Trang 1 trong 5 12345 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 97

Ðề tài: Tôi muốn làm Linh mục

  1. #1

    Mặc định Tôi muốn làm Linh mục

    Mong các bạn cho mình xin ý kiến làm sao để trở thành một Linh mục? Có phải thi không và có bằng cấp gì mới thi được? Thi xong thì học mất bao lâu? Và làm linh mục phải có những phẩm chất gì? Có cần ơn gọi không? Làm sao để biết mình có ơn gọi? Làm sao để xin Chúa cho mình biết ơn gọi để mình biết con đường mình đi đúng hay sai? Mong các bạn giúp trả lời những câu hỏi trên! Xin cảm ơn nhiều!

  2. #2

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoi tho Xem Bài Gởi
    Mong các bạn cho mình xin ý kiến làm sao để trở thành một Linh mục? Có phải thi không và có bằng cấp gì mới thi được? Thi xong thì học mất bao lâu? Và làm linh mục phải có những phẩm chất gì? Có cần ơn gọi không? Làm sao để biết mình có ơn gọi? Làm sao để xin Chúa cho mình biết ơn gọi để mình biết con đường mình đi đúng hay sai? Mong các bạn giúp trả lời những câu hỏi trên! Xin cảm ơn nhiều!
    Bạn tới gặp cha xứ thì sẽ đc hướng dẫn cụ thể, trong cơ quan mình có anh bạn học đại học ra đi làm mấy năm giờ tu trong dòng Chúa cứu thế ở đường Kỳ Đồng Q.3 đấy, hay bạn tới đó tham vấn đi.

    Chúc bạn toại nguyện nhé.
    Tôi đi tìm tôi giữa dòng đời
    Ngược đường ngược nắng, chẳng thèm trôi
    Thê lương gió bão đời tăm tối
    Ước làm thông giữa trời thôi :icon_rolleyes:

  3. #3

    Talking DẤU CHỈ ƠN GỌI

    DẤU CHỈ ƠN GỌI

    LM. Hồng Phúc, C.Ss.R

    Làm sao biết được con đường Chúa muốn cho chúng ta đi, địa vị chúng ta sống? Làm sao biết mình có ơn Kêu Gọi? Ðó là điều băn khoăn của các bạn.

    Trước hết, nhiều khi Chúa kêu gọi một cách trực tiếp, rõ ràng bằng những DẤU bề ngoài.

    "Hỡi Abraham, hãy bỏ quê hương bà con thân thuộc, bỏ nhà Cha ngươi để đến xứ mà Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi trở nên tổ phụ của một dân tộc" (Sáng Thế 12,1). Ðó là ơn gọi của tổ phụ Do Thái, ông Abraham.

    Chúa đến bên cạnh Mathêu đang ngồi bên két bạc. "Hãy theo Ta" (Mt. 9,9). Ðó là ơn gọi của thánh Mathêu Tông Ðồ.

    Nhiều khi có ơn gọi rõ ràng nhưng bị chống đối hoặc chấp nhận một cách miễn cưỡng trong lo sợ. Maisen nói cùng Ðức Giavê: "Tôi là ai mà dám đi gặp vua Pharaon... Xin lỗi Ngài tôi không có tài ăn nói. Miệng tôi thô sơ, lưỡi tôi nặng nề" (XH. 4,10). Lời của Giavê phán cùng Gionas: "Hãy đứng lên đi về thành Ninivê và loan báo cho họ biết tội ác của họ đã kêu lên đến Ta. Gionas lên đường nhưng lại chạy trốn sang Tarsis, xa Ðức Giavê" (Jon.1,1-2).

    Trong lịch sử Giáo Hội, thánh Ephrem được gọi chịu chức Linh mục hoảng sợ quá đã giả vờ người điên. Thánh Athanasio và Cyprianô được gọi chịu chức thánh. hoảng quá đã chạy trốn.

    Nhiều khi tiếng Chúa vọng lên một nơi và bằng phương tiện bất ngờ nhất. Cha Jer. Planus kể chuyện một nhà quý phái thích làm le với các cô các bà. Bị con ngựa trở chứng hất té nhào vào đống phân. Bị các bà các cô cười cho một trận... Xấu hổ chán đời... đi tu! Cha Giuse Lupo, Giám đốc ơn gọi của Dòng Thiên Chúa Ba Ngôi tại Hoa Kỳ, năm 1971 có sáng kiến đăng một quảng cáo nhỏ về ơn kêu gọi trong tạp chí mà nhiều thanh niên hay đọc, tạp chí Playboy. Kết quả bất ngờ: nhờ quảng cáo ấy mà 27 chàng thanh niên đã đến tìm hiểu Tập Viện và Ðại Chủng Viện của Dòng tải Garrison, tiểu bang Maryland.

    Phần đông các trường hợp Chúa không hiện hình ra hay bày tỏ rõ ràng, Ngài thường dùng những cái mà các nhà Thần học quen gọi là DẤU ƠN GỌI để tỏ cho chúng ta biết thánh ý của Ngài muốn cho chúng ta đi về đâu.



    A. DẤU HƯỚNG VỀ CUỘC SỐNG ÐÔI BẠN

    Phần đông các bạn thanh niên thiếu nữ sẽ hướng về cuộc sống đôi bạn. Hỏi rằng có những DẤU nào rõ ràng khả dĩ có thể kết luận về việc ấy không? Khó quả quyết, nhưng có những Dấu sau đây có thể dùng để định hướng:

    1. Thích cuộc sống đôi bạn. Không bao giờ nghĩ đến việc đi tu hay ở độc thân để phục vụ.

    2. Hướng chiều về những thú vui nhục dục trong tư tưởng, lời nói, việc làm.

    3. Hay lỗi phạm về đức trong sạch.

    4. Không có một ý chí mạnh mẽ.

    5. Thích một đời sống dễ dãi, không thích chịu khó.

    6. Ðời sống đạo đức tầm thường, nhiều khi giữ đạo vì thói quen, vì liên hệ gia đình hơn là vì xác tín.

    Ðó là ít dấu chỉ. Nói như vậy không phải là tất cả những ai đi kết bạn đều có những nhược điểm ấy. Nhưng đó là ít điểm hướng dẫn khi phải đặt vấn đề trong việc tìm hiểu ơn gọi.



    B. DẤU HƯỚNG VỀ CUỘC SỐNG ÐỘC THÂN

    Có những dấu chỉ tóm lược như sau:

    1. Không có đủ điều kiện để đi tu mà cũng thiếu điều kiện để lập gia đình, vì thể xác, bệnh tật, tính tình hoặc chính mình không thích tu mà cũng không thích lập gia đình.

    2. Muốn hiến dâng cuộc đời để phục vụ một lý tưởng, đeo đuổi một chí hướng.

    Muốn sống đời độc thân ấy phải có 3 điều kiện sau đây:

    - Tinh thần cương quyết

    - Một đời sống đạo đức vững chắc

    - Một nghề nghiệp bảo đảm cuộc sống tự lập, không phải dựa vào người khác. Có một chổ ở tương đối bảo đảm an ninh nếu mình là phụ nữ.



    C. DẤU ƠN GỌI TU TRÌ

    (Signes Probateurs de Vocation)

    Cho đến nay các nhà Thần Học cũng không hiểu nổi bản chất của ơn gọi và Giáo Hội cũng không tuyên bố gì về bản chất ấy. Tuy nhiên trong thực tế, Giáo Hội đã theo đường hướng sau đây:

    Ðầu thế kỷ 20 này đã có một cuộc tranh luận quan trọng về Ơn Gọi làm Linh mục. Ðức Giáo Hoàng Piô thứ X đã thiết lập một Ủy Ban gồm các Hồng Y để học hỏi về vấn đề ấy. Ủy Ban đã đúc kết thành một quyết nghị đệ lên Ðức Thánh Cha ngày 20.6.1912 và được phi chuan ngày 26.6.1912. Quyết nghị ấy đã trở nên khuôn vàng thước ngọc để định đoạt về Ơn Gọi vào bậc tu trì. Sau này, quyết nghị ấy cũng được áp dụng trong Giáo Luật 1917 ở điều khoản 538 và trong bộ Giáo Luật mới 1983 ở điều khoản 642.

    Dựa trên quyết nghị ấy, về phần tiêu cực, người muốn đi tu phải là người không vướng mắc những ngăn trở khiến cho việc gia nhập Dòng Tu trở nên bất thành hoặc bất hợp pháp. Ví dụ: Vào Tập Viện khi chưa đủ 17 tuổi hoặc còn vợ, chồng hoặc từ Dòng tu khác qua mà không có phép chính thức theo Giáo Luật (GL.643)

    Nhưng quan trọng hơn cả là phần tích cực gồm có những cái mà nhà Tu Ðức và Thần Học gọi là các DẤU MINH CHỨNG ƠN GỌI (signes probateurs de Vocation). Các Dấu nào?

    1. Trước hết phải xét đến Thiện Chí hay ý ngay lành của thỉnh sinh. Muốn tận hiến cho Chúa trước tiên phải ước ao, phai muốn đi Tu. Không phải chỉ là một ước muốn mơ hồ, mà là một ý muốn cương quyết mạnh mẽ và lâu bền đầy ý thức. Ðành rằng có thể có những hối tiếc, những cám dỗ như truyện bà thánh Chantal, nhưng đương sự vẫn cố gắng và cương quyết vượt qua. Ði theo Chúa không phải vì vụ lợi vì danh vọng mà vì muốn nên trọn lành. Chúa phán cùng người thanh niên: nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết tài sản...... Ðó là dấu căn bản thứ nhất. Nhưng thiện chí thôi không đủ. Cần có những khả năng nữa. Khả Năng là gì? Là những đức tính tự nhiên và siêu nhiên khiến cho người thỉnh sinh có hy vọng vuông tròn với cuộc sống mình chọn. Ði tu là tu cả con người. Và ơn thánh không cản trở hay thay thế bản chất tự nhiên mà chỉ siêu hóa và thánh hóa. Vì vậy phải chú trọng đến các đặc tính tự nhiên và siêu nhiên. Bà thánh Jeanne de Chantal nói với chị em trong Dòng rằng: Hãy chú trọng đến phương diện tự nhiên của các thiếu nữ được nhận vào Dòng. Vì bản chất tự nhiên không chết và với thời gian có thể vùng lên. Ít kẻ nhận ơn để kềm chế bản năng xấu tự nhiên. Ít khi một thiếu nữ có bản tính tốt và có trí khôn mà lại hư mất.

    2. Có 5 Khả Năng thường được cân nhắc khi thẩm xét một ơn kêu gọi vào Dòng.



    1- GIA ÐÌNH (Souche)

    Thật ra ngày nay Giáo Hội bãi bỏ ngăn trở về gia đình trong việc tu trì như đối với con ngoại hôn. Nhưng thường phải thẩm xét về thế giá của gia đình. Thế giá đây không phải là vấn đề giàu nghèo, sang hèn, mà chú tâm đến sự liêm chính, đức tính làm ăn cần cù, nhất là lòng đạo đức của người làm cha mẹ. Cây lành thường sinh trái tốt. Kinh nghiệm cho thấy những ơn gọi thường phát xuất từ vùng quê, trong những gia đình đạo đức làm ăn cần cù tiết kiệm.



    2- SỨC KHỎE VÀ TÍNH TÌNH (Santé)

    Không cần phải là nhà lực sĩ mới đi tu được. Nhưng người Thỉnh Sinh phải có một sức khỏe vừa phải, khả dĩ vuông tròn bổn phận mai sau. Sức khỏe ảnh hưởng đến tính tình, học vấn và nhân đức. Thể xác yếu nhược thường làm cho ý chí cũng bị ảnh hưởng.

    Về tính tình, muốn đi tu phải tập cho có một tính khí QUÂN BÌNH. Không cực đoan. Không nhu nhược mà cũng không ngang ngược. Quá yểu điệu có thể bị gẫy dưới gánh nặng, mà quá ương ngạnh cũng có thể bể gẫy và đạp đổ, làm một nhà cách mạng dễ hơn là một nhà tu. Phải đề phòng tính đa sầu đa cảm, sống với gió và với trăng. Phải tập bỏ tính hoài nghi và thiếu cởi mở. Ði tu là sống và làm việc chung, không được cô đơn như một hòn đảo. Họ sẽ đau khổ và làm cho người khác cũng đau khổ trong đời sống chung.



    3- HỌC VẤN (Science)

    Muốn đi tu phải có một nền học vấn căn bản. Bên Hoa Kỳ này thường là hết bậc Trung Học. Cách riêng phải có một trí PHÁN ÐOÁN vững chắc. Chạm "mát" không đi tu được. Trí khôn cởi mở có thể hiểu biết về đời sống tu và đại cương về khoa tu đức.



    4- LÒNG ÐẠO ÐỨC (Sainteté)

    Lòng đạo đức gồm 3 phương diện sau đây cần phải được xét đến:

    a. ÐỜI SỐNG NỘI TÂM

    - Thích cầu nguyện, sống kết hợp với Chúa, dựa trên một nhu cầu sống hơn là trên tình cảm. Tuy nhiên đây là một sự cố gắng cả một đời, không thể đòi hỏi có ngay từ đầu được.

    b. ÐỨC TRONG SẠCH

    - Người tu sĩ sẽ khấn đức khiết trinh, cần có sự cố gắng để chế ngự tình cảm từ ban đầu. Lỗi phạm sơ qua và đã ăn năn thống hối, không đặt thành vấn đề. Nhưng khi đã thành tập quán, sa đi ngã lại nhiều lần, không nên đi vào đời tu trì.

    c. LÒNG QUẢNG ÐẠI HY SINH

    - Hay thương giúp kẻ khác là đức tính cần thiết. Người ích kỷ chỉ biết có mình thôi không đi tu được.



    5- ÐẶC TÍNH XÃ HỘI (Socialbilité)

    Người tu sĩ phải biết sống chung. Ðời tu đòi hỏi đặc tính xã hội, hòa mình với kẻ khác. Vì thế phải tập cho có một tính tình dễ dãi, không nên là thánh giá cho kẻ khác nhưng đem niềm vui cho những người chung quanh.



    ƠN GỌI THÀNH HÌNH VỚI SỰ CHẤP THUẬN CỦA BỀ TRÊN

    Xưa nay có nhiều tiếng gọi vọng lên mà không có sự đáp ứng. Chúa Giêsu gặp một thanh niên, người nói với anh: "Nếu anh muốn nên trọn lành thì hãy đi bán những gì anh đang có. Bố thí cho người nghèo khó và anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy trở lại theo Ta. Nghe lời ấy, người thanh niên bỏ đi buồn rầu, vì anh có nhiều của cải" (Mt.19,21-22).

    Nhiều khi tiếng Chúa cũng vọng lên rồi mất tăm trong sa mạc, không có đáp ứng hay bị phản bội. Staline là một cựu chủng sinh. Nhà cách mạng khát máu Robespierre lúc thiếu thời đã được Cha Linh Hướng bảo: "Con có ơn gọi làm Linh mục".

    Vậy điều cần thiết là tìm hiểu ơn gọi rồi đem hết thiện chí đáp ứng. Nhưng thiện chí cũng như những khả năng nói trên mà mỗi Thỉnh Sinh cố tập cho có, nói được chỉ là chất liệu của ơn gọi.

    Muốn thành Ơn Gọi thật thì phải có sự chấp thuận của Bề trên. Trong Giáo Hội, Chúa điều khiển các linh hồn qua các Ðấng Bề Trên.

    Trước một Ơn Gọi, cá nhân mỗi đương sự phải đi tìm hiểu học hỏi. Bề trên cũng cân nhắc suy nghĩ và quyết định. Sự chấp thuận của Bề trên, Giáo Hội làm cho Ơn Gọi thành hình và hoàn hảo. Người Thỉnh Sinh có thể nói: Tôi có Ơn Gọi và khi được Khấn Dòng thì trở nên Tu Sĩ thật của Chúa và Giáo Hội.



    KẾT LUẬN

    Mỗi người trong chúng ta cần phải tìm cho được con đường mà Chúa muốn cho mình đi. Hạnh phúc cả cuộc đời tùy thuộc sự việc ấy. Vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện, hãy tìm hiểu, hãy xin ơn soi sáng.

    Cha mẹ thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, ông Martin và bà Guerine đã đi tìm hiểu đời sống tu trì. Nhưng Chúa không muốn cho họ đi con đường ấy và họ đã bước vào cuộc sống gia đình và nên thánh. Phải chăng Chúa cũng muốn cho các bạn đi vào cuộc sống hôn nhân ấy? Hai ông bà có 5 người con Têrêxa là con út, đã vào Dòng Kín. Con đường ấy, biết đâu cũng là con đường của một số trong các bạn?

    Chúng tôi xin kết luận với lời tâm huyết của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI:

    "Chúng tôi kêu gọi cách riêng các bạn trẻ mà chúng tôi rất ưu ái. Các bạn chưa có một quyết định tối hậu nào để các bạn tỏ ra hào hiệp hy sinh. Có rất nhiều tiếng gọi. Có rất nhiều ngã đường đang mở ra trước mắt các bạn, kêu mời bạn tiến lên để phục vụ dân Chúa và Giáo Hội. Phải chăng tiếng gọi này sẽ không có đáp ứng? Phải chăng con đường ấy sẽ không có người đi? Các bạn đầy rộng lượng hy sinh. Hãy hy sinh cho lý tưởng ấy. Vì sao bạn dừng chân và chờ đợi? Trong khi đó thế giới này đang thay đổi mau lẹ. Từng đoàn người mới xuất hiện trên trái đất. Tin Mừng phải được rao giảng cho mọi người. Cho người nghèo khó hôm qua cũng như ngày nay và ngày mai. Luôn luôn có những người đói khát, lao tù, những người bệnh tật trong thể xác và tâm hồn.

    Họ đang chờ đợi bạn, Trong họ, Chúa Giêsu đang chờ đợi bạn. Có việc cho mọi người! Có chỗ đang đón bạn"

    (Trích lời Hiệu Triệu của Ðức Phaolô VI nhân ngày Thiên Triệu 13.5.1973).

  4. #4

    Talking Chia sẻ với em, người muốn đi tu làm linh mục

    Em thân mến, Anh viết những lời này để chia sẻ với em, bởi vì những lần “chát” qua internet em muốn anh chia sẻ với em về chuyện: muốn làm linh mục thì phải có những điều kiện nào, và phải như thế nào để trở thành một linh mục tốt lành ?

    Anh thì mới chịu chức linh mục chỉ có 5 năm 1 tháng và 11 ngày mà thôi, chưa có kinh nghiệm nhiều cho bằng các linh mục đàn anh khác, tuy nhiên trong phạm vi có thể, anh xin chia sẻ với em về những cảm nghiệm thực tế của anh khi làm linh mục, để em có thể cân nhắc mà chọn làm linh mục hay đi hướng khác…

    Linh mục phải là người có nhân bản

    Em có biết không, người ta nhìn một linh mục khác với nhìn một thanh niên đàn ông bình thường, tức là người ta nhìn thấy cả một quyển sách dạy nhân bản nơi người linh mục, nhân bản chính là những “phép tắc” căn bản dùng để đối xử giữa con người với nhau cho đúng tình người, mà linh mục chính là những con người như thế, em muốn theo đuổi ơn gọi linh mục? Đó là một điều lành thánh và đáng được Thiên Chúa chúc phúc, cũng như được mọi người cảm phục, nhưng trước khi làm linh mục, thì người linh mục là một con người như những thanh niên khác, nhưng hạnh kiểm phải trổi vượt trên họ, hạnh kiểm đây chính là đời sống có nhân bản.

    1. Lòng biết ơn

    Biết ơn tức là hiểu sâu sắc và ghi nhớ công ơn của người khác đối với mình (1) , mà người luôn ghi nhớ công ơn của người khác trước tiên là linh mục.
    Thiên chức linh mục chính là Thiên Chúa ban cho người nào thì tùy ý Ngài, Ngài chọn người này người nọ, nhưng không phải vì họ thánh thiện hay đạo đức hoặc học vấn trổi vượt hơn người khác, mà là vì tình yêu đặc biệt Ngài dành cho họ, Ngài chọn họ qua Giáo Hội và qua Hội Dòng của họ hoặc qua giám mục địa phận, và qua giám mục hoặc Hội Dòng mà họ mới được đứng vào hàng ngũ công hầu khanh tướng của Thiên Chúa như hôm nay, cho nên việc trước tiên là những người được chọn ấy – linh mục – biết ơn Thiên Chúa và cám ơn Ngài, nhưng Thiên Chúa không muốn họ làm như thế đâu, Ngài muốn họ phải cám ơn trước hết chính là địa phận của họ hoặc Hội Dòng của họ, nơi cưu mang họ, nơi mà nếu không có bề trên tổng quyền, không có cha viện trưởng hoặc là tập sư của họ cũng như ban cố vấn hội dòng, nếu như không có sự yêu thương dạy dỗ của các cha giáo trong chủng viện và của toàn ban giám đốc, nếu không có sự yêu thương của mọi người thì họ sẽ không được như ngày hôm nay.
    Biết ơn mọi người, vì ngoài chủng viện hoặc hội dòng ra, thì còn biết bao nhiêu người mà người linh mục phải biết ơn.

    Em biết không, anh đã tận mắt nhìn thấy một vài linh mục rất trẻ đã trả ơn cho bề trên tổng quyền của mình, cho hội dòng của mình bằng những câu xỉ vả nhục mạ ngài công khai trước mặt đại hội. Những linh mục trẻ này đã trả ơn Hội Dòng bằng những thái độ xúc phạm đến bề trên tổng quyền mà họ và các thành viên khác trong Hội Dòng gọi là Gia Trưởng, tức là phụ thân của mình, chính hành động chỉ tay vào mặt bề trên tổng quyền mà nói “ông là người nói dối”, chính hành động họ sừng sộ chỉ tay vào bề trên tổng quyền mà nói “ông là người vô tư cách” và những thái độ khác của họ, chắc chắn làm tổn thương quá lớn đến vị bề trên tổng quyền của mình, và làm tổn thương đến cả các thành viên trong Hội Dòng, bởi vì không một đứa con nào lại chỉ tay vào mặt cha mẹ mình mà hét lên “ông là người vô tư cách”. Hành động này, chính họ hiểu rõ hơn bất cứ người nào khác, vì họ là linh mục, là thầy dạy, giờ đây họ dùng những chữ như người vô học, như kẻ đầu đường xó chợ để nhục mạ bề trên tổng quyền của mình.

    Cái nhân bản nó nằm ở đó, chính là sự biết ơn.

    Em thử tưởng tượng ra hình ảnh này xem sao: giữa đại hội một thành viên linh mục trẻ vừa nói nặng lời vừa lấy tay chỉ vào bề trên tổng quyền của mình mà nói những lời vô lễ, anh nghĩ rằng em tưởng tượng cũng không bằng anh thấy đâu. Đó là sự trả ơn của những con người vô ơn, của những người ăn cháo đái bát, của những người vô ơn bội nghĩa, mà sau này nếu em chọn con đường làm linh mục thì phải luôn tâm niệm rằng: linh mục là thầy dạy mọi người về đàng nhân đức, chứ không dạy người ta chửi bới nhau; linh mục là người dạy người khác con đường đi lên Nước Trời, chứ không chỉ cho người khác con đường đi xuống hỏa ngục.

    Nếu em không tâm niệm như thế thì khoan làm linh mục đã, bởi vì thời nay người ta cần những linh mục thích cầu nguyện hơn linh mục giỏi viết sách, người ta cần đến những linh mục biết thông cảm hơn những linh mục thông thái mà kiêu ngạo thô lỗ.
    Sự biết ơn này càng rõ ràng và cụ thể hơn khi em làm linh mục trong một hội dòng, em thử nghĩ mà xem: từ khi em được tuyển vào các giai đoạn dự tu, thỉnh sinh, tập sinh, khấn tạm và khấn trọn đời. Em có biết là có bao nhiêu tinh thần và tiền bạc của hội dòng bỏ ra để đùm bọc nuôi dưỡng em cho đến khi em làm linh mục ? Biết bao nhiêu là mồ hôi và công sức của các bề trên và của mỗi thành viên trong hội dòng đổ ra ? Em có biết, có khi cha bề trên hoặc cha viện trưởng chịu nhiều lời phê bình không tốt để cho các thành viên được mọi sự tốt đẹp…?

    Vậy mà em có biết, chính anh đã tận mắt thấy những linh mục rất trẻ tuổi đời và tuổi tu, họ chỉ vừa khấn trọn đời mới hơn hai năm, và chịu chức linh mục cũng chừng đó ngày tháng, chưa đủ lông đủ cánh bay nhảy, họ đã vung tay xói xỉa nhục mạ bề trên của mình, mà anh thấy tuổi đời của ngài cũng đáng là ông nội của những linh mục ấy, với tuổi linh mục thì ngài chịu chức khi họ chưa sinh ra đời, và chính ngài –anh có thể nói- đã sinh những linh mục ấy trong Hội Dòng này, vậy mà chỉ vì một chút kiêu ngạo, và quá coi mình là trịch thượng mà họ nhục mạ ngài trước mặt các thành viên người khác. Anh không hiểu khi đứng trên tòa giảng thì các linh mục này sẽ giảng gì cho giáo dân? Khi họ giảng dạy giáo dân hãy thảo kính cha mẹ thì các linh mục trẻ này có nghĩ lại mình đã nhục mạ bề trên mình không? Khi họ dạy giáo dân phải kính trên nhường dưới thì họ có nghĩ lại là mình đã xử sự như một người xa lạ với bề trên của mình không ?

    “Nhân vô thập toàn”, bề trên cũng vô thập toàn, mọi người đều vô thập toàn, nhưng không phải vì cái vô thập toàn ấy mà chúng ta đối xử với nhau như kẻ thù, vô thập toàn không có nghĩa là con cái xấc láo với cha mẹ, coi cha mẹ như kẻ thù để rồi nhục mạ họ.

    Em biết không,

    Thiên chức linh mục cao quý vô cùng, chính các thánh, các nhà thần hoc đều nhìn nhận điều ấy, và ngay cả các thiên thần cũng cúi đầu nhường bước cho linh mục. Càng suy tư càng thấy con người quả là bất xứng đón nhận nó, và vì nó quá cao quý nên nó cũng sẽ trở thành án phạt nặng nề cho những linh mục sống không xứng đáng với chức vụ linh mục mà bản thân mình lãnh nhận. Vì thế, việc đề cử một ứng sinh lên chức linh mục thật quan trọng, nếu em làm linh mục giáo phận, mà giáo dân gọi là linh mục triều, thì ngoài việc các cha giáo coi sóc dạy dỗ em ra, thì còn có cha linh hướng và toàn ban giám đốc sẽ quyết định em tiến chức linh mục, nếu em là người của một hội dòng nào đó, thì người quyết định cuối cùng chính là bề trên tổng quyền đó, chính ngài có toàn quyền tất cả trong hội dòng theo giáo luật.
    Phải biết ơn những người đã trực tiếp tuyển chọn mình vào hàng ngũ linh mục, đó là giám mục địa phận và bề trên của em và những linh mục khác nữa, nếu em biết mình có thái độ xấc láo, hổn xược thì anh khuyên em đừng theo đuổi ơn gọi làm linh mục làm gì, vì không trước thì sau em cũng sẽ làm bỉ mặt bề trên của em, như anh đã từng thấy dù các linh mục đó đã được các anh em nhắc nhở.

    2. Tiết chế

    Em thử nhìn lại mình xem sao, em thích gì thì em làm nấy vì em không phải là linh mục, cũng không phải là một tu sĩ, đôi lúc cái em thích là điều không tốt cho bản thân, như em thích uống rượu là uống, thích chơi bời thì chơi, thích hút thuốc là hút.v.v… em khỏi phải cần tiết chế gì cả, nhất là trong xã hội hưởng thụ như hiện nay.

    Nhưng nếu em muốn đi tu trở thành một linh mục – đương nhiên là một linh mục thánh thiện – thì em cần phải tập cho mình tính tiết chế ngay từ bây giờ, bằng không khi em đã làm linh mục rồi, thì em sẽ khó mà tiết chế mình được, vì lúc đó em có một ý tưởng rất kỳ quái là: đỗ linh mục rồi, sợ quái gì nữa. Vâng, làm linh mục rồi thì không sợ gì nữa, không sợ bị đánh rớt bài thi, không sợ người khác dọa nạt, không sợ đói, không sợ thiếu tiền tiêu.v.v…nhưng điều mà người linh mục phải sợ chính là sợ đánh mất phẩm giá linh mục nơi mình, do đó mà anh muốn nói với em rằng, tiết chế là điều làm cho người linh mục thảnh thơi hơn, quảng đại hơn trong khi thi hành bổn phận mục tử của mình.

    a. Tiết chế lời nói

    Sách Cách Ngôn dạy rằng:
    “Kẻ ngu si không kìm được giận dữ,
    Người khôn khéo biết nén nhục nuốt sầu” (Cn 12, 16).
    Em biết không, anh vẫn luôn xác tín rằng, khi một thanh niên chịu chức linh mục, hoặc một linh mục chịu chức giám mục thì Chúa Thánh Thần luôn làm cho các vị đó được trở thành người khôn ngoan, ngoại trừ những vị đó cảm thấy mình không cần đến sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần nữa, sự khôn ngoan ấy được bộc lộ rõ nhất là trong lời nói của các ngài, tức là các ngài biết tiết chế lời nói, biết lúc nào nên nói và lúc nào không nên nói.

    Có nhiều người mắc nạn cũng vì không tiết chế được lời nói của mình, có những người phải ôm hận vì bản thân không tiết chế được lời nói, và có những người được người khác vị nể cũng do lời nói của mình.
    Làm linh mục thì càng phải tiết chế lời nói nhiều hơn, nói khi cần nói và nín thinh khi không cần thiết phải nói. Anh đã thấy một vài linh mục trẻ nói cho sướng miệng, nói cách giận dữ mà không tiết chế lời nói của mình, kết quả là họ đã xúc phạm đến nhân phẩm của người khác và hạ uy tín của mình trước người khác.

    Tiết chế lời nói khi tranh luận,
    Tiết chế lời nói khi hội họp,
    Tiết chế lời nói khi muốn phê bình người khác,
    Tiết chế lời nói khi phát biểu…

    Càng nói nhiều thì càng bày ra những khuyết điểm, càng nói nhiều thì càng trở thành người có tâm hồn trống rỗng, và có khi trở thành mục đích gièm pha của giáo dân hoặc cho những người có thành kiến không tốt với các linh mục.
    Em muốn làm linh mục, thì ngay từ bây giờ phải tập cách tiết chế lời nói, mà cách tập hay nhất là cầu nguyện trước khi nói. Bởi vì như em biết đó, có những lần em “chát” và tâm sự với anh rằng, cha này khi giảng dạy không có ơn Chúa Thánh Thần vì ngài nói theo thói quen và chê bai phê bình giáo dân, cha nọ khi nói chuyện thì không chú ý đến lời nói vì ngài nói mà không biết người đối diện muốn nghe hay không ? Anh cám ơn Chúa vì em đã biết nhận ra đâu là lời giảng dạy của Chúa Thánh Thần nơi người linh mục, đó là lời giảng có tiết chế và chứa đựng giáo huấn yêu thương của Phúc Âm, và khi đã nhận ra được thế nào là tiết chế lời nói thì anh tin chắc rằng, em sẽ tập được cách tiết chế lời nói của mình cho thiên chức linh mục sau này của em.

    b. Tiết chế nóng giận
    Em biết không,

    Không phải ai cũng có thể tiết chế sự giận dữ tính nóng của mình, chính anh đây cũng có lúc la toáng lên khi giáo dân làm trái ý mình, nhất là trong những thánh lễ trọng có nhiều nghi thức, nhưng sau đó thấy mình nóng nảy cách vô lý nên anh hứa sẽ tiết chế sự nóng nảy vô lý của mình. Bởi vì giận dữ và nóng nảy thì không giải quyết được gì cả, đó là điều mà tất cả mọi người đều biết, nhưng vì tính tình nó dính liền với cái tôi, nên dù biết mà cũng rất khó mà không chế được, do đó mà các nhà tu đức khuyên bảo chúng ta phải cầu nguyện và học hỏi gương của Chúa Giê-su và Mẹ Maria cũng như của các thánh nam nữ.

    Nóng tính giận dữ là bởi coi mình quá cao trọng hơn người khác, thường có ý tưởng mình giỏi hơn người khác và muốn mọi ý kiến, mọi lời nói của mình cần được người khác nghe và thi hành, cho nên những linh mục có tính giận dữ thì giáo dân chỉ đứng xa xa mà nhìn, và không muốn cộng tác với ngài trong mọi việc ở nhà xứ.

    Làm linh mục là để bày tỏ sự hiền lành và khiêm tốn của Chúa Giê-su giữa mọi người, chứ không phải bày tỏ một quyền uy của một chủ nhân ông giữa một cộng đoàn dân Thiên Chúa ngay trong giáo xứ của mình, do đó, nếu em muốn trở thành một linh mục của Chúa Giê-su với tất cả lòng yêu mến Ngài và Hội Thánh của Ngài, thì em cần tiết chế tính nóng giận của mình ngay trong cuộc sống ngay từ bây giờ, bởi vì chính mắt anh đã thấy sự giận dữ nóng nảy của một vài linh mục khi không bằng lòng một điều gì đó, các vị ấy cũng trợn mắt xỉa xói và nói những lời cộc cằn như những thanh niên ngoài đời khác, họ quên mất mình là một linh mục của Chúa Giê-su, họ to tiếng dùng những lời lẽ sâu hiểm để chơi nhau, chính những lúc này anh nghiệm ra được rằng nếu không có cầu nguyện và thực tập nhân đức, thì dù là linh mục họ vẫn như những người khác mà thôi.

    Em thử nghiệm lại cuộc sống của em xem sao, có những lúc em kiềm chế được tính nóng nảy thì em thấy đời sao mà đẹp và vui vẻ thế, và những lúc em không kiềm chế được tính nóng mà nói to tiếng nặng lời với người khác, thì dù em có nhận lỗi hoặc em có chủ động bắt tay làm hòa chăng nữa, thì tự sâu thẳm của lương tâm em vẫn còn một chút gì đó rất áy náy ân hận. Đó là kinh nghiệm của anh, và anh muốn nói với em là phải tập tiết chế tính khí nóng giận của mình, nếu em muốn mình trở thành một linh mục tương lai của Chúa Giê-su và của Giáo Hội.

    Con người thời nay rất nhạy bén với hành vi ngôn ngữ của các linh mục, họ nhạy bén là vì càng ngày họ càng hiểu rõ giáo lý của Giáo Hội hơn, họ nhạy bén là vì họ không còn giữ đạo theo kiểu pháo đài nữa, nhưng là họ sống đạo giữa đời theo kiểu men trong bột, và họ chỉ mong muốn các linh mục của Giáo Hội sống thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giê-su, thế là họ an tâm phó thác linh hồn cho các vị mục tử ấy.

    c. Tiết chế ăn uống

    Em có biết không,

    Các nhà tu đức học đều rất chú trọng đến việc tiết chế ăn uống, nghĩa là họ đã nghiên cứu sâu xa về việc ăn uống thoải mái và có nhiều chất dinh dưỡng rất có hại đến đời sống tu đức của các linh mục tu sĩ, bởi vì khi ăn uống no say thì có một trạng thái phát sinh theo là cảm thấy mệt và làm biếng, sau đó thì muốn nghỉ ngơi, em thử nghĩ xem, nếu một ngày chúng ta ăn ba bữa sáng trưa chiều tối với đầy đủ các thứ dinh dưỡng như bia rượu, thì thân xác của chúng ta ngày càng béo phì ra và trở nên mệt nhọc nặng nề không ưa thích hoạt động gì cả…
    Tiết chế ăn uống chính là điều chỉnh lại bộ máy sinh học của chính mình, nhất là các linh mục đang làm việc mục vụ ở giáo xứ, các ngài được tự do ăn uống mà không một ai cấm cản hoặc gò bó, cho nên không lạ gì có nhiều linh mục xem ra đẹp mã tốt tướng nhưng thân mang đầy bệnh hoạn.
    Tiết chế ăn uống giúp cho chúng ta được rất nhiều việc, mà ý nghĩa lớn lao nhất trong việc tiết chế ăn uống chính là biết cảm nghiệm sự thiếu thốn với những người nghèo khó.

    Việc ăn uống cũng nói lên tính cách của người linh mục, có linh mục thích ăn ngon mặc đẹp, có linh mục thích ăn những thức ăn do tự tay mình nấu để hợp với khẩu vị mà mình ưa thích, lại có những linh mục thì rất chú trọng đến việc ăn uống và coi việc ăn uống đầy đủ như là một công việc chính trong ngày của mình. Anh thấy có nhiều linh mục trẻ, có lẽ sống trong môi trường – trước khi đi tu – thiếu thốn và ăn uống bị hạn chế, nên khi làm linh mục thì tha hồ ăn uống mà không tiết chế, lại còn chê bai này nọ khi thức ăn không ngon và ăn uống rất lãng phí.

    Tiết chế không có nghĩa là không ăn uống gì cả, hoặc mỗi ngày chỉ ăn cháo mà sống, nhưng tiết chế chính là tự mình kiềm chế những sở thích ăn cho thật ngon mặc cho thật đẹp không phù hợp với nhân cách của một linh mục.

    Tiết chế ăn uống không những làm cho thân xác được khỏe mạnh, mà còn làm cho tâm hồn được nhẹ nhàng vì không phải chú trọng quá đến việc ăn ngon mặc đẹp. Em phải nhận ra được điều này trước khi chuẩn bị tập làm linh mục, bởi vì làm một linh mục truyền giáo thì không làm việc theo giờ hành chánh nhưng làm việc theo nhu cầu của giáo dân, có nghĩa là giáo dân cần xức dầu bệnh nhân hoặc muốn xưng tội lúc nào thì đi lúc ấy, nếu em hưởng thụ ăn uống no say thì khó mà nhanh nhẹn vui vẻ khi giáo dân đến gặp cha sở buổi trưa hoặc những giờ khác, em hãy cố gắng tập tự mình tiết chế trong cách ăn uống nếu em muốn trở thành một linh mục truyền giáo vui vẻ, khỏe mạnh và không vướng bận bởi việc ăn ngon mặc đẹp trong cuộc sống, đó là kinh nghiệm của anh.

    c. Tiết chế sự vui vẻ

    Vui vẻ là điều ai cũng muốn, nhất là sự vui vẻ nơi các linh mục của Chúa Giê-su, vui vẻ thì luôn đem lại bầu khi vui tươi cho những người chung quanh, nó là cây cầu nối kết giữa những người chưa quen biết với nhau, như những đóa hoa đem tặng cho nhau giữa ngày đại hội.

    Em có biết không,

    Anh đã nhìn thấy nhiều linh mục rất vui vẻ, lời nói rất thân tình dí dỏm, các ngài đi đến đâu thì nơi đó có nụ cười vui, chính các ngài đã nói cho anh biết bí quyết ấy đó là sự luyện tập, các ngài tập vui vẻ khi có điều buồn bực, các ngài tập vui vẻ khi bị người khác công kích hoặc hiểu lầm, sự vui vẻ ấy chính là một công cụ truyền giáo đó em ạ.

    Vậy thì có cần phải tiết chế vui vẻ không ? Anh trả lời với em ngay là có, vì vui vẻ quá sẽ rất dễ dàng sinh ra sự bừa bãi tùy tiện, một thanh niên trong lúc cao hứng thì dễ dàng nói hoặc làm những điều quá đà cho phép, và như thế sẽ trờ thành gương xấu và khó coi hoặc khó nghe cho người khác. Cũng vậy, em thử tưởng tượng một linh mục khi sự vui vẻ phấn chấn lên quá độ rồi ăn nói bừa bãi tùy tiện giữa đám đông thì sao, chắc chắn là ngài sẽ bị những lời phê bình nho nhỏ là mất tư cách linh mục, hoặc người khác sẽ nhìn ngài với ánh mắt coi thường.

    Ma quỷ thường lợi dụng sự vui vẻ quá độ để lôi kéo người ta phạm tội, linh mục cũng không ngoài “tầm ngắm” của nó, bởi vì ma quỷ rất hiểu tâm lý và nhu cầu của con người, vì khi người ta buồn bực thì ít phạm tội hơn khi người ta vui vẻ, cho nên biết tiết chế vui vẻ chính là một việc làm có tính cách hổ trợ cho tinh thần tu đức mà có lẽ ít người biết, hoặc biết mà không để ý cho mấy…

    Nếu em là một thanh niên có tính tình vui vẻ, thì đó là một hồng mà Thiên Chúa ban cho em, và nếu em tin rằng đó là một khí cụ mà Thiên Chúa ban cho em để chuẩn bị cho em làm linh mục sau này, thì em phải biết phát huy sự vui vẻ ấy bằng sự trong sáng và tế nhị, và tự chế khi nó trở nên quá phấn chấn, để khi bước vào đời linh mục thì em sẽ trở nên một linh mục của mọi người thật đúng với ý nghĩa của nó.

