời đất), ngũ-hành không sao đến đó được, tứ đại khó xông pha vào đấy, chỗ mà Thánh-nhân gọi là Huyền-tẫn là nó đây vậy.

Caí không phương-hướng, không định chỗ nơi, nghĩ ra ắt sai, bàn lại thêm quấy, chẳng thể lấy lời mà dạy, lấy bút mà tả, khép mở có giờ, động tịnh như chẳng chấp chẳng lịch, tột trúng tột linh gượng kêu là THÁI-CỰC, gượng vẽ ra cái nầy không (0). Ấy là một điểm ở chính giữa Hà-Đồ.

Nhưng bởi cái tâm này là gốc rễ của Trời Đất, cội nguồn của Tánh-mạng, chỉ có người Tu-Chơn mới có được Tâm này.

Đức PHẬT-MẪU có dạy rằng:

Gắng sức trau-giồi một chữ Tâm

Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm

Tâm thành ắt đạt đường tu vững

Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm

Tâm aí nhơn sanh an bốn biển

Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm

Đường tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn

Có buổi hoài công bước đạo tầm

Nơi Trí-Huệ-Cung có để thể pháp: Ba vòng vô-vi gắn liền nhau như mắc-xích biểu-tựợng cho Tam giáo, tam-bửu, tam thể xác thân. Ngừơi tu đắc đạo là lúc ngũ-khí triều nguyên, tam huê tụ đảnh. Đây chính là tôn-chỉ của Đạo Cao-Đài “Tam-Giáo qui-nguyên Ngũ-Chi phục nhứt”.

Cái Tâm đó lớn không có chi lọt ra ngoài, mà nhỏ thì không có chi xen vào trong. Có phải chăng biểu-tượng này Đạo Cao-Đài đều tôn thờ. Đó là Thiên-Nhãn, là điểm Linh-Quang, là trí Bác-Nhã…

Người tu gọi cái tâm này là tâm không (chơn không mà diệu hữu biến-hóa vô cùng).



b- Cái Tâm không.:

Hễ ai đặng cái tâm này thì ra tử vào sanh (về cõi Thiêng-Liêng hằng-sống). Ai mất nó thì ra sanh vào tử (mê-muội tối tăm phải bị trầm-luân khổ hải).

Trước nói Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí căn cứ tại Tâm là chỉ cái tâm này đây.Trong cái tâm này có khí ngũ-hành mà không có hình chất ngũ-hành. Nó ẩn trong ngũ-hành mà chẳng bị nhốt trong ngũ-hành. Gốc nó tại lúc cha mẹ chưa sanh sắp về trước. Hiện ra lúc cha mẹ sanh rồi sắp về sau. Nó vắng lặng chẳng động, cảm xúc liền hay cho nên chủ-tể bốn Đức (tứ Đức) Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Vì nó biến hóa ra được 4 Đức này nên còn có tên là TÍN 信Tín đây không phải là chữ tin thuộc về lời nói; Ấy là chữ tin do âm dương hiệp chung làm một, chơn thật không dối .Chơn-thật là không dối trá (là chơn không), mà chơn-không là diệu-hữu. Không mà chẳng không, chẳng không mà không. Nhân, Nghĩa, Lễ, TRí đều có đủ trong đó.

Công-phu vô-vi là mượn sức Đạo làm cho toàn hình. Mượn sức đạo làm cho toàn hình ấy là dùng Tín mà thâu hết Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí, tức là đem Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí gom về một chữ Tâm, gom về một chữ Trung. Tín – Tâm – Trung cả ba tên đều là một KHÍ.

Một khí lưu-hành ngũ-nguyên ngũ-đức, đoàn-kết không tan, hiệp trọn về một Thái-cực, chẳng sẫm chẳng lậu, thì hậu-thiên ngũ-vật, ngũ-tặc cũng đều hóa ra dương. Tiên-Thiên-khí và Hậu-Thiên-khí, hai khí hiệp chung làm một thể ắt tu tánh xong.(Trong công phu tu tánh đã có tu mạng rồi khỏi phải tu mạng nữa ).

Đạo Bát-quái cũng có âm dương và quái nầy lại đặt chồng lên với 8 quái kia mà biến thành 64 quẻ kép (8x8=64) biến-hóa vô cùng mà tạo nên vạn-vật.

Một quẻ đôi có 6 vạch, mỗi cái ba vạch dầu trên hay dưới là lấy ý tam tài: Thiên-Địa-Nhân cho có cặp, mỗi tài đều có Âm Dương của nó.