    3. Biết nói cám ơn và xin lỗi

    Có một vài giáo dân thường nói “móc họng” rằng: ông cha đó làm “cha người ta” rồi nên không cần nói tiếng cám ơn hay xin lỗi gì cả khi vô cớ trách mắng ông X…
    Em có biết không, lời phê bình ấy cũng rất có căn cứ vì anh cũng đã từng thấy cha sở nọ vì tính nóng nảy mà bạt tai chú giúp lễ, vì em ấy nhỏ con bê giá sách đụng vào bàn thờ, nhưng sau đó thì ngài vẫn tỉnh bơ như không có gì cả, còn em bé thì cái má bị đánh đỏ rần và khóc thút thít; anh cũng thấy linh mục nọ nói như tát nước vào mặt ông trùm họ vì một chuyện vô lý cỏn con mà không một lời xin lỗi: ông xin cha giảng vài lời sau khi đọc Phúc Âm, vì thánh lễ ngày thường ngài không giảng.

    Những đức tính nhân bản nơi người linh mục phải trổi vượt trên những người khác, dù là nói lời xin lỗi hoặc lời cám ơn, bởi vì trong cuộc sống tâm linh, linh mục là người ban ơn cho người khác nhiều nhất, vì linh mục được chọn để làm việc đó, và cũng trong cuộc sống đời thường, người chịu ơn nhiều nhất có lẽ là linh mục, và người làm tổn thương giáo dân nhiều nhất cũng có lẽ là linh mục. Có lẽ chúng ta dễ dàng nói cám ơn hơn là nói xin lỗi, vì nói cám ơn là lòng dạ sung sướng khi được người khác tặng quà hoặc giúp đỡ mình, còn nói xin lỗi thì chúng ta cứ cảm thấy rằng nó nhục sao ấy, vì chẳng khác chi nói mình có lỗi, nhưng thực ra lời nói cám ơn hay nói xin lỗi đều đề cao phẩm giá của mình trước mọi người, và làm cho người khác cảm phục vì sự khiêm tốn của mình khi cám ơn hoặc xin lổi người khác.
    Phải biết nói cám ơn khi người khác làm ơn cho mình, và phải biết nói xin lỗi khi mình làm thương tổn hoặc làm hại người khác.

    Cám ơn và xin lỗi thì không miễn trừ một ai, dù là giáo hoàng hay tổng thống, dù là giám mục hay giáo dân cũng đều phải dùng đến nó, vì nó thể hiện lên một phong cách rất nhân bản của con người thì huống gì là linh mục, linh mục thì càng phải biết nói cám ơn và xin lỗi nhiều hơn nữa, vì chính các linh mục là những người trực tiếp làm việc với giáo dân, nên rất dễ dàng va chạm với người này người nọ, cho nên hai chữ cám ơn và xin lỗi là những viên thuốc xoa dịu những căng thẳng giữa cha sở và giáo dân, hoặc giữa nhóm này nhóm nọ trong giáo xứ.

    Anh đã từng tham gia nhiều hội đoàn, đã tiếp xúc nhiều người và anh thấy đâu đâu người ta cũng đặt hai chữ cám ơn và xin lỗi trên môi miệng họ, họ xích lại gần nhau hơn bởi hai chữ cám ơn và xin lỗi ấy, đó là một biểu hiện của văn minh và có giáo dục. Và anh cũng thấy có rất nhiều linh mục cũng như thế, các ngài cũng vẫn nói cám ơn khi cô phục vụ trong tiệc chiêu đãi rót cho mình một ly nước lã, các ngài cũng nói lời xin lỗi khi thấy lời nói của mình làm giáo dân khó chịu…

    Em biết không, bây giờ người ta cũng cài hệ thống ngôn ngữ vào trong người máy (robot) rồi đó, mà hai chữ cám ơn và xin lỗi được nhiều người thích thú nhất, vì nó thể hiện tính người nơi người máy, người ta cố gắng hiện đại hóa cuộc sống, hiện đại hóa công nghệ, và ngoài những lập trình vĩ đại dành cho người máy, thì người ta cũng không quên cài vào hai chữ cám ơn và xin lỗi nơi người máy, và khi nó biết nói cám ơn và xin lỗi, thì mọi người cười ồ vui vẻ nói: nó giống con người.

    Người máy biết nói cám ơn và xin lỗi đã được gọi là giống như con người thật, và ngược lại, nếu con người ta không biết nói cám ơn và xin lỗi thì sẽ giống như người máy nặng nề không cài hệ thống ngôn ngữ cám ơn và xin lỗi.

    Em thân mến, nếu sau này em chọn con đường làm linh mục, thì em đừng quên hai chữ cám ơn và xin lỗi trên môi miệng em, dù hai chữ đó em dùng để xin lỗi một thiếu nhi trong giáo xứ, thì em sẽ trở thành một linh mục dễ mến nhất của mọi người.

    4. Biết lắng nghe

    Em có biết không, lắng nghe ý kiến của người khác là việc làm quan trọng của một linh mục, nhất là các linh mục coi sóc xứ đạo, lắng nghe chứ anh không nói là làm theo ý của giáo dân, nhưng lắng nghe ý kiến của giáo dân rồi phân tích với tất cả khôn ngoan và kinh nghiệm, bởi vì cộng đoàn giáo xứ là của họ, là nơi họ sinh ra và lớn lên, còn linh mục là người được phái đến để coi sóc họ về phần linh hồn, để họ sống như ý của Thiên Chúa muốn.

    Lắng nghe cũng là thái độ khiêm tốn của người mục tử, bởi vì có những linh mục không hề biết lắng nghe lời góp ý của giáo dân, các ngài chỉ muốn giáo dân thụ động nghe lời của mình mà thôi, nên giáo xứ của các ngài vắng đi nụ cười thân ái giữa cha và con, vắng đi lời giảng hùng hồn truyền cảm của cha sở, vì lòng ngài không vui khi có giáo dân góp ý cho mình trong việc xây dựng giáo xứ. Anh đã nghe nhiều giáo dân than phiền cha này cha nọ chỉ biết làm theo ý riêng của ngài mà thôi, bởi vì ngài muốn chứng tỏ cho giáo dân biết mình là người toàn năng, giỏi toàn diện trên mọi công việc. Có những việc cha sở phải “độc quyền” như lễ nghi và giáo lý, có những việc cha sở phải bàn hỏi với giáo dân và có quyết định sau cùng, có những việc cha sở giao cho giáo dân chủ động quyết định.v.v…thì giáo xứ chắc chắn sẽ phát triển về mọi mặt, mà phát triễn đẹp nhất chính là cha con trong giáo xứ biết yêu mến và thong cảm nhau.

    Em biết không, đôi lúc anh tự nghĩ rằng có lẽ thiên chức linh mục cao quý quá, cao trọng quá, nên tự nhiên có những linh mục sau khi mới chịu chức thì thay đổi cả tính tình vốn hiền hòa khiêm tốn của mình, thay đổi luôn cả tư cách vốn rất bình dân thân thiện của mình để trở thành một con người tuy gần mà xa với giáo dân, đương nhiên anh không nói rằng tất cả các linh mục đều như thế, nhưng thực tế vẫn còn có nhiều linh mục vẫn không thay đổi gì sau khi làm linh mục, vì làm linh mục đối với các ngài là để phục vụ dân Thiên Chúa mà thôi.

    Anh còn nhớ rất rõ hồi anh còn làm thầy giúp xứ, cha sở (và cũng là nghĩa phụ) của anh đã dạy anh rằng: “Lắng nghe giáo dân là một nhân đức, thầy cần phải tập ngay bây giờ và sau này làm linh mục”, cho nên anh không lạ gì ngài đến giáo xứ nào thì giáo xứ ở đó phát triển, và giáo dân rất đoàn kết cộng tác với ngài trong việc mở mang giáo xứ.

    Đã nhiều lần trong công tác mục vụ anh đã lắng nghe ý kiến của giáo dân về một số vấn đề, và anh thấy những ý kiến ấy làm cho công việc truyền giáo của mình càng tốt đẹp hơn, giáo dân thấy cha sở biết lắng nghe ý kiến của mình họ cũng rất vui vẻ phấn khởi, và khi họ biết cha sở không có độc quyền độc đoán thì họ sẵn sàng làm tất cả những gì mà giáo xứ cần đến. Vậy thì lắng nghe trong những dịp nào, trong những dịp sau đây :

    - Những lần hội họp ban hành giáo.

    Những lúc họp như thế này thì thường thảo luận những việc sắp làm và kiểm thảo những việc đã làm, có một kinh nghiệm nho nhỏ của anh là khi ban hành giáo thảo luận vấn đề thì cha sở nên lắng nghe, không góp ý giữa chừng, tuyệt đối lắng nghe, chỉ nói khi họ hỏi ý kiến, tại sao vậy ? Bởi vì cha sở là người quyết định cuối cùng, nên phải lắng nghe để quyết định của mình được cả hai phía thuận, nghịch đồng ý, hơn nữa khi lắng nghe những lời bàn cải của họ, mình có thể hiểu thêm được nhân cách trí tuệ và khả năng từng cá nhân, để mời họ cộng tác vào những ban bệ trong giáo xứ của mình.

    - Lắng nghe khi tiếp xúc trò chuyện với giáo dân.

    Giáo dân chỉ thố lộ tâm tình hoặc góp ý cho cha sở khi ngài vui vẻ mà thôi, nhưng cũng có những trường hợp vì quá bức xúc nên giáo dân góp ý với cha sở mà không đợi khi ngài vui vẻ, trong những trường hợp như vậy thì linh mục cần phải lắng nghe hơn nữa, bởi vì khi những bức xúc được nói ra và được người lắng nghe thì giáo dân có cảm tưởng dễ chịu hơn và vui vẻ góp ý hơn.

    Thường thì lời góp ý của giáo dân không có gì là to lớn lắm đâu, cũng chung quanh mấy vấn đề như: xin cha giảng ngắn lại chút xíu, xin cha đọc lớn tiếng trong thánh lễ để chúng con nghe được, hoặc xin cha cố gắng tiếp xúc hòa đồng với tụi thanh niên.v.v… tất cả những lời đề nghị như thế có lúc đụng chạm đến cha sở đấy, nhưng nếu sau này em làm cha sở thì nên biết bình tĩnh lắng nghe và nở nụ cười, rồi em sẽ thấy lời góp ý ấy quả không sai và dể dàng chấp nhận…

    Anh cũng đã từng chia sẻ với các anh em linh mục rằng: lắng nghe giáo dân không phải là một việc làm nhục nhã của cha sở, cũng không phải là cha sở hạ thấp mình xuống, nhưng trái lại, khi biết lắng nghe giáo dân thì mình biết được cách quản trị giáo xứ của mình chổ nào chưa được và chổ nào đã ổn định cần phát triển tiếp tục (1), bởi vì lời và thánh ý của Thiên Chúa không đóng khung trong nhà thờ, không đóng khung nơi các mục tử của Giáo Hội, mà còn là nơi những người giáo dân của chúng ta, bởi vì khi cần thiết thì Thiên Chúa cũng có thể mở miệng con lừa để cho người ta biết thánh ý của Ngài ( Ds 22, 28-30), thì huống gì là giáo dân, những con người được Thiên Chúa giao phó cho các linh mục của Chúa Giê-su và của Giáo Hội chăm sóc.

    Em thử tập lắng nghe tiếng của Thiên Chúa trước qua đức tin của em, rồi sau đó em tập lắng nghe tiếng của bạn bè khi họ góp ý cho em điều này điều nọ, tập lắng nghe cho biết ý của Thiên Chúa, để sau này khi vào học trong chủng viện hay một hội dòng nào đó, thì em biết lắng nghe các vị bề trên và các cha giáo của em, và khi trở thành linh mục thì em sẽ là một linh mục biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của giáo dân mà em có bổn phận coi sóc.

    5. BIẾT THINH LẶNG

    Người linh mục khôn ngoan là người biết thinh lặng đúng lúc, dù đang tranh cải gay cấn, dù đang bực tức, dù sự ấm ức lâu ngày dồn nén trong lòng, thì cũng phải biết thinh lặng đúng chỗ, đó chính là một ơn lành mà Thiên Chúa ban cho các linh mục của Ngài. Trong cuộc sống đời thường, sự thinh lặng đúng lúc luôn là liều thuốc giải độc cho các trường hợp, bởi vì sự thinh lặng này không phải là đồng lõa nhưng là sự nghỉ ngơi của khôn ngoan.

    Em có biết không, anh đã từng thấy những vị linh mục thinh lặng trước những hỉ nộ sân si của các anh em linh mục của mình; anh cũng thấy (ít nữa là một lần) có một cha sở thinh lặng trước công kích của một vài giáo dân vì cha sở không làm theo ý họ, kết quả của sự thinh lặng ấy là gì, là chính những giáo dân ấy đến xin lỗi cha sở vì tính quá nóng nảy mà mình đã vượt qua quyền hạn của cha sở mình.
    Linh mục, có thể nói là người của thinh lặng, vì Thiên Chúa thích hiện diện trong thinh lặng, và chỉ trong thinh lặng mà thôi thì linh mục mới thấy rõ ơn của Thiên Chúa ban xuống trên mình và trên giáo xứ của mình.

    - Khi giáo dân tranh cải thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
    - Khi giáo dân trách móc linh mục thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
    - Khi giáo dân góp ý thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
    - Khi các anh em linh mục hỉ nộ sân si chỉ trích thì linh mục thinh lặng lắng nghe.

    Thinh lặng lắng nghe khi người khác công kích mình thì khó lắm, nhưng Chúa Giê-su đã làm được và có rất nhiều vị linh mục đã làm như thế và đã thành công. Em thử hình dung ra một linh mục mà đối chất tay đôi với một giáo dân thì như thế nào, nói về hành vi và hình dung thì cả hai người mặt mày đều đỏ kè, nhăn nhó xấu xí khó coi; nói về ngôn ngữ thì lại càng khó nghe vì dùng những chữ dao to búa lớn để choảng nhau. Cho nên nếu không giữ được thinh lặng thì không những linh mục sẽ trở nên gương xấu cho người khác, và nhất định là giáo dân sẽ hoảng sợ ngài khi muốn góp ý xây dựng với ngài trong công việc của giáo xứ.

    Thinh lặng cũng bày tỏ công phu tu dưỡng nhân đức của linh mục, một linh mục biết giữ được trạng thái thinh lặng thì khuôn mặt luôn bày tỏ nét vui tươi và hoạt bát, bởi vì tâm hồn của các ngày đã tĩnh trong một thế giới động là những việc phải lo toan của giáo xứ, cũng như những lời công kích của người khác.
    Anh nghĩ rằng trong đời em cũng đã nhiều lần chứng kiến hai người chửi nhau, công kích nhau, thậm chí còn thượng cẳng tay hạ cẳng chân nữa là khác, những lúc em thấy như thế thì nên rút ra cho mình một bài học, để sau này khi đối diện với công việc của một linh mục, thì em có một cách suy tư hơn về việc thinh lặng trong đời sống tu trì, chính Chúa Giê-su cũng đã thinh lặng trước quan tổng trấn Phi-la-tô. Em đọc lại đoạn Tin Mừng của thánh Mac-cô nơi đoạn Chúa Giê-su đứng trước ông quan Phi-la-tô xem sao:

    “Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Phi-la-tô hỏi Người:
    - Ông không trả lời gì sao ? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội !”
    Nhưng Chúa Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên” (Mc 15, 3-5).

    Đúng là Chúa Giê-su không trả lời, Ngài đang thinh lặng, cái thinh lặng của người hiểu biết trước cái không hiểu biết của kẻ khác, cái thinh lặng của người chiến thắng trước một kẻ kiêu ngạo hiếu chiến của người đối thoại, cái thinh lặng của người khôn ngoan và thông minh trước mặt người chỉ ỷ vào quyền chức nhưng nhu nhược của mình.

    Trong đêm vắng giữ được thinh lặng thì rất dễ, nhưng thinh lặng giữa cuộc sống xô bồ mới khó và có giá trị; thinh lặng giữa cảnh thuận hòa của anh em thì rất dễ, nhưng thinh lặng khi anh em chia bè lập cánh để đấu đá nhau thì rất khó, bởi vì không ai muốn mình bị “lãng quên” trên “cuộc chiến” đấu bằng nước miếng này…

    Em thân mến,

    Cũng có những lúc em thinh lặng thì người ta sẽ nghĩ rằng em sợ hoặc thua cuộc, nhưng em đừng sợ, bởi vì những người có tính hiếu thắng mới nghĩ như thế mà thôi, cho nên bây giờ dù em chưa phải là linh mục, chưa phải là tu sĩ, nhưng anh nghĩ rằng em cũng cần phải biết thinh lặng đúng nơi đúng chỗ giữa những bạn bè của em, giữa những người mà em tiếp xúc hoặc khi họ hiếu thắng muốn em về phe họ để lớn tiếng chửi rủa nhục mạ người khác.

    Một linh mục không biết thinh lặng đúng nơi đúng chỗ, thì chẳng khác gì đem hạt lúa giống gieo vào trong vườn hoa sặc sỡ, lúa giống sẽ biến thành cỏ và nhọc công cho người làm vườn phải nhổ bỏ mà thôi…

    6. BIẾT TẾ NHỊ

    Em có biết không, người khôn ngoan họ rất tế nhị trong cách cư xử hằng ngày với người khác, có những việc mà đôi lúc người thông minh không giải quyết được, nhưng người biết tế nhị thì giải quyết được ngay mà làm vừa lòng mọi người…

    Vậy tế nhị là gì ? Tế nhị có nghĩa là khéo léo, tinh tế nhã nhặn trong đối xử hoặc có những tình tiết rất nhỏ, sâu kín, khó nói hoặc không thể nói ra được (1).
    Linh mục là người thường tiếp xúc với giáo dân, mà giáo dân thì có đủ nhiều thành phần học thức và không học thức, nghề nghiệp khác nhau và sự giáo dục cũng khác nhau, cho nên việc tế nhị đối với các linh mục rất là cần thiết, mà nơi cần phải tế nhị nhất là tòa giảng và khi giao tiếp với giáo dân.
    Giảng dạy là một công việc quan trọng của linh mục, là quyền ưu tiên của linh mục, quyền này gắn liền với chức linh mục, cho nên khi làm linh mục thì cũng đồng thời có bổn phận giảng dạy Lời Chúa cho mọi người, quyền này chỉ mất đi khi với lý do chính đáng và chỉ có đức giám mục địa phận mới có quyền mà thôi. Vì quyền giảng dạy là độc quyền của linh mục, cho nên có một vài linh mục khi giảng dạy thì có những lời lẽ không tế nhị với giáo dân, các ngài dùng những lời nói rất thật, thật quá đến nổi giáo dân phải đỏ mặt tía tai, đôi lúc các ngài trình bày một vấn đề mà không tìm hiểu coi có đụng chạm đến giáo dân nào không ? Tế nhị là trình bày Lời Chúa và chỉ trong phạm vi Lời Chúa mà thôi, khi muốn dùng hình ảnh của câu chuyện để làm bối cảnh thì nên tế nhị kẻo làm tổn thương giáo dân của mình.

    Con người thời nay rất nhạy cảm và hình như rất dễ bị tổn thương, nếu có một lời nói hay một cử chỉ không tế nhị nào đó của người khác, nhất là của bạn bè và người thân, mà linh mục không phải là người thân của họ sao ? Em thân mến, đôi lúc một lời nói hay một cử chỉ không tế nhị của một linh mục mà làm tổn thương rất lớn cho giáo dân, và đôi lúc chúng ta không lạ gì thỉnh thoảng gặp một vài trường hợp giáo dân không muốn đến nhà thờ, mà hỏi lý do họ cũng không trả lời, những lúc như thế -theo kinh nghiệm của anh dò hỏi- thì phải biết họ đang có ấn tượng không tốt vì thái độ và lời nói không tế nhị của cha sở, mặc dù cha sở rất vô tư không để ý.

    Có những chuyện rất tế nhị trong cuộc sống mà đôi lúc không nên nói ra cho người khác nghe, hoặc không nên nhắc lại giữa một tập thể khi có người trong cuộc đang hiện diện ở đó, anh tin chắc em cũng đã thấy nhiều lần bạn bè em hay một người thân nào đó muốn “độn thổ”, vì người ta cứ nhắc lại chuyện cũ của họ ra mà làm đề tài trò chuyện. Linh mục là người cẩn trọng nhất trong lời nói và nghiêm túc nhất trong hành vi của mình, dù đang lúc giảng dạy hoặc là trong lúc thể thao giải trí, tất cả đều được ngài “trình bày” một cách tế nhị, và do đó ngài trở thành người khôn ngoan trong giao tiếp, dễ dàng thân cận và là người biết cách lãnh đạo cộng đoàn.

    Em biết không, anh trước khi làm linh mục thì đã có một thời gian rất dài mười ba năm liên tục giúp xứ, vừa đi làm, vừa học hành, vừa chăm lo mọi việc trong ngoài nhà thờ, giáo xứ của anh giúp tuy nhỏ nhưng rất phức tạp, vì giáo dân gồm cả ba miền nam bắc trung đều có, là nơi mà thành phần bất hảo của Saigòn đa phần tập trung ở đó, em không thể hình dung ra được sự phức tạp của nó đâu: ma cô, đỉ điếm, trộm cắp, tù hình sự.v.v…đều có cả. Cha sở của anh phải khôn khéo tế nhị hết sức với xã hội, với giáo dân, với những thành phần bất hảo ấy để rồi nhà thờ ngày càng khang trang hơn, giáo dân đông hơn và thành phần bất hảo ít hơn, ngài rất tế nhị với mọi người, lời nói cử chỉ nhất nhất đều làm cho giáo dân tin tưởng, cộng tác và giúp đỡ giáo xứ. Anh học được nơi ngài rất nhiều điều trong cách phục vụ và trong cách hành xử của một mục tử, cho nên, nếu em muốn đi tu để trở thành một linh mục, một mục tử thì ngay bây giờ em nên tập tành những đức tính nhân bản ấy đi, vì anh nghĩ rằng, có tài uyên bác mà cuộc sống không có nhân bản thì uổng lắm, nhất là đối với một linh mục.

    7. ĐƠN SƠ, THẬT THÀ

    Em đừng cười khi anh nhắc nhở em là phải đơn sơ thật thà, bởi vì anh đoán rằng em sẽ cười và nói: đi tu thì đương nhiên là phải đơn sơ thật thà rồi, nhất là các linh mục cần phải đơn sơ và thật thà hơn nữa. Đúng như vậy, con người ta ai cũng yêu mến người đơn sơ thật thà, nhất là người ta vẫn luôn nhìn thấy các linh mục, tu sĩ là những người như thế, bởi vì tâm hồn của các ngài thì thật phẳng lặng không bon chen với đời, suy nghĩ của các ngài rất dạt dào sự yêu mến tha nhân nên luôn thật thà khi trò chuyện.
    Nhưng em cần phải hiểu rõ ràng như thế này, các linh mục tu sĩ cũng là những con người, và các ngài đang sống giữa một xã hội lắm phức tạp như mọi người khác. Có một vài lần khi tiếp xúc với giáo dân hay bạn bè thì chắc là em co nghe một vài lời nói: “Ông cha này tính tình rất đơn sơ, còn ông cha kia sao ma lanh quá; ông cha này ăn nói thật thà, còn ông cha kia sao ăn nói ba xạo thế.v.v…”.
    Em đừng ngạc nhiên gì cả, bởi vì mỗi một linh mục đều bị ảnh hưởng rất lớn do môi trường và hoàn cảnh giáo dục: có linh mục sinh ra trong cảnh nghèo đầu tắt mặt tối làm việc nuôi gia đình; có linh mục thì sống trong cành giàu sang phú quý; có linh mục thì xuất thân bởi thành phần trung lưu; đó là chưa kể hoàn cảnh gia đình của các ngài như thế nào nữa đó…

    Linh mục có tính tình đơn sơ thì chắc chắn là ai cũng yêu mến các ngài, sự đơn sơ của các ngài được thể hiện qua công việc, qua cách giao tiếp, tắt một lời là qua nhân cách của các ngài. Các ngài không kiểu cách khi tiếp chuyện với giáo dân, cách nói của các ngài rất bình dị không cong môi uốn lưỡi cho dẽo ngọt, tâm hồn của các ngài thì đơn sơ, bởi được thanh lọc bằng lời cầu nguyện và phó thác cho Thiên Chúa quan phòng.

    Anh đã từng thấy một vài linh mục –có lẽ do ảnh hưởng gia đình chăng- sống không thật lòng với mình, các ngài không có sự thật thà đủ khi giao tiếp với người khác cũng như là giữa các anh em linh mục với nhau, vì không thật thà nên lời nói của họ trở thành con dao hai lưỡi, một để bảo vệ mình và một để công kích người khác, ngay cả anh em trong hàng linh mục với mình.

    Khi còn là một ứng sinh linh mục triều hay linh mục dòng, thì ngay từ bây giờ em nên tập sống đơn sơ và thật thà với chính mình cũng như với người khác, đơn sơ không có nghĩa là đem chuyện người này nói cho người khác nghe, đơn sơ không có nghĩa là xử sự như con nít, nhưng là xử sự khôn ngoan như rắn và đơn sơ như chim bồ câu. Em đừng đợi đến khi làm linh mục rồi tập sống đơn sơ thật thà, bởi vì khi làm linh mục rồi thì đa phần các linh mục trẻ đều có óc kiêu ngạo –anh không cường điệu đâu- và sống theo sở thích của mình, các ngài như con chim sổ lồng như cá ra khơi, và quên dần những bài học nhân bản đã được học trong chủng viện hoặc trong tập viện, các ngài không còn đơn sơ vâng lời bề trên như hồi còn ở trong chủng viện hoặc trong nhà tập, không còn hòa nhã hòa đồng với các anh em bạn bè khác, mà thường dùng lời lẽ và thái độ của người đã thỏa mãn được mục đích của mình.

    Đơn sơ thật thà là đức tính của thiên thần mà ma quỷ rất căm giận, và tìm mọi cách để hủy hoại nó nơi con người linh mục, cũng như nơi những người dâng mình làm tôi tớ của Thiên Chúa. Sự đơn sơ thật thà này là dấu chỉ tốt lành cho người linh mục trong khi thi hành chức vụ mục tử đã được Giáo Hội ủy thác cho các ngài, là niềm vui của giáo dân khi được một mục tử không biết gì ngoài đàn chiên của mình và hết lòng vì đàn chiên ấy.

    Các bạn của anh thường nói đùa với nhau như thế này: “Chúa thương những kẻ ngù ngờ (ngu ngơ)”, ý nói là những người đơn sơ thật thà thường được hưởng nhiều may mắn hơn trong cuộc sống, anh thấy câu này rất đúng vì thực tế anh đã thấy có nhiều người dùng âm mưu thủ đoạn để “chơi” những người hiền lành, nhưng dù cho họ có kế hoạch hẳn hoi rồi thì phút chót cũng không được như ý của họ. Linh mục tu sĩ là những người đơn sơ thật thà nhất, bởi vì họ đi tu là để làm người đơn sơ thật thà như ý muốn của Thiên Chúa, do đó dù ở trong chủng viện hoặc trong tập viện họ được học cái gì người ta không thèm biết, nhưng người ta vẫn luôn luôn biết chắc chắn rằng, linh mục và tu sĩ là những người có đời sống đơn sơ và thật thà hơn những người khác.

    Em thử nghĩ xem sao, một linh mục mà thường dùng thủ đoạn với người khác, nói năng hàm hồ, vu khống cáo gian hoặc lường gạt bạn bè thì sao nhỉ? Chắc chắn là sẽ không được mọi người tôn trọng, và các ngài cũng rất khó mà làm tròn bổn phận mục tử của mình, bởi vì anh biết có một vài linh mục đã dối trá với bề trên, với anh em và với giáo dân nên phải bỏ giáo xứ nơi mình đang phục vụ mà đi, đó chính là hậu quả của sự lừa dối và “lươn lẹo” trong đời sống của một linh mục tu sĩ. Sống đơn sơ với mọi người, không kiểu cách làm bộ làm tịch, không nói lời đầu môi chót lưỡi như những phường buôn bán là phẩm hạnh của một linh mục tu sĩ, và hơn nữa là một phúc lành cho giáo dân.

    Anh đã nói với em là em đừng ngạc nhiên gì cả vì có những linh mục như thế, bởi vì họ cũng là con người nên có những tham sân si như tất cả những người khác, nhưng nếu có chê bai họ, là chê bai họ đã làm cho thiên chức linh mục cao quý trở thành tầm thường, họ lãnh nhận quá nhiều ân sủng, học được học quá nhiều phương pháp để chiếm lấy Nước Trời, nhưng họ đã không sử dụng ân sủng ấy, không dùng phương pháp đã học để chiếm Nước Trời làm gia nghiệp cho mình và giúp người khác biết cách chiếm Nước Trời. Cho nên khi em nghe nói linh mục này như thế, linh mục nọ như kia thì em đừng nản chí về các linh mục của Chúa Giê-su và Giáo Hội, và em cũng đừng bi quan mà làm mất ơn gọi của mình, hãy cầu nguyện cách riêng cho các ngài và cách chung cho các linh mục –trong đó có em.
    Em thân mến, đức tính đơn sơ và thật thà của linh mục là chìa khóa để mở cửa tâm hồn của giáo dân, họ sẵn sàng hy sinh cho chủ chăn của mình khi họ biết ngài sống rất đơn sơ thân tình với họ, không chấp tay sau lưng với vai vế của kẻ trên khi nói chuyện với họ, không dùng lời lẽ lắc léo để chửi khéo giáo dân thế này thế nọ, nhưng trãi bày tấm lòng yêu mến của mình cho họ thấy bằng sự đơn sơ thật thà của mình.

    (nguồn: http://svcgtobenthuy.net/showthread....B%A5c.-%281%29)



    Chia sẻ với em, người muốn đi tu làm linh mục (tiếp)


    B. LINH MỤC VÀ ĐỜI SỐNG TU ĐỨCEm thân mến,

    Để làm một linh mục thì học nhiều lắm, tuy nhiều nhưng rất có hệ thống nên đỡ ”ngán”, nhất là những môn triết và thần học. Anh nói vậy không phải để “hù” em đâu, nhưng thật đó, bởi vì linh mục là thầy dạy người khác về đường trọn lành, dạy cho người khác biết và yêu mến Thiên Chúa, đồng thời cũng để bảo vệ chân lý Công Giáo khi cần thiết nên phải học nhiều.

    Nhưng chung quy đời sống tu đức của các linh mục tương lai cần phải đặt lên trên các mọi môn học, mà tu đức –nói chung- thì như bông hoa trong vườn, nhiều lắm, nhằm để cho các linh mục tương lai có đời sống kết hợp với Thiên Chúa, và đồng thời để cho các chủng sinh có cuộc sống thật gương mẫu khi lãnh đạo dân Thiên Chúa sau này.
    Bài học tu đức thì nhiều lắm, đợi đến lúc em được vào học trong đại chủng viện hoặc trong học viện của dòng tu thì em biết, còn bây giờ thì anh chia sẽ với em hai việc quan trọng của đời sống tu trì mà thôi, nhất là với các linh mục, hai việc đó là cầu nguyện và khiêm nhường.

    1. Cầu nguyện

    Đi tu thì ai cũng biết cầu nguyện là vấn đề ưu tiên hàng đầu của họ, cho nên giáo dân không lạ gì khi thấy các linh mục và các tu sĩ nam nữ cầu nguyện luôn và cầu nguyện lâu giờ trong nhà thờ, sau thánh lễ hoặc bất kỳ lúc nào, bởi vì cầu nguyện làm cho linh mục tu sĩ cũng như giáo dân càng liên hệ mật thiết gắn bó với Chúa Giê-su hơn nữa.

    Anh muốn chia sẻ với em về vấn đề cầu nguyện nếu em muốn đi tu làm linh mục.

    Có một vài thanh niên cũng rất muốn đi tu như em, nhưng sao họ thấy đời sống tu đức của họ ngày càng xuống dốc, không phải vì họ không muốn tiến đến trong đàng nhân đức, nhưng là vì cuộc sống xô bồ, thời gian cầu nguyện không có để tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa coi có chọn mình đi tu không mà thôi.

    Quá trình làm linh mục là một chặng đường có thể nói được là rất cam go, gian khổ và nhiều thử thách của một thanh niên, họ được các cha linh hướng, các người giáo dân quen biết, được mọi người khuyến khích nhắc nhở là phải cầu nguyện luôn để biết ý Chúa có muốn chọn đi tu làm linh mục hay không, bởi vì tất cả mọi người đều khẳng định rằng, chỉ có cầu nguyện mới nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa mà thôi.

    Em thân mến,

    Dù em vào chủng viện hay em ở trong một dòng tu thì em sẽ được học trước tiên là cầu nguyện, dù em bận học hành hoặc sắp đến ngày thi cuối khóa thì em cũng không được miễn chuẩn bỏ giờ kinh nguyện ngắm, trái lại, các linh mục có trách nhiệm đều khuyên các chủng sinh nên cầu nguyện nhiều hơn nữa, và cầu nguyện luôn.

    Nhưng thói quen cầu nguyện này sẽ từ từ bị quên lãng khi đã làm linh mục, anh không nói tất cả các linh mục đều quên cầu nguyện, nhưng có một số linh mục than phiền với anh là việc vàng bận rộn quá không có thời gian cầu nguyện, các ngài nói là một ngày từ sáng đến tối không có thời giờ rảnh, nào là đi thăm giáo dân, nào là họp các đoàn thể, nào là xức dầu bệnh nhân.v.v…và còn rất nhiều lý do khác khiến các ngài không thể có thời giờ cầu nguyện hay nguyện ngắm, và từ từ các ngài sẽ trở thành thói quen không còn thiết tha gì với việc nguyện ngắm nữa, có chăng là chỉ làm chiếu lệ theo luật đọc các giờ kinh phụng vụ mà thôi. Cầu nguyện là nhìn nhận mình yếu hèn, bất tài và tội lỗi để xin Thiên Chúa ban ơn cho, anh biết là tất cả các linh mục của Chúa Giê-su đều hiểu được điều này, bởi vì nếu không hiểu thì không thể làm linh mục và cũng không nên làm linh mục làm gì, vì bản chất của linh mục tu sĩ là cầu nguyện.

    Một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo xứ của ngài giống như cánh đồng lúa luôn đầy tràn nước trong vụ lúa hè thu; một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo xứ của ngài luôn có rộn ràng tiếng vui đùa của trẻ em; một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo xứ của ngài sẽ không còn nạn chia bè chia phái chống đối nhau nữa, bởi vì hiệu quả rõ ràng nhất của việc cầu nguyện chính là củng cố lòng tin, gia tăng lòng mến và càng hy vọng vào sự quan phòng của Ngài nhiều hơn nữa. Trong Giáo Hội những tấm gương sáng về cầu nguyện của linh mục rất nhiều như thánh Gioan Maria Vianney, như thánh Don Bosco, thánh Phan-xi-cô Khó Nghèo.v.v…hoặc nói cách khác, tất cả những vị thánh trên trời đều là những con người rất yêu mến việc cầu nguyện với Thiên Chúa, và không có vị thánh nào tuyên bố cầu nguyện thật là vô ích cả.

    Nhà bác học Archimede nói rằng, cho ông một điểm tựa thì ông sẽ bật lên cả vũ trụ. Trong đời sống tu đức của một linh mục cũng vậy, cầu nguyện chính là điểm tựa để cho ngài bật lên cả một họ đạo nguội lạnh khô khan lòng mến Chúa; cầu nguyện cũng là một điểm tựa để cho ngài bật lên những kiêu căng ra khỏi lòng ngài; cầu nguyện cũng là một điểm tựa để ngài níu vào khi gặp đau khổ thử thách.v.v…Chúa Giê-su đã làm như thế khi cầu nguyện và Ngài đã bật cả thế giới hướng lên trời bằng sự chọn lựa mười hai vị Tông Đồ, Ngài cũng đã cầu nguyện để chiến thắng cơn cám dỗ trong hoang địa, Ngài cũng đã cầu nguyện khi đau khổ tột cùng ập tới trong vườn Cây Dầu…

    Nếu em muốn đi tu làm linh mục như ý của Thiên Chúa, thì em phải tập cầu nguyện ngay từ bây giờ, đừng viện cớ công việc quá nhiều mà tránh cầu nguyện. Em có thể cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, nghĩa là em phải tin tưởng rằng Thiên Chúa hiện diện khắp nơi và mọi nơi mọi lúc, do đó mà em đừng nói là không có thời giờ để cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là trò chuyện với Đấng thần thiêng nhưng hiện hữu khắp vũ trụ, nên chúng ta không cần phải đợi đến trong nhà thờ để cầu nguyện, chúng ta cũng không đợi đến ngày chủ nhật mới cầu nguyện, cũng khôn phải đợi khi được nghỉ việc mới cầu nguyện.

    - Cầu nguyện luôn luôn.
    - Cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc vì Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.

    Em thân mến, nếu một linh mục coi thường việc cầu nguyện thì cũng đồng thời coi thường sự sống đời đời của mình; một linh mục quá chú trọng những hoạt động to lớn rầm rộ trong giáo xứ mà không cầu nguyện, thì dù cho những sinh hoạt đó thành công cũng chỉ là nhất thời mà thôi, và bản thân của ngài cũng phảng phất chút kiêu ngạo nào đó.
    Một linh mục có tài năng thì giáo dân kiêu ngạo, nhưng một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo dân vừa hãnh diện vừa an tâm vừa đạo đức. Em cố gắng nhớ điều ấy.

    2. Lòng khiêm nhường

    Em biết không, có rất nhiều giáo dân to nhỏ với nhau là không ai kiêu ngạo cho bằng các linh mục, không ai hách cho bằng linh mục.v.v… nhưng em cũng biết rằng, không phải tất cả các linh mục đều xấu xa và đều sống cách kiêu ngạo, nhưng thực tế thì chỉ có một vài vị đếm trên đầu ngón tay mà thôi.

    Nhưng đó cũng là lời cảnh tỉnh cho các linh mục và cho những ai muốn làm linh mục, nếu em muốn làm linh mục để cho oai, để được ăn trên ngồi trước, hoặc là để được thỏa mãn tính kiêu căng của mình thì anh khuyên em đừng đi tu làm linh mục, nhưng đi làm công chức để tự do làm theo ý riêng của mình thì hay hơn. Có những lúc anh thấy mình thỉnh thoảng cũng rất kiêu ngạo khi có ai đó phê phán mình, anh cũng thấy mình đôi lúc cũng tỏ vẻ ta đây với những người khác vì mình là linh mục, nhưng rồi sau đó anh cảm thấy mắc cở với chính mình vì thái độ và lời kiêu ngạo ấy…
    Em biết không,

    Muốn trở thành linh mục tốt lành thánh thiện, thì trước tiên em cần phải tập sống nhân đức khiêm nhường, và hứa với lòng mình là phải luôn sống thật đơn sơ và khiêm tốn với tha nhân, nhất là với bề trên của mình, bởi vì anh thấy có một vài linh mục được giám mục hoặc bề trên cho đi du học để lấy học vị tiến sĩ này tiến sĩ nọ về giúp cho giáo phận hoặc cho hội dòng, nhưng khi trở về phục vụ thì phê bình ngay cả giám mục và bề trên của mình là “già rồi xuống (chức) đi, để người khác làm (giám mục, bề trên)”. Tre già thì măng mọc, nhưng nếu tre không già thì măng lấy đâu mà mọc lên, cũng vậy, giám mục hoặc bề trên rồi cũng già lão, rồi cũng sẽ về hưu, nhưng nếu các ngài không chọn linh mục này đi học ở Rô-ma linh mục nọ đi học ở Pháp.v.v… thì bằng cấp tiến sĩ ở đâu mà có, và nếu có đức độ thì những vị tiến sĩ này sẽ được Thiên Chúa chọn, cần gì phải kiêu ngạo “thúc” các ngài bề trên từ chức !

    Nhân đức Khiêm Nhường không những phải bám chặt bên trong tâm hồn, mà còn phải bộc lộ thanh thoát ra bên ngoài bằng lời nói hành vi của mình nữa, hiểu sự khiêm nhường là như thế nào thì chỉ có các linh mục mới hiểu trọn vẹn, nghĩa là hiểu hơn tất cả những người khác, do đó mà dễ dàng ngã trong chức linh mục cao trọng của mình.
    Em bây giờ đang học năm cuối của đại học, và em muốn đi tu làm linh mục sau khi tốt nghiệp đại học, anh khuyên em nên đọc thêm những sách tu đức nói về đức khiêm nhường, đọc thêm hạnh các thánh để thấy các ngài thực hành đức khiêm nhường như thế nào, và nếu được thì em nên xin một linh mục lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm trong đời linh mục làm linh hướng cho em, rồi em cũng sẽ được ngài trịnh trọng dạy bảo em rằng: đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức khác, và do đó, nếu một linh mục không có và không tập tành nhân đức khiêm nhường, thì giống như cái phèng la trống rỗng kêu to làm điếc tai nhức óc người khác mà thôi.

    Anh đã tận mắt nhìn thấy một vài linh mục trẻ đem luật dòng (không phải luật Giáo Hội) đối chất với giám mục địa phương của mình, các linh mục trẻ này hết đem luật dòng điều này khoản nọ để đối chất với giám mục, mà vị giám mục này là chuyên gia giáo luật của cả một hội đồng giám mục quốc gia, anh phục nhất là thái độ lắng nghe và khiêm tốn của ngài, ngài nghe và ngài thấy hết tất cả lời nói và thái độ của các linh mục trẻ khi đối chất: sừng sộ, lý lẽ và nói được là như nóng giận với ngài. Thật đáng tiếc, các linh mục trẻ này ai cũng tưởng minh là nhà giáo luật học, là tiến sĩ giáo luật giỏi giang hơn cả vị giám mục tiến sĩ giáo luật đang khiêm tốn ngồi đây lắng nghe mình. Họ bắt lý bắt lẽ về những điều khoản trong luật dòng, mà họ quên mất một điều luật rất căn bản là: bản luật dòng trực thuộc giáo phận phải được giám mục địa phương phê chuẩn mới có hiệu lực (Giáo luật điều 595), vậy thì quá rõ ràng, ngài phê chuẩn hoặc ngài không phê chuẩn là quyền của ngài khi ngài thấy khả thi và không khả thi, điều này cho thấy giám mục địa phận có quyền hạn rất lớn lao trong việc này, vậy thì những gì ngài đã cho phép thì cứ thi hành, dù điều đó không có trong luật dòng hoặc có nhưng đã không còn phù hợp vì giáo luật ghi rõ ràng: “giám mục cũng có thẩm quyền giải quyết những vấn đề hệ trọng liên quan đến toàn thể hội dòng…”

    Em biết không,

    Kiêu ngạo thì luôn phá đổ những gì mà mình hoặc người khác đã xây dựng, kiêu ngạo được che giấu dưới mọi hình thức: nói để xây dựng, nói để mà biết, nói để hiểu rõ nhau hơn, nhưng tất cả những lý do đó đều bị gạt bỏ vì thái độ kiêu ngạo, hằn học, giận dữ và cố chấp khi chúng ta đối chất với người khác.

    Khiêm nhường sản sinh ra rất nhiều hoa trái cho chính bản thân của mình cũng như cho người khác thưởng thức: hoa trái yêu mến, hoa trái tôn trọng lẫn nhau, hoa trái ôn hòa, hoa trái vui vẻ, hoa trái cảm thông.v.v…và còn rất nhiều hoa trái khác sẽ trổ sinh khi chúng ta thực hành đức khiêm nhường, tại sao vậy, là bởi vì nhân đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức, nếu không có nó –nhân đức khiêm nhường- thì các học vị tiến sĩ sẽ là mây khói, các tài năng động trời khuấy nước là vô ích, các bản lãnh siêu quần bạt chúng cũng chỉ là như ngọn cỏ ven đường mà thôi.

    Một cha sở khiêm nhường khi tiếp xúc với giáo dân thì giáo dân thấy Chúa Giê-su đang nói chuyện với họ, nhưng một cha sở kiêu ngạo phách lối khi nói chuyện với họ, thì họ không thấy Chúa Giê-su đâu cả, mà chỉ thấy một con người tham sân si nơi cha sở mà thôi. Em đã đọc truyện thánh Gioan Maria Vianney chưa ? Ngài đã trở thành một vị thánh thời danh không phải vì học thức uyên bác nhưng là sự khiêm nhường của ngài đấy, ngài quả thật là đáng để cho chúng ta noi gương trong cuộc đời làm linh mục, làm cha sở của chúng ta.

    Anh đã nhiều lần chia sẻ với các anh em linh mục trẻ cũng như với giáo dân rằng, khiêm nhường không có nghĩa là cúi đầu dạ dạ vâng vâng nhưng trong lòng thì cả một bầu trời bất mãn, khiêm nhường cũng không có nghĩa là cái gì “em cũng chã biết”, nhưng khiêm nhường -theo anh- thì biết rõ khả năng của mình đến đâu thì làm đến đó, làm được thì nói làm được, làm không được thì nói làm không được. Bởi vì anh thấy có nhiều linh mục làm được việc nhưng không làm, đợi người khác làm thì phê bình điều này điều nọ, hoặc làm không được nhưng vì tự ái, vì bè phái mà nói làm được, đến khi làm thì phá hỏng cả chương trình của tập thể.v.v…

    Khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức, em cần phải biết điều đó để tập luyện, trước là có ích lợi cho bản thân và công tác mục vụ của mình, sau nữa là trở thành mẫu gương sáng cho giáo dân…

    B. LỜI KẾT
    Em thân mến,

    Nhân bản và tu đức, theo anh nghĩ, phải hòa quyện lẫn nhau nơi con người của linh mục, bởi vì con người thời nay rất thực tế và hưởng thụ, rất khoa học và rất sáng tạo, họ chỉ cần click con chuột trên máy vi tính thì cả một hoặc hai quyển Thánh Kinh bày ra trước mặt họ, tha hồ mà đọc; họ chỉ cần enter một cái, thì tất cả các chú giải Thánh Kinh phơi bày ra trước mắt họ, tha hồ mà nghiên cứu, có khi thích thú hơn cả linh mục giáo sư dạy; họ chỉ cần ấn một nút xanh nút đỏ trên màn hình thì thấy cả khung trời Rô-ma và đền thánh Phê-rô hùng vĩ.v.v…nhưng họ vẫn cứ cần những linh mục bằng xương bằng thịt sống Tin Mừng cho họ thấy, nói Tin Mừng cho họ nghe mà thôi…

    Anh có thể nói với em như thế này: tu đức là nền nhà được chôn giấu chắc chắn dưới đât, nhân bản là cái nhà bên trên cái nền ấy; tu đức là sức sống bên trong thúc nhân bản là hành động bên ngoài. Nếu một linh mục giỏi về tu đức mà không có cách sống nhân bản thì không ai thấy ngài là một linh mục thánh thiện, ngược lại, nếu linh mục có đầy cách sống nhân bản nhưng không có tinh thần tu đức thì giống như cái phèng la kêu to rỗng tuếch mà thôi.

    Em muốn anh chia sẻ những việc phải làm, những điều cần biết của một linh mục để em đi tu làm linh mục, anh đã chia sẻ với em tất cả những điều trên, theo kinh nghiệm của anh, và có lẽ cũng là của nhiều linh mục khác nũa, bởi vì mọi linh mục đều được học tập như nhau, nhưng cách thực hành những điều đã học thì không giống nhau, cho nên anh nhắc lại cho em một lần nữa là: linh mục cũng là một con người tội lỗi như những người khác, nhưng được Thiên Chúa đoái thương chọn làm tư tế thay mặt dân Ngài mà thôi, cho nên chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều cho các ngài.

    Anh xin chấm dứt phần chia sẻ nơi đây, nếu có những gì em cảm thấy phân vân khó chịu, thì email hoặc “chát” với anh, nếu như em và anh có giờ rãnh. Xin Thiên Chúa là Cha nhân từ và Chúa Giê-su Ki-tô Đấng là thượng tế muôn đời chúc lành và gìn giữ ơn gọi làm linh mục nơi em.
    Cầu nguyện nhiều cho anh trong chức vụ linh mục chánh xứ.
    (nguồn : http://svcgtobenthuy.net/showthread....Fp%29.%282%29&)

  5. #5

    Mặc định

    bằng cấp rất tốt nhưng không quan trọng bằng chữ TÂM ,tâm bạn sáng+siêng năng cầu nguyện thì Đức Chúa Thánh Thần xuống sửa lại mọi sự cho bạn và bạn sẽ thông minh sáng láng '' tôi có thể giúp bạn thời gian đầu'' khi ấy ơn gọi sẽ đến,giáo hội đang rất cần những người như bạn, chúc bạn sớm toại nguyện

  6. #6

    Mặc định

    chúng ta thấy rằng mối tương quan giữa ơn gọi tu sĩ và ơn gọi giáo sĩ rất là đa dạng. Không lạ gì mà có khá nhiều ý kiến về căn cước của linh mục dòng, bắt nguồn từ những quan điểm khác nhau về bản chất của đời tu và bản chất của chức linh mục.

    A. Nhìn từ bản chất đời tu

    Chúng ta khỏi cần dài dòng chứng minh sự đa dạng của ơn gọi tu trì nữa: sự khác biệt giữa các dòng tu không chỉ dựa trên kiểu tu phục, nhưng bắt nguồn từ đặc sủng, từ quan niệm về các lời khuyên Phúc âm, nếp sống cộng đoàn, đường lối hoạt động tông đồ.

    Riêng trong lãnh vực đang bàn (tương quan với chức linh mục), chúng ta biết rằng bộ giáo luật phân biệt giữa các dòng “giáo sĩ” và các dòng “giáo dân”. Theo điều 588, một dòng được gọi là giáo sĩ “khi nào chiếu theo mục tiêu hay ý định mà vị sáng lập nhằm tới, hoặc chiếu theo truyền thống hợp lệ, dòng được đặt dưới sự điều khiển của các giáo sĩ, đảm nhận việc thi hành chức thánh, và được nhà chức trách Giáo hội nhìn nhận như vậy”.

    Như vậy, bộ giáo luật đã đặt ra hai tiêu chuẩn để xác định một dòng giáo sĩ: a) bản chất và mục tiêu của dòng; b) ý định của vị sáng lập. Trên thực tế, không phải lúc nào hai tiêu chuẩn ấy cũng rõ rệt. Xét về bản chất và mục đích, dĩ nhiên dòng nào chuyên về việc giảng thuyết, giải tội hay coi xứ thì cần đến chức linh mục: nhưng các dòng phụ trách thanh thiếu niên (như dòng Salesien) thì sao? Tiêu chuẩn thứ hai (ý định vị sáng lập) cũng mông lung không kém. Chúng ta hãy lấy một thí dụ từ thánh Phanxicô: thánh Phanxicô không phải là linh mục và cũng chẳng mơ ước cho các anh em Hèn mọn làm linh mục; vì thế, sau công đồng Vaticanô II, dòng Phansinh đã nhiều lần đòi xét lại bản tính giáo sĩ. Điều này có một hệ luận cụ thể, bởi vì trong một dòng giáo sĩ thì bề trên phải là linh mục; do đó nếu không phải là dòng giáo sĩ thì các trợ sĩ cũng có thể làm bề trên (thực ra thánh tổ phụ đâu phải là một linh mục?). Ngoài ra dòng Biển đức cũng đặt vấn nạn là đời đan tu xuất hiện trước khi có sự phân biệt giữa hàng ngũ giáo sĩ và giáo dân, vì thế họ muốn đứng vào hàng ngũ thứ ba: không giáo sĩ không giáo dân.

    Chính vì sự phân biệt của bộ giáo luật về các dòng giáo sĩ và dòng giáo dân không rõ ràng, cho nên có ý kiến đề nghị một thứ phân loại khác khi bàn đến chức linh mục, đó là “linh mục tu sĩ” hay “tu sĩ linh mục”[5]. Nói cách khác, đừng kể những ai muốn uống sữa nguyên chất, sự pha phôi có thể xảy ra giữa “cà-phê sữa” và “sữa cà-phê”.

    1/ “Linh mục tu sĩ” đặt chức linh mục lên hàng đầu, và nếp sống tu trì nhằm giúp việc thi hành tác vụ tốt hơn. Quan điểm này nổi bật nơi các dòng giáo sĩ kỷ luật và tu đoàn tông đồ, nhưng thiết tưởng cũng có thể áp dụng cho dòng Đaminh, với sứ vụ chính yếu là giảng thuyết; đời sống tu trì (kinh nguyện, khổ chế, học hành) nhằm chuẩn bị cho việc thi hành việc giảng thuyết hữu hiệu hơn (contemplata aliis tradere).

    2/ “Tu sĩ linh mục” đặt đời sống tận hiến lên hàng đầu, còn chức linh mục chỉ là một phương tiện để sống đời tận hiến. Điều này được áp dụng cho các đan sĩ cũng như cho những dòng mà đặc sủng không nhất thiết bao hàm các tác vụ của chức linh mục.

    B. Nhìn từ bản chất của chức linh mục

    Không ai phủ nhận tính đa dạng của ơn gọi tu sĩ; nhưng có thể khẳng định tính đa dạng của chức linh mục không?

    1/ Ý kiến cổ truyền cho rằng chỉ có một chức linh mục, do Chúa Giêsu thiết lập trong bữa Tiệc Ly. Tuy nhiên, ý kiến truy nguyên cho rằng quan điểm của Giáo hội tiên khởi thì khác. Ở đây chúng tôi không muốn nói đến sự phân biệt giữa chức tư tế phổ quát (của tất cả các tín hữug) và chức tư tế thừa tác, nhưng chỉ giới hạn vào bản chất của chức tư tế thừa tác mà thôi. Khi nói rằng Chúa Giêsu thiết lập chức tư tế thừa tác trong bữa Tiệc ly, người ta ngầm hiểu rằng chức linh mục được đặt ra để chủ sự Thánh lễ. Cái nhìn như vậy là hẹp hòi, bởi vì đã giới hạn tác vụ của linh mục vào việc tế tự, đang khi thánh Phaolô nhấn mạnh đến việc rao giảng Tin mừng như là sứ mạng chính yếu của ơn gọi tông đồ (“Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin mừng”: 1Cr 1,17). Mặt khác, theo các tài liệu của những thế kỷ đầu tiên (như sách Điđakhê), các buổi cử hành Thánh lễ do các ngôn sứ chủ toạ (chứ không hẳn là các tư tế). Nói cách khác, vào thời Giáo hội tiên khởi có nhiều hình dạng linh mục.

    2/ Ý kiến truy nguyên xem ra hơi táo bạo, và đã thúc đẩy Bộ Giáo lý đức tin phải lên tiếng nhiều lần[6]. Thôi thì chúng ta chấp nhận ý kiến cổ truyền là chỉ có một chức linh mục thừa tác do Chúa Giêsu thiết lập trong bữa Tiệc Ly; tuy nhiên có rất nhiều thể thức để thi hành tác vụ linh mục, hay cũng có thể nói đến sự đa dạng về thần học linh mục.

    (a) Khi các đan sĩ bắt đầu lãnh chức linh mục thì đối với họ bản chất của chức linh mục là cử hành Thánh lễ. Đây là quan điểm khá cổ truyền về chức linh mục thừa tác, tức là linh mục hiện thân cho đức Kitô (in persona Christi) để dâng Thánh lễ.

    (b) Tuy nhiên, từ nhiều thế kỷ trước ông Luthêrô, đã có người chỉ trích quan niệm tế tự của linh mục, bởi nguy cơ đồng hoá linh mục với ông thầy cúng, giới hạn tác vụ vào việc ban bí tích mà không lo giáo huấn bổn đạo, khiến cho họ dốt nát về đạo lý và sa sút về luân lý. Trong bối cảnh ấy, công đồng Latêranô IV năm 1215 đã truyền cho các giám mục hãy quan tâm đến việc rao giảng Lời Chúa. Thánh Đaminh lập dòng Giảng thuyết trong ý hướng đó. Các giám mục (và linh mục) cần phải đặt việc giảng thuyết như tác vụ chính yếu. Nên biết là các mục sư Tin Lành cũng đặt nặng công tác giảng thuyết hơn là công tác phụng tự, và nếu bước vào một nhà thờ Tin Lành, ta sẽ thấy ở chính giữa là tòa giảng với Kinh Thánh (thay vì bàn thờ và nhà tạm Mình Thánh Chúa như bên Công giáo).

    (c) Sang thế kỷ XX, những lối tiếp cận vừa kể bị phê bình là thiếu sót, không những bởi vì thiếu cái nhìn toàn diện về tác vụ linh mục nhưng còn bởi vì thiếu chiều kích Giáo hội. Thực vậy, không linh mục nào được Chúa Giêsu hiện ra để đích thân truyền chức. Các tác vụ được trao bởi Giáo hội và nhằm phục vụ Giáo hội. Như đã giới thiệu trong bài “Linh mục, người là ai?” đăng trong Nội san giao lưu số 15 (Xuân Canh Dần), sắc lệnh Presbyterorum ordinis của công đồng Vaticanô II và tông huấn Pastores dabo vobis của đức thánh cha Gioan Phaolô II (đúc kết những thành quả của Thượng hội đồng giám mục họp năm 1990 bàn về việc đào tạo linh mục) đã cố gắng trình bày một cái nhìn toàn diện về tác vụ linh mục, vừa quy hướng về Chúa Kitô vừa quy hướng về Giáo hội.

    - Trong tương quan với đức Kitô, linh mục là hiện thân của Chúa Giêsu (in persona Christi) để thi hành các tác vụ ngôn sứ, tư tế, mục tử.

    - Trong tương quan với Giáo hội, linh mục được tấn phong do Giáo hội và cho Giáo hội (in Ecclesia et erga Ecclesiam).

    Nói chung, những cách trình bày quy hướng về Đức Kitô được chấp nhận dễ dàng, khác với việc quy hướng về Giáo hội, bởi vì có nhiều ý kiến đối nghịch nhau. Phải hiểu thế nào về câu nói “linh mục được đặt lên do Giáo hội và cho Giáo hội”?

    + Linh mục được tấn phong do Giáo hội. Quan điểm cổ truyền giải thích rằng người tín hữu được tấn phong linh mục do nhà cầm quyền trong Giáo hội (giám mục, hoặc do sự đề cử của bề trên dòng nếu là tu sĩ), chứ không thể tự tiện tuyên bố mình được Chúa gọi. Quan điểm truy nguyên còn muốn đi xa hơn nữa. Theo họ, vào thời nguyên thuỷ, Giáo hội thiết lập chức linh mục để đáp ứng một đòi hỏi thuộc cơ cấu của mình; ngày nay, cộng đoàn địa phương cũng có thẩm quyền chỉ định một phần tử chủ toạ buổi cử hành Thánh lễ (đại khái tương tự như bầu chủ tịch uỷ ban nhân dân xã).

    + Linh mục được tấn phong cho Giáo hội. Quan điểm cổ truyền cho rằng chức linh mục được đặt ra để phục vụ cộng đoàn Dân Chúa (khác với người tu sĩ đi tìm sự thánh thiện bản thân). Quan điểm truy nguyên cho rằng linh mục được cử ra để phục vụ cộng đoàn, vì thế mang tính cách nhất thời; ngày nào chấm dứt công tác (hoặc vì cộng đoàn không cần nữa, hoặc đương sự mất khả năng) thì cũng kết thúc tác vụ linh mục. Như chúng ta đã biết, lập trường của Giáo hội công giáo là linh mục mang một ấn tích vĩnh viễn, cho dù không còn thi hành tác vụ nữa.

    Tôi không muốn dài dòng bàn về đạo lý của công đồng Vaticanô II và của huấn quyền giáo hoàng. Tôi chỉ muốn dừng lại ở một điểm, đó là không ít nhà thần học đã phê bình cái nhìn của Vaticanô II có phần thiếu sót, theo nghĩa là công đồng chỉ biết các linh mục triều (cà-phê đen) chứ không đả động gì đến các linh mục dòng (cà-phê sữa).

    Thực vậy, thần học về chức linh mục trước đây trình bày linh mục như là kẻ thay mặt Đức Kitô (alter Christus) để ban phát hồng ân cứu độ cho nhân loại. Theo nhãn giới này, mỗi linh mục đáng được coi là một ông trời con! Công đồng Vaticanô II (Sắc lệnh Presbyterorum ordinis) đã đặt linh mục trong khuôn khổ của giáo hội địa phương. Đứng đầu giáo hội địa phương là giám mục, với sự hợp tác của linh mục đoàn. Các cha sở thay mặt giám mục để phụ trách các giáo xứ với tư cách là mục tử. Tiếc rằng cái nhìn như vậy chỉ đúng cho các linh mục giáo phận, cách riêng cho các linh mục phụ trách các giáo xứ, chứ không bao gồm tất cả các linh mục, nhất là các linh mục dòng. Tông huấn Pastores dabo vobis cũng không tiến bộ hơn. Khuyết điểm của cả hai văn kiện vừa kể nằm ở quan điểm về Giáo hội, nghĩa là giới hạn vào Giáo hội địa phương thay vì mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ[7].

    Như chúng ta đã biết, từ thời Trung cổ, đã nảy ra nhiều cuộc tranh luận về đặc ân miễn trừ (exemptio): các dòng tu chỉ tùng phục Tòa thánh, và được miễn trừ khỏi quyền của các giám mục. Tiếc rằng các cuộc tranh luận thường bị đóng khung trong phạm trù “quyền bính” và gặp nhiều bế tắc. Ngày nay chúng ta có thể nhìn vấn đề dưới một viễn tượng mới, đó là chiều kích phổ quát của Giáo hội.

    - Các linh mục giáo phận (các cha triều) được nhập tịch vào một giáo phận, và đa số được uỷ thác phụ trách một giáo xứ. Vì thế họ mang nặng chiều kích giáo hội địa phương.

    - Các linh mục dòng tu (và các dòng tu nói chung) mang tầm nhìn của Giáo hội hoàn vũ. Họ không dừng chân ở biên cương của một giáo xứ hoặc một giáo phận. Họ nhìn đến những nơi chưa được nghe giảng Tin mừng (trên thực tế, phần lớn công cuộc truyền giáo do các dòng tu đảm nhận). Ngoài ra, chúng ta nên hiểu chiều kích phổ quát không những theo nghĩa địa lý nhưng còn về những môi trường nữa. Các cha xứ thường chỉ quan tâm đến các tác vụ săn sóc các linh hồn (cura animarum): giảng dạy, ban bí tích, quản trị cộng đoàn. Thế nhưng nhu cầu mục vụ ngày nay rất bao la và phức tạp: mục vụ truyền thông xã hội, mục vụ giới trẻ, mục vụ di dân, mục vụ cho những thành phần bị xã hội gạt bỏ, hướng dẫn tâm linh, giáo dục, đối thoại với văn hoá và tôn giáo, vv. Để đáp ứng những nhu cầu đó, Giáo hội cần đến những “đặc sủng” đa dạng của các dòng tu. Đây là chỗ đứng của các linh mục dòng.

    Tóm lại, đâu là sự khác biệt giữa linh mục dòng với linh mục giáo phận? Quan niệm thông thường cho rằng các linh mục dòng sống cộng đoàn và giữ ba lời khấn. Tuy nhiên, nhiều linh mục dòng không thấy áy náy lương tâm vì suốt đời một mình đi coi xứ và quên mất cộng đoàn, đang khi sắc lệnh Presbyterorum ordinis khuyến khích các linh mục duy trì đời sống chung (số 8c) và nhất là giới thiệu ba lời khuyên Phúc âm như con đường cần thiết để nên thánh (số 15-17). Có ý kiến muốn tìm sự khác biệt ở khía cạnh “tế tự” hoặc “ngôn sứ” của chức linh mục; hoặc giữa “định chế” và “đặc sủng” của Giáo hội. Chúng tôi nghĩ là sự khác biệt dựa trên chiều kích địa phương hay phổ quát của Giáo hội; chiều kích phổ quát được hiểu theo nghĩa địa lý và theo nghĩa môi trường.

    Kết luận

    Xin được rút ra hai hệ luận: thứ nhất về ơn gọi, thứ hai về đào tạo.

    1/ Ơn gọi linh mục dòng

    Ở Việt Nam, đi vào chủng viện hay đi vào tập viện cũng là “đi tu” (tu cha hay tu thầy cũng là tu; làm cha triều hay cha dòng cũng là cha). Lại càng ít người bận tâm về đặc sủng của mỗi dòng tu (tại sao tu dòng Đaminh, chứ không tu dòng Tên, dòng Xitô?)

    Dù sao, khi vào dòng, người ta nhận thấy rằng đa số thanh thiếu niên chọn con đường làm giáo sĩ, hơn là xin làm tu huynh (hoặc gia nhập dòng giáo dân, hoặc làm trợ sĩ trong dòng giáo sĩ). Tại sao vậy: phải chăng tại vì làm cha thì danh giá hơn (cho bản thân cũng như cho gia đình)? Xin dành việc phán xét lương tâm cho Thiên Chúa. Tôi chỉ nêu lên một câu hỏi khác liên quan đến việc sống theo ơn gọi của mình: là một linh mục dòng Đaminh, cái gì quan trọng hơn đối với tôi? Tiên vàn tôi là linh mục, hay tiên vàn tôi là tu sĩ Đaminh? Lẽ ra không nên tách rời hai câu hỏi đó, bởi vì tôi là linh mục dòng Đaminh có nghĩa là tôi thi hành tác vụ linh mục theo đặc sủng của dòng Đaminh (chứ không như các linh mục triều, hoặc như các linh mục dòng Tên, dòng Xitô). Tuy vậy từ sau công đồng Vaticanô II, có những ý kiến đòi xét lại tính cách giáo sĩ của dòng Đaminh, với hậu quả là có nhiều anh em tốt nghiệp thần học (và các cấp bằng đại học khác) nhưng không muốn lãnh chức linh mục. Họ chủ trương rằng đặc sủng giảng thuyết của dòng Đaminh không nhất thiết gắn liền với chức linh mục: tôi vào dòng là để giảng, chừng đó đủ rồi. Dĩ nhiên, đối với họ, chuyện các linh mục dòng Đaminh đi coi xứ là điều không thể nào chấp nhận được: ai muốn đi coi xứ thì hãy gia nhập chủng viện chứ đừng xin đi tu dòng! Để bổ túc thêm cho bức tranh, xin mạn phép ghi nhận một thực trạng đối nghịch, đó là có những linh mục dòng Đaminh xin chuyển sang làm linh mục triều, nhưng rất họa hiếm thấy một linh mục triều xin nhập dòng Đaminh (như trường hợp chân phước Hyacinthe Cormier, làm bề trên tổng quyền của dòng cách đây 100 năm)[8].

    2/ Đường lối huấn luyện

    Như đã nói ở nhập đề, tôi đã chọn đề tài này nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Tông hiến Venerabilium nostrorum đã kết thúc một giai đoạn hiện diện của dòng Đaminh: từ nay dòng phải đi tìm những phương thức phục vụ khác với phương thức cổ truyền, tức là một là nhà trường hai là nhà xứ: a/ nhà trường có nghĩa là phụ trách việc đào tạo hàng giáo sĩ, từ tiểu chủng viện cho đến đại chủng viện (đặc biệt là Giáo hoàng chủng viện thánh Albertô được khánh thành cách đây 80 năm, vào ngày 8/9/1930); b/ nhà xứ được hiểu là làm cha xứ và nếu khá hơn thì làm giám mục.

    Thời ấy đã qua đi từ 50 năm nay rồi, nhưng xem ra đường lối huấn luyện của học viện Đaminh không thay đổi bao nhiêu, nghĩa là vẫn nhằm đến việc đào tạo các cha xứ, hoặc phục vụ các giáo xứ; trong thời gian thực tập, các sinh viên được cử về các giáo xứ (chứ không về nhà trường hoặc các môi trường khác). Tôi không muốn phản đối mục vụ giáo xứ, nhưng chỉ lưu ý rằng một cái nhìn như vậy đã thu hẹp quan điểm Giáo hội học. Dòng Đaminh cần nhắm đến Giáo hội phổ quát, chứ không thể giới hạn tầm nhìn vào giáo hội địa phương giống như các linh mục giáo phận. Nói đến phục vụ Giáo hội phổ quát có nghĩa là sẵn sàng ra đi đến những chân trời mới (như tôi được biết nơi các dòng Tên, dòng Ngôi Lời, dòng Salesien). Phục vụ Giáo hội phổ quát cũng có nghĩa là mở rộng đến các môi trường mục vụ mới, bên trên các sinh hoạt giáo xứ, và cụ thể là công tác văn hoá để phục vụ Giáo hội Việt Nam. Sau hơn ba trăm năm rao giảng Tin mừng, chúng ta thấy còn rất nhiều công việc phải làm.

    Tôi xin kết luận với một lời cầu chúc: xin các anh em sinh viên đừng chỉ mơ ước mình sẽ làm phó xứ hay chánh xứ. Nhu cầu của Giáo hội Việt Nam rất đa dạng mà các chuyên viên còn thiếu: đối thoại văn hóa, đối thoại tôn giáo, học thuyết xã hội, luân lý sinh học, truyền thông xã hội, vv. Xin các anh em hãy đặt tầm nhìn rộng hơn: tôi muốn làm một chuyên gia Kinh thánh, thần học, phụng vụ, pháp luật, xã hội, cho Hội đồng giám mục Việt Nam; tôi muốn trở thành giáo sư không những tại Trung Tâm học vấn Gò vấp, nhưng còn tại các tại các cơ sở trí thức của dòng: Angelicum, Fribourg, Jerusalem, hoặc ít là tại Manila, Macao.

    Nhận xét vừa rồi cũng có giá trị với các dòng khác nữa. Ở nhiều nơi, các sinh viên dòng tu được gửi đi học tại các chủng viện (cũng như trước đây một số lớn tu sĩ Đaminh theo học ở Giáo hoàng chủng viện Nam định). Qua những điều đã trình bày trong bài thuyết trình này, chắc quý vị bề trên ý thức được sự khác biệt giữa chủng viện và học viện dòng tu, cũng tựa như giữa xưởng bào chế cà-phê đen và bào chế cà-phê sữa vậy. Xin quý vị giúp chúng tôi bảo vệ đúng công thức đã cầu chứng tại toà.

    Tuy nhiên chúng ta đừng quên rằng dù là linh mục, dù là tu sĩ, người đời trông mong được thấy nơi chúng ta một Đức Kitô thứ hai (alter Christus), một con người của Tin mừng (vir evangelicus). Lý tưởng cao quý biết bao, và chắc chắn rằng chúng ta không thể nào tự sức thể hiện được. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp đỡ chúng ta.

    Trước khi kết thúc, tôi muốn nói vài lời tri ân các cha Đaminh Tây-ban-nha đã truyền giáo ở miền Đông Đàng ngoài. Theo đức thánh cha Piô XI, đây là miền truyền giáo phồn thịnh nhất không những tại Việt Nam mà còn cả thế giới nữa. Đâu là bí quyết thành công của các ngài? Chắc hẳn có nhiều nhân tố, nhưng thiết tưởng phải xếp sự cầu nguyện ở hàng đầu. Quy chế thành lập tỉnh dòng Mân côi đã dự trù mỗi ngày suy ngắm 2 giờ đồng hồ (đừng kể các kinh nguyện phụng vụ). Đứng trước bao nhiêu công việc dồn dập của nhu cầu truyền giáo, các cha quyết định dành thêm giờ để cầu nguyện: một điều xem ra phi lý theo sự tính toán của chúng ta, nhưng lại nằm trong logic của Chúa: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít ... Các con hãy nài xin chủ ruộng sai thêm thợ gặt”. Việc truyền giáo là chuyện của Chúa trước khi là chuyện của chúng ta.

    (nguồn: http://www.daminhvn.net/than-hoc/271...c-dong-tu.html)

  7. #7

    Talking Tình bạn và tình yêu trong đời tu



    Ý nghĩa đời tu: Có lẽ điều liên tưởng đầu tiên của những người ngoài đời về các vị đi tu là những người không lập gia đình, những người sống độc thân. Tuy nhiên, liên tưởng này không phải ai cũng hiểu được một cách thấu đáo, đặc biệt những người không phải là Kitô giáo. Chính vì nhẽ đó, mà có những người không phải Kitô giáo, khi gặp các vị linh mục, tu sĩ, thường hỏi: vậy đi tu có được lấy vợ không? Hoặc có kẻ không biết ác ý hay vô tình không biết còn hỏi: vậy đi tu có lấy được các soeur không! Thật là quá đáng và quá đáng!

    Vậy đi tu là gì? Và tại sao đi tu lại phải sống độc thân? Nhiều người trả lời rằng, đó là dựa theo những lời khuyên của Tin mừng, dựa vào những đặc tính đã có từ lâu trong lịch sử. Chọn đời sống độc thân là vì tình yêu củ Đức Kitô. Trước tiên, có lẽ khỏi nói, từ bậc cao nhất đến hàng rốt chót, cũng biết đi tu là dâng mình cho Chúa. Nói như vậy cũng đúng nhưng xem ra chưa đủ. Ngắn gọn đó nhưng chưa mang tính chiến đấu cao. Bởi vì nếu như vậy sẽ có kẻ vặn lại ai cũng có thể dâng mình cho Chúa "mà lị". Họ sẽ phùng mang trợn mắt, nói văng cả nước miếng mà thuyết cho chúng ta rằng: một mức độ nào đó, bất cứ ai khi lãnh nhận bí tích Thanh tẩy cũng được xem là dâng mình cho Chúa rồi. Điều này là bởi vì, nhờ tác động mầu nhiệm và thầm kín của Chúa Thánh Thần, qua lời cam kết từ bỏ ma quỷ và mọi sự quyến rũ, thụ nhân chịu phép Thanh tẩy đã được thánh hiến cách riêng cho Chúa. Với lập luận cứng như "đinh đóng cọc" này, họ sẽ cho rằng cần cóc gì phải đi tu nữa, dĩ nhiên và ngang nhiên là không cần đến việc sống độc thân. Cho nên họ việc lập gia đình và sống đúng vai trò của con người và người con của Chúa là dâng mình cho Chúa cách trọn vẹn. Được lợi cả hai: vừa được cả đời này (vợ đẹp con ngoan) lẫn đời sau.

    Điều này hoàn toàn đúng, không sai một chút nào. Nhưng còn một sự thánh hiến thứ hai dành đặc biệt cho một số người mà được Chúa tuyển chọn cách riêng. Thánh hiến trong bậc tu trì. Cuộc thánh hiến này làm cho họ thuộc về Chúa một cách quyết liệt hơn. Thật vậy, trong khi lời hứa của phép Thanh tẩy nhằm từ bỏ ma quỷ và quyến rũ của nó, thì lời khấn hứa của các tu sĩ trong dòng tuyên bố mình thuộc về Chúa cũng như tuyên bố công khai Chúa là chủ nhân tuyệt đối đời mình. Qua ba lời khấn, tu sĩ sẽ bằng lòng một cách tự nguyện từ bỏ chiếm hữu và sử dụng tài sản, giữ luật độc thân và khước từ mọi nhục cảm và tùy thuộc vào bề trên dòng. Nếu qua chịu phép Thanh tẩy ghi dấu ấn đặc biệt trên thụ nhân để làm họ thành dân riêng của Chúa, lời khấn dòng cũng phân hạng cho tu sĩ, biến họ thành những người được thánh hiến trong Hội thánh. Con đường này thật thánh thiện nhưng những người đi trên con đường này có thực sự thánh thiện lại là một chuyện khác. Họ tuy được thánh hiến đặc biệt nhưng vẫn là những con người với những bất toàn của phận người và sống giữa những người đời trong cuộc đời trần thế. Ở trong đời mà lại không thuộc về đời. Theo như nhà thần học Congar nói về đời tu trong thời đại mới: "ở đời mà lại ít thuộc về đời".

    Để hiểu rõ hơn chúng ta đọc đoạn văn sau đây: "Do phép rửa, tín hữu chết cho tội lỗi và được hiến dâng cho Chúa, Nhưng muốn lãnh nhận ơn ích dồi dào, họ phải dùng lời tuyên hứa trong Hội thánh mà thực thi các lời khuyên của Tin Mừng để gỡ mình ra khỏi những ràng buộc, ngăn trở có thể làm cho họ chậm bước trên đường mến yêu thờ phượng Chúa cách hoàn hảo. Nhờ những lời khấn này, họ hiến thân phục vụ Chúa cách mật thiết hơn. Sự dâng hiến này càng trở nên hoàn hảo khi càng được lời khấn bảo đảm." (LG 51)

    Như vậy, qua đây chúng ta thấy sự hiến thân trong bậc tu trì và khi chịu bí tích Thanh tẩy cũng là một. Tuy nhiên, hình thức hiến thân trong bậc tu trì thì theo con đường chặt chẽ hơn để đi tới Chúa. Một trong ba yếu tố giúp cho việc theo Chúa chặt chẽ hơn là sống độc thân. Lý do có thể là các tu sĩ hoàn toàn tự do muốn hiến thân trực tiếp cho việc phục vụ và phụng thờ Thiên Chúa.

    Tình bạn và tình yêu

    Việc nói tới tình bạn và tình yêu trong đời tu hay cụ thể hơn là trong đời sống độc thân xem ra hơi khó và phức tạp. Thật vậy, cũng chính vì tình bạn và và tình yêu trong đời sống độc thân mà đã khiến bao nhiêu người "trần ai khoai củ" mới vượt qua được để đứng vững trong đời tu. Cũng chính vì tình bạn và tình yêu trong đời sống độc thân mà khiến bao nhiêu tu sĩ không muốn tu hoặc không tu được nữa. Tuy nhiên, thiết nghĩ và dám chắc chắn rằng với những người sống đời sống độc thân trong bậc tu trì một cách trọn vẹn thì vẫn có thể có những tình bạn, tình thân và thậm chí tình yêu một cách tốt đẹp và đáng được trân trọng. Cho nên việc quan trọng và thiết yếu là có một thái độ và giữ mối quan hệ như thế nào cho phù hợp về tình bạn và tình yêu trong đời tu. Như đã nói ở trên, một trong những điều liên tưởng đầu tiên mà cũng gây tò mò cho bao người, về những người tu sĩ là không lập gia đình, sống đời sống độc thân. Độc thân nhưng không có nghĩa là đơn độc. Độc thân nhưng không phải là sống một mình. Người ta thường hát "không ai là một hòn". Đúng vậy, con người là sống vì, sống cho và sống với mọi người. Đời tu, cũng vậy, cần phải sống vì, sống cho và sống với mọi người. Chính vì lẽ đó, những người tu sĩ cũng cần có tình bạn, thậm chí cả tình yêu trong đời sống độc thân. Cái quan trọng là khái niệm và biên độ của tình yêu và tình bạn của những người tu sĩ tới đâu là đủ. Có những tu sĩ, đặc biệt là các soeur, rất ư là "nhát đòn" trong khái niệm về tình bạn và tình yêu trong đời tu. Thật vậy, một số người vẫn nghĩ rằng hễ có một tình bạn hơi sâu xa một chút là đã vi phạm lời khấn khiết tịnh rồi. Theo họ việc trao hiến con tim cho Chúa thì cho đến chết chỉ một mình họ biết con tim đó, ngoài Chúa ra. Thái độ của những người theo lập trường này là sợ gắn bó với ai, sợ gắn bó để có một tình bạn, e dè đón nhận những cách bày tỏ tình thân một cách trong sáng, không hàm hồ. Đó cũng là thánh thiện, là một tu sĩ thánh thiện nhưng không vui. Một tu sĩ buồn là một tu sĩ đáng buồn! Một tu sĩ đích thực là cần phải hội đủ hai điều kiện: đi tìm Chúa và đem Chúa đến cho mọi người. Như vậy, người tu sĩ là những người đầu tiên giới thiệu Chúa cho những người khác. Họ là những người đầu tiên tình nguyện đón nhận và giới thiệu tình yêu Thiên Chúa. Giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương trong sự thân ái, thiện cảm và vui vẻ. Có thể nói sứ mạng của người tu sĩ gieo rắc thiện cảm và niềm vui, sau đó gặt hái về trong tâm tình của những tâm hồn biết yêu và được yêu.

    Trái lại với thái độ "nhát đòn" là thái độ quá "lì đòn" trong tình bạn và tình yêu trong đời sống độc thân. Quan niệm này có thể là do không biết hoặc chưa ý thức đủ về ý nghĩa của đời sống độc thân và những mối nguy hại của tình bạn và tình yêu trong đời sống dâng hiến. Tuy người tu sĩ sống đời sống độc thân nhưng, nhìn vào thực tế, chúng ta thấy có một số tu sĩ không đơn độc. Họ có rất nhiều con linh thiêng, cả những người ngoài đời lẫn những người trong nhà tu. Không phải nói quá, nhưng có những cha, thầy đi đâu cũng có những người con, cháu, anh, chị, em... kết nghĩa, tinh thần. Cũng vậy, có những souer gặp đâu cũng kêu bố, ông nội,... mà nếu tính đời linh tông đôi khi bắn đại bác cả ngày cũng chưa tới! Âu cũng là con người với những thu hút lẫn nhau và khác dấu hút mạnh hơn. Một thực tế, nếu chúng ta để ý, hình như các cha thầy có nhiều ông nội, ông ngoại,... linh tông, nhưng các soeur thì chỉ có ông nội, bố chứ không có ông bà ngoại, mẹ linh tông! Với nhiều tình thân trong mối dây linh tông như vậy sẽ khó mà có được tình bạn và tình yêu trong sáng trong đời sống dâng hiến. Dẫu biết rằng, họ luôn ý thức đó là linh thiêng, nhưng với một người đã thưa với Chúa "con chỉ muốn yêu mình Ngài thôi" mà lại có quá nhiều mối tình thân như vậy thì sao có thể còn chỗ cho tình yêu của Thiên Chúa triển nở nơi mình? Thay vào đó là những "tình bạn đặc biệt', những "linh tông bí mật". Chính những mối tình thân quá khép kín và đặc biệt này gây ra những dị nghị và cản trở cho việc phát triển trong cộng đoàn tu trì của họ. Kết quả là không ít những tu sĩ rơi vào tình trạng "khởi sự nhờ Thần khí, nhưng kết thúc bằng xác thịt". Thế mới có chuyện kể rằng: người mẹ, trước kia cũng là người đã từng đi tu, thấy con gái mình có mối quan hệ rất thân thiết với một ông thầy. Đi đâu ông thầy và cô con gái cũng đi chung. Thấy điều bất ổn như vậy, với kinh nghiệm của mình đã từng trải qua, bà mẹ nói với con gái: "Con nên cẩn thận và ý tứ trong việc tiếp xúc với ông thầy nhé!" Cô con gái đáp: "Mẹ cứ an tâm đi, chúng con là anh em kết nghĩa mà lị". Bà mẹ nói: "Tiên sư bố mày, hồi xưa tao cũng vì anh em kết nghĩa nên giờ tao mới khổ như vậy nè!".