Bát-Quái chính là Âm Dương của Tứ-Tượng (mỗi thứ trong tứ-tượng đều có âm dương). 64 quẻ tức là khí do âm dương của Tứ-tượng phối hiệp mà sanh ra.

Bát Quái sắp xếp rồi chồng lên với nhau tức là âm-dương tương-giao thì sự sanh sanh chẳng ngớt, há chỉ có 64 quẻ mà thôi đâu! Thế nên mới nói rằng “Bát-quái biến-hóa vô cùng mới thành ra càn-khôn thế giới”.

Vẽ quẻ mà dừng ở 64 quẻ là vì đạo của Trời đất chẳng qua là âm dương của Tứ-tượng biến-hóa ra đó mà thôi. Tứ Tượng hiệp lại do âm và dương thì gọi là Bát quái. Một quẻ đi khắp các ngôi chọi với 8 quẻ. 8 quẻ đi khắp các ngôi chọi với 64 quẻ, ngàn quẻ, muôn quẻ đều chẳng ra ngoài 64 quẻ đó được.

Vậy lấy cái gì mà hành khí, có phải là 64 quẻ đó chăng? Và 64 quẻ là do 8 quẻ đặt chồng lên nhau thành (8x8)=64 quẻ.

Tám quẻ là do tứ-tượng sanh ra (4x2=8). Tứ-Tượng là do lưỡng nghi sanh ra (2x2=4). Lưỡng-Nghi chỉ là một khí THÁI-CỰC (O) lưu-hành. Thế thì Thái-Cực là căn bổn của muôn sự biến-hóa, là Tổ-Khí sanh ra muôn vật.

Có Thái-Cực này mới có âm dương.

Có âm dương mới có Tứ-tượng.

Có Tứ-tượng mới có Bát-quái (8 quẻ).

Có Bát-quái mới có 64 quái.

Nếu không có Thái-Cực thì âm dương ở đâu mà có, Tứ -tượng ở đâu nảy sanh, tám quẻ ở đâu thành hình? 64 quẻ ở đâu mà vận hành?.

Vua Phục-Hi vẽ họa-đồ lấy quẻ sanh ra quẻ có phải là chỗ huyền-diệu của số sanh trong Hà-Đồ không ?

Muôn hình tượng sanh ra từ trong chỗ biến-động. Có biến-động rồi mới có Kiết, Hung, Hối, Lẫn (hối-hận). Thiên-hạ vận-dụng hằng ngày theo đó, thế mà không rõ Thánh-nhơn đã tìm ra được cái bổn-nguyên (cái gốc ban đầu) Tiên-Thiên sanh ra các quẻ, nên cái nghĩa mầu-nhiệm nhờ đó mà phát lộ trọn hết cái “bổn lai chơn-tâm” của người rỗng tuếch, không mang theo một mảy lông, một sợi tơ nào. . Trống không đến cùng cực (o) hay cũng gọi là VÔ (không) tức là Thái-cực, ấy chỗ gọi “Vô danh thiên địa chi thủy”無名天地之始. Nghĩa là cái không tên kia là đầu mối của Trời Đất, nhưng cái “Hư-Vô Thái-Cực” này chẳng phải là một vật bất động mà là một vật sống, linh-động, trong đó có ẩn một điểm (o). Sanh cơ điểm này gọi là khí Tiên-Thiên chơn nhứt, là cội Tánh-mạng của con người, là nguồn của Tạo-Hóa, là gốc của sanh tử.

Trong hư vô có ngậm chứa (tiềm tàng chưa phát lộ) một khí chẳng có chẳng không (sự tư-tưởng hay ý-tưởng), chẳng phải HỮU (sắc) chẳng phải VÔ (không), rất là hoạt bát, lại cũng gọi là chơn không. Ấy là chỗ gọi “Hữu danh vạn vật chi mẫu” 有名萬物之母 nghĩa là cái có tên kia là mẹ sanh của muôn loài (Đó là lời nói phát sanh từ cái miệng).

Một khí Hư-vô đã có một điểm sanh cơ ở trong đó (tượng là vòng tròn có một điểm tâm) là Thái-Cực ngậm chứa một khí, tức là câu: “Nhứt tự hư-vô triệu chất” 一字虛無兆質. Một khí đã lộ chất thì không thể chẳng động chẳng tịnh. Động làm Dương, Tịnh làm Âm. Cái động cái tịnh nầy sanh ở trong một khí chánh là: “Lưỡng nghi nhân nhứt khai căn”. Đã có động có tịnh; động hết sức rồi tịnh, tịnh hết sức rồi động thì Tánh, Tình, Tinh, Thần có ngụ ở trong đó là “Lưỡng nghi sanh tứ-tượng”兩儀生四象.