    Tình bạn và thậm chí tình yêu trong đời sống dâng hiến là không thể không có. Vì dù sao Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa và đôi khi Người có vẻ như ở xa chúng ta quá... Cho nên việc có những mối tình thân của những người tu sĩ là hết sức cần thiết và bình thường. Một người bạn thân có thể là một người, khác phái hay cùng phái, đang làm chung với ta hay ta thường gặp thường xuyên. Một người bạn thân có thể là một người mà ta cảm thấy có điều gì ràng buộc, dù không biết tại sao, vì có một thiện cảm trong sáng sâu sắc mà khó có thể phai nhòa được. Cho dù có xa cách, người đó vẫn là một điều gì đó thật quý báu với ta. Thật vậy, Thiên Chúa luôn muốn những người tận hiến cho Người, nếu cần, vẫn có thể tìm cho mình một người bạn nào đó để đem lại một tình yêu vô hình thành hữu hình.

    ...một quả tim bằng thịt

    "Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt" (Ed 11, 19).

    Thật vậy, Thiên Chúa đã gỡ bỏ con người quả tim gỗ đá và thay vào một quả tim bằng thịt, có lẽ Người cũng muốn con người biết yêu như Người, như người đã yêu Con của Người, bằng một quả tim nhân loại, một quả tim biết rung động và đau đớn. Cho nên, nếu lý tưởng của sự độc thân là vô cảm thì có lẽ đó không phải là sự độc thân của Kitô giáo. Vì thế, khó khăn của con đường độc thân là chúng ta vẫn phải có một trái tim thật cởi mở, có thể yêu thương một cách trong sáng không hàm hồ. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể bước vào con đường này một cách trong sáng và tốt đẹp. Nếu không đủ khôn ngoan, sáng suốt và khéo léo thì những mối quan hệ này sẽ gây ra thất vọng và có thể đưa tới ngõ cụt. Dĩ nhiên một tình bạn trong sáng trong đời sống độc thân là một điều người tu sĩ nào cũng mong muốn có. Nhưng điều nên nhớ là làm sao cho tình bạn triển nở trong sự tự do hoàn toàn giữa người này với người kia. Tránh đi những tình bạn quá nghiêng về cảm giác, từ đó dễ dành chỗ quá lớn cho nhu cầu cần đến nhau và những khát vọng. Là một con người với những nhu cầu bình thường, nếu đôi khi xác thịt bị những khát vọng dày vò, thì đó là chuyện bình thường, nhưng lúc đó không được phép nhượng bộ hay trì hoãn. Tình bạn chân thật trong đời sống độc thân có thể trao nhau với tất cả sự sáng suốt, không có hậu ý để minh chứng cho sự kết hợp vô hình giữa Người với những kẻ được Người yêu thương. Một sự kết hợp như vậy được thực hiện với sự liên kết của Thiên Chúa, giữa ta với Người. Cũng nhờ đó, tình bạn chân thật trong đời sống dâng hiến sẽ tìm thấy Chúa ở nơi sâu xa tới mức không có gì có thể cản trở tình yêu của họ đối với Thiên Chúa được.

    Tạm kết

    Nếu đặt câu hỏi tại sao có những tu sĩ nam nữ từ khước hôn nhân? Câu trả lời, với những người Kitô giáo, là "Vì Người, vì Đức Kitô". Làm sao có được chuyện ấy? Có hay không cũng vẫn không quan trọng nhưng đó vẫn là sự thật. Tuy nhiên, những người ngoài cuộc vẫn tò mò và đôi khi cảm thấy thương tiếc cho những người tu sĩ vì không có người yêu bên cạnh. Nhưng những người tu sĩ có thể nói như thánh Gioan rằng: tôi đã tin vào tình yêu của bạn thì bạn hãy tin rằng cả tôi nữa, tôi cũng biết thế nào là tình yêu chứ. Chính vì tình yêu vào Đức Kitô mà người phụ nữ khước từ anh thanh niên hấp dẫn, cương nghị và nồng nàn. Cũng chính vì tình yêu vào Đức Kitô mà chàng thanh niên từ khước cô thiếu nữ đang yêu, thông minh, hiền hòa và dễ thương. Tất cả vì tình yêu và để phục vụ và phụng vụ Thiên Chúa mà những người tu sĩ đã chọn đời sống độc thân.

    Tuy nhiên, độc thân không bao hàm là có một lối sống đơn độc lẻ loi. Họ vẫn có những nhu cầu tình cảm, chia sẻ tình cảm của mình cho người khác và ngược lại. Đó là tình bạn trong đời sống độc thân. Một mối tình thân trong sáng và không hàm hồ. Đó là con đường thánh thiện mà người tu sĩ nào cũng phải đạt tới. Nhưng trên thực tế không phải tu sĩ nam nữ nào cũng cũng có thể có một tình bạn, một tình thân trong sáng, không hậu ý trong đời sống độc thân. Đúng vậy, với quả tim bằng xương thịt, không ít lần người tu sĩ bị những cảm giác và nhục dục lôi kéo theo những tình cảm mà tự nó cản trở cho đời sống độc thân. Cần phải có một thái độ triệt để trong lãnh vực này. Triệt để không có nghĩa là sẽ không bị thử thách, sẽ không bao giờ bị sa ngã và yếu đuối, sẽ không một tình cảm nào đó để lấp vào khoảng trống cần đáp trả yêu thương và được yêu vì hình như lúc này Thiên Chúa quá xa... Nhưng dù có vấp ngã, dù có sa ngã ta vẫn tiến lên phía trước như một người vẫn kiên vững trong quyết định của mình, cho dù thực tế vẫn còn bao yếu đuối.

    (Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110328/9581)

  8. #8

    Talking Chúc lành của người cha



    Ðức Hồng Y Cardjin, vị sáng lập của phong trào Thanh Lao Công, đã tự thuật như sau: "Tôi là con của giai cấp công nhân. Nếu tôi đã có thể trở thành linh mục, là cũng nhờ cha tôi". Cha tôi là một công nhân nghèo. người đã phải hy sinh để nuôi dưỡng những đứa con mà hẳn người đã hãnh diện. Tôi còn nhớ, khi lên 13 tuổi, một buổi tối nọ, khi các anh chị của tôi đã lên giường đi ngủ, tôi rón rén bước xuống nhà bếp. Tôi đến gần cha tôi. Người đang ngồi trầm ngâm với chiếc ống điếu. Còn mẹ tôi thì đang khâu giày cho chúng tôi. Tôi rụt rè thưa với cha tôi: "Thưa ba, con có thể tiếp tục học không?". Cha tôi trả lời: "Con ơi, ở tuổi con ba đã phải đi làm rồi. Nay thì ba đã già và sức ba cũng đã mòn".

    Tôi lấy hết can đảm để thuyết phục cha tôi: "Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn trở thành linh mục".

    Bình thường cha tôi là một người ít biểu lộ tình cảm. Nhưng tối hôm đó, khi vừa nghe tôi cho biết ý định làm linh mục, nước mắt người bỗng từ từ lăn trên gò má... Và đôi tay của mẹ tôi cũng run lên vì xúc động.

    Cuối cùng, khi làm chủ được cơn xúc động, cha tôi mới thốt lên với tất cả cương quyết: "Ba má đã hy sinh quá nhiều... Nhưng để cho một người con làm linh mục, ba má nguyện sẽ tiếp tục hy sinh".

    Mà quả thực, cha mẹ tôi đã tiếp tục làm việc nhiều hơn nữa để tôi có thể tiếp tục học. Vừa mãn trung học, 8 ngày trước khi lãnh thưởng cuối năm, tôi nhận được điện tín nhắn tin cha tôi đau nặng.

    Trên giường hấp hối, cha tôi nhìn tôi mỉm cười: đó là chúc lành cuối cùng mà người dành cho tôi. Người cha đáng thương, hy sinh cho đến chết để người con được trở thành linh mục.

    Sau khi vuốt mắt người, tôi đã thề hứa sẽ hy sinh để trở thành linh mục, nhất là linh mục cho giới công nhân.

    Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài muốn. Nhưng tiếng gọi ấy luôn được ngỏ với con người trong một khung cảnh sống cụ thể. Khung cảnh ấy có thể là gia đình, là chợ búa, là trường học, là chỗ làm việc... Có những khung cảnh thuận tiện, mà cũng có những khung cảnh không thuận tiện. Có những nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm, vun xới. Có những nơi hạt giống ấy bị bóp nghẹt...

    Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài muốn, nhưng kẻ được gọi luôn là người đang sống cùng và sống với những người khác. Do đó, nếu không có sự nâng đỡ của những người xung quanh, hạt giống ơn gọi cũng sẽ mai một dễ dàng...

    Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Ý thức đầu tiên của chúng ta trong ngày hôm nay phải là: ơn gọi là vấn đề của mọi người Kitô. Từ gia đình, đến trường học, công sở... mọi người chúng ta đều có trách nhiệm nâng đỡ và bảo vệ hạt giống ơn gọi mà Chúa muốn gieo vào lòng những người anh chị em của chúng ta.

    Thánh Gioan Bosco đã nói: phần thưởng quan trọng nhất mà Chúa có thể dành cho mọi gia đình Kitô, đó là kêu gọi một người con làm linh mục. Phần thưởng trọng đại ấy, Chúa dành cho các gia đình có con cái tận hiến cho Chúa, nhưng Ngài cũng dành cho tất cả những ai cách này hay cách khác biết cổ vũ, nâng đỡ và giúp phát triển ơn kêu gọi...

    (Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110429/10130)

  9. #9

    Mặc định

    Thông thường, đối với nam giới, có ơn gọi tu dòng để trở thành tu sĩ hay linh mục của một dòng tu (Dòng Chúa Cứu thế, Dòng Phanxicô...) và ơn gọi triều để trở thành linh mục địa phận. Chủng sinh đi tu để trở thành linh mục triều hay linh mục địa phận học tại các đại chủng viện. Hiện nay tại Việt nam có 6 đại chủng viện và 1 đại chủng viện tại Xuân Lộc được coi như cơ sở 2 của Đại chủng viện thánh Giuse, Sài Gòn.

    Điều kiện nhận vào chủng sinh đoàn của mỗi giáo phận hay vào đại chủng viện tùy thuộc một số qui định (chẳng hạn trình độ học lực, tuổi tác...) của giáo phận hay của đại chủng viện. Vậy nếu bạn muốn tìm hiểu ơn gọi linh mục triều thì nên gặp các cha quản/phó xứ nơi bạn sinh sống để xin các cha giới thiệu bạn đến gặp gỡ và trao đổi với các cha đặc trách về ơn gọi chủng sinh của giáo hạt hay giáo phận. Cha đặc trách ơn gọi chủng sinh này sẽ cho bạn biết những điều kiện cụ thể để theo ơn gọi triều.

    Sự khác nhau linh mục triều và linh mục dòng

    1. Linh muc triều: Một người muốn đi tu trở thành linh mục làm việc và sống trong 1 địa phận mình muốn (có thể là Cha Phó, Cha Xứ hay được Đức Cha trong địa phận mình đang ở cắt đặt một việc nào đó). Sau khi hết lớp 12 hay chương trình đại học, ứng viên đến nhờ một Cha hay đến văn phòng ơn gọi hoặc gặp Ban Giám Đốc chủng viện thuộc địa phận đó để xin gia nhập làm chủng sinh thuộc địa phận này. Sau khi được tiếp nhận thì dĩ nhiên người ta sẽ cho 1 thời gian thử nghiệm và nếu được thì được học 2 năm triết học và 4 năm thần học (như ở Việt Nam chương trình trươc kia khi Cha học là như thế), ở ngoại quốc thì học 3 năm triết học để lấy bằng. Sau đó vào học 4 năm hoặc năm để lấy tới bằng cao học thần học rồi đệ đơn xin chịu chức linh mục.

    - Sống đời linh mục : mình khấn với Đức Giám Mục là vâng lời và làm việc trong địa phận đó, cuộc sống của mình là do địa phận ấn định, thí dụ bên ngoại quốc thì được lãnh lương tương đương với 1 người công nhân bình thường để có cuộc sống căn bản và dĩ nhiên số tiền lương này mình được toàn quyền sử dụng.

    2. Linh mục Dòng: Sau khi Bạn muốn đi tu Bạn có thể đến hoặc hỏi Cha nào đó về 1 Dòng Bạn muốn vào: Tương lai của Bạn sau khi được nhận,
    -Bạn sẽ được thử nghiệm trong 1 thời gian từ 6 tháng đến 1 năm, Bạn sẽ được nhận vào nhà tập (nếu Dòng Nữ hiện nay có 1 năm tập ngặt và 1 năm tập rộng, thời gian này Bạn học luật sống, lời khấn và thực tập đời sống cộng đoàn), còn dòng Nam thì thường sau 1 năm tập Bạn sẽ được khấn tạm với 3 lời khấn qua tay Bề Trên của Dòng đó: Vâng lời, khiết tịnh và khó nghèo theo đặc sủng của dòng đó.

    -Như thế sau 3 hoặc 6 năm khấn tạm, Bạn sẽ được khấn trọn và trọn đời Bạn sẽ ở trong Dòng đó; nếu là dòng có tính cách quốc tế Bạn có thể được gọi đi bất cứ chỗ nào Bạn muốn như Rome, hay các nước có sự hiện diện của Dòng đó). Và cuộc sống của Bạn sẽ có 2 vấn đề được đặt ra đó là:

    +Cuộc sống cộng đoàn: Có thể Bạn sẽ được gửi đến 1 cộng đoàn 2, 3 hay nhiều người hơn để Bạn sống chung và làm theo yêu cầu của Bề Trên rheo nhu cầu ở đó và của Dòng nơi Cộng Đoàn Bạn ở.

    +Vấn đề thứ 2 lài mọi tài sản hay lương của Bạn có đều cho vào làm của chung. còn dĩ nhiên Bạn cũng có một chút tiền để chi tiêu lai rai. khi Bạn cần gì thì xin Bề Trên và cuối cùng khi Bạn về hưu hay chết thì nhà Dòng sẽ lo lắng cho Bạn hết.


    Có một số điều bạn cần trả lời cho chính mình:
    1. xác định lý do khiến bạn muốn đi tu?
    2. các điều kiện bạn cần đáp ứng đối vơi đời tu:
    a. học vấn : thường phải 12/12, sau đó phải học thêm.
    b. tuổi :thương 18 - 24; tuổi của bạn là 28, là tu muộn - phải bề trên cấp cao mới có thẩm quyền nhận, cho những trường hợp đặc biệt.
    c. độc thân, có xác nhận và giới thiệu của cha xứ...
    d. một thời gian trao đổi, tìm hiểu ơn gọi...
    3. Tìm hiểu về ơn gọi các dòng tu trên trang giới thiệu các dòng tu của diễn đàn SB; hoặc trong cuốn niên giám Giáo Hội Việt Nam, phần giới thiệu các dòng tu...
    4. Quan trọng là Cầu nguyện xin Chúa soi sáng, suy nghĩ, quyết định...
    5. Theo các địa chỉ được giới thiệu đến liên hệ trực tiếp với các bề trên, vị đặc trách ơn gọi của dòng tu bạn thấy hợp.

    Thân chào, chúc bạn tìm ra ý Chúa muốn bạn trở nên giữa lòng đời và trong lòng Giáo hội.

  10. #10

    Mặc định

    THÔNG BÁO TUYỂN SINH
    CỦA TỈNH DÒNG PHANXICÔ VIỆT NAM


    Tỉnh Dòng Phanxicô (còn gọi là Dòng Anh Em Hèn Mọn) Việt Nam trân trọng
    thông báo đến quý cha, quý phụ huynh và các bạn trẻ về việc tuyển sinh
    đợt 1 năm 2011.
    Để đón nhận những ứng sinh mới, có nguyện vọng sống ơn gọi người Anh
    Em Hèn Mọn, Ban Mục Vụ Ơn Gọi Tỉnh Dòng sẽ tổ chức kỳ tĩnh tâm khám
    phá và tuyển lựa ơn gọi Ơn gọi từ ngày 09 đến 14 tháng 5 năm 2011.
    Kính mong quý cha, quý phụ huynh khích lệ, tạo điều kiện cho các bạn trẻ
    hân hoan đáp lại tiếng Chúa và quảng đại dấn thân phục vụ Chúa và Giáo
    hội.

    ****************************************

    1. ĐIỀU KIỆN DỰ TUYỂN :

    • Có ước muốn tìm hiểu đời sống tu trì
    • Đã tốt nghiệp PTTH : tuổi từ 18-22;
    Nếu đang theo học đại học hoặc đã tốt nghiệp đại học : tuổi không quá 25

    2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH

    • Thời gian : từ nay cho đến ngày 30 tháng 04 năm 2011
    • Địa điểm : Tu viện Phanxicô, 42 đường Đình Phong Phú,
    phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, Tp HCM

    Xin liên hệ

    (1) cha Anselm Nguyễn Hải Minh – cell phone : 090 365 8203
    (2) cha Gioan Baotixita Trần Khắc Du – cell phone : 098 649 7008
    (3) Email Ban Mục vụ ơn gọi : mucvuongoiofm@gmail.com

    • Thể lệ ghi danh : Hồ sơ gồm

    (1) Đơn xin tham dự tuần khám phá ơn gọi theo mẫu (có dán ảnh và cha xứ xác nhận)
    (2) Bản sao Bằng Tốt Nghiệp Phổ Thông Trung Học hoặc Bằng Tốt Nghiệp đại học
    (3) Bản sao học bạ cấp ba hoặc bảng điểm những năm đại học.

    Hồ sơ có thể nộp trực tiếp cho Ban Mục Vụ Ơn Gọi
    hoặc gởi qua đường bưu điện theo địa chỉ :

    Lm Nguyễn Hải Minh, Tu viện Phanxicô, 42 đường Đình Phong Phú,
    phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, Tp HCM

    3. CHƯƠNG TRÌNH TĨNH TÂM KHÁM PHÁ ƠN GỌI

    • Thời gian : 8:00g Thứ hai ngày 09 tháng 05
    đến 15:00g thứ bảy ngày 14 tháng 05 năm 2011

    • Địa điểm : Tu viện Phanxicô, 42 đường Đình Phong Phú,
    phường Tăng Nhơn Phú B,quận 9, Tp HCM

    • Chương trình : Các em chia sẻ bản thân, gia đình, ước mơ trong nhóm ;
    Các em có 3 ngày tĩnh tâm, được đồng hành để giúp khám phá ơn gọi
    và kiểm tra những yếu tố cần thiết cho hướng ơn gọi dâng hiến
    (trí tuệ, sức khoẻ, khả năng sống đời sống chung)

    Ban Mục Vụ Ơn Gọi
    Tỉnh Dòng Anh Em Hèn Mọn Việt Nam

    Nguồn:VietCatholic.net

  11. #11

    Mặc định

    cái này quá hạn rồi nhưng bạn dựa vào đó để nghiên cứu thử nha

  12. #12

    Talking các dòng tu trì ở việt nam

    Các tổ chức tu trì tại Việt Nam


    Nguồn: Website HĐGM Việt Nam

    I. GIỚI THIỆU CÁC TỔ CHỨC TU TRÌ TẠI VIỆT NAM

    Xưa nay, người ta vẫn coi các tổ chức tu trì là một trong những dấu hiệu lớn cho biết Giáo hội Công giáo có mặt và hoạt động tại một địa phương nào đó. Có mặt và hoạt đôïng trước hết như những tổ chức có mục đích tôn giáo: thờ phượng Đấng Tối Cao không những bằng lời kinh và nghi lễ, mà còn bằng cả đời sống có phần khác với đa số đồng bào giáo dân. Đó là các tu sĩ, sống theo những lời khấn hứa (thường được xác định cách chung là độc thân khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, chuyên cần cầu nguyện và liên kết với nhau trong tình huynh đệ). Rồi có mặt và hoạt động như những tổ chức có mục đích nhân đạo: phục vụ đồng bào không những bằng việc hướng dẫn họ thờ phượng Thiên Chúa, mà còn bằng cả những việc nhân bản như giáo dục, chăm lo sức khoẻ, cứu tế… Đây không phải là cách hiểu riêng của những người Công giáo mà còn được chia sẻ bởi đông đảo những đồng bào khác, như ta có thể kiểm chứng được khi mở cuộc điều tra xã hội học về đời tu.

    Bản thân Giáo Hội cũng coi các tổ chức tu trì không phải chỉ là bộ phận dân Chúa, mà còn coi đời tu như một trong các hiện thân chính yếu của Giáo Hội (x. Sắc lệnh của Công đồng Vatican II về Dòng Tu, số 1), đến nỗi sự thịnh suy của đời tu là sự thịnh suy của chính Giáo Hội. Vì Giáo Hội có ơn gọi gì, nếu không phải là ơn gọi tôn giáo và ơn gọi nhân đạo ấy mà các tổ chức tu trì đang tìm cách thực hiện cách đặc biệt hơn (x. Hiến chế của Công đồng Vatican II về Giáo Hội, số 44). Lịch sử đời tu và các hình thức tu trì khác nhau chính là bằng chứng cho thấy sự bền bỉ cũng như sức sống của Giáo Hội trong việc phục vụ Thiên Chúa và con người trong các địa phương qua các thời đại.

    Chính vì tầm quan trọng ấy, Giáo Hội đã có những sự can thiệp chính thức vào việc xác định bản chất, phân loại và phân chia thẩm quyền mà các tổ chức tu trì sẽ thuộc về, đồng thời quyết định chính thức nhìn nhận một tổ chức tu trì đúng là tổ chức của Giáo Hội hay được Giáo Hội cho phép hoạt động tạm thời chờ phê chuẩn dứt khoát. Như thế, tất cả sự phân chia và sắp xếp các tổ chức tu trì như Giáo luật năm 1983 của Giáo hội Công giáo nêu ra trong quyển II, phần III, từ điều khoản 573 đến 746, đều nhằm minh định một lần nữa rằng các tổ chức tu trì ấy hoạt động tốt đẹp hơn trong đường hướng của mình. Nếu vậy, tất cả những phân biệt về loại (các tổ chức thuộc Đời sống Thánh hiến như: các Đan viện, Tu hội Dòng và Tu hội Đời; hay các tổ chức thuộc Đời sống Tông đồ như các Tu đoàn Tông đồ) và về thẩm quyền trực thuộc (thuộc thẩm quyền giáo hoàng hay Toà Thánh hoặc thuộc thẩm quyền giám mục địa phương hay giáo phận), và nhiều sự phân biệt khác nữa, mà độc giả sẽ gặp trong những trang sau đây, không nhằm phân biệt cao thấp về mặt giá trị mà chỉ để giúp tiện theo dõi và hướng dẫn, cũng như để giúp chính các tổ chức ấy thực hiện vai trò của mình tốt hơn trong chương trình hoạt động chung của Giáo Hội.

    Cách riêng với những người trong cuộc, đời tu không chỉ là một sáng kiến thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ đồng bào, mà trước hết và trên hết là một quà tặng của chính Chúa Thánh Thần ban cho nhân loại và chính cá nhân người tu sĩ. Đó là lời mời gọi người tu sĩ hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa để tham gia vào chương trình cứu độ của Ngài cách sâu sát hơn. Chính vì thế, trước khi được coi là một nỗ lực lớn lao của con người, của tổ chức tu trì và của Giáo Hội, đời tu chính là một nghĩa cử thân ái, dịu dàng được Chúa Thánh Thần làm cho tất cả và Ngài sẽ còn làm nhiều hơn nữa trong tương lai. Chính vì thế, những quy định của Giáo Hội về đời tu vẫn luôn mở ngỏ. Ngay trong những trang này, độc giả sẽ thấy có vài tổ chức tu trì không thể được xếp đúng vào loại nào đã có sẵn mà còn mở ngỏ cho những cách sắp xếp trong tương lai. Nhân đây, chúng tôi cũng phải thú nhận chưa thể đưa vào đây tất cả mọi tổ chức tu trì tại Việt Nam, vì nhiều lý do bên ngoài cũng như bên trong. Nhưng như thế, chúng ta càng có dịp thấy ơn Chúa Thánh Thần phong phú tới mức không bộ sách nào có thể khoanh vùng trọn vẹn được, mà chỉ có thể mô tả phần nào trong tâm tình kính trọng và yêu mến.

    Trong khuôn khổ cuốn Niên Giám này, chúng tôi chỉ có thể kể tên, nói qua vài dòng lịch sử, châm ngôn hoạt động hay một vài con số về người và địa chỉ, chứ không thể trình bày nhiều hơn nét sáng tạo, đời sống phong phú và tác động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần trong đời tu. Muốn cảm nghiệm được, xin mời độc giả hãy tìm đến một địa chỉ cụ thể để khám phá. Chúng ta sẽ thấy làn gió của Thánh Thần sẽ đưa ta đi thật xa để phát hiện chân trời bao la của Tình yêu Thiên Chúa (x. Ga 3,8).

    Chúng tôi cũng lưu ý độc giả về những tên gọi chưa được thống nhất của mỗi tổ chức tu trì, vì muốn tôn trọng tính cách riêng tư và độc lập của các tổ chức đó. Tuy nhiên, chúng tôi xin tạm liệt kê vài định nghĩa sau đây để giới thiệu với giáo dân và những độc giả ngoài Công giáo:

    - Đan sĩ: người sống trong đan viện. Đan viện: (monasterion, do từ Hy Lạp monazein: sống một mình) là nơi các tu sĩ nam hay nữ sống đời ẩn dật, vừa làm việc, vừa chiêm niệm, hát kinh thần vụ chung.

    - Người mới khởi đầu việc tìm hiểu một dòng tu gọi là dự tu hay thỉnh sinh hoặc đệ tử, có nơi gọi là thanh tuyển sinh. Đây là giai đoạn cần thiết để hiểu biết đôi chút về đời tu qua kinh nghiệm cá nhân và để cho các bề trên biết rõ hơn về người muốn đi tu, trước khi được nhận vào Nhà Tập hay Tập viện. Giai đoạn này dài ngắn tuỳ theo từng dòng.

    - Tập sinh: người được nhận chính thức vào một tu hội để chuẩn bị khấn; trong tu hội đời là người được thử nghiệm. Thời gian tập sinh sống đời tu cách chặt chẽ kéo dài khoảng 1-2 năm và có thể chia thành 2 giai đoạn: tiền tập sinh và tập sinh. Kết thúc giai đoạn này là lễ khấn tạm, sau đó, tập sinh trở thành khấn sinh.

    - Khấn sinh: người cam kết với Chúa sống ba lời khuyên Phúc Âm: khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh. Mỗi tu sĩ sẽ khấn tạm một thời gian (tối thiểu 3 năm, tối đa 9 năm, theo Giáo luật) trước khi cam kết vĩnh viễn (vĩnh thệ hay khấn trọn). Trong thời gian khấn tạm, tu sĩ sống trong các học viện hay kinh viện để học các môn thần học, tu đức và truyền thống của dòng hoặc học thêm các chuyên ngành khác.

    Chúng tôi sắp xếp các tổ chức tu trì dành cho nam giới (từ tr. 309 đến 356) trước nữ giới (từ tr. 359 đến 422), các tổ chức tu trì thuộc đời sống thánh hiến trước các tu tổ chức tu trì thuộc đời sống tông đồ, các tu hội dòng trước tu hội đời, dòng giáo hoàng trước dòng giáo phận và theo thứ tự chữ cái của danh xưng quen gọi.

    II. CÁC TỔ CHỨC TU TRÌ DÀNH CHO NAM GIỚI

    II. A. TỔ CHỨC TU TRÌ THUỘC ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
    (Institutum Vitae Consecratae)

    1. Tu hội Dòng (Institutum Religiosum, gọi tắt là Dòng)
    a. Dòng thuộc quyền giáo hoàng (dòng giáo hoàng):
    Dòng Biển Đức (O.S.B.) – 4 Đan Viện: Thiên An, Thiên Hoà, Thiên Bình, Thiên Phước (tr. 309).
    Dòng Chúa Cứu Thế (C.Ss.R.) (tr. 311).
    Dòng Đa Minh (Anh Em Thuyết Giáo: O.P.) (tr. 315).
    Dòng La San (Anh Em Trường Kitô: F.S.C.) (tr. 318).
    Dòng Phanxicô (Anh Em Hèn Mọn: O.F.M.) (tr. 320).
    Dòng Salesien Don Bosco (S.D.B.) (tr. 323).
    Dòng Tên (Chúa Giêsu: S.J.) (tr. 325).
    Dòng Thánh Thể (S.S.S.) (tr. 327).
    Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu (P.F.J.) (tr. 328).
    Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa (O.H.) (tr. 329).
    Dòng Xitô (O.C.) - 6 Đan Viện: Phước Sơn, Châu Sơn, Phước Lý,
    Châu Thuỷ, Phước Vĩnh, Thiên Phước (tr. 330).
    b. Dòng thuộc quyền giáo phận (dòng giáo phận)
    Dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo (TP. HCM) (tr. 336).
    Dòng Đồng Công (C.M.C.) - (TP. HCM) (tr. 337).
    Dòng Lời Chúa - Dòng Thừa sai Đức Tin (Phú Cường) (tr. 338).
    Dòng Thánh Gia (Long Xuyên) (tr. 339).
    Dòng Thánh Giuse - Nha Trang (Nha Trang) - Ngôi Lời (tr. 340).
    Dòng Thánh Tâm - Huế (Huế) (tr. 341).

    2. Tu hội Đời (Institutum Saeculare)
    a. Tu hội Đời thuộc quyền giáo hoàng
    Tu hội Prado (tr. 342).
    b. Tu hội Đời thuộc quyền giáo phận
    Tu hội Chúa Giêsu - TP. HCM (tr. 343).
    Tu hội Đắc Lộ - TP. HCM (tr. 344).
    Tu hội Gia Đình Na Gia - TP. HCM (tr. 346).
    Tu hội Nhà Chúa Thánh Gioan Tiền Sứ - TP. HCM (tr. 347).

    II. B. TỔ CHỨC TU TRÌ THUỘC ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ (TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ) (SOCIETAS VITAE APOSTOLICAE)

    1. Tu đoàn Tông đồ thuộc quyền giáo hoàng:
    Hội Thừa sai Paris (M.E.P.)
    Tu đoàn Truyền giáo Thánh Vinh Sơn (C.M.)
    Hội Linh mục Xuân Bích (P.S.S.).
    2. Tu đoàn Tông đồ thuộc quyền giáo phận
    Tu đoàn Giáo sĩ Nhà Chúa - TP. HCM.
    Tu đoàn Nhập Thể-Tận Hiến-Truyền Giáo (I.C.M.) - GP. Đà Lạt.
    Tu đoàn Thừa sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế .
    Hội Thừa sai Việt Nam.

    DÒNG BIỂN ĐỨC (O.S.B.: ORDO SANCTI BENEDICTI - ORDER OF ST. BENEDICT)
    Lược sử: Dòng Biển Đức do Thánh Bênêdictô sáng lập năm 520, tại Subiaco, Ý. Hiện nay, dòng Biển Đức trên toàn thế giới có 8.694 nam đan sĩ (linh mục và không linh mục) và 18.213 nữ đan sĩ, thuộc 21 tu hội (congrégation). Mỗi tu hội có các tỉnh dòng, và mỗi tỉnh dòng lại có các đan viện. Bề trên Tổng quyền của dòng Biển Đức là cha Thống phụ (Abbé Primat); đứng đầu tu hội là Đan phụ chủ tịch (Abbé Président); đứng đầu tỉnh dòng là Tỉnh phụ (Abbé Visiteur) và đứng đầu đan viện là Đan phụ hoặc Đan trưởng.
    Sau đây là vài nét chính về tỉnh dòng Biển Đức tại Việt Nam:
    Ngày 10-11-1936, cha Maur Massé, đan sĩ thuộc đan viện La Pierre Qui Vivre, Pháp, lập đan viện đầu tiên tại Đà Lạt, sau thành trụ sở cho đến năm 1954.
    Ngày 10-6-1940, hai đan sĩ đan viện La Pierre Qui Vivre là cha Dom Romain Guillaume và Dom Corentin thành lập đan viện Thiên An, Huế. Sau đó, các đan sĩ đan viện Thiên An tiếp tục thành lập thêm 3 đan viện khác nữa. Tất cả đều thuộc tỉnh dòng Pháp.
    Năm 1988, các đan viện ở Việt Nam tách khỏi tỉnh dòng Pháp, lập thành tỉnh dòng Biển Đức Việt Nam, với Bề trên Giám tỉnh tiên khởi là cha Tađêô Phạm Quang Điện, Đan phụ đan viện Thiên Bình.
    Năm 1993, Bề trên Giám tỉnh kế nhiệm là cha Stêphanô Huỳnh Quang Sanh, Đan phụ Đan viện Thiên An. Cha sinh năm 1940, chịu chức linh mục 1972, làm Bề trên đan viện Thiên An năm 1984, Bề trên Giám tỉnh năm 1993, trở thành Đan phụ 1998.
    Châm ngôn: Cầu nguyện và lao động (Ora et Labora).
    Nhân sự: tại Việt Nam: tổng số đan sĩ khấn trọng 52, khấn tạm 80, tập sinh 28 và thỉnh sinh 41.
    Hoạt động:
    - Cử hành kinh Phụng vụ.
    - Cầu nguyện cá nhân, và đọc sách thiêng liêng (lectio divina).
    - Lao động trí óc và chân tay.
    - Tiếp đón khách tĩnh tâm.
    Điều kiện tuyển chọn:
    - Có sức khoẻ.
    - Tốt nghiệp lớp 12 trở lên.
    - Có tinh thần tìm kiếm Chúa trong thinh lặng, cầu nguyện và lao động, được thể hiện trong việc ham thích kinh Phụng vụ, ái mộ vâng phục, vui chịu thử thách (QL 7, 58).
    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    - Tại Italy: Via S. Ambrogio 3, 00186 Roma, Italy.
    - Tại Việt Nam: Đan viện Thiên An, hộp thư lưu ký, bưu điện Huế.
    Các đan viện Biển Đức tại VN:
    - Đan viện Thiên An, giáo phận Huế.
    - Đan viện Thiên Hoà, giáo phận Ban Mê Thuột.
    - Đan viện Thiên Bình, giáo phận Xuân Lộc.
    - Đan viện Thiên Phước, giáo phận TP. HCM.

    ĐAN VIỆN THIÊN AN
    Thành lập: Ngày 10-6-1940, do hai đan sĩ thuộc đan viện La Pierre Qui Vivre là cha Dom Romain Guillaume và Dom Corentin.
    Bổn mạng: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
    Nhân sự: Khấn trọng 16, khấn tạm 21, tập sinh 9, thỉnh sinh 12.
    Địa chỉ:
    Thôn Cư Chánh, xã Thuỷ Bằng,
    huyện Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế.
    Hộp thư lưu ký, Bưu điện Huế.
    Đt: 054 865910
    Email: taosb@pmail.vnn.vn
    Bề trên đương nhiệm: Đan phụ Stêphanô Huỳnh Quang Sanh, sinh 1940, chịu chức linh mục 1972, bề trên đan viện 1984, Tỉnh phụ 1993, Đan phụ 1998.
    Số linh mục: André Trông Nguyễn Văn Tâm, sinh 19-6-1945, lm 30-4-1975; Phêrô-cao Dương Đình Thời, sinh 1966, chịu chức 2002; Benoit Trần Văn Phúc, sinh 1961, chịu chức 2001.

    ĐAN VIỆN THIÊN HOÀ
    Thành lập ngày 8-12-1962 tại huyện Krông Păk, Đăklăk, do các đan sĩ đan viện Thiên An.
    Bổn mạng: Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, 8-12.
    Nhân sự: khấn trọng 6, khấn tạm 5, thỉnh sinh 8. Sau năm 1978, chính quyền địa phương thu hồi toàn bộ đất đai và cơ sở của đan viện, nên các đan sĩ tạm thời cư trú tại một họ lẻ của giáo phận Ban Mê Thuột. Năm 2000, chính quyền cấp đất lại và cho phép tái lập đan viện.
    Địa chỉ:
    Hộp thư 44 Krông Păk, Đăklăk.
    Bề trên:
    Đan sĩ Laurent Hoàng Thanh Trương.
    Số linh mục: Phêrô Tuần Cao Kim Động, sinh 8-8-1943, lm 10-7-1985; Ephrem Phạm Huy Tụng, sinh 2-10-1941, lm 30-11-1995.

    ĐAN VIỆN THIÊN BÌNH
    Thành lập: ngày 11-6-1970.
    Bổn mạng: Lễ Chúa Kitô Vua.
    Nhân sự: khấn trọng 14, khấn tạm 29, tập sinh 10, thỉnh sinh 14.
    Địa chỉ:
    Hộp thư 2, Thiên Bình, Tam Phước,
    Long Thành, Đồng Nai. Đt: 061 930470.
    Email: Philippetuy@pmail.vnn.vn
    Bề trên đương nhiệm: Louis Marie Trương Sinh, sinh 25-12-1939, lm 25-1-2000.
    Số linh mục:
    1. Jean Lê Chúng, sinh 19-12-1916, lm 22-5-1948.
    2. Christophe Nguyễn Hữu Đức, sinh 4-9-1935, lm 5-6-1965.
    3. Philippe Marie Vũ Ngọc Tuy, sinh 2-1-1953, lm 11-2-1993.

    ĐAN VIỆN THIÊN PHƯỚC
    Thành lập: ngày 13-5-1972.
    Bổn mạng: Lễ Thánh Giuse (19-3).
    Nhân sự: Khấn trọng 16, khấn tạm 25, tập sinh 4, thỉnh sinh 7.
    * Địa chỉ:
    294B, K.P 2, Tam Hải, Tam Bình, Thủ Đức, TP. HCM. Đt: 08 7294971
    Email: bedthuyosbvn@hcm.fpt.vn
    Bề trên đương nhiệm:
    Đan phụ Beda Ngô Minh Thuý sinh 1932, lm 1965, Đan trưởng 1988.
    Số linh mục:
    1. Maurice Nguyễn Văn Binh, sinh 9-5-1917, lm 12-6-1954.
    2. Arsène Nguyễn Thanh Long, sinh 26-2-1927, lm 28-5-1961.
    3. Toma-Thiện Lê Thanh Các, sinh 15-9-1933, lm 21-12-1975.
    4. Michel Phạm Văn Khoa, sinh 1-12-1963, lm 21-1-2000.
    5. Phaolô Nguyễn Hữu Thanh, sinh 10-5-1962, lm 22-12-2000.
    6. Gioakim Lê Văn Tấn, sinh 13-9-1962, lm 2002

    DÒNG CHÚA CỨU THẾ (C.SS.R.: CONGREGATIO SANCTISSIMI REDEMPTORIS - CONGREGATIO OF THE MOST HOLY REDEEMER)

    Lược sử: Ngày 9-11-1732, tại Scala, Thánh Alphonso Maria Ligori đã cùng với các bạn thành lập dòng “Chúa Cứu Chuộc”, về sau (1749) lấy danh hiệu là dòng “Chúa Cứu Thế” chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, 8-12.
    Châm ngôn: “Ơn Cứu Chuộc nơi Người chan chứa”.
    Mục đích, tôn chỉ: Tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế noi gương Chúa Giêsu Cứu Thế, rao giảng Lời Chúa cho người nghèo khó như chính Lời Ngài đã tuyên bố: “Người đã sai tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,8).
    Hoạt động:
    - Truyền giáo.
    - Giảng tĩnh tâm.
    - Mục vụ giáo xứ.
    - Truyền thông lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
    - Truyền thông xã hội.
    - Các lớp cầu nguyện.
    - Mục vụ dành cho những người bị bỏ rơi: bệnh nhân phong, AIDS...
    Cộng đoàn và cơ sở: Ở Việt Nam, có 15 cộng đoàn và 12 cơ sở.
    Nhân sự: Ở Việt Nam, có 216 tu sĩ: khấn trọn 168, khấn tạm 48, tập sinh 12, dự tập 80. Tổng số tu sĩ trên toàn thế giới: 5.500.
    Điều kiện tuyển chọn:
    - Có lòng yêu mến người nghèo và lòng nhiệt thành thừa sai.
    - Có sức khoẻ ổn định, tâm lý quân bình, đức tin và nhân bản trưởng thành.
    - Có khả năng tiếp nhận sự đào tạo và phục vụ theo tinh thần dòng.
    - Đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc đang học đại học, cao đẳng.
    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Via Merulana 31. CP 2458
    Roma I-00100 Italy.
    Đt: 00 390 649 490 600.
    Email: ggcss@redemptor.com.br
    Fax: 0039 064 466 012
    Trụ sở Tỉnh Dòng Việt Nam:
    38 Kỳ Đồng, P.9, Q.3, TP. HCM.
    Đt: 08 8438559 - 9316322.
    Fax: 84 08 8438559.
    Email: dcctsg@hcm.vnn.vn
    Bề trên tổng quyền: Cha W. Joseph Tobin, sinh 3-5-1952, khấn dòng 5-8-1973, lm 1-6-1978.
    Bề trên tỉnh dòng (từ 2005): Lm. Giuse Cao Đình Trị, sinh 27-7-1938, lm 18-12-1965 .
    Danh sách linh mục:
    1. Giuse Phan Thiện Ân, sinh 1933, lm 1958; 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
    2. Giuse Phạm Văn Bảo, sinh 1953, lm 1994; Tu viện Kỳ Đồng: 38 Kỳ Đồng, Q. 3, TP. HCM.
    3. Giuse Đoàn Văn Bảo, sinh 1966, lm 2004; Xuân Lộc.
    4. Giuse Nguyễn Ngọc Bích, sinh 1952, lm 1990; Tu viện Kỳ Đồng.
    5. G.B. Nguyễn Thanh Bích, sinh 1954, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
    6. P.X. Lê Thanh Châu, sinh 1938, lm 1963; NT Tân Hoà, 147 ấp Mỹ Thuận, Tân Hoà Bắc, Vĩnh Long.
    7. Phaolô Nguyễn Văn Châu, sinh 1963, lm 2001, 134/13, Trần Phú, C.3, P.5, Vũng Tàu.
    8. Marcô Bùi Duy Chiến, sinh 1965, lm 2002, Tu viện Kỳ Đồng.
    9. Giuse Chu Đình Chuyển, sinh 1941, lm 1996; Tu viện DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
    10. Phaolô Nguyễn Văn Công, sinh 1969, lm 2004; Nha Trang.
    11. Inhaxiô Bùi Quang Diệm, sinh 1921, lm 1950; Tu viện Kỳ Đồng.
    12. Phêrô Nguyễn Quang Diệp, sinh 1924, lm 1954; Tu viện DCCT Huế, 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
    13. Rôcô Nguyễn Tự Do, sinh 1928, lm 1956; Tu viện Kỳ Đồng.
    14. Anrê Nguyễn Ngọc Dũng, sinh 1964, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
    15. Đa Minh Phan Văn Dũng, sinh 1968, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
    16. Phaolô Trần Hữu Dũng, sinh 1954, lm 1994; Tu viện DCCT Huế.
    17. Anrê Nguyễn Ngọc Dũng, sinh 1964, khấn trọn 1992, lm 25-9-2001.
    18. Phêrô Nguyễn Quang Duy, sinh 1944, lm 1975; NT Cái Tắc, Thạnh Hưng, Đồng Tháp.
    19. Giuse Trần Quang Đăng, sinh 1934, lm 1959; Tu viện Kỳ Đồng.
    20. Giuse Phạm Kim Điệp, sinh 1946, lm 1975; NT Cần Thạnh, 183/2 ấp Phong Thạnh, TT Cần Giờ.
    21. G.B. Nguyễn Bình Định, sinh 1969, lm 2004; Nha Trang.
    22. Gioakim Nguyễn Định, sinh 1918, lm 1949; NT Phú Dòng, Định Quán, Đồng Nai.
    23. G.B. Nguyễn Văn Đồng, sinh 1957, lm 2001, NT Cần Thạnh, 183/2 ấp Phong Thạnh, TT Cần Giờ.
    24. Marcô Bùi Quang Đức, sinh 1966, lm 1999; 82/116 Lý Chính Thắng, P.8, Q.3, TP. HCM.
    25. G.B. Nguyễn Minh Đức, sinh 1957, lm 1998; 8, tổ 1, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng.
    26. P.X. Hoàng Minh Đức, sinh 1965, lm 1999; Tu viện Kỳ Đồng.
    27. Phaolô Bùi Thông Giao, sinh 1937, lm 1965; Tu viện Kỳ Đồng.
    28. P.X. Trần Quang Hân, sinh 1958, lm 1997; Hoa Kỳ.
    29. Micae Trương Văn Hành, sinh 1936, lm 1965; NT Lý Sơn, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi.
    30. Phêrô Nguyễn Hữu Hạnh, sinh 1973, lm 2004; Tu viện Kỳ Đồng.
    31. G.B. Trần Quang Hào, sinh 1948, lm 1994; Hoa Kỳ
    32. Giuse Phạm Minh Hảo, sinh 1961, lm 1996; NT Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi.
    33. Giacôbê Mai Văn Hiền, sinh 1953, lm 1999; Tu viện Kỳ Đồng.
    34. Giuse Trịnh Ngọc Hiên, sinh 1947, lm 1994; Tu viện Thái Hà, 180/2 Nguyễn Lương Bằng, Q. Đống Đa, Hà Nội.
    35. Giuse Nguyễn Thể Hiện, sinh 1970, lm 2000, Tu viện Kỳ Đồng.
    36. Giuse Phan Đức Hiệp, sinh 1949, lm 1990; Tu viện Kỳ Đồng.
    37. Giuse Trần Văn Hội, sinh 1948, lm 1990; NT Phú Lý, Vĩnh An, Đồng Nai.
    38. Giêrađô Lê Văn Hoà, sinh 1948, lm 1993; 23 C1 Chu Mạnh Trinh, Làng Đại Học, Thủ Đức, TP. HCM.
    39. P.X. Nguyễn Hữu Hoà, sinh 1952, lm 1994; NT Đồng Hoà, Long Hoà, Cần Giờ. TP. HCM.
    40. G.B. Hoàng Thanh Huê, sinh 1936, lm 1968; NT Tin Mừng, Tân Thiện, Hàm Tân, Bình Thuận.
    41. Tôma Trần Quốc Hùng, sinh 1947, lm 1976; NT Hàm Luông, Mỏ Cày, Bến Tre.
    42. G.B. Nguyễn Thành Hưng, sinh 1968, lm 2002, Tu viện DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
    43. Giuse Ngô Văn Kha, sinh 1958, lm 1998; 59 đường 1/5, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng.
    44. Luca Nguyễn Hữu Khanh, sinh 1965, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
    45. Giuse Lê Chiếu Khắp, sinh 1946, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
    46. Phêrô Đinh Ngọc Lâm, sinh 1961, lm 1996; Tu viện Kỳ Đồng.
    47. G.B. Hồ Quang Lâm, sinh 1970, lm 2004; Buôn Ma Thuột.
    48. Tôma Phạm Huy Lãm, sinh 1933, lm 1960; Tu viện Kỳ Đồng.
    49. Phêrô Nguyễn Thanh Liêm, sinh 1945, lm 1975; NT Thanh Sơn, Mỏ Cày, Bến Tre.
    50. Giuse Nguyễn Văn Lộc, sinh 1943, lm 1972; 146/16 Võ Thị Sáu, P.13, Q.3, TP. HCM.
    51. Tôma Phạm Phú Lộc, sinh 1970, lm 2002, NT Cần Thạnh, TT Cần Giờ, TP. HCM.
    52. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, sinh 1946, lm 1975; NT Phú Sơn, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng.
    53. Giuse Nguyễn Bá Long, sinh 1958, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
    54. Giuse Ngô Tấn Lực, sinh 1948, lm 2001, Tu viện Kỳ Đôàng.
    55. Gioakim Nguyễn Đức Mầng, sinh 1950, lm 1993; tổ 17, khu 2, 63, đường 1/5, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
    56. Gioakim Nguyễn Quang Minh, sinh 1960, lm 1999; NT Phú Sơn, H. Lâm Hà, Lâm Đồng.
    57. Antôn Phạm Văn Nam, sinh 1925, lm 1955; DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
    58. Lêô Lê Trung Nghĩa, sinh 1927, lm 1954; Tu viện Kỳ Đồng.
    59. G.B. Nguyễn Văn Phán, sinh 1936, lm 1963; 149 Trần Hưng Đạo, TT Ayunpa, Gia Lai.
    60. Giuse Huỳnh Lê Pháp, sinh 1970, lm 2004, Nha Trang.
    61. Giuse Ngô Văn Phiên, sinh 1950, lm 1994; Tu viện Kỳ Đồng.
    62. Giuse Hoàng Phúc, sinh 1955, lm 1995, Tu viện Kỳ Đồng.
    63. Antôn Trần Thế Phiệt, sinh 1947, lm 1975; NT Tùng Lâm, P.7, Đà Lạt.
    64. G.B. Lê Đình Phương, sinh 1963, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
    65. G.B. Nguyễn Minh Phương, sinh 1967, lm 2004; Xuân Lộc.
    66. Giuse Lê Viết Phục, sinh 1928, lm 1955; 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
    67. Matthêu Vũ Khởi Phụng, sinh 1940, lm 1970; Tu viện Kỳ Đồng.
    68. Micae Nguyễn Hữu Phú, sinh 1929, lm 1956; 970D XVNT, P.28, Q. BT, TP. HCM.
    69. Gioakim Hà Ngọc Phú, sinh 1973, lm 2004; Tu viện Kỳ Đồng.
    70. Giuse Phạm Thanh Quang, sinh 1926, lm 1958; Tu viện Kỳ Đồng.
    71. Phaolô Trần Văn Quang, sinh 1945, lm 1976; Tu viện Kỳ Đồng.
    72. Giuse Trần Minh Quang, sinh 1958, lm 1996; NT. Phú Dòng, Định Quán, Đồng Nai.
    73. Phêrô Phạm Thanh Quốc, sinh 1927, lm 1960; Tu viện Kỳ Đồng.
    74. G.B. Nguyễn Minh Sang, sinh 1943, lm 1975; NT Cái Tàu Hạ, TT Cái Tàu Hạ, Đồng Tháp.
    75. Giuse Phạm Cao Thanh Sơn, sinh 1965, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
    76. Phêrô Nguyễn Thành Tâm, sinh 1940, lm 1970; Tu viện Kỳ Đồng.
    77. Gioakim Hồ Quang Tâm, sinh 1950, lm 1994; 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
    78. Giuse Hồ Đắc Tâm, sinh 1961, lm 2000; DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
    79. Phaolô Nguyễn Văn Tâm, sinh 1971, lm 2004; Vinh.
    80. Antôn Vương Đình Tài, sinh 1930, lm 1959; NT Thánh Tâm, 2 Quang Trung, Pleiku.
    81. Phêrô Phạm Đức Thanh, sinh 1962, lm 2000; Tu viện Kỳ Đồng.
    82. Giuse Trần Hữu Thanh, sinh 1915, lm 1942; NT Trần Nội, Hải Dương, Hải Hưng.
    83. Antôn Lê Ngọc Thanh, sinh 1969, lm 2005; TV Kỳ Đồng.
    84. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, sinh 1955, lm 1990; Tu viện DCCT Mai Thôn, 970D, XVNT, P.28, Bình Thạnh, TP. HCM.
    85. Giuse Trần Ngọc Thao, sinh 1935, lm 1959; Tu viện Kỳ Đồng.
    86. Phaolô Nguyễn Đình Thi, sinh 1972, lm 2004; Buôn Ma Thuột.
    87. Phêrô Hoàng Văn Thiện, sinh 1931, lm 1957; 46/2bis Trần Xuân Soạn, ấp 5c, Nhà Bè, TP. HCM.
    88. G.B. Nguyễn Thế Thiệp, sinh 1936, lm 1964; NT Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi.
    89. Bart. Nguyễn Đức Thịnh, sinh 1959, lm 2001; Kontum.
    90. Đa Minh Nguyễn Đức Thông, sinh 1957, lm 1993; Tu viện Kỳ Đồng.
    91. Phaolô Nguyễn Thọ, sinh 1933, lm 1962; NT Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi.
    92. Gioan Nguyễn Xuân Thu, NT Tùng Lâm, P.4, Đà Lạt.
    93. Đa Minh Đỗ Văn Thừa, sinh 1918, lm 1949; Tu viện Kỳ Đồng.
    94. Alp. Phạm Gia Thuỵ, sinh 1934, lm 1962; Tu viện Kỳ Đồng.
    95. Stanislas Lê Vĩnh Thuỷ, sinh 1944, lm 1976, Tu viện DCCT Mai Thôn, 970D, XVNT, P.28, Bình Thạnh, TP. HCM.
    96. Phaolô Đinh Khắc Tiệu, sinh 1926, lm 1956; Tu viện Kỳ Đồng.
    97. Stêphanô Nguyễn Tín, sinh 1920, lm 1949; Tu viện Kỳ Đồng.
    98. Giuse Trần Sỹ Tín, sinh 1941, lm 1972; Nhơn Hoà, Chư Sê, Gia Lai.
    99. Antôn Phạm Văn Tịnh, sinh 1962, lm 1999; Tu viện Kỳ Đồng.
    100. Anrê Đinh Duy Toàn, sinh 1950, lm 1995; NT Phù Mỹ, TT Phù Mỹ, Bình Định.
    101. Giuse Cao Đình Trị, sinh 1938, lm 1960; Tu viện Kỳ Đồng.
    102. Phêrô Đỗ Minh Trí, sinh 1961, lm 2002, NT Hữu Phước, Suối Nghệ, Châu Thành, Bà Rịa -Vũng Tàu.
    103. G.B. Lê Minh Trí, sinh 1974, lm 2005; TV Kỳ Đồng.
    104. Đa Minh Nguyễn Hữu Trung, sinh 1954, lm 1997; 3/4 ấp Long Toàn, Bà Rịa-Vũng Tàu.
    105. Antôn Nguyễn Văn Trung, sinh 1926, lm 1958; ấp 1, xã Bình Đức, Bến Lức, Long An.
    106. Giuse Lê Quang Tuấn, sinh 1963, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
    107. Antôn Nguyễn Trần Tuấn, sinh 1966, lm 2002; 970D XVNT, P.28, Q. BT, TP. HCM.
    108. Hilariô Nguyễn Gia Tước, sinh 1936, lm 1964; 292/11 Bà Hạt, P.9, Q.10, TP. HCM.
    109. Antôn Trần Ứng Tường, sinh 1941, lm 1974; Tu viện Kỳ Đồng.
    110. Giuse Lê Quang Uy, sinh 1959, lm 1998; Tu viện Kỳ Đồng.
    111. Micae Ngô Đình Vãn, sinh 1952, lm 2000, 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
    112. Giuse Nguyễn Quốc Việt, sinh 1969, Tu viện Kỳ Đôàng.
    113. Giuse Lưu Quang Bảo Vinh, sinh 1972, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
    114. Giuse Nguyễn Trường Xuân, sinh 1953, lm 1995; Tu viện Kỳ Đồng.
    DÒNG ĐA MINH (O.P.: ORDO PRAEDICATORUM - ORDER OF PREACHERS)

    Lược sử: Dòng Đa Minh, danh xưng chính thức là dòng Anh Em Thuyết Giáo, do Thánh Đa Minh sáng lập năm 1216 tại Toulouse, Pháp. Dòng được Đức Giáo hoàng Honorius III châu phê ngày 21-1-1217, và được uỷ nhiệm trách vụ truyền giảng Lời Chúa, cung cấp cho các giám mục một đội ngũ các nhà giảng thuyết được đào tạo cẩn thận để hỗ trợ các ngài trong trách vụ lớn lao ấy. Dòng có trụ sở tại Roma. Bề trên tổng quyền của dòng hiện nay là lm. Timothy Radcliffe. Dòng có mặt tại 88 quốc gia trên thế giới với tổng số linh mục, tu sĩ khoảng 6.600 người.

    Dòng Đa Minh đến Việt Nam từ thế kỷ XVI (1550). Từ năm 1756, dòng phụ trách miền truyền giáo Đa Minh, nay là 5 giáo phận: Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình và Lạng Sơn. Dòng đã có nhiều tu sĩ lấy máu đào tuyên xưng đức tin của mình. Trong số 117 Thánh Việt Nam, dòng Đa Minh có 38 vị, gồm 6 giám mục, 16 linh mục (11 người Việt Nam), 16 dòng Ba (3 linh mục, 6 thầy giảng, 7 giáo dân). Dòng đã đóng góp cho Giáo hội Việt Nam 2 giám mục: Đức cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (giáo phận Bắc Ninh, Quy Nhơn) và Đức cha Giuse Trương Cao Đại (giáo phận Hải Phòng).

    Năm 1967, tỉnh dòng Việt Nam được thành lập với tên gọi là Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Việt Nam.
    Bổn mạng: Lễ kính Thánh Tổ phụ, 8-8.

    Châm ngôn: “Chiêm niệm và truyền thông chân lý” (Contemplata aliis tradere).

    Tôn chỉ: Những yếu tố căn bản của đời tu Đa Minh là: sống cộng đoàn, tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, cử hành phụng vụ công cộng, chuyên cần học hỏi chân lý và thi hành tác vụ tông đồ.

    Hoạt động chính: giảng dạy tại các chủng viện, học viện, giảng thuyết lưu động, điều hành giáo xứ.

    Cơ sở: Tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam hiện có:
    4 tu viện:
    - Tu viện Thánh Alberto cả (tu viện Ba Chuông): 190 Lê Văn Sỹ, Q. PN, TP. HCM, ĐT: (08) 8448206.
    - Tu viện Mân Côi: 90 Nguyễn Thái Sơn, Q. Gò Vấp, TP. HCM, ĐT: (08) 8940477.
    - Tu viện Mai Khôi: 44 Tú Xương, P.7, Q.3, TP. HCM. ĐT: (08) 9320360; (08) 9325738.
    - Tu viện Thánh Martin: 1/4 KP. 10, Tân Biên, Biên Hoà, Đồng Nai. ĐT: (061) 881318; 885673.
    2 tu xá:
    - Tu xá Đa Minh: 16 Hà Huy Tập, Đà Lạt, Lâm Đồng, ĐT: (063) 832806.
    - Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm: 116 P.Tam Phú, Thủ Đức, TP. HCM. ĐT: (08) 8961731.
    10 giáo xứ:
    - 5 ở TP. HCM, 3 ở Xuân Lộc, 1 ở Đà Lạt và 1 ở Phú Cường.
    Nhân sự: khấn trọng 55, khấn tạm 75, tập sinh 21, dự tu 60.
    Địa chỉ trụ sở Tỉnh Dòng:
    43 Nguyễn Thông, P.7,Q.3, Tp.HCM.
    Điện thoại: (08) 9321881
    Bề trên giám tỉnh đương nhiệm: Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, sinh 1951, lm. 1991.
    Danh sách linh mục (theo năm lm)
    1. Đa Minh Hoàng Bình Thuận, sinh 1914, lm 1934; Tu viện Thánh Martin.
    2. Giêrônimô Phạm Quang Tự, sinh 1917, lm 1944; Tu viện Thánh Martin.
    3. Giuse Bùi Hiền Triết, sinh 1918, lm 1948; Tu viện Thánh Martin.
    4. G.B. Nguyễn Văn Sâm, sinh 1920, lm 1948; Đt: 061 882804.
    5. Phêrô Nguyễn Quang Hiến, sinh 1919, lm 1948; Đt: 08 8916729.
    6. Gioakim Nguyễn Văn Liêm, sinh 1923, lm 1948; Tu viện Ba Chuông.
    7. Antôn Nguyễn Đức Hiếu, sinh 1923, lm 1952; Nt Tân Hiệp, Long Thành, Đồng Nai. Đt: 061 841572.
    8. Giuse Hoàng Kim Thao, sinh 1922, lm 1953; Nt Lạc Lâm, Đơn Dương, Lâm Đồng. Đt: 063 847213.
    9. Vinh Sơn Bùi Đức Sinh, sinh 1926, lm 1953; Tu viện Ba Chuông.
    10. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, sinh 1931, lm 1958; Tu viện Ba Chuông.
    11. Đa Minh Nguyễn Văn Hộ, sinh 1932, lm 1961; Tu viện Thánh Martin.
    12. Stanislaus Hoàng Đắc Ánh, sinh 1928, lm 1961; Tu viện Mai Khôi.
    13. Anrê Đỗ Xuân Quế, sinh 1930, lm 1961; Tu viện Mai Khôi.
    14. Giuse Đinh Châu Trân, sinh 1932, lm 1963, Tu viện Mai Khôi.
    15. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, sinh 1933, lm 1964; Tu viện Mai Khôi.
    16. Giuse Nguyễn Đức Hoà, sinh 1938, lm 1968; Tu viện Ba Chuông.
    17. Tôma Trần Ngọc Tuý, sinh 1939, lm 1969; Tu viện Thánh Martin.
    18. Đa Minh Nguyễn Văn Thái, sinh 1944, lm 1972; Tu xá Thánh Đa Minh.
    19. Giuse Nguyễn Văn Luật, sinh 1945, lm 1972; Gx. Hoà Bình, Gò Vấp, TP. HCM. Đt: 08 8955730.
    20. Raphael Nguyễn Văn Chúc, sinh 1945, lm 1972; Tu viện Thánh Martin.
    21. Phêrô Trần Văn Huấn, sinh 1946, lm 1972; Nt Cao Xá, Châu Thành, Tây Ninh. Đt: 066 878188.
    22. G.B. Nguyễn Đăng Trực, sinh 1947, lm 1973; Tu viện Mân Côi.
    23. Gioakim Nguyễn Đức Văn, sinh 1920, lm 1974; Tu viện Thánh Martin.
    24. Đa Minh Đinh Viết Tiên, sinh 1948, lm 1974; Gx. Ngọc Đồng, Tân Biên, Biên Hoà. Đt: 061 981226.
    25. P.X. Nguyễn Đức Đạt, sinh 1949, lm 1975; Gx. Thánh Tâm, Hố Nai. Đt: 061 881354.
    26. Luy Nguyễn Văn Hạnh, sinh 1949, lm 1975; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
    27. Đa Minh Lê Thanh Liêm, sinh 1949, lm 1975; Tu viện Thánh Martin.
    28. Giacôbê Phạm Văn Phượng, sinh 1949, lm 1975; Tu viện Ba Chuông.
    29. Giuse Đỗ Ngọc Bảo, sinh 1950, lm 1975; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
    30. Giuse Bùi Văn Viễn, sinh 1950, lm 1975; Nt Ngọc Đồng, Tân Biên, Biên Hoà. Đt: 061 981226.
    31. Giuse Lưu Công Chỉnh, sinh 1951, lm 1978; Tu viện Ba Chuông.
    32. Đa Minh Phạm Ngọc Điển, sinh 1948, lm 1988; Tu viện Thánh Martin.
    33. G.B. Phạm Văn Mão, sinh 1952, lm. 1990; Tu viện Mai Khôi.
    34. Antôn Trần Thanh Long, sinh 1954, lm. 1990; Tu viện Mai Khôi.
    35. Giuse Nguyễn Cao Luật, sinh 1951, lm 1991; Tu viện Ba Chuông.
    36. Giuse Phạm Quang Sáng, sinh 1953, lm 1991; Tu viện Mân Côi.
    37. Giuse Phạm Hưng Thịnh, sinh 1951, lm 1993; Tu viện Ba Chuông.
    38. Giuse Đinh Văn Vũ, sinh 1949, lm 1993; Tu viện Mai Khôi.
    39. Giuse Đặng Chí San, sinh 1952, lm 1993; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
    40. Phêrô Nguyễn Bá Ân, sinh 1952, lm 1993; Tu viện Mân Côi.
    41. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, sinh 1955, lm 1994; Tu viện Mân Côi.
    42. Giuse Đỗ Văn Chung, sinh 1955, lm 1995; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
    43. Đa Minh Nguyễn Đức Bình, sinh 1957, lm 1995; Tu viện Mân Côi.
    44. Antôn Phan Tự Cường, sinh 1950, lm 1995; Tu viện Thánh Martin.
    45. Đa Minh Nguyễn Ngọc An, sinh 1954, lm 1995; Gx. Tân Hiệp, Long Khánh, Đồng Nai. Đt: 061 841572.
    46. Đa Minh Nguyễn Thế Hiệt, sinh 1958, lm 1995; Tu viện Thánh Martin.
    47. P.X. Đào Trung Hiệu, sinh 1956, lm 1997; Gx. Minh Đức, Thủ Đức. TP. HCM. Đt: 08 8965152.
    48. Giuse Nguyễn Tất Trung, sinh 1955, lm 1997; Tu viện Mân Côi.
    49. Micae Nguyễn Văn Bắc, sinh 1956, lm 1998; Gx. Lạc Lâm, Đơn Dương, Lâm Đồng. Đt: 063 847213.
    50. Giuse Lưu Ngọc Báu, sinh 1958, lm 1999; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
    51. Giuse Đặng Văn Tình, sinh 1962, lm 2000; Gx. Cao Xá, Tây Ninh, Đt: 066 878049
    52. Anphongsô Vũ Đức Trung, sinh 1961, lm 2001; Tu viện Mân Côi.
    53. G.B. Trần Quang Hiển, sinh 1964, lm 2001, Tu viện Mân Côi.
    54. Giuse Nguyễn Đức Trung, sinh 1954, lm 2001, Tu viện Mai Khôi.
    55. Phêrô Nguyễn Thế, sinh 1963, lm 2001, Tu viện Thánh Martin.
    56. Vinh Sơn Phạm Đình Chiến, sinh 1972, lm 2001, Tu viện Mai Khôi.
    57. Anbertô Nguyễn Lộc Thọ, sinh 1963, lm 2002, Tu viện Mai Khôi.
    58. Phêrô Lâm Phước Hùng, sinh 1967, lm 2002, Tu viện Mân Côi.

    DÒNG LA SAN (F.S.C.: FRATRES SCHOLARUM CHRISTIANARUM - BROTHERS OF THE CHRISTIAN SCHOOLS)

    Lược sử: Dòng Anh Em Trường Kitô quen gọi là dòng Sư Huynh La San, được thành lập tại Reims (Pháp) vào năm 1680, do linh mục người Pháp tên là Jean Baptiste De La Salle.
    Dòng đã tới Việt Nam từ năm 1866. Sau ít năm vắng mặt do chính sách chống các dòng tu của Đệ Tam Cộng hoà Pháp, dòng đã trở lại Sài Gòn năm 1890 và đã lãnh nhận trường Taberd, do cha Kerlan (MEP) lập ra. Từ đó, dòng đã phát triển và mở trường ở khắp Việt Nam cũng như ở Cambodia và Thái Lan.
    Bổn mạng: Đấng sáng lập là cha Gioan La San, được tuyên thánh ngày 24-5-1900 và đã được tôn làm bổn mạng các nhà giáo dục Kitô ngày 15-5-1950. Lễ mừng mỗi năm ngày 15-5 trở thành Ngày Truyền thống La San ở Việt Nam. Lịch Phụng vụ của Giáo Hội kính ngày 7-4 hằng năm.
    Châm ngôn: “SIGNUM FIDEI”: Dấu Chỉ Đức Tin.
    Người tu sĩ La San để cho đức tin soi dẫn đời mình. Do đó, tinh thần của dòng là Tinh Thần Đức Tin. Trong đức tin, người tu sĩ La San chiêm ngưỡng ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi các trẻ em, các thanh thiếu niên, đặc biệt những trẻ nghèo hoặc bị bỏ quên. Tinh thần đức tin nơi các sư huynh được triển nở thành Lòng Nhiệt Thành, cố gắng thực hiện ý định đó cùng với những ai được mời gọi theo cùng một sứ vụ.
    Hoạt động: Hướng hoạt động chủ yếu của dòng thuộc phạm vi giáo dục nhân bản và Kitô, đặc biệt bằng trường học là phương tiện ưu chọn.
    Trước 1975, tại miền Nam Việt Nam, anh em La San hoạt động trong các trường mang tên chung là trường La San, cùng những sinh hoạt bên ngoài học đường như các phong trào thiếu nhi, thanh thiếu niên: Hùng Tâm Dũng Chí, Hiệp Sĩ Chúa Hài Đồng, Thanh Sinh Công, hội Thánh Mẫu, hội Bác Ái Vinh Sơn...
    Sau tháng 4-1975, tất cả các trường La San (23 trường lớn nhỏ, từ tiểu học tới đại học) được Nhà nước quản lý. Một vài Sư Huynh tiếp tục dạy trong các trường công lập cấp 3 và đại học, một số là giáo sư các Học viện Thần học, một số giảng dạy tại các trung tâm tin học, dạy nghề (sửa xe gắn máy, mộc) và thường xuyên tham gia huấn luyện giáo lý viên, linh hoạt viên tại các họ đạo...
    Nhân sự: Số tu sĩ của tỉnh dòng La San Việt Nam hiện nay là 84, gồm 65 sư huynh khấn trọn và 19 khấn tạm, Tại TP. HCM, có 54 Sư Huynh (gồm 6 cộng đoàn). Còn lại rải rác vài cộng đoàn khác tại Đồng Nai, Nha Trang, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Huế...
    Điều kiện tuyển chọn: Muốn gia nhập dòng, phải học hết trung học, và được các linh mục hoặc tu sĩ giới thiệu.
    Bước đầu là nhập nhóm dự tu có thể có tại mỗi cộng đoàn La San. Tại đây, các em tìm hiểu ơn gọi, lo bồi bổ giáo dục nhân bản Kitô giáo, và nếu có khả năng, cố gắng lấy các bằng cấp cần thiết (sư phạm) cho việc dạy học sau này. Thời gian có thể kéo dài 3, 4 năm. Bước hai là được vào thỉnh viện và sống tại đây 1 năm hoặc hơn tuỳ trường hợp. Đây là thời gian củng cố việc giáo dục theo tinh thần Kitô giáo và ơn gọi La San. Bước ba là 1 năm tập viện, tập trung vào việc đặt nền móng cho đời thánh hiến La San.
    Cuối tập viện, nếu mọi sự trôi chảy thì được phép khấn lần đầu và được gửi lên học viện. Trong thời gian 3-4 năm học tại học viện, người tu sĩ trẻ tiếp tục đào sâu đời thánh hiến, củng cố việc huấn luyện thiêng liêng, thần học, sư phạm và tông đồ, trước khi được gửi đến các cộng đoàn.
    Địa chỉ Nhà Trung ương:
    Via Aurelia, 476 - C.P.9099 (Aurelio) 00165 Rome - Italy.
    Văn phòng tỉnh dòng:
    53B Nguyễn Du - P. B.Nghé, Q.1, TP. HCM. Đt: 08 8299134.
    Fax: 84 08 8299134.
    Email: delasalle@hcm.vnn.vn
    Bề trên đương nhiệm tại Việt Nam: Sư huynh Giám tỉnh Grégoire Nguyễn Văn Tân, sinh 1945, khấn dòng 1966.
    DÒNG PHANXICÔ (OFM: ORDO FRATRUM MINORUM - ORDER OF FRIARS MINOR)

    Lược sử: Dòng Phanxicô danh xưng chính thức là dòng Anh Em Hèn Mọn hay còn gọi là dòng Anh Em Phan Sinh do Thánh Phanxicô Assisi (1181-1226) khởi xướng khoảng năm 1209 tại thành phố Assisi, nước Ý. Lý tưởng sống của Thánh Phanxicô là noi gương Đức Giêsu: sống khó nghèo, khiêm hạ, yêu thương phục vụ mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ, yêu quý thiên nhiên.
    Dòng Phan Sinh Việt Nam được các cha Phan Sinh người Pháp, thuộc tỉnh dòng Thánh Phêrô (cũng gọi tỉnh dòng Paris), đến thành lập năm 1929. Người đứng đầu trong các vị lập dòng tiên khởi ở Việt Nam là cha già Maurice Bertin (1870-1968). Năm 1931, cha Maurice Bertin đã xây dựng tu viện Phan Sinh đầu tiên tại Vinh, miền Trung Việt Nam. Năm 1954, sau hiệp định Genève, dòng Phan Sinh tiếp tục hiện diện ở miền Nam cho đến nay. Năm 1969, dòng Phan Sinh Việt Nam trở thành hạt dòng độc lập, không còn là một chi tỉnh, phụ thuộc tỉnh dòng Paris như trước kia.

    Năm 1984, hạt dòng Phan Sinh Việt Nam được nâng lên thành tỉnh dòng.
    Đại gia đình Phan Sinh gồm có:
    - Dòng Nhất: dành cho nam tu sĩ, gọi là dòng Anh Em Hèn Mọn.
    - Dòng Nhì: dành cho nữ chiêm niệm, gọi là dòng Chị Em Thanh Bần (dòng Clara).
    - Dòng Ba: gồm các tu sĩ dòng ba Tại Viện và anh chị em dòng ba Phan Sinh Tại Thế. Ở Việt Nam, hiện có dòng nữ Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ và nhiều huynh đoàn Phan Sinh Tại Thế.

    Bổn mạng: lễ Thánh Phanxicô Assisi, 4-10.

    Hoạt động: Tham gia phục vụ Giáo Hội và xã hội trong mọi lĩnh vực: mục vụ giáo xứ, tông đồ xã hội, giáo dục, chăm lo người phung, các bệnh nhân, đồng bào dân tộc và ưu tiên chọn lựa người nghèo.

    Số cộng đoàn và nhân sự: Hiện nay, tỉnh dòng Phan Sinh Việt Nam có tất cả 17 cộng đoàn lớn, nhỏ tập trung tại các vùng Nha Trang, Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, An Giang.. với tổng số 172 tu sĩ: khấn trọn 103 (trong đó có 64 linh mục), khấn tạm 55, tập sinh 12, hiến sĩ 2.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Tốt nghiệp phổ thông trung học, tuổi từ 18 đến 21, sức khoẻ bình thường, tâm sinh lý ổn định, ước muốn sống ơn gọi Phan Sinh theo lý tưởng khó nghèo, khiêm hạ, phục vụ tha nhân.

    Trụ sở chính:
    Tu viện Phanxicô Đa Kao,
    số 3 Mai Thị Lựu, phường Đa Kao,
    Q. 1, TP. HCM. Đt: 08 8222294.
    Fax: 84 08 8228087
    Email: phi_kv@yahoo.com
    tutin@hcmc.netnam.vn

    Bề trên giám tỉnh đương nhiệm: Tu sĩ Phi Khanh Vương Đình Khởi, sinh 1939, khấn trọn 1965, lm. 1969.

    Danh sách linh mục dòng:
    Cộng đoàn Đakao: 3 Mai Thị Lựu, P. Đakao, Q.1, TP. HCM.
    1. Phi Khanh Vương Đình Khởi, sinh 1939, lm 1969.
    2. Phanxicô Xaviê Vũ Phan Long, sinh 1951, lm 1977.
    3. Anphong Nguyễn Công Minh, sinh 1951, lm 1992.
    4. Augustin Nguyễn Trinh Phượng, sinh 1915, lm 1949.
    5. Gioan Maria Trần Văn Phán, sinh 1919, lm 1949.
    6. Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, sinh 1936, lm 1966.
    7. Savio Nguyễn Chí Chức, sinh 1937, lm 1967.
    8. Irênê Nguyễn Thanh Minh, sinh 1945, lm 1971.
    9. Camilô Trần Văn Phúc, sinh 1945, lm 1971.
    10. Giuse Nguyễn Xuân Thảo, sinh 1947, lm 1975.
    11. Phêrô Tự Nguyễn Tín, sinh 1948, lm 1975.
    12. Đa Minh Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh 1949, lm 1990.
    13. Giuse Phạm Văn Bình, sinh 1957, lm 1996.
    14. Ignatiô Nguyễn Duy Lãm, sinh 1957, lm 1997.
    15. Giuse Nguyễn Tiến Dũng, sinh 1959, lm 1999.
    Cộng đoàn Thủ Đức: 2/27 ấp Phong Phú, Tăng Nhơn Phú B, Q.9, TP. HCM. Đt: 8960017
    1. Bosco Nguyễn Văn Đình, sinh 1937, lm 1967.
    2. Ignatiô Ngô Đình Phán, sinh 1935, lm 1971.
    3. Maria Antôn Trần Phổ, sinh 1918, lm 1957.
    4. Daniel Nguyễn Thăng Cao, sinh 1927, lm 1957.
    5. André Trần Hữu Phương, sinh 1936, lm 1964.
    6. Guy-Marie Nguyễn Hồng Giáo, sinh 1937, lm 1968.
    7. Phaolô Nguyễn Đình Vịnh, sinh 1952, lm 1992.
    8. Phêrô Nguyễn Văn Khoan, sinh 1951, lm 1994.
    9.Phêrô Khoa Ngô Công Tân, sinh 1948, lm 1990.
    10. Anselmô Nguyễn Hải Minh, sinh 1965, lm 2002.
    Cộng đoàn Cầu Ông Lãnh: 18 Phan Văn Trường, Q.1, TP. HCM. Đt: 8299810.
    1. Clêmentê Trần Thế Minh, sinh 1928, lm 1957.
    2. Biển Đức Trần Minh Phương, sinh 1918, lm 1948.
    3. Giacôbê Huỳnh Liên Ban, sinh 1941, lm1971.
    4. Luy Nguyễn Kim Hoàng, sinh 1957, lm 2000.
    Cộng đoàn Xuân Sơn: huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đt: 064 881251
    1. Giuse Nguyễn Văn Huân, sinh 1955, lm 1992.
    2. G.B. Nguyễn Gia Thịnh, sinh 1946, lm 1973.
    3. Antôn Vũ Hữu Lệ, sinh 1959, lm 2000.
    Cộng đoàn Bình Giả: xã Bình Giả, huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu. ĐT: 064 882846
    1. Phêrô Đậu Văn Minh, sinh 1950, lm 1977.
    2. Giuse Chu Quang Vượng, sinh 1961, lm 2001.
    Cộng đoàn Xuyên Mộc: ấp Nhân Đức, Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đt: 064 875008
    1. Giuse Lê Thanh, sinh 1946, lm 1974.
    2. Antôn Phan Vũ, sinh 1963, lm 2001.
    Điểm Hoà Hội: xã Hoà Hội, Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu. Đt: 064 875008.
    1. Giuse Trần Trung Phụng, sinh 1957, lm 2001.
    Cộng đoàn Sông Bé: xã Trừ Văn Thố, huyện Bến Cát, Bình Dương. Đt: 0650 552117.
    1. Giuse Đinh Quốc Trụ, sinh 1962, lm 2001.
    Cộng đoàn Cù Lao Giêng: xã Tấn Mỹ, Chợ Mới, An Giang. ĐT: 076 880009
    1. Antôn Nguyễn Văn Chúc, sinh 1947, lm 1975.
    2. Bonaventura Trần Văn Mân, sinh 1916, lm 1945.
    3. Gioan Hoàng Gia Bình, sinh 1945, lm 1977.
    Điểm Cồn Én: xã Tấn Mỹ, Chợ Mới, An Giang. Đt: 067 833733.
    1. Nicôla Vũ Ngọc Hải, sinh 1953, lm 1992.
    Cộng đoàn Du Sinh: 16 Huyền Trân Công Chúa, Đà Lạt. Đt: 063 823664.
    1. Gioan TC Nguyễn Phước, sinh 1953, lm 1990.
    2. Phaolô Nguyễn Văn Hồ, sinh 1925, lm 1953.
    3. Phaolô Đinh Huỳnh Hoa, sinh 1948, lm 1977.
    4. Antôn Nguyễn Ngọc Kính, sinh 1956, lm 1995.
    Cộng đoàn Vĩnh Phước: NT Antôn, Vĩnh Phước, Nha Trang. Đt: 058 831112.
    1. Giuse Nguyễn Xuân Quý, sinh 1945, lm 1971.
    2. Giuse Đặng Minh Tuấn, sinh 1958, lm 1996.
    3. Đa Minh Ngô Đức Thiện, sinh 1960, lm 2001.
    Cộng đoàn Đất Sét: xã Diên Xuân, Diên Khánh, Khánh Hoà. Đt: 058 767314.
    1. Gioakim Nguyễn Văn Có, sinh 1944, lm 1975.
    2. Phanxicô Xaviê Lê Khắc Lâm, sinh 1965, lm 2001.
    Cộng đoàn Đồng Dài: Diên Lâm, Diên Khánh, Khánh Hoà. Đt: 058 785005.
    1. Giuse Cupertinô Nguyễn Đình Ngọc, sinh 1946, lm 1974.
    2. G.B. Nguyễn Kỳ, sinh 1952, lm 1995.
    Cộng đoàn Cư Thịnh: Suối Hiệp, Diên Khánh, Khánh Hoà. Đt: 058 745289 - 740091.
    1. Carôlô Phan Châu Lý, sinh 1942, lm 1970.
    2. Phêrô Nguyễn Quế, sinh 15-6-1957, lm 9-5-1996.
    Điểm Ngọc Thanh: 230 đường 2/4 Vĩnh Phước, Nha Trang. Đt: 058 822549
    1. Phêrô Bapt. Đỗ Long Bộ, sinh 1921, lm 1950.
    2. Matthêô Nguyễn vinh Phúc, sinh 1935, lm 1965.
    Điểm Thanh Hải: 42 Củ Chi, Vĩnh Hải, Nha Trang. Đt: 058 832949
    1. Đamianô Đoàn Văn Lữ, sinh 1943, lm 1967.
    2. Norbertô Nguyễn Văn Khanh, sinh 1941, lm 1970.
    3. Alexis Trần Đức Hải, sinh 1948, lm 1975.
    Roma
    1. Ambrôxiô Nguyễn Văn Sĩ, sinh 1943, lm 1973.