CHÁNH là “tứ-tượng bất ly nhị thể” 四 象不離二體

Đã có tứ-tượng là Tánh, Tình, Tinh, Thần thì mỗi tượng đều có động tịnh, đó là tứ-tượng sanh Bát-Quái. Bát-Quái sanh khắc lẫn nhau mà “hộ vi tử-tôn” (cái này sanh cái kia, cái kia sanh cái khác nữa làm con cháu lẫn cho nhau).

Sáu mươi bốn quẻ bởi đó mà nảy sanh muôn hình vạn trạng, biến động cũng từ đó mà hóa ra, bởi vì:

Muôn hình gốc ở tám quẻ (gọi là bát-hồn).

Tám gốc ở Bốn (tượng)

Bốn tượng gốc ở hai (nghi)

Hai nghi gốc ở một (khí)

Một gốc ở HƯ (vô)

Hư-vô là mối đầu của (Khí chi thể). Một là mẹ sanh của khí (khí chi mẫu). Hư-vô là THỂ, một Khí là DỤNG. Thể Dụng như một, hai chia bốn hoặc tám hoặc muôn, đều vận-dụng ở trong một khí hư-vô thì có gì Kiết, hung, Hối, Lẫn được? . Bằng một khí hư-vô thì động tịnh chẳng hợp thì bốn khí chẳng còn điều-hòa, tám quẻ thổ loạn, muôn hình biến-động thì chừng đó mới có phân ra kiết, hung, hối, lẫn. Cái chỗ bí-mật nầy ai không biết nó mà thuận theo khí âm-dương (tức là sống theo lối nhị-nguyên) thì có sống có chết, muôn kiếp trầm-luân. Cho nên nói thiên hạ vận-dụng hằng ngày theo đó mà chẳng rõ: Ai biết nó mà nghịch với khí của dương thì: RA chết VÀO sống, lên ngay cõi Thánh. Cho nên nói Thánh-nhân tìm ra được caí bổn-nguyên (dụng nó hằng ngày mà chẳng rõ là nói chẳng hiểu thấu, rõ biết một khí hư-vô. Tìm ra được cái bổn nguyên là nói gìn-giữ được một khí Hư-vô là chân tâm mình đó vậy.

Trời đất sử khiến được vật có hình chớ không thể sử khiến vật không hình, sử khiến được kẻ có tình chớ không sử khiến kẻ vô tình. Sử khiến được kẻ hữu-tâm chớ không thể sử-khiến kẻ vô tâm.

Tìm ra được cái bổn-nguyên, đặt cái tâm mình ở hư-vô, dưỡng tâm ở một khí, tuy rằng có Lưỡng-nghi, Tứ-Tượng, 8 quẻ, 64 quẻ nhưng cả thảy đều vận dụng tại chỗ căn bổn là HƯ-VÔ, chẳng hề sanh ra bao giờ, muôn hình đều không, duy có một cái đó (o).

Thử hỏi cái đó là sự vật trong một Khí hư-vô thì làm sao kiết hung gia cho mình, hối lẫn gần bên mình được?

Cách sanh quẻ và sắp quẻ của Phục-Hi rất hay thay. Hay là ở chỗ tám quẻ sấp thành:

Kiền dương kiện lúc đầu tiên. Khôn âm thuận lúc cùng cuối. Khi âm dương mới sanh thì cả hai đều ở trung-uơng.

Kiền đầu tiên là Kiền dị-tri (dễ biết).

Khôn cùng cuối là Khôn giản-năng (gọn làm).

Đứng về một Trời Đất thì gọi là dị tri giản năng.

Theo đạo người mà gọi (thì gọi là) Lương-tri lương-năng hoàn-toàn là thiên-lý. Cho nên một động một tịnh đều lấy một điểm hư bạch (một vòng trắng 0). Ở chính giữa mà lập căn cơ. Ở chỗ không quẻ mà sanh quẻ, nếu con người tìm ra được

bổn-nguyên thì bỗng nhiên sẽ thấy cái bổn lai diện mục (chơn-tướng) mới là biết một khí hư-vô ngậm chứa sự vật.

Tột không mà ngậm chứa tột có.

Tột trống mà ngậm chứa tột đặc.

Không hình mà hay biến hóa, cho nên biến-hóa vô cùng.

Trong tâm ta tự nhiên có một ông vua Phục-Hi .Trong thân ta tự nhiên có Đạo sanh sanh chẳng ngớt. Thượng đức vô-vi tức là lý Hà-Đồ đã lộ ra trọn hết trên đó.