  13. #13

    Mặc định

    DÒNG SALESIEN DON BOSCO (S.D.B.: SOCIETAS SALESIANA SANCTI JOANNES DON BOSCO - SALESIANS OF ST. JOHN BOSCO)

    Lược sử: Linh mục trẻ Gioan Bosco khởi sự hoạt động nguyện xá phục vụ các thanh thiếu niên nghèo từ ngày 8-12-1841. Lễ Phục Sinh năm 1846, cơ sở chính thức được thiết lập tại khu Vadocco, ngoại ô thành phố Torino (Bắc Ý). Ngày 8-12-1859, Don Bosco, cùng với 17 cộng sự viên của ngài (1 linh mục, 15 tư giáo và 1 học sinh), thành lập hội dòng Thánh François de Sales, với mục đích giáo dục giới trẻ nghèo.
    Ngày 23-7-1864, Toà Thánh ban Sắc lệnh Decretum Laudis phê chuẩn hội dòng. Hiến luật của dòng được Toà Thánh châu phê ngày 3-4-1874.
    Bổn mạng: Hội dòng chọn Thánh François de Sales làm bổn mạng. Cảm hứng từ lòng nhân hậu và nhiệt thành tông đồ của vị thánh này, Don Bosco đã đặt tên cho các tu sĩ của ngài là Salesien, và vạch ra cho họ một chương trình sống theo phương châm trên. Lễ thánh bổn mạng mừng ngày 24-1 và thánh lập dòng, Gioan Bosco, ngày 31-1 hằng năm.

    Mục đích và căn tính: Salesien Don Bosco là dòng tu thuộc quyền Giáo Hoàng. Hội viên gồm giáo dân và giáo sĩ, sống hiệp thông huynh đệ để thực hiện cùng một ơn gọi và sứ mệnh là giáo dục giới trẻ trong sự bổ sung huynh đệ.

    Châm ngôn: “Da Mihi Animas, Coetera Tolle”, nghĩa là “Xin cho con các linh hồn, mọi sự khác xin cứ lấy đi” diễn tả lý tưởng sống của người Salesien.

    Hoạt động: Sứ mệnh Salesien được diễn tả một cách cụ thể qua những lĩnh vực hoạt động sau:
    - Rao giảng Tin Mừng cho thanh thiếu niên, cách riêng những em nghèo khổ hơn cả.
    - Chăm sóc ơn gọi tông đồ.
    - Giáo dục đức tin trong các môi trường bình dân, đặc biệt với việc truyền thông xã hội.
    - Loan báo Tin Mừng cho các dân tộc chưa nhận biết.

    Những lĩnh vực này được thể hiện qua nhiều dạng thức hoạt động dành cho các thanh thiếu niên:
    Giáo dục trực tiếp:
    - các nguyện xá và trung tâm trẻ,
    - các đại học, trường học thuộc mọi cấp,
    - các trung tâm huấn nghệ, trường kỹ thuật,
    - các trường nội trú và các nhà mở cho các trẻ em khó khăn, hè phố,
    - các trung tâm huấn giáo và mục vụ.

    Truyền giáo và Phúc Âm hoá
    - Cộng tác với việc mục vụ của Giáo Hội địa phương qua việc đảm nhận các giáo xứ với những sinh hoạt nhấn mạnh tới việc giáo dục nhân bản và kitô hữu.
    - Dấn thân truyền giáo trực tiếp tại các điểm truyền giáo khác nhau trên khắp các châu lục.

    Riêng tại Việt Nam, tu sĩ Saledien hoạt động trong 5 lĩnh vực sau:
    - Mục vụ truyền giáo: dấn thân hoạt động trong các môi trường truyền giáo cho cả người Kinh lẫn dân tộc ít người.
    - Mục vụ ơn gọi: giữa các thanh thiếu niên, nhiều em giàu tiềm năng thiêng liêng và tỏ lộ mầm ơn gọi tông đồ. Các Trung tâm Ơn gọi sẽ giúp các em khám phá, đón nhận và làm trưởng thành ơn gọi giáo dân, thánh hiến, linh mục, vì lợi ích của Giáo Hội và của dòng.
    - Huấn nghiệp: dạy nghề tại các trung tâm huấn nghiệp như Ba Thôn, Tân Hà, Phước Lộc, Xuân Hiệp, Hóc Môn, K’Long, nhắm tới việc làm phát triển thanh thiếu niên qua việc hấp thụ và thăng hoa nền văn hoá với óc phê phán và qua việc giáo dục các em sống đức tin nhằm biến đổi xã hội bằng những giá trị Kitô giáo.
    - Hoạt động nguyện xá: một môi trường giáo dục được mở ra với nhiệt tình truyền giáo để phục vụ cho trẻ em và các thanh thiếu niên, bao gôàm các sinh hoạt tại các trung tâm trẻ, các lớp bình dân học vụ, lớp tình thương, trẻ hè phố.
    Nhân sự: Hiện nay, gia đình Salesien đang hoạt động trên 126 quốc gia với số tu sĩ 16.913 hội viên (2002), bao gôàm:
    - Giám mục và Tôång giám mục 108, linh mục 11.069, phó tế 17, tư giáo 2.911, sư huynh 2.317, tập sinh 419.
    Tại Việt Nam, số tu sĩ Salesien đang làm việc trong 5 giáo phận: Hà Nội, Sài Gòn, Xuân Lộc, Đà Lạt và Vĩnh Long, với 11 cộng đoàn và 7 điểm hiện diện. Tính tới 1-2003 số thành viên bao gôàm: giám mục 1, linh mục 72, tư giáo 98, sư huynh 31, trong đó khấn trọn 125, khấn tạm 76, tập sinh 25, tiền tập 28, đệ tử 371 học sinh TH và 311 sinh viên.
    Ngoài ra, tỉnh dòng cũng trách nhiệm công việc truyền giáo Salesien tại Mông Cổ với một cộng đoàn quốc tế gồm 6 hội viên.

    Địa chỉ: Trụ sở Trung ương:
    Direzione Generale Opere Don Bosco
    Via della Pisana, 1111 - C.P. 18333
    00163 Roma, Italy.
    Phone: (0039) 06 656 121.
    Fax: 0039 06 656 631.
    Email: mstempel@sdb.org

    Trụ sở Giám tỉnh:
    33/9A Bà Giang, K.P 4, P. Linh Xuân,
    Q. Thủ Đức, TP. HCM. HT. 767 TP.HCM
    Đt: 08 7240473 (VP) 7240742 (GT)
    Fax: 84 08 7240647
    Email: giamtinhsdbvn@fptnet.com.vn
    sdbvn@fptnet.com.vn (VP)

    Bề trên đương nhiệm
    - Bề trên cả (2002-2008): Lm. Pascual Chavez, quốc tịch Mêhicô, đấng kế vị thứ 9 của Don Bosco.
    - Giám tỉnh Việt Nam: Lm. G.B. Nguyễn Văn Thêm, sinh 10-3-1947, thụ phong linh mục 7-8-1975.
    DÒNG TÊN (CHÚA GIÊSU) (S.J.: SOCIETAS JESU - SOCIETY OF JESUS)

    Lược sử: Thánh I-nhã (Ignace de Loyola, 1491-1556) sau khi được ơn hoán cải ở tuổi 30, đã bỏ tất cả để phục vụ Thiên Chúa và Hội Thánh. Hồi học tại đại học Paris, ngài đã quy tụ được một nhóm bạn cùng chí hướng trong đó có Thánh Phanxicô Xaviê. Tại Roma, vào Mùa Chay năm 1539, I-nhã và các bạn đã nhất trí xin lập một dòng tu mới. Đức Thánh Cha Phaolô III đã chính thức phê chuẩn dòng Chúa Giêsu vào năm 1540, với tên gọi “Dòng Chúa Giêsu”. Sau hơn 460 năm thành lập và hoạt động, Dòng Chúa Giêsu được vinh dự cống hiến cho Giáo Hội 49 vị thánh và 135 chân phước, phần lớn là các vị tử đạo.
    Ở Việt Nam, vì kính huý Danh Thánh Chúa, nên dòng này thường được gọi là dòng Tên. Có thể nói các thừa sai Dòng Tên thuộc số những nhà truyền giáo tiên phong đem Tin Mừng đến đất Việt. Thật vậy, vào năm 1615, các thừa sai dòng Tên đã đến Việt Nam tại Hội An, Đà Nẵng. Một khuôn mặt nổi bật trong giai đoạn đầu là cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes, 1593-1660). Cha có công lớn trong việc truyền giáo và hình thành chữ Quốc ngữ mà chúng ta đang sử dụng. Từ năm 1615-1773, có khoảng 176 tu sĩ dòng Tên thuộc 18 quốc tịch hoạt động ở Việt Nam. Trong số đó, có 10 vị đã hiến thân chết vì đạo.
    Tuy được tái lập vào năm 1814, nhưng mãi đến năm 1957 Dòng Tên mới trở lại Việt Nam, tức sau gần hai thế kỷ vắng bóng trên đất Việt. Ngoài việc phụ trách Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X để huấn luyện linh mục cho các giáo phận, dòng còn tham gia đào tạo đội ngũ trí thức, thăng tiến người nghèo,... Hiện nay, dòng lo việc huấn luyện đức tin cho các tín hữu qua việc giảng Linh thao, coi sóc họ đạo, cũng như dấn thân phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật. Ngoài ra, dòng còn tham gia tích cực vào công cuộc truyền giáo và suy tư thần học.

    Bổn mạng:
    Lễ kính Danh Thánh Chúa Giêsu, 3-1.
    Lễ Thánh tổ phụ I-nhã, 31-7.

    Châm ngôn: “Cho vinh danh Thiên Chúa hơn” (Ad Maiorem Dei Gloriam).
    Tôn chỉ hoạt động: Bước theo Chúa Giêsu vác thập giá, sẵn sàng để được Đức Thánh Cha sai đi đến bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì, nhằm tôn vinh Thiên Chúa hơn và giúp ích cho con người hơn, theo tinh thần chiêm niệm trong hoạt động.

    Sứ mạng hiện nay của Dòng: Loan báo Tin Mừng với ba chiều kích thăng tiến công bình, hội nhập văn hoá và đối thoại với các tôn giáo. Nghiên cứu thần học, triết học và các khoa học (từ thiên văn cho đến các ngành khoa học mới), giáo dục (từ mẫu giáo tới đại học), xã hội (các hoạt động phục vụ người nghèo, người di cư, bệnh phong, bệnh AIDS). Luôn quan tâm đến những vấn đề xã hội mới nảy sinh.

    Nhân sự: Hiện nay, theo thống kê ngày 1-1-2004, Dòng Tên trên thế giới có khoảng 20.170 tu sĩ, trong đó có 14.148 linh mục, đang hoạt động tại 127 quốc gia. Riêng tại Việt Nam, con số này còn rất nhỏ (gồm 66 tu sĩ, trong đó có 22 linh mục). Vì thế, Dòng Tên Việt Nam rất mong được đón tiếp các bạn trẻ đến gia nhập Dòng. Các bạn có thể liên hệ với bất kỳ tu sĩ nào của dòng để được hướng dẫn cụ thể, hoặc qua các địa chỉ sau:
    1. Cộng đoàn Anrê Phú Yên
    142 Nguyễn Văn Trỗi, P.8
    Q. Phú Nhuận, TP. HCM
    Đt: (08) 844-6708
    2. Cộng đoàn Hiển Linh
    19 đường 5, P. Linh Trung
    Q. Thủ Đức, TP. HCM
    hoặc HT 10, Thủ Đức, TP. HCM
    Đt: (08) 897-1473
    3. Học viện Thánh Giuse
    19 đường 5, P. Linh Trung
    Q. Thủ Đức, TP. HCM
    hoặc HT 10, Thủ Đức, TP. HCM
    Đt: (08) 896-3908
    4. Tập viện Thánh Tâm
    1109 KP 3, P. Tam Phú, TP. HCM
    5. Cộng đoàn Thiên Thần
    600 xa lộ Hà Nội, KP. 4, P. An Phú,
    Q. 2, TP. HCM. Đt: (08) 899-0766.
    6. Cộng đoàn Đà Lạt
    38/3 Nguyễn Đình Chiểu, P.9,
    Đà Lạt. Đt: (063) 831-844.
    7. Giáo xứ Tạo Tác - Đà Lạt
    3A Nguyễn Đình Chiểu, P. 9,
    Đà Lạt. Đt: (063) 826-419

    Địa chỉ liên lạc
    Trụ sở tại Thành phố:
    142 Nguyễn Văn Trỗi, P.8
    Q. Phú Nhuận, TP. HCM
    Đt: (08) 844-6708

    Văn phòng Giám tỉnh:
    19 đường 5, K.P 2, P. Linh Trung
    Q. Thủ Đức, TP. HCM
    hoặc HT 10, Thủ Đức, TP. HCM
    Đt: (08) 897-9197

    Bề trên đương nhiệm
    Bề trên tổng quyền :
    Lm. Peter-Hans Kolvenbach, S.J.
    Borgo S. Santo 4, C.P. 9139, Roma 00195, Italy.
    Bề trên Giám tỉnh (từ 2003): Lm. Tôma Vũ Quang Trung.

    Danh sách các linh mục:
    1. Giuse Đỗ Quang Chính, sinh 25-11-1929, lm 27-7-1958; Cộng đoàn Hiển Linh.
    2. Giuse Lê Quang Chủng, sinh 9-6-1955, lm 28-10-1995; Học viện Thánh Giuse.
    3. Cosma Hoàng Văn Đạt, sinh 17-6-1948, lm 5-6-1976; Cộng đoàn Hiển Linh.
    4. Giuse Nguyễn Công Đoan, sinh 5-10-1941, lm 11-7-1970; Borgo S. Spirito 4, C.P. 6139, Roma, Italy.
    5. P.X. Nguyễn Thanh Hoài, sinh 9-2-1954, lm. 6-9-1997; 343/71 Nguyễn Trọng Tuyển, P. 3, Phú Nhuận, TP. HCM.
    6. Stêphanô Cổ Tấn Hưng, sinh 15-12-1929, lm 21-12-1974. Cộng đoàn Đà Lạt.
    7. G.B. Nguyễn Trung Kiên, sinh 2-1-1949, lm 8-8-1993; Cộng đoàn Đà Lạt.
    8. Giuse Khuất Duy Linh, sinh 1-12-1938, lm 22-5-1968; 43A Nguyễn Văn Mai, Q.3, TP. HCM. Đt: 08 8292148.
    9. Augustinô Đoàn Cao Lý, sinh 29-3-1929, lm 10-5-1956; Tập viện Thánh Tâm.
    10. Vincent Phạm Văn Mầm, sinh 20-10-1955, lm 6-9-1997; Cộng đoàn Thiên Thần.
    11. Gioan Trần Văn Nam, sinh 13-9-1940, lm 22-12-1973; Cộng đoàn Hiển Linh.
    12. Vincent Đinh Trung Nghĩa, sinh 26-6-1946, lm 21-12-1991; Cộng đoàn Hiển Linh.
    13. Phêrô Trần Văn Nhân, sinh 26-11-1956, lm 18-3-1999; Cộng đoàn Hiển Linh.
    14. Giuse Hoàng Văn Quảng, sinh 17-4-1956, lm 28-10-1995; Cộng đoàn Thiên Thần
    15. Giuse Lê Thanh Quế, sinh 23-6-1933, lm 21-12-1968; Cộng đoàn Hiển Linh.
    16. Giuse Hoàng Sỹ Quý, sinh 15-6-1926, lm 25-6-1965; 69 CMT8, Tân Bình, TP. HCM. ĐT: 08 8491653.
    17. Antôn Nguyễn Cao Siêu, sinh 7-10-1952, lm 26-1-2000; Học viện Thánh Giuse.
    18. G.B. Nguyễn Ngọc Tiến, sinh 13-7-1943, lm 21-12-1974; Gx. Tạo Tác, Đà Lạt.
    19. Giuse Hoàng Văn Tình, sinh 20-8-1947, lm 21-12-1991; Cộng đoàn Thiên Thần.
    20. Tôma Vũ Quang Trung, sinh 20-12-1955, lm 8-12-1994; Học viện Thánh Giuse.
    Email: trungvu@hotmail.com
    21. Giuse Dương Vũ, sinh 23-2-1955, lm 18-3-1999; Cộng đoàn Thiên Thần.
    22. Ant. Ngô Văn Vững, sinh 10-7-1939, lm 21-12-1968; Cộng đoàn Hiển Linh.
    23. Giuse Phạm Tuấn Nghĩa (lm 10-6-2006)
    24. Phêrô Ngô Phan Đình Phục (nt)
    25. Phêrô Nguyễn Đức Trí (nt)
    26. Anrê Phạm Văn Tú (nt)
    DÒNG THÁNH THỂ (S.S.S.: SOCIETAS SANCTISSIMI SACRAMENTI)

    Congregatio Santissimi Sacra-menti - Congrégation du Très Saint Sacrament - Congregation of the Blessed Sacramenti

    Miền Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

    Lược sử: Thánh tổ phụ Phêrô Giuliano Eymard (1811-1868) lập dòng năm 1856 tại Paris, được Đức Thánh Cha châu phê ngày 3 tháng 6 năm 1863. Hiến pháp Dòng được phê chuẩn ngày 1-8-1984. Dòng được thành lập tại Việt Nam ngày 5-2-1973.

    Bổn mạng:
    - Lễ Đức Mẹ Chúa Giêsu Thánh Thể 13-5.
    - Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (lễ hiệu của Dòng).

    Tôn chỉ: sống sung mãn Mầu nhiệm Thánh Thể và trình bày ý nghĩa của Mầu nhiệm ấy.

    Hoạt động:
    - Cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể,
    - Dạy giáo lý và chuẩn bị rước lễ lần đầu cho người lớn,
    - Rao giảng Lời Chúa trong các buổi tĩnh tâm,
    - Tổ chức các đại hội Thánh Thể,
    - Mở các trung tâm cầu nguyện, tĩnh tâm dành cho người lớn, đặc biệt là cho giới trẻ,
    - Đón tiếp các linh mục.

    Nhân sự: Có 4 cộng đoàn, 21 linh mục, (14 ở Việt Nam, 7 nước ngoài); khấn trọn 29, khấn tạm 16, tập sinh 7, thỉnh sinh 50, tìm hiểu 50.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Nam, tuổi tuổi từ 18-22 tốt nghiệp phổ thông.
    - Tuổi từ 22-28 tốt nghiệp đại học.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    15B/5, KP.6, P. Bình Chiểu,
    Q. Thủ Đức, TP. HCM.
    Đt: 08 7290026 - Fax: 84 08 8975649
    Email: sssvietnam@blessedsacramentph.org

    Bề trên đương nhiệm: Lm. Vinh Sơn Nguyễn Văn Hoà, sinh 1956, khấn dòng 1978, lm 1993.
    DÒNG TRỢ THẾ THÁNH GIOAN THIÊN CHÚA (O.H.: ORDO HOSPITALIS - BROTHERS OF THE HOSPITALLER ORDER OF ST. JOHN OF GOD)

    Tỉnh dòng Đức Maria Thánh Linh Việt Nam.

    Lược sử: Do Thánh Gioan Thiên Chúa sáng lập tại Tây Ban Nha và được chính thức công nhận qua Sắc chỉ Licet ex Rebito ngày 1-1-1572 của Đức Giáo hoàng Piô V. Hội dòng phát triển nhanh chóng tại Tây Ban Nha và Ý, sau đó lan sang khắp 5 châu lục. Hiện nay, dòng hiện diện tại 45 quốc gia, thông qua 293 công cuộc trợ thế.

    Bổn mạng: Thánh Gioan Thiên Chúa, 8-3.

    Tôn chỉ: Phục vụ bệnh nhân và người nghèo khổ theo gương Chúa Giêsu nhân từ và thương xót.

    Hoạt động chính: phục vụ bệnh nhân và người nghèo khổ.

    Số cộng đoàn tại Việt Nam:
    Tu viện Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành: 70/5 KP. 9, P. Tân Biên, TP. Biên Hoà, Đồng Nai.
    Tu viện Ricardo Pampuri: D/023 Nam Sơn, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, Đồng Nai.

    Nhân sự:
    Số tu sĩ trên thế giới: 1.414
    Số tu sĩ tại Việt Nam: khấn trọng 30, khấn tạm 1, linh mục 1: Saviô Trần Ngọc Tuyên, sinh 1938, lm 23-4-1987.

    Điều kiện gia nhập: Xin liên hệ trực tiếp với Tu huynh phụ trách Thỉnh viện tại:
    70/5 KP.9, Tân Biên, Biên Hoà, Đồng Nai. ĐT: 061. 882413 - 881472.

    Địa chỉ:
    Trụ sở Bề trên Tổng quyền:
    Via della Nocetta, 26300164,
    Roma, Italy.
    Tel: 0039 066604981.
    Fax: 0039 6637102.
    Email: curiafbf@tin.it
    Trụ sở Giám tỉnh Việt Nam:
    70/5 KP. 5, P. Tân Biên,
    TP. Biên Hoà, Đồng Nai.
    Đt và Fax: 84 061 884156.
    Email: gatcvietnam@yahoo.co.uk

    Bề trên đương nhiệm:
    Bề trên Tổng quyền: Tu sĩ Pascal Piles.
    Bề trên Giám tỉnh Việt Nam: Giuse Thợ Trần Văn Thông, sinh 1953, khấn trọng 1983.

  14. #14

    Mặc định

    DÒNG XITÔ THÁNH GIA VIỆT NAM (S.O.C.: SANCTUS ORDO CISTERCIANUS - ST. ORDER OF CISTERCIANS)

    Lược sử: Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam, xuất phát từ đan viện Phước Sơn, do cha Henri Denis (tên dòng của cha là Benoit Thuận) sáng lập ngày 15-8-1918 tại Quảng Trị, giáo phận Huế. Nguyên thuỷ dòng Phước Sơn thuộc quyền giáo phận, sau đó do Sắc chỉ của Thánh Bộ Tu sĩ ngày 24-5-1934, được sáp nhập vào dòng Xitô thế giới.
    Năm 1936, ba năm sau khi đấng tổ phụ qua đời, tu viện mới được thiết lập tại Châu Sơn, Nho Quan, Ninh Bình, giáo phận Phát Diệm.
    Ngày 23-10-1950, thêm một nhà khác được thiết lập tại miền Nam, tức đan viện Khiết Tâm Phước Lý, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
    Năm 1964, ba đan viện Phước Sơn, Châu Sơn, Phước Lý được nâng lên đan phụ viện và kết hợp thành một hội dòng mới trong số 13 hội dòng của Xitô thế giới, do Sắc chỉ của Toà Thánh ngày 6-10-1964.
    Năm 1971, đan viện Châu Sơn, Đơn Dương thiết lập đan viện Châu Thuỷ tại Hàm Tân, Bình Thuận, thuộc giáo phận Phan Thiết. Năm 1972, do quyết định của Tổng hội dòng Xitô Thánh Gia, nữ đan viện Xitô Vĩnh Phước được thiết lập tại Phước Lý, nay được di chuyển về Ngọc Đồng, phường Tân Hoà, thành phố Biên Hoà.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Gia Thất Chúa Giêsu, Đức Mẹ, Thánh Giuse.

    Châm ngôn: Ora et Labora (cầu nguyện và lao động).

    Mục đích: Giúp các tu sĩ thánh hoá bản thân theo gương gia đình Nazareth trong cầu nguyện và hy sinh, hầu góp phần vào việc cứu rỗi các linh hồn.

    Hoạt động: Theo gương Thánh Gia Thất, hội dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam thánh hoá đời sống âm thầm trong cầu nguyện và lao động để góp phần vào việc cứu rỗi anh chị em chưa tin Chúa. Ngoài ra, mỗi đan viện đều có nhà khách tĩnh tâm để đón nhận những người đến xin hồi tâm và cầu nguyện trong một thời gian dài hay ngắn tuỳ nhu cầu nội tâm.

    Điều kiện nhập tu: Mỗi đan viện trong hội dòng, với tư cách là nhà tự trị, có quyền mở tập viện để đón nhận các ứng sinh. Sau đây là những điều kiện phải có:
    - Đủ 18 tuổi và tốt nghiệp
    cấp III,
    - Có sức khoẻ tốt và trí phán đoán lành mạnh,
    - Có ý chí dấn thân tìm Chúa trong đời sống cộng đoàn và chiêm niệm,
    - Có đủ giấy tờ theo Giáo luật và dân sự như: Chứng chỉ Rửa tội và Thêm sức; giấy giới thiệu của cha chính xứ; giấy tạm vắng tạm trú và CMND.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn
    227 Phước Lộc, Phước Hoà,
    huyện Tân Thành, Bà Rịa-Vũng Tàu.
    Đt: 064 867298.
    hay 81 Trần Bình Trọng, P.1, Q.5,
    TP. HCM. Đt: 08 8352270.

    Hội trưởng đương nhiệm: Viện phụ Duy Ân Vương Đình Lâm, đắc cử Viện phụ Hội trưởng 1970.

    ĐAN VIỆN THÁNH MẪU PHƯỚC SƠN

    Thành lập: Đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn được thành lập ngày 15-8-1918 tại Phước Sơn, Quảng Trị, do cha Henri Denis Benoit Thuận, được sáp nhập vào dòng Xitô năm 1934 và di chuyển vào miền Nam, định cư tại giáo phận Sài Gòn (TP. HCM) năm 1953.

    Bổn mạng: Lễ Đức Maria, Thánh Mẫu Thiên Chúa, 1-1.

    Cơ sở: Hiện nay dòng có các cơ sở tại TP.HCM (Q.5, Thủ Đức và Củ Chi), Bà Rịa-Vũng Tàu.

    Nhân sự: 16 linh mục, 26 khấn trọng, 45 khấn tạm, 27 tập sinh, 20 tiền tập.

    Địa chỉ:
    1. Trụ sở Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn.
    79A Trần Bình Trọng, P.1, Q. 5,
    TP. HCM. Đt: 08 9235270.
    Email: tsps@hcm.vnn.vn
    2. Đan Viện Thánh Mẫu Phước Sơn.
    227/18 Phước Lộc, Phước Hoà,
    H. Tân Thành, T. Bà Rịa-Vũng Tàu.
    Đt: 064.876298
    Email: xitps@hcm.vnn.vn
    3. Tu viện Thánh Mẫu Phước Sơn Bình Triệu.
    14b/1 Bình Triệu, P. Hiệp Bình Chánh,
    Q.Thủ Đức,TP. HCM.
    Đt: 08 7266264
    4. Cộng đoàn Thánh Mẫu Phước Sơn, Phước Hiệp.
    Lô 6, An Nhơn Tây, H. Củ Chi,
    TP. HCM. Đt: 08 9235270.
    Bề trên đương nhiệm: Viện phụ M. Duy Ân Vương Đình Lâm, sinh 30-10-1930, khấn 1952, lm 24-8-1957.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. M. Piô Ngô Mai Huê, sinh 7-4-1910, lm 13-6-1947.
    2. Viện phụ M. Duy Ân Vương Đình Lâm, sinh 30-10-1930, lm 24-8-1957.
    3. M. Camilô Nguyễn Văn Hậu, sinh 20-5-1926, lm 21-3-1960.
    4. Dominique Phạm Văn Hiền, sinh 8-11-1938, lm 14-9-1966.
    5. M. Gioan Vianney Nguyễn Văn Ngọc, sinh 10-11-1942, lm 12-5-1973.
    6. M. Phêrô Khoa Lê Trọng Ngọc, sinh 25-9-1941, lm 4-8-1973.
    7. M. Timôthêô Thân Văn Quý, sinh 15-4-1945, lm 13-9-1975.
    8. M. Simon Hoà Trần Hiếu, sinh 22-6-1945, lm 30-11-1975.
    9. M. Gioan Thánh Giá Lê Văn Đoàn, sinh 9-4-1953, lm 11-4-1992.
    10. M. Tôma-Thiện Trần Văn Dưng, sinh 10-7-1973, lm 18-1-1994.
    11. M. Biển Đức Nguyễn Văn Nghĩa, sinh 13-3-1957, lm 6-9-1997.
    12. M. Augustinô Nguyễn Văn Huệ, sinh 23-12-1957, lm 13-1-2001.
    13. M. Tôma Nguyễn Phong Thuận, sinh 25-11-1971, lm 1-1-2001.
    14.M. Bênađô Duệ Nguyễn Hùng Dũng, sinh 2-2-1968, lm. 20-8-2001.
    15.M. Đa Minh Saviô Phạm Văn Vinh, sinh 28-3-1968, lm. 18-10-2002.
    16. M. G.B. Nguyễn Tiến Dũng, sinh 16-4-1964, lm 24-5-2003.

    ĐAN VIỆN THÁNH MẪU CHÂU SƠN

    Lược sử: Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn thuộc Dòng Xitô, được thành lập do đan viện Phước Sơn ngày 8-9-1936 tại huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tháng 4-1953 di chuyển và trạm trú tại Phước Lý, Nhơn Trạch, Đồng Nai. Tháng 6-1957 định cư tại Đơn Dương, Lâm Đồng.

    Bổn mạng: Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh, 6-4.

    Nhân sự: 61 khấn trọng, trong đó có13 linh mục, 29 khấn tạm, 14 tập sinh, 15 thỉnh sinh.

    Địa chỉ: Đan viện Thánh Mẫu Châu Sơn, Lạc Xuân, Đơn Dương, Lâm Đồng. Đt: 063 849164

    Bề trên đương nhiệm: Viện phụ Phanxicô Xaviê Phan Bảo Luyện, sinh 1941, lm 1968.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. Placiđô Hoàng Trung, sinh 2-1-1922, lm. 2-4-1956.
    2. Stephanus Trần Ngọc Hoàng, sinh 10-12-1928, lm. 24-8-1957.
    3. Giêrađô Nguyễn Văn Thất, sinh 22-5-1930, lm. 25-3-1965.
    4. Gabriel Nguyễn Thái Sơn, sinh 9-9-1934, lm 25-3-1971.
    5. Gioan Bosco Nguyễn Hữu Thy, sinh 9-10-1946, lm 12-10-1974.
    6. G.B. Ngô Chí Thiện, sinh 2-2-1931, lm. 8-9-1990.
    7. Phanxicô Salêsiô Vũ Khắc Nam, sinh 13-10-1946, lm 8-9-1990.
    8. Stanislaus Phạm Xuân Lộc, sinh 1-8-1953, lm 30-6-1991.
    9. Gioan Vianney Nguyễn Tri Phương, sinh 28-11-1955, lm 30-6-1991.
    10. Phêrô Bùi Đức Thành, sinh 5-10-1954, lm 22-4-1995.
    11. Phanxicô Ass. Lê Văn Thành, sinh 5-7-1956, lm 3-12-1999.
    12. Martinô Nguyễn Văn An, sinh 22-2-1956, lm 26-1-2000.

    ĐAN VIỆN MẪU TÂM PHƯỚC LÝ

    Lược sử: Theo lời mời của Đức giám mục Vĩnh Long, ngày 23-10-1950, cha M. Bernard Mendibour Nhơn, Bề trên đan viện Thánh Mẫu Phước Sơn Quảng Trị, cử cha M. Casimir Hồ Thiên Cung làm Bề trên nhà con mới và 4 linh mục, 1 phó tế, 14 tu sĩ lên đường vào miền Nam, lập cộng đoàn tại tỉnh Trà Vinh.
    Ngày 15-2-1951, cha M. Stanislaus Trương Đình Vang được cử vào miền Nam nhận chức Bề trên thay cha M. Casimir, với trách nhiệm đưa cộng đoàn lên miền Phước Lý, tỉnh Biên Hoà.
    Ngày 2-2-1952, cộng đoàn dâng thánh lễ đầu tiên tại Phước Lý.
    Ngày 6-5-1953, cộng đoàn Phước Lý nhận được Sắc chỉ lập dòng Xitô trong giáo phận Sài Gòn.
    Ngày 20-5-1954, cộng đoàn Phước Lý được nâng lên “Monas-terium sui iuris” (Đan viện tự trị).
    Ngày 10-11-1960, Đức cha Simon Hoà Nguyễn Văn Hiền xức dầu cung hiến Thánh đường đan viện.
    Ngày 5-3-1964, Đức Thánh Cha Phaolô VI nâng đan viện Phước Lý lên bậc “Abbatia” (Đan phụ viện).
    Ngày 19-3-1964, cha bề trên M. Stanislaus Trương Đình Vang được Đức tổng phụ Sighard Kleiner chúc phong Viện phụ (Abbas) tiên khởi của cộng đoàn Phước Lý tại Vương Cung Thánh Đường Sài Gòn.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Mẫu Khiết Tâm, kính ngày thứ Bảy sau Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.

    Nhân sự: Đan sĩ linh mục 5, đan sĩ khấn trọng 32, tu sĩ khấn tạm 62, tập sinh 21, hiến sinh 2, phó tế 5.

    Địa chỉ Nhà chính: Đan viện Phước Lý, xã Vĩnh Thanh, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Đt: 061 519080 hoặc 08 8886149

    Bề Trên đương nhiệm: Viện phụ M. Ignace Trần Ngân, sinh 1942, khấn 1961, lm 1969, viện phụ 1-6-1995.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. M. Montfort Nguyễn Vinh, sinh 12-12-1933, lm 22-8-1968.
    2. Viện phụ M. Ignace Trần Ngân, sinh 13-6-1942, lm 20-8-1969.
    3. M. Henri Nguyễn Hữu Tinh, sinh 6-2-1952, lm 8-9-1993.
    4. M. Vianney Trần Công Nghiệp, sinh 6-10-1958, lm 9-6-1994.
    5. M. François de Sales Trần Minh Thái, sinh 1-8-1956, lm 25-7-1995

  15. #15

    Mặc định

    ĐAN VIỆN THÁNH MẪU CHÂU THỦY

    Thành lập: Ngày 20-9-1970, được Đức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, giám mục giáo phận Nha Trang, chấp nhận cho lập dòng tại giáo phận và được quý cha và giáo dân hạt Bình Tuy thịnh tình đón tiếp và giúp đỡ.
    Ngày 15-4-1971, được Hội đồng Quản trị Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam chấp thuận.
    Ngày 2-7-1971, Viện phụ Stephan Trần Ngọc Hoàng và quý cha anh thuộc đan viện Châu Sơn Đà Lạt đến địa điểm truyền giáo của cha J. Baptiste Trần Ngọc Thuỷ ở Hàm Tân, dâng thánh lễ trọng thể kính Đức Mẹ Thăm Viếng để khai sinh nhà con, đặt danh hiệu là Đan viện Thánh Mẫu Châu Thuỷ.

    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, 31-5.

    Nhân sự: 9 linh mục, 13 đan sĩ khấn trọng, 6 tu sĩ khấn tạm, 8 tập sinh, 12 thỉnh sinh.

    Hoạt động: Tại đan viện, có 3 công việc chính là phụng vụ, học hành và lao động. Ngoài ra, còn phụ trách giáo xứ Châu Thuỷ (1.630 giáo dân), giúp mục vụ khi các cha sở yêu cầu, giúp đoàn thể và cá nhân tĩnh tâm tại đan viện.

    Địa chỉ:
    Đan viện Thánh Mẫu Châu Thuỷ
    Xóm 1, thôn 2, Đá Mài, Tân Xuân, Hàm Tân, Bình Thuận
    HT 002, Hàm Tân, Bình Thuận.
    Đt: 062 870756.
    Email: chauthuyvn@pmail.vnn.vn

    Bề trên đương nhiệm: Đan viện trưởng Gregorius Phan Thanh Quảng, lm 1959.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. J. Berchmans Nguyễn Văn Thảo, lm 1945.
    2. Gregorius Phan Thanh Quảng, lm 1959.
    3. Augustinus Vũ Quang Huân, lm 1965.
    4. Clemens Phạm Sĩ Ân, lm 1974.
    5. Barnabus Lê Xuân Ánh, lm 1994.
    6. J. Bosco Trần Văn Thành, lm 1997.
    7. F. Assisius Trần Minh Đoan, lm 2001.
    8. Robertus Trần Văn Lựu, lm 2001.
    9. G.B. Lê Minh Châu, lm 2001.

    ĐAN VIỆN THÁNH MẪU PHƯỚC VĨNH

    Thành lập: Ngày 24-6-1975, do Nhà Mẹ Phước Sơn.

    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, 15-8.

    Nhân sự: 4 linh mục, 10 đan sĩ khấn trọng, 3 khấn tạm.

    Địa chỉ:
    HT 38 Trà Vinh, ấp Thôn Rôn,
    xã Vĩnh Kim, huyện Cầu Ngang,
    tỉnh Trà Vinh. Đt: 074 827155.

    Bề trên đương nhiệm: Đan trưởng Augustinus Lê Trọng Hồng, sinh 1941, khấn 1962, lm 1969.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. Gregorius Đào Trọng Thanh, sinh 21-1-1923, lm 4-6-1955.
    2. Augustinus Lê Trọng Hồng, sinh 1-10-1941, lm. 20-8-1969.
    3. Paulus-Tịnh Nguyễn Tuyên Phương, sinh 27-11-1940, lm 20-8-1969.
    4. Phêrô Khanh Trần Như Hảo, sinh 12-12-1958, lm 22-6-2000

    ĐAN VIỆN THÁNH MẪU THIÊN PHƯỚC

    Thành lập: năm 1968, do Nhà Mẹ Phước Sơn.

    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Đi Viếng, 31-5.

    Nhân sự: 16 đan sĩ: 5 linh mục, 3 phó tế, 8 khấn trọng; 23 khấn tạm, 6 tập sinh, 10 thỉnh sinh.

    Địa chỉ:
    140/10 Trần Phú, phường 5, Bãi
    Dâu, TP. Vũng Tàu. Đt: 064 832165.
    Email: dvxito@hcm.vnn.vn

    Bề trên đương nhiệm: Viện trưởng Philippus Hoàng Kim Tâm, sinh 1946, lm 1975.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. Maximus Đỗ Chính Thống, sinh 1924, lm 1954.
    2. Philippus Hoàng Kim Tâm, sinh 1946, lm 1975.
    3. Mattheus Nguyễn Bá Linh, sinh 1950, lm 1994.
    4. Eduardo (Ân Đức) Trần Ngọc Hoan, sinh 1952, lm 199

    DÒNG ANH EM ĐỨC MẸ NGƯỜI NGHÈO

    Lược sử: Công cuộc cập nhật hoá đời đan tu tại các Giáo hội Phương Tây sau thế chiến II, đã được tiến hành theo hai xu hướng khác nhau. Xu hướng truyền thống, tìm trở về nguồn của hệ đan tu mà vẫn giữ nguyên hình thái đan viện lớn, không giới hạn sĩ số. Tiêu biểu nổi bật là trường hợp Đan viện Xitô nhặt phép Giếtsêmani, được phát huy mạnh mẽ bởi cha Thomas Merton tại bang Kentucky, Hoa Kỳ. Xu hướng thứ hai gọi được là cải cách, cũng tìm trở về nguồn, nhưng là nguồn Phúc Âm, thích nghi ơn gọi bằng việc biến cải cơ cấu của đan viện cổ truyền thành Huynh đoàn nhỏ, với sĩ số mỗi cộng đoàn chỉ gồm ít người.
    Dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo, theo xu hướng cải cách này, đã được sáng lập do cha Ermin de Clerck. Xuất thân từ một đan viện Biển Đức ở Bỉ, cha đã gầy dựng Huynh đoàn đầu tiên của dòng mới tại thôn Bourricos, thuộc giáo phận Aire và Dax, mạn Tây Nam nước Pháp, từ đầu năm 1956.

    Tôn chỉ - mục đích: Dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo tiếp tục ơn gọi đan tu, thích nghi cấu trúc với hoàn cảnh mới của thế giới người nghèo, nên thường được thiết lập tại môi trường xã hội bình dân, gần gũi với người nghèo, bất hạnh. Mục đích của dòng là thực tập ơn gọi chuyên nguyện qua mọi sinh hoạt đời thường tại nhà và giữa xã hội, theo những đòi hỏi luôn luôn mới của Phúc Âm Chúa Giêsu đối với mọi người, cách riêng với thành phần bất hạnh.

    Phương châm: “Vì Chúa Giêsu và đạo Phúc Âm của Người”.

    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, 31-5.

    Hoạt động: Theo truyền thống đan tu, dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo không có công trình xã hội. Mỗi anh em theo khả năng, phục vụ xã hội người nghèo sau khi đã tuyên khấn. Ưu tiên nhằm đối tượng bất hạnh trong ngành công tác xã hội, giáo dục, y tế, luôn tránh tuyến hoạt động kinh doanh.

    Nhân sự: Dòng được hội nhập Việt Nam từ năm 1970. Hiện có 2 cơ sở, đều toạ lạc trong giáo phận TP. HCM, với sĩ số: khấn trọn 8, khấn tạm 6, tập sinh 2, thỉnh sinh 2.

    Điều kiện gia nhập: Trên 18 tuổi, có chứng chỉ tú tài, đủ sức khoẻ cho một nếp sống bình dân lao động, có chí hướng sống ơn gọi đan tu phục vụ người nghèo.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Fraternité De Bourricos, 40200
    Pontenx Les Forges, France.
    Tel & Fax: 330 558 074 522
    Phụ trách Miền Việt Nam: Thầy Giuse Đỗ Duy Châu, sinh 1960, khấn 1989.
    Địa chỉ: 14/1 Bình Triệu, Hiệp Bình Chánh, Thủ Đức, TP. HCM. Đt: 08 7269617. Email: duychau@hcm.vnn.vn

    Danh sách linh mục:
    1. An Sơn Vũ Hữu Vị, sinh 14-7-1918, lm 2-4-1949.
    2. Bảo Tịnh Vương Đình Bích, sinh 26-8-1928, lm 6-1-1959.

    DÒNG ĐỒNG CÔNG (C.M.C.: CONGREGATIO MATRIS COREDEMPTRICIS - CONGREGATION OF MOTHER CO-REDEMPTRIX)

    Lược sử: Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc, quen gọi là dòng Đồng Công, được chính thức thành lập theo Giáo luật ngày 2-2-1953 tại xứ Liên Thuỷ, giáo phận Bùi Chu.
    Vị sáng lập dòng là linh mục Đa Minh Maria Trần Đình Thủ, sinh 19-11-1906, thụ phong linh mục 22-5-1937, khấn trọn đời 2-2-1955. Ngài là vị Bề trên tiên khởi của dòng. Được sự uỷ thác của Tổng Tu nghị năm 1970, ngài tiếp tục hướng dẫn hội dòng cho tới ngày nay.

    Châm ngôn: “Non ministrari, sed ministrare”: không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ (Mt 20, 28).

    Mục đích: Dòng được thành lập nhằm mục đích đào tạo các linh mục, tu sĩ thánh thiện phục vụ công cuộc truyền giáo và Phúc Âm hoá dân tộc.

    Hoạt động: Hoạt động chính của dòng hướng theo mục tiêu truyền giáo.

    Ở hải ngoại, ngoài việc phụ trách các giáo xứ người Việt, dòng còn hoạt động trong nhiều lĩnh vực như: phục vụ giáo sĩ dưỡng đường, truyền bá lòng sùng kính Mẹ Maria bằng việc phát hành Nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ và tổ chức Ngày Thánh Mẫu hàng năm cho cộng đồng người Việt tại hải ngoại...
    Tại Việt Nam, do hoàn cảnh chưa thuận tiện, công việc chính của các tu sĩ là nêu bật chứng tá Tin Mừng bằng đời sống cầu nguyện chiêm niệm. Ngoài ra, tuỳ theo yêu cầu của các giáo xứ, dòng cũng tổ chức các lớp huấn luyện giáo dân thực thi sống Tin Mừng trong môi trường gia đình và xã hội.

    Nhân sự: Dòng hiện có khoảng 700 tu sĩ trên cả thế giới. Tại Việt Nam, gồm có 360 tu sĩ vĩnh thệ, 170 tu sĩ hạn thệ, 10 tâïp sinh, không kể số dự tu. Hiện chỉ còn lại 2 cơ sở: một tại Thủ Đức, giáo phận TP. Hồ Chí Minh và một cơ sở tại giáo xứ Giang Điền giáo phận Xuân Lộc.

    Điều kiện tuyển chọn: Để gia nhập dòng Đồng Công, các chí nguyện sinh chỉ cần đáp ứng các điều kiện theo Giáo luật đòi hỏi.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    521 tỉnh lộ 43, Tam Phú, Thủ Đức,
    TP. HCM. Đt: 08 8968471.
    Email: avemaria@hcm.vnn.vn

    Danh sách linh mục
    1. Đa Minh Maria Trần Đình Thủ, sinh 1906, lm 1937. Đt: 8977027.
    2. Bernađô Maria Bùi Khải Hoàn (Trung), sinh 1919, lm 1947. Đt: 8910676.
    3. Augustinô Maria Nguyễn Hiến Tân, sinh 1922, lm 1951. Đt: 8979301.
    4. Augustinô Maria Đặng Ngọc Hưởng, sinh 1925, lm 1963. Đt: 061 866035.
    5. Gioan Maria Đoàn Phú Xuân, sinh 1931, lm 1967. Đt: 8968471.
    6. Micae Maria Nguyễn Trung Giáo, sinh 1935, lm 1973. Đt: 8968471.
    7. Gioan Bosco Maria Phạm Ngọc Liên, sinh 1941, lm 1973. Đt: 8968471.
    8. Tađêô Maria Đinh Trí Thức, sinh 1939, lm 1975. Đt: 8979301.
    9. Stêphanô Maria Phạm Cao Đích, sinh 1948. Đt: 8968471.
    10. Antôn Claret Maria Nguyễn Ngọc Lâm, sinh 1948. Đt: 8968471.
    11. Henricô Maria Đinh Viết Phục, sinh 1951. Đt: 061 866035.

  16. #16

    Mặc định

    DÒNG LỜI CHÚA (DÒNG THỪA SAI ĐỨC TIN) (GP. PHÚ CƯỜNG)

    Thành lập: Năm 1972.

    Khẩu hiệu: GRATIA ET GAUDIUM IN FIDE.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Phaolô trở lại, 25-1.

    Mục đích:
    - Nhằm đạt đến đức ái hoàn hảo qua việc thánh hoá bản thân và phục vụ Giáo Hội.
    - Nâng đỡ trong tình huynh đệ những linh mục, tu sĩ đang gặp khó khăn trong đời sống ơn gọi và tìm cách đưa về những tâm hồn lạc lối.
    - Dấn thân truyền giáo cho những anh em Kitô hữu khác và những người thuộc các tôn giáo bạn.
    - Dấn thân phục vụ cho sự thăng tiến của giới trẻ và giúp họ nhận ra ơn gọi của mình trong cuộc sống.

    Nhân sự: hiện có 6 linh mục, 37 tu sĩ, 7 tập sinh và 36 dự tu.

    Trụ sở chính:
    Tu Viện Lời Chúa
    12/50 phường Phú Thọ, thị xã
    Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
    Đt: 065 822586-824872.
    Email: tvlcmf@hotmail.com

    Bề trên đương nhiệm: Lm. Giuse Phan Trọng Quang, sinh 31-3-1960, lm 13-12-1994.

    Điều kiện gia nhập: Các ứng sinh tuổi từ 18-25, đã tốt nghiệp đại học hoặc đang học đại học, có ý hướng dấn thân trong ơn gọi thừa sai.

    DÒNG THÁNH GIA VIỆT NAM (GP.LONG XUYÊN)

    Lược sử: Dòng Thánh Gia được Giám mục Valentin Herrgott, MEP (hội Thừa Sai Paris), chính thức sáng lập ngày 15-8-1931, tại Banam (Cambodia), thuộc địa phận PhnomPenh, là dòng giáo dân, với lời khấn đơn, thuộc quyền giáo phận.
    Vì hoàn cảnh, dòng phải di tản về Việt Nam và được Toà Thánh ban phép nhập địa phận Long Xuyên năm 1970.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Gia Thất Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse.

    Châm ngôn: “Nước Cha trị đến”. Viết tắt: ART (từ Adveniat Regnum Tuum được khắc trên phù hiệu tức ảnh Thánh Giá nhỏ đeo trên ngực).

    Hoạt động: Hoạt động chính của dòng là truyền giáo bằng giảng dạy và tham gia các công tác mục vụ.
    Số cộng đoàn: Ở Việt Nam có 8 cộng đoàn: nhà chính tại TP. Long Xuyên - An Giang, 1 ở TP. Cần Thơ, 1 ở Trà Ếch (Sóc Trăng), 3 ở TP. Hồ Chí Minh, 1 ở Túc Trưng - Đồng Nai và 1 ở Phước Long tỉnh Bình Phước.

    Nhân sự:
    Ở Việt Nam, số tu sĩ khấn trọn 25, khấn tạm 9, tập sinh 8, thỉnh sinh 4, tu sinh (đang học đại học) 23, đệ tử (đang học trung học cấp III) 30 em.
    Ở nước ngoài: gồm 2 linh mục và 5 tu sĩ.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Được giới thiệu của linh mục chính xứ,
    - Vào cấp trung học (cấp III), phải qua cuộc thi tuyển hàng năm vào dịp hè, học hết đại học vào tập viện.
    - Vào cấp đại học: học hết đại học, làm thỉnh sinh ít nhất là 6 tháng đến 1 năm trước khi vào tập viện.
    - Tất cả các tu sinh trước khi vào tập viện, phải tốt nghiệp đại học hoặc tương đương. Tất cả các tu sinh, đệ tử phải sống trong cộng đoàn đã được ấn định.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    603 Bình Đức, TP. Long
    Xuyên, tỉnh An Giang.
    Đt: 076 853574.
    Fax: 84 076 856574.
    Email: artagg@hcm.vnn.vn
    23/14 đường D2, P.25, Bình Thạnh, Tp.HCM
    Điện thoại: (08) 8992017

    Bề trên đương nhiệm: Thầy Gabriel Lê Minh Sanh, sinh 13-5-1951, khấn dòng 29-6-1976. Piô Phạm Đình Tiến.

    DÒNG NGÔI LỜI - GIUSE (GP.NHA TRANG)

    Lược sử: Dòng Thánh Giuse được thành lập từ năm 1931 tại giáo phận Quy Nhơn, do Đức giám mục Jean Sion thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP).
    Năm 1955, trụ sở Nhà Mẹ dời về Nha Trang. Trước đây, các tu sĩ dòng Thánh Giuse đã từng sinh hoạt tại các giáo phận: Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Phan Thiết, Kontum, Ban Mê Thuột, Đà Lạt và Sài Gòn.

    Bổn Mạng: Lễ Thánh Giuse, 19-3. Dòng gồm có anh em linh mục và không linh mục hợp tác chặt chẽ với nhau trong mọi sinh hoạt theo đường hướng tôn chỉ của Hội Dòng.

    Tôn chỉ: Tinh thần của dòng là sống đức tin, đức mến và đức khiêm nhường, hướng tới tôn chỉ của đấng sáng lập là: “Phục vụ Thiên Chúa và các linh hồn”.

    Mục đích: Mục đích chính của dòng là thánh hoá bản thân và cuộc sống bằng việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm. Mục đích chuyên biệt của dòng là thực thi bác ái, cách riêng trong các lĩnh vực: dạy đạo, giáo dục thanh thiếu niên, tham gia các công trình của giáo phận và Giáo Hội, đồng thời tích cực dấn thân vào các công tác xã hội, từ thiện, nhân đạo.

    Nhân sự: Hiện nay, dòng có nhà chính tại Nha Trang, các cơ sở ở TP. HCM và một số tỉnh khác với số tu sĩ 115, tập sinh 20, thỉnh sinh 12 và đệ tử 70.

    Các giai đoạn đào tạo:
    - Đệ tử: khoảng 18 tuổi, tốt nghiệp PTTH và đang học đại học năm thứ hai trở lên.
    - Thỉnh sinh: đã đậu cử nhân trở lên và phải ở Thỉnh kỳ từ 6 tháng đến 1 năm.
    - Tập sinh: 1 năm Tập kỳ trọn, theo đúng giáo luật.
    - Tập sự: 2 năm, sau năm thần học 2 cho các thành viên chọn đời sống tu sĩ linh mục; 2 năm, sau khoá 3 năm triết thần căn bản cho các thành viên chọn đời sống tu sĩ không linh mục.
    - Kinh sinh: học chương trình triết học, thần học hoặc chuyên ngành, tuỳ đương sự chọn làm linh mục hay tu huynh.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    10 Võ Thị Sáu, Nha Trang, Khánh Hoà
    Đt: 058 881100.
    Fax: 84 058 883811
    Email: dtgiuse@dng.vnn.vn.
    5 Chữ Đồng Tử, P.7, Q.Tân Bình, Tp.HCM.
    Điện thoại: (08) 8658199

    Bề trên đương nhiệm: Lm. Clement Lưu Minh Hoàng, sinh 1936, khấn dòng 1954. Hyacinte Võ Thành Châu.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. Gérard Trần Lộc, sinh 1916, lm 1975; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang: HT 52, 10 Võ Thị Sáu, Nha Trang. Đt: 058 881100.
    2. Clément Lưu Minh Hoàng, sinh 1936, lm 1975; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang, Đt: 058 882130.
    3. Simon Nguyễn Xuân Nghi, sinh 1942, lm 1975; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    4. Damien Phan Châu Đại, sinh 1927, lm 1992; HT 27, Bình Định, An Nhơn, Bình Định. Đt: 056 835490.
    5. Théophile Ngô Hoàn Cầu, sinh 1941, lm 1992; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    6. Germain Phùng Nhẫn, sinh 1945, lm 1993; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    7. Daniel Đinh Viết Cư, sinh 1945, lm 1994; Gx. Thánh Gia, 10 Võ Thị Sáu, Nha Trang. Đt: 058 883809.
    8. Paul Ngô Hành, sinh 1949, lm 1994; 144 Hoàng Diệu, Nha Trang. Đt: 058 881834.
    9. Ignace Hồ Kim Thanh, sinh 1951, lm 1998; Mỹ Thanh, Cam Thịnh Đông, Cam Ranh. Đt: 058 865209.
    10. Paul Đậu Văn Pháp, sinh 1950, lm 1998; Thuỷ Lợi, Hộ Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận. Đt: 068 871011.
    11. Hyacinthe Võ Thành Châu, sinh 1945, lm 1999; 5 Chữ Đồøng Tử, P. 7, Tân Bình, TP. HCM. Đt: 08 8658199.
    12. Antoine Hà Huy Mai, sinh 1954, lm 1999; 5 Chữ Đồøng Tử, P. 7, Tân Bình, TP. HCM. Đt: 08 8658199.
    13. Jean Nguyễn Hoài An, sinh 1950, lm 1999; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    14. Simon Hồ Đức Minh, sinh 1955, lm 2000; Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    15. J.B. Nguyễn Văn Sỹ, sinh 1959, lm 2003, Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    16. Joseph Trần Minh Hùng, sinh 1967, lm 2003, Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.
    17. Joachim Võ Thành Khánh, sinh 1969, lm 2003. Tu viện Thánh Giuse Nha Trang.

    DÒNG THÁNH TÂM - HUẾ

    Lược sử: Cảm nhận được giá trị của nền giáo dục Kitô giáo, đồng thời để tỏ lòng tri ân các vị thầy của mình là các sư huynh giáo dục Công giáo Floermel, xứ Bretagne, miền Tây Bắc nước Pháp, Đức cha Joseph Marie Eugène Allys (Lý), giám mục địa phận Huế (1908-1931) đã sáng lập dòng Thánh Tâm ngày 9-10-1925 tại Huế.
    Đức cha sáng lập đã đặt linh mục Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn làm Bề trên tiên khởi của dòng, về sau, ngài trở thành giám mục giáo phận Bùi Chu.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.

    Châm ngôn: “Hãy đi rao giảng” (Mc 1,15).

    Tinh thần: “Hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).

    Mục đích: giáo dục văn hoá cho thanh thiếu niên và giảng dạy giáo lý.

    Cơ sở hoạt động: Trước đây, dòng thiết lập hoặc phụ trách: 4 cơ sở sản xuất, 2 nhà in, 14 trường trung-tiểu học, 2 giáo xứ.
    Nay còn các tu sở ở Huế: 35 Phan Đình Phùng; TP. Hồ Chí Minh: 92 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Q. Bình Thạnh; Đồng Nai: Lộc Hoà, Trảng Bom 2, Xuân Lộc, Đồng Nai.
    Hiện nay, để thích ứng với hoàn cảnh xã hội, dòng hướng đến việc Phúc Âm hoá trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

    Nhân sự: hiện nay dòng có 32 khấn sinh (gồm 8 linh mục), tập sinh 5, tìm hiểu ơn gọi 60.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Nhận tìm hiểu ơn gọi: lớp 10 trở lên.
    - Nhận vào tập viện: tốt nghiệp đại học.

    Nhà Trung ương:
    35 Phan Đình Phùng, Huế.
    Đt: 054 825048- 8400795
    Email: thanhtamhue@dng.vnn.vn
    Trụ sở 1:
    92 XVNT, Q. Bình Thạnh, TP. HCM.
    Đt: 08 8400795.
    Email: sothinghe@hcm.pft.vn
    Trụ sở 2:
    24/4 Lộc Hoà, Tây Hoà,
    Thống Nhất, Đồng Nai.
    Đt: 061 864649.

    Bề trên đương nhiệm: Tu sĩ Micae Nguyễn Văn Châu, sinh 19-6-1928, khấn dòng 22-8-1948, lm 11-9-1994. Antôn Huỳnh Đầy.

    HỘI PRADO (HỘI CÁC LINH MỤC PRADO - ASSOCIATION DES PRÊTRES DU PRADO)

    Lược sử: Hội Prado, hay Hội Các Linh Mục Prado, được thành lập năm 1860 do cha Antoine Chevrier (1826-1879), thuộc giáo phận Lyon (Pháp), nhằm rao giảng Phúc Âm cho người nghèo.
    Năm 1850, cha Antoine Chevrier được giám mục giáo phận sai đến một trong những ngoại ô bình dân nhất của Lyon. Cảnh khốn cùng của dân chúng làm đảo lộn tâm tư ngài. Vị linh mục say mê Chúa Giêsu Kitô này bắt tay ngay vào công trình làm cho người dân ở đó hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu Kitô.
    Đêm Giáng Sinh 1856, khi suy niệm Mầu nhiệm Nhập Thể, cha Antoine Chevrier nhận được ơn soi sáng. Dưới ánh sáng kỳ diệu của Mầu nhiệm Nhập Thể, cha xin ơn sống nghèo và quyết định dấn thân vào con đường tình yêu đích thực, con đường đưa đến gần Chúa Giêsu Kitô qua cách sống tương hợp với Người, với cuộc đời và sứ mệnh của Người. Đồng thời, cha Antoine Chevrier xác tín rằng Phúc Âm của Chúa Giêsu Kitô chính là quy luật sống và là nguồn cội của hoạt động tông đồ của linh mục bên cạnh người nghèo.

    Quy chế: “Để sống ơn gọi và sứ vụ mình giữa lòng ơn gọi và sứ vụ của dân Chúa, hội Các Linh Mục Prado được xây dựng thành một hiệp hội các linh mục triều, thuộc quyền giáo hoàng, được quản trị theo luật Giáo Hội dành cho các tu hội đời” (Hiến chương Hội Các Linh Mục Prado, số 6).
    Các Linh Mục Prado vẫn trọn vẹn là linh mục triều. Họ “sống ơn gọi tông đồ này trong bậc linh mục giáo phận của mình, nghĩa là như những cộng tác viên của giám mục và phục vụ dân Chúa trong linh mục đoàn. Họ nhận lãnh trực tiếp từ Đức giám mục giáo phận sứ mạng tông đồ theo Giáo luật” (Hiến chương Hội Các Linh Mục Prado, số 6).

    Một vài niên hiệu:
    1860: Hội Các Linh Mục Prado (hay “nhóm linh mục nghèo”: cha Chevrier và 4 linh mục trẻ) được thành lập, với sự chúc lành của Hồng y Caverot, Tổng Giám mục Lyon.
    1922: Bản Hiến chương đầu tiên được Tổng giám mục Lyon thừa nhận.
    Cũng trong năm này, cuốn thủ bản của cha Chevrier được xuất bản: cuốn “Linh mục theo tinh thần Phúc Âm hoặc Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô”. Cuốn sách này thường được gọi tắt là cuốn “Người môn đệ đích thực” (Le Véritable Disciple).
    4-10-1986: cha Antoine Chevrier được tôn phong chân phước do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Lyon, Pháp.
    7-6-1987: Bản Hiến chương mới của Hội Các Linh Mục Prado được Toà Thánh chuẩn nhận.

    Nhân sự: Hiện nay có khoảng 1.300 linh mục Prado được phân phối rải rác trong 50 quốc gia khác nhau. Các nhóm đông nhất tập trung ở Pháp, Tây Ban Nha, Ý. Các nhóm nhỏ hơn ở trong các quốc gia khác tại châu Âu. Khoảng 110 linh mục ở châu Mỹ, trong 12 quốc gia, nhất là châu Mỹ La Tinh và vùng Caribbean; 40 ở Bắc và Tây Phi Châu và Madagascar; 120 ở Á Châu: Triều Tiên, Ấn Độ, Nhật Bản, Việt Nam; 30 ở Trung Đông.

    Địa chỉ trụ sở chính:
    L’Association des Prêtres du Prado
    13, rue du Père Chevrier, 69007 Lyon
    Tel: 33478724167.
    Fax: 33472720454.
    Email: AP.PRADO@wanadoo.fr

  17. #17

    Mặc định

    TU HỘI CHÚA GIÊSU (GP. TP. HCM)

    Lược sử: Tu hội Chúa Giêsu được linh mục Gioan Baotixita Maria Trần Ngũ Nhạc (1914-1983) thành lập tại Tam Châu, Phát Diệm, năm 1950. Sau ngày di cư vào Nam, năm 1961, chọn một số anh em sống tinh thần tu hội.
    Năm 1963, Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình đồng ý cho thành lập tu hội.
    Ngày 26-9-1973, Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình ký sắc lệnh chính thức thành lập tu hội với tên hiệu: Tu hội Chiến Sĩ Chúa Giêsu. Sau năm 1975, đổi thành Tu hội Chúa Giêsu (I.J.).

    Mục đích:
    * Mục đích chung: tìm vinh danh Thiên Chúa, thánh hoá bản thân, cứu các linh hồn bằng việc tuyên khấn giữ 3 lời khuyên Phúc Âm.
    * Mục đích riêng: tận hiến cho Chúa Giêsu nhờ Trinh Mẫu Maria, sống và làm cho người khác sống bác ái của Chúa Kitô theo ngành nghề của mình, đặc biệt phục vụ bệnh nhân ở bệnh viện qua việc mục vụ, chuyên môn và thăm viếng, săn sóc...

    Khẩu hiệu: “Per Mariam ad Jesum” (nhờ Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu).

    Lối sống: Vì là tu hội đời, nên các thành viên của tu hội Chúa Giêsu sẽ sống giữa đời trong các nhà của tu hội thành lập, mỗi nhà từ 3-7 người, tuỳ Tổng Phụ trách và Hội đồng Quản trị quyết định. Cũng có thể sống tại gia đình. Nhưng trong thời gian tập viện (2 năm), các tập sinh phải sống chung với nhau tại tập viện của tu hội.

    Số cộng đoàn: cộng đoàn nhà chính, cộng đoàn Sinh nhật Trinh mẫu Maria, cộng đoàn Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, cộng đoàn Vô Nhiễm.

    Nhân sự: Linh mục 4, khấn trọn 5, khấn tạm 1, tập sinh 2, đệ tử 5, dự tu 17.

    Điều kiện gia nhập:
    - Kitô hữu nam giới, đã tôát nghiệp PTTH, tương đối đã trưởng thành đủ về trí khôn, tình cảm và thiêng liêng có các đức tính nhân bản tốt và muốn sống bác ái Kitô giáo (GL 597; 721,3).
    - Không bị ràng buộc trong một dòng tu, tu hội hay tu đoàn tông đồ nào khác (GL 721,1).
    - Không bị ràng buộc bởi dây hôn phối.
    - Có sức khoẻ bình thường, không mang bệnh tật truyền nhiễm, nguy hiểm.
    - Không bị ngăn trở luật pháp đời.
    - Có chứng chỉ Rửa tội, Thêm sức, hạnh kiểm do linh mục quản xứ cấp chưa quá 3 tháng.

    Thời gian huấn luyện:
    - Đệ tử: tối thiểu 2 năm.
    - Tập viện: 2 năm.
    - Khấn tạm: 6 năm (3 năm đầu, mỗi năm cam kết lại một lần, lần thứ tư cam kết với thời hạn 3 năm).
    - Thời gian học làm linh mục: 6 năm theo Giáo luật, sau khi đã tốt nghiệp Đại học đời và đã khấn tạm.

    Địa chỉ Nhà Chính:
    15/2A CMT 8, P. 5, Q. Tân Bình,
    TP. HCM. Đt: 08 9906525.

    Bề trên đương nhiệm: Lm. Phaolô Maria Nguyễn Huệ.

    Danh sách linh mục:
    1. Phaolô Maria Nguyễn Huệ, sinh 1951, lm 1997.
    2. Louis Gonzaga M. Phạm Đăng Quang, sinh 1960, lm 1997.
    3. Giuse Maria Nguyễn Xuân Lân, sinh 1956, lm 1999.
    4. G.B. Maria Nguyễn Chánh Thi, sinh 1965, lm 1999.


    TU HỘI ĐẮC LỘ

    Lược sử: Tu hội Đắc Lộ được sáng lập năm 1957 do cha Giuse Vũ Khánh Tường (1925-1980). Ngài đã kết hợp tinh thần cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) là phó thác tin tưởng và truyền giáo với đường lối lý tưởng của Thánh Gioan Tiền Hô là loan báo Tin Mừng, dọn đường cho Chúa đến, bằng đời sống nhiệt thành, vị tha của các phần tử trong tu hội. Đặc biệt hợp tác với hàng giáo sĩ địa phận trong các ngành hoạt động như: truyền giáo, văn hoá, giáo dục, xã hội, truyền thông, phát triển mà hàng giáo sĩ địa phận vì quá bận rộn với công tác mục vụ xứ đạo, không có thời giờ đảm trách được.
    Cha Giuse đã dựa vào tinh thần bản Tông sắc Provida Mater (1947) và Tự sắc Primo Feliciter (1948) của Đức Giáo hoàng Piô XII để thiết lập tu hội Đắc Lộ với tư cách là một pháp nhân, thuộc đấng bản quyền giáo phận Sài Gòn.
    Năm 1957, cha đã kêu mời và quy tụ được một số linh mục, tu sĩ và một ít giáo dân ngoài đời, tình nguyện tận hiến để cùng nhau hoạt động tông đồ tuỳ theo môi trường, hoàn cảnh xã hội và ngành nghề của mình. Thế là tu hội Đắc Lộ được thành hình.
    Trụ sở đặt ở số 31, ấp Tân Hiệp, xã Tân Sơn Nhì, Tân Bình, Gia Định (nay là 97 CMT8, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM).
    Ngày 14-6-1957, cha Giuse đã gặp Đức cha Simon Hoà Nguyễn Văn Hiền, giám mục giáo phận Sài Gòn, để trình bày đầy đủ chi tiết về việc thành lập tu hội.
    Năm 1983, Hiến pháp Tu hội Đắc Lộ được đệ trình lên Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình để xin phê chuẩn. Ngài đã chấp nhận và cho thử nghiệm.

    Mục đích và châm ngôn: Sống đời trọn lành với 3 lời khuyên Phúc Âm: khó nghèo, khiết tịnh và tuân phục, ở giữa thế gian để phục vụ Chúa và Giáo Hội bằng các việc tông đồ, trong mọi lĩnh vực (nếu điều kiện cho phép) nhằm giới thiệu và chuẩn bị các tâm hồn cho Chúa ngự đến, theo phương pháp của Thánh Gioan Tiền Hô: “Hãy dọn đường cho Chúa”.

    Bổn Mạng: Lễ sinh nhật Thánh Gioan Tiền Hô, 24-6

    Hoạt động: Vì tu hội Đắc Lộ là một tu hội tông đồ và truyền giáo nên ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải đặt việc loan báo Tin Mừng lên hàng đầu, chuẩn bị tâm hồn người ta cho Chúa ngự đến.
    Trước năm 1975, hoạt động chính của tu hội là mở trường dạy văn hoá, đạo đức. Hiện nay, tu hội được Toà tổng giám mục trao trách nhiệm coi xứ Văn Côi (1999).

    Số cộng đoàn:
    Nhà Chính: 97 Trường Chinh, P. 12, Q. Tân Bình, TP. HCM.
    Nhà nghỉ: xã Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng.

    Nhân sự: 5 linh mục, 9 khấn trọn, 3 khấn tạm, 2 tập sinh, 30 dự tu.

    Điều kiện: Để gia nhập tu hội Đắc Lộ, ngoài những quy định do Giáo Luật, tu hội còn thêm một số điều kiện hành chính hiện giờ. Tu hội nhận và huấn luyện các tu sinh từ lớp 6 trở lên. Công việc tuy gặp nhiều khó khăn vất vả nhưng với thời gian đào tạo lâu dài như thế, ngay từ nhỏ, các tu sinh được hưởng nhiều lợi ích hơn, nhất là về phần nhân bản và thiêng liêng.

    Địa chỉ:
    97 Trường Chinh, P. 12, Q. Tân Bình,
    TP. HCM. Đt: 08 8490004
    Email: nguyenduchan@hcm.p.vn

    Bề trên đương nhiệm: Lm. G.B. Nguyễn Đức Hân, sinh 1946, lm 1975.


    TU HỘI GIA ĐÌNH NAGIA

    Lược sử: Tu hội Gia Đình Nazareth (quen gọi Na Gia) là một tu hội giáo dân thuộc quyền giáo phận, do cha André Đào Tiến Tình sáng lập, được Đức cha Philipphê Nguyễn Kim Điền châu phê ngày 13-5-1964, tại Cần Thơ.

    Bổn mạng:
    - Bổn mạng I: Lễ Thánh Gia, Chúa Nhật sau Lễ Giáng Sinh.
    - Bổn mạng II: Thánh Biển Đức, 11-7.

    Mục đích: Nhiệt tâm sống và phổ biến lý tưởng gia đình: sống với Chúa là Cha, sống với nhau, sống với mọi người là anh chị em con cùng một Cha, theo Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.

    Hoạt động:
    Tại Cần Thơ
    - Năm 1962, thành lập trường trung học Đồng Tâm và điều hành trong 3 năm, rồi trao lại cho giáo phận.
    - Mở một Trung tâm Sinh ngữ tại nhà thờ An Hội, gần bến xe Mới, Cần Thơ.
    - Điều hành một nhà in, một tiệm sách.
    - Phụ trách họ đạo: An Hội và Thới Thạnh.
    Tại Sài Gòn
    - Thành lập các gia đình thiêng liêng (gọi là Gia Đình Chúa) để “nâng đỡ, phục vụ và góp phần thánh hoá các gia đình” (Gia kỷ, chương 1, số 3).
    - Tu hội cũng đem lòng kính trọng, phục vụ mọi thành phần Dân Chúa (linh mục, tu sĩ, giáo dân) bằng cách thiết lập các:
    + Hưu trí viện (nhà Betania)
    + Giải trí viện (vườn Eden)
    + Tĩnh tâm viện (nhà Coenaculum - Gia kỷ, ch.1, số 4).

    Nhân sự:
    6 khấn trọn (1 lm), 2 tập sinh, 6 thỉnh sinh, 8 dự tu.

    Điều kiện gia nhập:
    - Các nam Kitô hữu có ý hướng tận hiến,
    - Văn hoá tối thiểu 12/12,
    - Tuổi từ 18-30 (có thành phần là trợ tá).

    Địa chỉ Nhà Chính:
    209, khu phố 4, QL 1A
    P. Bình Chiểu, Q. Thủ Đức, TP. HCM.
    Đt: 08 7294317

    Bề trên đương nhiệm: Lm. G.B. Hoàng Văn Minh, sinh 8-7-1931, khấn 24-6-1968, lm 18-3-1999.


    TU HỘI NHÀ CHÚA THÁNH GIOAN TIỀN SỨ

    Lược sử: Tu hội Nhà Chúa Thánh Gioan Tiền Sứ, gọi tắt là tu hội Tiền Sứ, là tổ chức tiếp nối truyền thống Nhà Đức Chúa Trời đã từng phát triển mạnh, cả ở ngoài Bắc lẫn trong Nam, và tỏ ra rất hữu hiệu trong việc phục vụ Giáo hội Việt Nam, nhất là vào những thời kỳ bị bách hại. Thành viên của Nhà Đức Chúa Trời - lúc ấy gọi là kẻ giảng - đã phục vụ rất đắc lực trong vai trò trung gian giữa các mục tử và đoàn chiên.
    Trong hơn 300 năm, các kẻ giảng vừa là trợ tá đắc lực cho các linh mục trong hoạt động truyền giáo và mục vụ, vừa là nguồn dự bị phong phú cho những ơn gọi lãnh nhận các chức thánh. Những linh mục đầu tiên của Việt Nam đều xuất thân từ Nhà Đức Chúa Trời. Vị chứng nhân đầu tiên của Giáo hội Việt Nam là một kẻ giảng: Thầy Anrê Phú Yên, chịu trảm quyết tại Quảng Nam năm 1644.
    Về sau, do tình hình chính trị và xã hội Việt Nam thay đổi, các cộng đoàn Nhà Đức Chúa Trời không những không phát triển, mà còn tàn lụi dần. Vừa để tiếp nối truyền thống, vừa để canh tân theo Công đồng Vatican II, đồng thời đào tạo các cộng tác viên tích cực trợ lực các linh mục quản xứ trong công tác truyền giáo và mục vụ, Lm. G.B. Đào Duy Du (1924-1993) đã thành lập tu hội Nhà Chúa Thánh Gioan Tiền Sứ.
    Ngày 13-5-1974, Tgm. Phaolô Nguyễn Văn Bình đã châu phê Hiến pháp tu hội với tính cách thí nghiệm. Sau năm 1975, Hiến pháp được tiếp tục thi hành cho tới ngày nay.

    Bổn mạng: Thánh Gioan Tiền Sứ, 24-6.

    Mục đích: Tu hội nhận chính ơn gọi và sứ mạng của Thánh Gioan Tiền Sứ làm đặc sủng: “Là Ngôn Sứ của Đấng Tối Cao, đi trước mở đường cho Chúa” (Lc 2,76).

    Châm ngôn: “Men trong bột” (Mt 13,33): Sống giữa đời, dùng phương tiện đời, góp phần thánh hoá đời.

    Nhân sự: khấn trọn 3, khấn tạm 13, tiền tập 5, ứng sinh tìm hiểu tại chỗ 5, tìm hiểu 18.

    Điều kiện tuyển chọn: (Ngoài các ngăn trở luật định)
    Nam tín hữu Công giáo, đủ 18 tuổi (GL 721,1), sức khoẻ tốt, có đời sống nhân bản trưởng thành, đức tin vững mạnh, học lực tương đương giới trí thức trong xã hội.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    25 đường số 9, Khu phố 1,
    P. Bình Thọ, Q. Thủ Đức, TP. HCM.
    Đt: 08 8961339.

    Điều hành đương nhiệm: Lm. Phêrô Nguyễn Thiên Thuật, sinh 1924, lm 1952.


    HỘI THỪA SAI PARIS (MEP: SOCIÉTÉ DES MISSIONS ETRANGÈRES DE PARIS)

    Sáng lập: Sau khi Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) vận động Giáo hội Pháp từ 1652-1654, gửi các nhà truyền giáo đi Việt Nam và tìm giám mục đi Việt Nam, thì Hội Thừa sai Paris ra đời do hai vị sáng lập chính là hai Đức cha François Pallu và Lambert de la Motte.
    Quả thế, sau những cuộc vận động của Cha Đắc Lộ, ngày 17-5-1658, Thánh Bộ Truyền giáo đã cử hai giám mục tiên khởi sang Viễn Đông. Đó là Đức cha Pallu và Lambert de la Motte. Đức cha Lambert trẩy đi ngay từ đầu năm 1660. Đức cha Pallu còn ở lại Paris với một số tu sĩ, những thừa sai đầu tiên của Hội.
    Trụ sở Hội trước đặt ở Couard, cách Paris 40km về phía Tây, tại biệt thự bà Miramion, sau đưa về phố Quincampois, Paris, và cuối cùng di về phố Du Bac ngày nay.
    Chủng viện của hội được chính quyền chấp nhận với lá thư đề ngày 26-7-1663, và Giáo quyền châu phê do chính Hồng y Chiggi, Đặc sứ của Đức Giáo hoàng Alexandre VII, ngày 11-8-1664.

    Đặc tính: Hội Thừa sai Paris là một hội giáo sĩ thuộc quyền Giáo hoàng, không có lời khấn, không được miễn trừ.

    Mục đích: Chiếu theo Huấn dụ của Thánh Bộ Truyền giáo ngày 10-11-1659, mục đích chính của hội là huấn luyện các linh mục bản quốc trong các miền đã đón nhận Phúc Âm. Thứ đến, Hội lo coi sóc các giáo dân hiện có, và sau hết là lo làm cho người ngoại giáo trở lại.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Le Séminaire des Missions
    Etrangères 128, rue du Bac,
    Paris VII, France

    Bề trên cả: Cha Jean-Baptiste Etcharren.

    Các hội viên: Hiện nay, Hội có chừng 364 thừa sai và 15 thầy phụ tá. 158 người tại châu Âu, 206 ở các tổ chức công cộng ngoài châu Âu. Còn bao nhiêu đều đang hoạt động tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Myanmar, Ấn Độ và Madagascar.
    Tại Việt Nam: Vị thừa sai đầu tiên của hội tại Việt Nam là cha Deydier, năm 1666. Năm 1678, Đức cha Pallu đã xin Toà Thánh tấn phong 4 vị giám mục bản xứ (2 cho Đàng Ngoài và 2 cho Đàng Trong). Nhưng mãi đến năm 1933, Thánh Bộ Truyền giáo mới bổ nhiệm vị giám mục tiên khởi Việt Nam. Trong khi đó, các giáo phận cứ mỗi ngày một gia tăng, và các cha thừa sai vẫn tiếp tục sứ mạng đào tạo hàng giáo sĩ bản quốc cho đến 1975. Hiện nay, hội vẫn tiếp tục giúp đỡ Giáo hội Việt Nam bằng nhiều phương cách, đặc biệt là đang trợ giúp đào tạo hàng giáo sĩ Việt Nam bằng cách giúp học bổng, giúp ăn ở tại Pháp. Có 43 linh mục Việt Nam đang trọ học tại trụ sở của hội ở Paris và 10 linh mục khác trọ học tại Institut Catholique de Toulouse.

    Tổ chức nội bộ: Các thừa sai hội viên khi phục vụ tại đâu đều vâng phục giáo quyền tại đó, đồng thời cũng được đặt dưới quyền một bề trên cho mỗi địa phận. Các tổ chức miền đó lại hợp thành một cộng đoàn lớn hơn do một bề trên tỉnh điều khiển.

    Hoạt động: Các linh mục Hội Thừa sai Paris làm việc tuỳ sự chỉ định của giám mục sở tại, với sự đồng ý của cha bề trên Hội.

    Điều kiện nhập hội: Việc nhận ai vào Hội đều do quyết định của cha bề trên cả và của hội đồng cố vấn của ngài tại Paris.


    TU ĐOÀN TRUYỀN GIÁO THÁNH VINH SƠN (CM: CONGREGATIO MISSIONIS)

    Lược sử: Do Thánh Vinh Sơn Phaolô (Vincent de Paul) thành lập tại Pháp, năm 1625.
    Bổn mạng: Lễ Thánh Vinh Sơn, 27-9. Tuy nhiên, hằng năm tu hội còn mừng lễ Thánh Phaolô Tông đồ trở lại, 25-1, là ngày mà theo Thánh Vinh Sơn, Chúa đã kêu gọi ngài thành lập tu hội để rao giảng cho Dân Chúa. Và như vậy, chính Chúa đã khởi đầu Tu hội Truyền Giáo.

    Châm ngôn: “Chúa đã sai tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18).

    Mục đích: Tiếp nối sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô, Đấng đã được Chúa Cha sai đến để cứu giúp những người nghèo hèn. Ngoài ra tu hội cũng trợ giúp việc đào tạo hàng giáo sĩ.
    Hoạt động: Truyền giáo cho đồng bào dân tộc thiểu số, mục vụ giáo xứ. Tu hội tại Việt Nam hiện phụ trách 5 giáo xứ thuộc giáo phận Đà Lạt (đa phần tại vùng đồng bào dân tộc và các họ đạo nhỏ, nghèo quanh thành phố Đà Lạt).

    Số cộng đoàn và cơ sở tại Việt Nam: Có 3 cộng đoàn chính thức:
    Nhà đào tạo gồm 3 cơ sở:
    - Nhà Thánh Tâm, 40 Trần Phú, TP. Đà Lạt.
    - Nhà Vinh Sơn, 11 Yết Kiêu, TP. Đà Lạt.
    - Nhà 479/15 Nguyễn Kiệm, Phú Nhuận, TP. HCM.
    Email: vinhson@hcm.netnam.vn
    Nhà truyền giáo có 2 cơ sở thuộc huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng.
    - Nhà Ka Đơn.
    - Nhà Próh.
    Nhà Túc Trưng (xã Phú Túc, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai).

    Nhân sự: Số tu sĩ trên toàn thế giới: 4.067 (số liệu 1998). Tại Việt Nam: khấn trọn 35, linh mục 14, phó tế 13, khấn tạm 22, tập sinh 4, thỉnh sinh 13 (triết học), đệ tử 7, dự tu 20.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Thanh niên có sức khoẻ tốt, trí phán đoán ngay thẳng, ước muốn tận hiến cuộc đời cho Chúa để phục vụ người nghèo.
    - Tuổi dưới 28 (trừ trường hợp đặc biệt được cứu xét riêng).
    - Trình độ văn hoá là đại học hay cao đẳng sư phạm đối với bậc giáo sĩ, tốt nghiệp phổ thông trung học đối với bậc tu huynh.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    95, rue de Sèvres,
    75006 Paris-France
    Tel: (33-1) 45483572.
    Fax: 01 42 840964
    Email: paris.cm@Wanadoo.fr

    Trụ sở chính
    (nhà Trung Ương):
    Casa Generalizia Via dei Capaso
    30, 00164 Roma-Italia
    Tel: 39 06 6663730 - 663732 - 6663736; Fax: 06 6663831.
    Email: MD0801@mclink.it

    Bề trên đương nhiệm (Miền Việt Nam): Giuse Đinh Tất Tiến.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. Alexis Tống Phước Hậu, sinh 1941, lm 1968. Đt: 063 847831.
    2. Jean Pièrre Hà Văn Báu, sinh 1944, lm 1973. Đt: 063 823089.
    3. Jean Bapt. Nguyễn Quốc Thư, sinh 1945, lm 1973. Đt: 061 854126.
    4. Gérard Trần Công Dụ, sinh 1945, lm 1974. Đt: 063 823089.
    5. Giuse Nguyễn Văn Linh, sinh 1944, lm 1976. Đt: 063 825227.
    6. Phaolô Phạm Văn Trị, sinh 1947, lm 1976. Đt: 063 823089.
    7. Augustin Nguyễn Hữu Gia, sinh 1949, lm 1992. Đt: 063 848644.
    8. Giuse Phan Thái Hoà, sinh 1949, lm 1993. Đt: 063 823089.
    9. Giuse Đinh Tất Tiến, sinh 1952, lm 1994. Đt: 08 9904980 - 063 823089.
    10. Giuse Nguyễn Xuân Tĩnh, sinh 1954, lm 1997. Đt: 061 639126
    11. Giuse Nguyễn Đức Ngọc, sinh 1953, lm 1998. Đt: 063 847831.
    12. Giuse Nguyễn Văn Lập, sinh 1945, lm 2001. Đt: 063 825227.
    13. Giuse Vũ Quốc Hội, sinh 1956, lm 2002. Đt: 063 864869.
    14. Augustin Nguyễn Viết Chung, sinh 1955, lm 2003. Đt: 18 9904980.

  18. #18

    Mặc định

    HỘI LINH MỤC XUÂN BÍCH (P.S.S.: COMPAGNIE DES PRÊTRES DE SAINT - SULPICE)

    Nguồn gốc: Đầu thập niên 30 (tức 1929-1933), một nhóm linh mục Saint-Sulpice là cha Paliard và Uzureau đến Việt Nam mở đại chủng viện Xuân Bích ở Liễu Giai, đường Quần Ngựa, ngoại ô Hà Nội. Năm 1954, chủng viện Xuân Bích di cư vào Nam, ở Vĩnh Long 2 năm (1954-1956), rồi Thị Nghè (1956-1962). Từ niên khoá 1962-1963, theo lời mời của Tgm. Phêrô Martinô Ngô Đình Thục, các linh mục Xuân Bích giúp đào tạo chủng sinh cho cả giáo tỉnh Huế. Sau đó, giúp giáo phận Vĩnh Long. Từ 1994, Hội Xuân Bích Việt Nam trở lại giúp đại chủng viện Huế, đào tạo chủng sinh của 3 giáo phận Huế, Đà Nẵng, Kontum.

    Đặc tính: Đây là hội linh mục triều, có đời sống chung. Các linh mục Xuân Bích sống chung với nhau, nguyên dựa vào tình bác ái linh mục và sự mỗi người quyết tâm dâng hiến cuộc đời cho việc đào tạo các linh mục tương lai.

    Bổn mạng: Đức Mẹ Dâng Mình, 21-11.

    Châm ngôn: “Sống tuyệt vời cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Vivere Summe Deo in Christo Jesu).

    Mục đích: Ban đầu, Hội chỉ nhằm huấn luyện các linh mục tương lai ở đại chủng viện. Nhưng với ánh sáng của Công đồng Vatican II, Hội còn tham gia vào công cuộc thường huấn hoặc bồi dưỡng cho các linh mục và đồng thời sẵn sàng giúp các ngài trong những việc các ngài cần đến...
    Linh đạo: Linh đạo của Xuân Bích cắm rễ sâu vào Thánh Kinh như nền tảng vững vàng trong đời sống thiêng liêng của Giáo Hội, đồng thời nương theo tinh thần của trường phái Pháp quốc mà đặc biệt sống theo mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc. Linh đạo Xuân Bích hoàn toàn tập trung vào sự kết hợp với Chúa Kitô, với các mầu nhiệm, tâm tình của ngài. Xuân Bích lấy việc cử hành phụng vụ, nhất là hy lễ tạ ơn, làm như chóp đỉnh và tâm điểm của một ngày sống. Sự tôn sùng Thánh Thể được đề cao. Hội đặc biệt sùng ái Đức Trinh Nữ Maria, lòng sùng ái ăn sâu vào tín lý. Ngoài ra, Hội đòi các hội viên đọc, suy niệm Lời Chúa, nguyện gẫm mỗi ngày một giờ.

    Đường hướng sư phạm: Xuân Bích ưu tiên cho việc đào tạo thiêng liêng, lấy việc linh hướng làm phương thế tuyệt diệu và giúp chủng sinh phân định ơn gọi và được tự do đáp ứng. Hội nỗ lực cổ vũ cuộc sống bác ái của cộng đoàn giáo sư và chủng sinh.

    Hiện tình:
    - Chung thế giới
    Hội có khoảng hơn 400 thành viên thuộc 3 tỉnh hội: Pháp, Canada, Hoa Kỳ, có mặt ở nhiều quốc gia và lãnh thổ. Tuy bé nhỏ nhất trong các tổ chức tu trì, nhưng Xuân Bích lại có số thành viên kỷ lục làm giám mục.
    Trụ sở Trung ương và Tỉnh hội Pháp:
    6, rue du Regard - 75006 Paris, France.
    - Tại Việt Nam
    Thuộc tỉnh hội Pháp, các thành viên Xuân Bích hiện nay chỉ có 20 người, trong đó có 1 giám mục: Đức cha Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh, đại diện Tỉnh hội Xuân Bích tại Việt Nam.
    Trụ sở Xuân Bích Việt Nam:
    38/24 đường Hồ Đắc Di, P. Tây Thành, Q.Tân Phú, TP.HCM.
    Đt: 08 8495274

    Nguồn gốc Hội Saint-Sulpice (tiếng Việt phiên âm Xuân Bích) gắn liền với công cuộc tông đồ của cha Jean Jacques Oliver, linh mục người Pháp (1608-1657).
    Được Chúa Thánh Thần soi dẫn và được nhiều vị danh tiếng khích lệ, cha Oliver ác tín rằng: không thể canh tân Giáo Hội và không thể đẩy mạnh phong trào truyền giáo lên cao độ, nếu không đào tạo một hàng linh mục thánh thiện, đạo đức và nhiệt tình. Thế là cha dấn thân vào công cuộc đào tạo linh mục tương lai. Giáo xứ Saint-Sulpice được cha Oliver chọn làm thí điểm cho công cuộc của ngài và lấy tên giáo xứ đặt cho hiệp hội ngài sáng lập: Hội Saint-Sulpice.

    TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ GIÁO SĨ NHÀ CHÚA

    Lược sử: Năm 1630, cha Alexandre de Rhodes đã thành lập tổ chức Nhà Đức Chúa Trời tại miền Bắc Việt Nam, trong đó, các thầy giảng là những tu sĩ đầu tiên của nhà Đức Chúa Trời đã đóng góp rất nhiều cho công cuộc truyền giáo của Giáo hội Việt Nam vào thời kỳ đầu.
    Năm 1954, một số linh mục và tu sĩ thuộc tổ chức Nhà Đức Chúa Trời di chuyển từ giáo phận Thái Bình vào Sài Gòn. Để thích nghi với hoàn cảnh hiện tại, được sự nhất trí của các đấng bản quyền liên hệ, cha Giuse Maria Vũ Khoa Cử đã cải tổ Nhà Đức Chúa Trời thành Tu hội Nhà Chúa vào năm 1956, tại cơ sở Nguyễn Duy Khang, thuộc Tổng giáo phận Sài Gòn. Tu hội được Đức cha Simon Hoà Nguyễn Văn Hiền cho phép thử nghiệm ngày 10-2-1960, được Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình ký sắc lệnh thành lập tạm thời ngày 20-5-1971 và thành lập vĩnh viễn ngày 29-6-1977.
    Giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Giám quản Tổng giáo phận TP. HCM, đã cho phép thay đổi danh xưng tu hội Nhà Chúa thành Tu đoàn Tông Đồ Giáo Sĩ Nhà Chúa cho phù hợp với bản chất pháp lý và truyền thống của tu đoàn, bằng Tuyên ngôn được ban hành tại Toà tổng giám mục Tổng giáo phận TP. Hồ Chí Minh, ngày 25-12-1996.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Gia Thất.

    Châm ngôn và mục đích: Khiêm tốn và Phục vụ theo gương Đức Kitô.

    Hoạt động:
    - Làm việc tông đồ nơi giáo điểm, giáo họ, giáo xứ.
    - Thánh hoá các gia đình.
    - Đặc biệt giúp các linh mục coi xứ.

    Số cộng đoàn: Ở Việt Nam 7.

    Nhân sự: - Tại Việt Nam: linh mục 8, phó tế 3, khấn trọn 32, khấn tạm 18, tập sinh 4, thỉnh sinh 5, đệ tử 20.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Văn hoá: Tú tài trở lên.
    - Giới tính: nam.
    - Có tinh thần dấn thân truyền giáo.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    195/29 Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.17,
    Q. Bình Thạnh, TP. HCM.
    Đt: 08 8996681.
    Email: nguyenmanhduykhang@pmail.vnn.vn

    Bề trên đương nhiệm: Lm. Laurensô Nguyễn Trường Thăng, sinh 1940, khấn dòng 23-5-1972, lm 29-4-1970.

    Danh sách linh mục:
    1. Laurensô Nguyễn Trường Thăng, sinh 1940, lm 1970; NT Thánh Gia, Xuân Phú, Xuân Lộc, Đồng Nai. Đt: 061 871613.
    2. Tôma Trần Văn Đại, sinh 1950, lm 1988; NT Long Thuận, Xuân Hưng, Xuân Lộc, Đồng Nai. Đt: 061 873019.
    3. Giuse Nguyễn Thế Mạnh, sinh 1939, lm 1992; 195/29 Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.17, Bình Thạnh, TP. HCM. Đt & Fax: 08 8996681.
    4. Đa Minh Nguyễn Kim Khanh, sinh 1954, lm 1993; NT Hồng Ân, Sông Ray, Xuân Lộc, Đồng Nai. Đt: 061 713097.
    5. Giuse Cao Văn Ninh, sinh 1960, lm 1994. Đt: 08 8982611.
    Email: josephndk@tlnet.com.vn

    TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ NHẬP THỂ - TẬN HIẾN - TRUYỀN GIÁO (ICM: SOCIETAS VITAE APOSTOLICAE INCARNATIO - CONSECRATIO - MISSIO)

    Lược sử: Ngày 2-2-1949, linh mục Micae Maria Nguyễn Khắc Tước, tức Việt Anh, khởi sự thành lập tu đoàn tại giáo phận Thái Bình, Bắc Việt.
    Ngày 8-12-1969, Đức cha Simon Hoà Nguyễn Văn Hiền, giám mục tiên khởi giáo phận Đà Lạt, đã phê chuẩn Hiến Pháp đầu tiên của tu đoàn có chiều hướng tu hội đời.
    Ngày 1-11-1980, Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, giám mục giáo phận Đà Lạt, công nhận hội Nhập Thể Tận Hiến là một hội đạo đức (Pia Unio).
    Ngày 28-1-2000, căn cứ văn thư của Toà Thánh đề ngày 5-11-1999, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, giám mục giáo phận Đà Lạt, đã phê chuẩn Hiến pháp của nam ICM là Tu đoàn Tông Đồ Giáo Sĩ thuộc quyền giáo phận, và ngày 2-2-2000 ban hành nghị định chính thức thiết lập tu đoàn theo Giáo Luật.

    Bổn mạng: Lễ Truyền Tin, 25-3.

    Mục đích:
    - Tận hiến cho Thiên Chúa theo gương Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể và Đức Maria, Mẹ của lời “Xin vâng”;
    - Làm tông đồ bằng việc phục vụ người nghèo;
    - Dấn thân đi truyền giáo cho dân ngoại.

    Hoạt động: tông đồ truyền giáo, đặc biệt cho người nghèo.

    Nhân sự: Tại Việt Nam, có 6 cộng đoàn, với số thành viên đã gia nhập chính thức: 18 (5 linh mục, 1 phó tế); số thành viên giai đoạn thử luyện: 11; số tìm hiểu: 13. Tại hải ngoại, có 13 (linh mục 11).

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Ít nhất 18 tuổi,
    - Có sức khoẻ tâm thần và thể lý,
    - Có ý ngay lành muốn gia nhập vĩnh viễn vào tu đoàn và tận hiến cho Thiên Chúa bằng lời khấn tư để phục vụ Hội Thánh,
    - Thường phải tốt nghiệp trung học phổ thông.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    121 Đồng Tâm, Khóm Nam Thiên, P. 4, TP. Đà Lạt.
    Đt: 063 829835-822280.
    Tại TP. HCM:
    57 đường 154, P.Tân Phú, Q.9
    Đt: 08 8963951.
    Email: thanhicm@pmail.vnn.vn

    Bề trên đương nhiệm: Lm. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Hoàng. Lm. Giuse Đoàn Công Thành.

    Danh sách linh mục: (theo năm lm)
    1. Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Hoàng, sinh 1-5-1946, lm 27-4-1974; HT 10 Bảo Lộc, Lâm Đồng. Đt: 063 829835
    2. Giuse Tống Đình Quý, sinh 8-11-1948, lm 4-4-1976; 111 Đồng Tâm, Nam Thiên, P. 4, Đà Lạt. Đt: 063 822280. Email: tdquyicm@hcm.vnn.vn
    3. Giuse Đoàn Công Thành, sinh 2-6-1950, lm 9-11-1993; 7/125 Cây Dầu, P. Tân Phú, Q. 9, TP. HCM. Đt: 08 8963951. Email: thanhicm@pmail.vnn.vn
    4. Giuse Nguyễn Cao Nguyên, sinh 1-5-1950, lm 17-1-1998, Giáo họ Ninh Loan, Đà Loan, Đức Trọng, Lâm Đồng. Đt: 063 843223.
    5. Giuse Đặng Văn Lễ, sinh 1950, lm 3-12-2002, Gx. Phú Hiệp, Đại Hiệp, Di Linh, Lâm Đồng. Đt: 063 872042.

    TU ĐOÀN THỪA SAI THÁNH MẪU CHÚA CỨU THẾ

    Lược sử: Năm 1991, linh mục Phanxicô Maria Nguyễn Viết Linh quy tụ một số anh em gốc Nhà Cha cùng với một số chị em thiện chí để hướng dẫn về đường tu đức và sứ vụ loan báo Tin Mừng, từ đó đã thành hình tu đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế với hai ngành nam tu và nữ tu.
    Bổn mạng: Lễ Mẹ Thiên Chúa, ngày 1-1.
    Mục đích: Đến với muôn dân (Ad Gentes) để làm chứng và loan báo Tin Mừng.
    Hoạt động chính: phục vụ các điểm truyền giáo.
    Nhân sự: 40 nam và 30 nữ.
    Điều kiện gia nhập:
    - Thể xác và tinh thần lành mạnh,
    - Học hết chương trình cấp III trở lên,
    - Có khả năng và ước muốn làm việc tông đồ truyền giáo,
    - Sẵn sàng dấn thân cách quảng đại vào những môi trường xa xôi hẻo lánh,
    - Phù hợp với những quy định của Giáo Luật.
    Địa chỉ: 33 đường 31, KP 2, Linh Đông, Thủ Đức, TP. HCM.
    Tổng phụ trách: Lm Phanxicô Maria Nguyễn Viết Linh, sinh 1945, lm 1975


    HỘI THỪA SAI VIỆT NAM

    Lịch sử: Hội Thừa sai Việt Nam được Hội đồng Giám mục (HĐGM) Việt Nam quyết định thành lập năm 1971, và được trao cho Đức Tgm. Philipphê Nguyễn Kim Điền đặc trách.
    Khi Hội được báo cáo cho Toà Thánh, các ban ngành liên hệ, như Đức Khâm sứ Toà Thánh tại Việt Nam, Đức Hồng y Tổng trưởng và Đức Giám mục Tổng Thư ký Bộ Truyền giáo, rồi cuối cùng chính ĐTC Phaolô VI đã có văn thư bày tỏ sự ưng thuận và khích lệ.
    Bắt tay vào việc, Đức cha đặc trách đã soạn thảo một Quy chế và đệ trình lên HĐGM. Quy chế này được chuẩn y ngày 23-8-1972 để thử nghiệm trong vòng 3 năm.
    Ngày 1-9-1972, Đức cha đặc trách đã gửi tới các linh mục Việt Nam một lá thư ngỏ trình bày nguồn gốc, đường hướng và Quy chế tạm thời của Hội Thừa sai Việt Nam.
    Trong hơn hai năm hoạt động, tính tới 1975, Hội đã có được 75 thành viên, gồm 6 cộng đoàn, 3 gia đình thừa sai và 1 Đại chủng viện Thừa sai (chính thức thành lập ngày 7-8-1974). Sau biến cố 1975, hoàn cảnh đã thay đổi và sinh hoạt của Hội cũng bị ngưng trệ. Đức Tgm. Philipphê Nguyễn Kim Điền không thể gặp gỡ thường xuyên anh em thừa sai như trước. Nên vào năm 1978, HĐGM đã quyết định trao Hội cho Đức Tgm. Phaolô Nguyễn Văn Bình. Vì quá bận nhiều việc, Đức cha Bình lại trao việc điều hành và huấn luyện cho các cha trong Hội. Sinh hoạt của Hội gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt từ 19-3-1992, khi Hội được Đức cha Tổng Thư ký Emmanuel Lê Phong Thuận, thay mặt HĐGM Việt Nam, đề nghị ngưng hoạt động vì tình trạng yếu kém về nhân sự của Hội.
    Khi có lệnh ngưng hoạt động, nhiều anh em đã tìm đường khác để tiến thân, nhưng một số vẫn tha thiết với lý tưởng Thừa sai, nên ngày 5-10-1998, Hội đã đệ trình lên Đức Hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng một thỉnh nguyện thư, xin can thiệp với HĐGM để Hội được sinh hoạt trở lại. Thỉnh nguyện đã được HĐGM chấp thuận trong khoá họp tháng 10-1999, Hội đã chính thức có giám mục đặc trách mới là Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, giám mục giáo phận Phú Cường.
    Quy chế Hội Thừa sai Việt Nam đang sử dụng đã được HĐGM Việt Nam chuẩn y ngày 23-8-1972 chỉ có tính cách tạm thời, còn rất đơn sơ, được soạn thảo trong hoàn cảnh khác với hiện nay, và đã hết hạn từ lâu, nên cần được cập nhật hoá. Đức cha đặc trách và ban điều hành dự trù soạn thảo một Quy chế mới để đệ trình lên HĐGM.

    Bổn mạng: Lễ Các Thánh Việt Nam, 24-11.

    Mục đích:
    - Để Giáo hội Việt Nam tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban đức tin cho dân tộc mình từ năm 1533.
    - Để Giáo hội Việt Nam chia sẻ với Giáo Hội toàn cầu bổn phận truyền giáo cho các dân tộc (x. TG, số 20).
    - Nhất là để tín hữu Việt Nam tích cực sống đạo hơn vì càng truyền giáo thì đức tin càng mạnh mẽ.

    Tổ chức: Vì Hội thể hiện nhiệm vụ đặc biệt của HĐGM Việt Nam, nên Hội có nhiệm vụ quy tụ, đào tạo, hướng dẫn các nhà truyền giáo Việt Nam, thuộc mọi thành phần Dân Chúa (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân độc thân, hay có gia đình) ra đi rao giảng Tin Mừng giữa lương dân trong cũng như ngoài nước theo tinh thần Sắc lệnh Truyền giáo Ad gentes của Công đồng Vatican II (số 23).
    Nhân sự hiện nay: Hội có 5 cộng đoàn chính thức (trụ sở, thần học, triết học, ứng sinh, thực tập và truyền giáo) với 8 linh mục cộng tác trong việc điều hành huấn luyện, 52 thành viên đang theo học, thực tập hay thử luyện: anh em đã học xong Thần học 13, đang học Thần học 7, đang học Triết học 14, đang thực tập truyền giáo 7, đang học đại học 11.
    Điều kiện tuyển chọn và quy trình huấn luyện: Hội Thừa Sai Việt Nam có 3 ngành: linh mục, tu sĩ và giáo dân.
    - Đối với các ứng sinh linh mục và tu sĩ (trợ tá thừa sai): quy trình huấn luyện được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn đại học và giai đoạn đại chủng viện. Để được nhận vào ứng sinh đại học, các ứng sinh phải thi đậu hay đang học tại một trường đại học nào đó. Sau khi tốt nghiệp đại học, các ứng sinh sẽ học chương trình đại chủng viện.
    Cả trong thời gian đại học lẫn đại chủng viện, ngoài những môn học của trường, các ứng sinh phải học thêm những môn chuyên biệt về truyền giáo như: tìm hiểu về các tôn giáo, các nền văn hoá, đối thoại, hội nhập văn hoá, nhất là truyền giáo học.
    - Đối với các gia đình thừa sai: sẽ do Quy chế mới quy định. Hiện Đức cha đặc trách và Ban Điều hành đang soạn thảo một quy chế mới, nhằm bổ sung cho quy chế tạm thời năm 1972 và sẽ đệ trình lên HĐGM VN.

    Địa chỉ liên lạc:
    Hội Thừa sai Việt Nam
    C/o: Giám mục Phêrô Trần Đình Tứ
    Toà Giám Mục Phú Cường
    444 Cách Mạng Tháng Tám, phường Hiệp Thành,
    Tx. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

  19. #19

    Mặc định

    III. CÁC TỔ CHỨC TU TRÌ DÀNH CHO NỮ GIỚI

    A. TỔ CHỨC TU TRÌ THUỘC ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
    1. Tu hội Dòng (Institutum Religiosum, gọi là Dòng)
    a. Dòng thuộc quyền giáo hoàng (Dòng giáo hoàng)
    Dòng Biển Đức (O.S.B.) (tr. 359).
    Dòng Cát Minh (O.C.D.) - 4 Đan viện: Sài Gòn, Bình Triệu, Nha Trang, Huế (tr. 359).
    Dòng Clara (tr. 361).
    Dòng Chúa Giêsu Hài Đồng (tr. 362).
    Dòng Chúa Quan Phòng (tr. 363).
    Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ (F.M.A.) (tr. 365).
    Dòng Đức Bà (C.N.D.) (tr. 366).
    Dòng Đức Bà Truyền Giáo (tr. 367).
    Dòng Nữ Tỳ Thánh Thể (tr. 368).
    Dòng Nữ Trợ Thế Thánh Tâm Chúa Giêsu (tr. 369).
    Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ (F.M.M.) (tr. 370).
    Dòng Phaolô thành Chartres (S.P.C.): 3 tỉnh dòng: Sài Gòn, Đà Nẵng, Mỹ Tho (tr. 371).
    Dòng Phaolô Thiện Bản (O.S.P.) (tr. 372).
    Dòng Tiểu Muội Chúa Giêsu (tr. 373).
    Dòng Xitô nữ (tr. 374).
    b. Dòng thuộc quyền giáo phận (Dòng giáo phận)
    Dòng Chị Em Đa Minh Việt Nam (5 hội dòng): (tr. 375).
    - Đa Minh Bùi Chu (1951) (tr. 377).
    - Đa Minh Tam Hiệp (1955) (tr. 378).
    - Đa Minh Thánh Tâm (1958) (tr. 379).
    - Đa Minh Rosa Lima (Xuân Hiệp) (1973) (tr. 379).
    - Đa Minh Lạng Sơn (1978) (tr. 380).
    Dòng Chị Em Đức Mẹ Người Nghèo (TP. HCM) (tr. 382).
    Dòng Con Đức Mẹ Đi Viếng (Huế) (tr. 382).
    Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Trung Linh (Bùi Chu) (tr. 383).
    Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Chí Hoà (TP. HCM) (tr. 384).
    Dòng Con Đức Mẹ Nam Vang (Phú Cường) (tr. 385).
    Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (Huế) (tr. 386).
    Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (Nha Trang) (tr. 387).
    Dòng Mẹ Thăm Viếng – Bùi Chu (Bùi Chu) (tr. 387).
    Dòng Mến Thánh Giá (23 Hội Dòng): (tr. 388).
    * Giáo tỉnh Hà Nội:
    MTG Bùi Chu (1670) (tr. 395).
    MTG Hà Nội (1670) (tr. 396).
    MTG Hưng Hoá (1786) (tr. 397).
    MTG Vinh (1844) (tr. 397).
    MTG Phát Diệm (1902) (tr. 398).
    MTG Thanh Hoá (1932) (tr. 399).
    * Giáo tỉnh Huế:
    MTG Quy Nhơn (1671) (tr. 400).
    MTG Huế (1719) (tr. 401).
    MTG Nha Trang (1955) (tr. 402).
    * Giáo tỉnh TP. HCM:
    MTG Cái Nhum (1800) (tr. 402).
    MTG Thủ Thiêm (1840) (tr. 403).
    MTG Cái Mơn (1844) (tr. 403).
    MTG Chợ Quán (1852) (tr. 404).
    MTG Gò Vấp (1902) (tr. 405).
    MTG Đà Lạt (1932) (tr. 405).
    MTG Khiết Tâm (1938) (tr. 406).
    MTG Tân Lập (1960) (tr. 406).
    MTG Tân Việt (1963) (tr. 407).
    MTG Thủ Đức (1970) (tr. 407).
    MTG Cần Thơ (1971) (tr. 408).
    MTG Tân An (1973) (tr. 409).
    MTG Bắc Hải (1976) (tr. 410).
    MTG Phan Thiết (1983) (tr. 410).
    Dòng Nữ La San (TP. HCM) (tr. 411).
    Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục (Xuân Lộc) (tr. 411).
    Dòng Nữ Vương Hoà Bình (Ban Mê Thuột) (tr. 413).
    Dòng Thừa Sai Bác Ái (TP. HCM) (tr. 414).
    Dòng Thừa Sai Trinh Vương Bùi Chu (Bùi Chu) (tr. 415).
    Dòng Thừa Sai Trinh Vương Bùi Môn (TP. HCM) (tr. 415).
    2. Tu hội Đời (Institutum Saeculare)
    a. Tu hội Đời thuộc quyền giáo hoàng
    Tu hội Dâng Truyền (O.M.M.I.) (tr. 416).
    Tu hội Nữ Lao Động Thừa Sai (T.M.) (tr. 417).
    b. Tu hội Đời thuộc quyền giáo phận
    Tu hội Hiện Diện và Sống - TP. HCM (tr. 417).
    Tu hội Nô Tỳ Thiên Chúa - TP. HCM (tr. 418).
    Tu hội Tôi Tá Thánh Tâm - TP. HCM (tr. 419).

    III. B. TỔ CHỨC TU TRÌ THUỘC ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ, GỌI LÀ TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ (SOCIETAS VITAE APOSTOLICAE)
    1. Tu đoàn Tông đồ thuộc quyền giáo hoàng
    Tu đoàn Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn (tr. 420).
    2. Tu đoàn Tông đồ thuộc quyền giáo phận
    Tu đoàn Ảnh Phép Lạ (tr. 421).
    Tu đoàn Nhập Thể - Tận Hiến - Truyền Giáo (tr. 421).

    NỮ ĐAN VIỆN BIỂN ĐỨC (O.S.B.: ORDO SANCTI BENEDICTI - ORDER OF ST. BENEDICT)

    Lược sử: Dòng nữ Biển Đức được thành lập ở Việt Nam từ năm 1954, tại Buôn Ma Thuột. Năm 1967, đan viện được dời về Thủ Đức, theo yêu cầu của Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Nhà Mẹ tại Vanves (Pháp) do Mẹ Waddington Delmas sáng lập năm 1921.

    Bổn mạng: 11-7, Thánh Biển Đức, tổ phụ các dòng đan tu Biển Đức. 15-8: Lễ Đức Mẹ Mông Triệu, bổn mạng nữ đan viện Biển Đức tại Thủ Đức.

    Châm ngôn: “Ora et Labora” (Cầu nguyện và Lao động) theo tinh thần của Thánh Phụ Biển Đức.

    Hoạt động:
    - May thêu áo lễ, tiếp đón khách tĩnh tâm: linh mục, nam nữ tu sĩ và các tôn giáo bạn.
    - Làm Icones, chuỗi hạt, nến.

    Nhân sự: Số tu sĩ toàn thế giới, cho đến năm 2003 là 160 người (tại Pháp có 5 chị người Việt). Số nữ tu ở Việt Nam: 32 người, khấn trọn 21, khấn tạm 11, tập sinh 11, thỉnh sinh 9, dự tu 9.

    Điều kiện tuyển chọn: Tú tài hoặc tương đương, có một nghề càng tốt.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    7, Rue d’Yssy 92170 Vanves,
    France. Đt: 01 46 42 46 20.
    Địa chỉ tại Việt Nam:
    35/20 đường 11, KP.3, P. Linh Chiểu, Q. Thủ Đức, TP. HCM.
    Đt: 08 8973933.
    Email: benedictinestd@saigonnet.vn

    Bề trên đương nhiệm: Mẹ. Agnès Lê Thị Tố Hương, sinh 21-1-1949, tái cử 6-11-2001.


    DÒNG KÍN CARMEL (CÁT MINH, O.C.D.: ORDRE DES CARMES DÉCHAUX - ORDER OF DISCALCED CARMELITE)

    Lược sử: Đời sống đan sĩ có nguồn gốc từ thời Cựu Ước xa xưa và nhận ngôn sứ Êlia (năm 854 trước CN) làm tổ phụ. Từ thế kỷ XIII, dòng đi vào lịch sử với một nhóm ẩn sĩ sống trên núi Carmel ở thánh địa. Anh em ẩn sĩ đã xin Thánh Albert, Thượng phụ Jerusalem, soạn cho một bản luật và được Đức Giáo hoàng Innocens IV phê chuẩn năm 1247. Thế kỷ XV, Chân phước Joan Soreth đã thành lập dòng nữ Cát Minh. Vì hoàn cảnh dịch tễ, tiếp đến chiến tranh, đói kém tại châu Âu năm 1437, sức khoẻ con người suy yếu nên luật dòng được giảm chế. Thánh Têrêxa Avila, cùng với sự cộng tác của Thánh Gioan Thánh Giá, muốn lấy lại luật nguyên thuỷ, đã thành lập Đan viện Cát Minh Cải tổ đầu tiên tại thành Avila ngày 24-8-1562.
    Năm 1585, nhóm cải tổ đã tách ra thành tỉnh dòng tự trị với tên gọi Ordre des Carmélites Déchaussées (OCD), cũng gọi là Cát Minh đi chân không (đi xăng đan) hay Cát Minh Têrêxa, để phân biệt với dòng Cát Minh giảm chế hoặc Cát Minh lớn (OC).
    Năm 1604: Dòng Cát Minh Cải tổ được thành lập ở Pháp.
    Carmel Lisieux (Pháp) lập Cát Minh Sài Gòn là Cát Minh đầu tiên ở Việt Nam năm 1861, do Mẹ Philomène de L’Immaculée Conception.
    Sau đó, Cát Minh Sài Gòn lập Cát Minh Hà Nội (1895).
    Cát Minh Hà Nội lập Cát Minh Huế (1909) và Cát Minh Bùi Chu (1923).
    Cát Minh Huế lập Carmel Jaro Iloilo (1923) ở Philippines và Carmel Cholet (1925) ở Pháp. Cát Minh Thanh Hoá (1929) là Cát Minh Nha Trang hiện nay.

    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Núi Cát Minh, 16-7.

    Châm ngôn: “Tôi nhiệt thành vì vinh quang Thiên Chúa” (1V 19,14a).

    Mục đích và hoạt động: Sống đời chiêm niệm thuần tuý, phục vụ Giáo Hội bằng yêu mến, cầu nguyện và hãm mình trong cô tịch, thinh lặng, đặc biệt cầu cho Hàng Giáo phẩm và công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, lao động theo khả năng.

    Số cộng đoàn ở Việt Nam: TP. HCM 2, Huế 1, Nha Trang 1, Ban Mê Thuột 1. Mỗi cộng đoàn là một đan viện biệt lập.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Yêu thích đời sống cầu nguyện, chiêm niệm, khao khát đức ái hoàn hảo,
    - Có đời sống nội tâm, biết sống thinh lặng,
    - Sức khoẻ khả quan, trí phán đoán lành mạnh,
    - Có tinh thần trách nhiệm, cởi mở, vị tha và khả năng sống cộng đoàn.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Gasa Generalizia Dei Carmelitani
    Scalzi Corso d’Italia, 38-00 198- Roma-Italy.
    Tel: (06) 854 431. Fax: (06) 85 350 206
    Email: ocdinfo@pnc.net


    ĐAN VIỆN CÁT MINH SÀI GÒN (O.C.D.: ORDRE DES CARMES DÉCHAUX - ORDER OF DISCALCED)
    Thành lập: Năm 1861, theo lời yêu cầu của Đức cha Dominique Lefèbvre, Giám mục đại diện Tông toà giáo phận Tây Đàng Trong, đan viện Lisieux đã cử nữ tu Philomène de l’Immaculée Conception sang lập đan viện Cát Minh Sài Gòn.
    Nhân sự: Khấn trọn 20, khấn tạm 11, tập sinh 2, thỉnh sinh 1, dự tu 2.
    Địa chỉ:
    33 Tôn Đức Thắng, P. Bến Nghé,
    Q. 1, TP. HCM. Đt: 08 8228519.
    Bề trên đương nhiệm: Nt. Mađalêna Liêu Thị Hiếu

    ĐAN VIỆN CÁT MINH BÌNH TRIỆU
    Thành lập: Năm 1974, vì hoàn cảnh chiến tranh, một số nữ tu thuộc đan viện Cát Minh Huế đã di chuyển vào Bình Triệu, thuộc giáo phận Sài Gòn và lập cộng đoàn mới.
    Năm 1998, cộng đoàn Cát Minh Bình Triệu được chính thức trở thành đan viện biệt lập.
    Nhân sự: Khấn trọn 11, khấn tạm 8, tập sinh 1, dự tu 12, tiền tập 2.
    Địa chỉ:
    21 đường 15, K.P 1, P. Hiệp Bình Chánh,
    Q. Thủ Đức, TP. HCM.
    Đt: 08 7269881.
    Bề trên đương nhiệm: Mẹ. M. Têrêxa Consolata Nguyễn Thị Thu Hương, sinh 1932, khấn 15-10-1954.

    ĐAN VIỆN CÁT MINH NHA TRANG
    Thành lập: Được thành lập tại Thanh Hoá năm 1929. Di chuyển vào Nha Trang năm 1954. Trở về lại Việt Nam - Nha Trang năm 1960.
    Nhân sự: Khấn trọn 15, khấn tạm 7, tập sinh 5, thỉnh sinh 3, đệ tử 7.
    Địa chỉ:
    53 Bắc Sơn - Hải Vân - Vĩnh Hải - Nha Trang - Khánh Hoà
    Đt: 058 832693
    Email: dothithang@pmail.vnn.vn
    Bề trên đương nhiệm: Mẹ. M. Têrêxa Đỗ Thị Thăng, sinh 12-1-1940, khấn 2-2-1966.

    ĐAN VIỆN CÁT MINH HUẾ
    Thành lập: Do đan viện Cát Minh Hà Nội thành lập năm 1909. Năm 1974, di chuyển vào Bình Triệu vì tình hình chiến tranh. Năm 1996, đã tái lập đan viện Cát Minh Huế.
    Nhân sự: Khấn trọn 9, khấn tạm 2, tập sinh 8, thỉnh sinh 7, dự tu 10.
    Địa chỉ: 34 Kim Long, TP. Huế, tỉnh Thừa Thiên.
    Đt: 054 530973
    Email: Catminhh@dng.vnn.vn
    Bề trên đương nhiệm: Mẹ. M. Ange Nguyễn Thị Nhạn, sinh 24-12-1937, khấn 8-12-1962.

    DÒNG KÍN CLARA (O.S.F.: ORDER OF SAINT CLARE)
    Nguồn gốc: Do Thánh Phanxicô và Thánh Clara thành lập vào thế kỷ XIII tại Assisi, Ý. Năm 1935, 8 chị người Pháp thuộc đan viện Roubaix đến lập dòng tại Việt Nam, trong giáo phận Vinh. Năm 1950, vì chiến tranh phải trở về Pháp. Năm 1972, bốn chị người Việt và một chị người Pháp tái lập dòng tại Thủ Đức, Việt Nam.
    Mục đích và đường hướng:
    - Chuyên lo cầu nguyện qua nếp sống thật sự nghèo khó, khổ chế, đơn sơ, vui tươi và huynh đệ.
    - Sống Phúc Âm theo linh đạo Thánh Phanxicô và Thánh Clara quy về đời sống chiêm niệm, ẩn kín.
    Công việc ưu tiên: Cung cấp bánh lễ, chăn nuôi và canh tác vườn.
    Nhân sự: Khấn trọn 20, khấn tạm 3, tập sinh 5, thỉnh sinh 3.
    Điều kiện gia nhập:
    - Có giấy giới thiệu của cha xứ, hay cha linh hướng.
    - Có sức khoẻ bình thường, tối thiểu 18 tuổi.
    - Trình độ văn hoá lớp 12.
    Địa chỉ:
    35 Đình Phong Phú, P. Tăng Nhơn Phú B, Q. 9, TP. HCM.
    Đt: 08 8969805.
    Bề trên đương nhiệm: Nữ tu Maria Rosa Phạm Liên Nga, sinh 1954, khấn 1980.

    DÒNG CHÚA GIÊSU HÀI ĐỒNG

    Lược sử: Dòng được thành lập vào năm 1667, tại thành phố Le Puy-en-Velay, Pháp, do Mẹ Anne Marie Martel (1644-1673). Mẹ được các cha Hội Xuân Bích hướng dẫn, nên chịu ảnh hưởng lớn về linh đạo của trường phái Pháp quốc. Mẹ chọn sống linh đạo Nhập Thể. Cuối năm 1973, hai chị em Việt Nam đầu tiên là Thérèse Nguyễn Thị Định và Anne Madeleine Hồ Thị Tuyết được phép trở về Việt Nam, và được Đức Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình cho thành lập cộng đoàn đầu tiên tại nhà số 2/2 Nguyễn Huy Lượng, P. 14, Q. Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh.

    Bổn mạng: Lễ Chúa Giáng Sinh, 25-12.

    Châm ngôn:
    Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
    Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.

    Đặc sủng của dòng: “Khơi dậy và đào sâu đức tin nơi những người đương thời”. Để sống Mầu nhiệm Nhập Thể, chị em dòng Chúa Giêsu Hài Đồng sẽ thể hiện sứ mạng của mình qua các hoạt động sau:
    - Giáo dục nhân bản để thăng tiến con người và xã hội.
    - Giáo dục đức tin qua việc dạy giáo lý, tham dự phụng vụ các bí tích.
    - Chăm sóc bệnh nhân, người già neo đơn, trẻ chậm phát triển.
    - Truyền giáo tại các vùng xa xôi.
    - Ưu tiên quan tâm đến phụ nữ và trẻ em.
    Riêng tại Việt Nam, theo lời kêu gọi của Đức Tổng giám mục giáo phận, dòng sẵn sàng hợp tác với giáo phận theo khả năng của mình.

    Nhân sự:Tại Việt Nam: khấn trọn 3, khấn tạm 3, tập sinh 2, tìm hiểu 3. Toàn thế giới (chỉ tính các nữ tu đã khấn trọn): 257.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Thời gian tìm hiểu ít nhất là 2 năm (không sống trong cộng đoàn). Tuổi từ 18 trở lên, tốt nghiệp phổ thông, đã có ít kinh nghiệm sống mầu nhiệm Nhập Thể, nếu chưa sẽ được nâng đỡ để dần dần có thể đạt được kinh nghiệm đó.
    - Thời gian tiền tập: ít nhất là 2 năm.
    - Thời gian nhà tập: 2 năm.
    - Thời gian khấn tạm và trọn đời: theo Giáo luật.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    37 bis, Rue de Picpus, 75012 Paris, France.
    Tel: 015 6 954 797.
    Fax: 015 6 954 799.
    Ở Việt Nam, dòng chỉ có một nhà đồng thời cũng là trường mẫu giáo tư thục của dòng tại địa chỉ:
    2/2 Nguyễn Huy Lượng, P. 14, Q. Bình Thạnh, TP. HCM.
    Đt: 08 8434027. Fax: 84 08 5103739.
    Email: annetuyet2000@yahoo.com

    Bề trên đương nhiệm:
    Bề trên Tổng quyền: Nt. Simon Penou
    Ở Việt Nam: Nt. Anna Hồ Thị Tuyết.

  20. #20

    Mặc định

    CHÚA QUAN PHÒNG PORTIEUX (S.P.: SISTERS OF PROVIDENCE)

    Lược sử: Cha Gioan Martino Moyë sinh ngày 27-1-1730 tại làng Cutting, thuộc địa phận Dieuze, tỉnh Metz, miền Lorraine, Pháp. Qua những năm làm cha phó tại một số họ đạo ở miền quê, ngài khám phá ra rằng đại đa số các trẻ em ở thôn quê hoàn toàn không biết gì về những chân lý đức tin. Vì thế, ngài hình thành dự án lập trường học trong các họ đạo nghèo, và huấn luyện các thiếu nữ nhiệt thành lo cho các trẻ ấy để “gửi họ đến bất cứ nơi nào người ta xin họ đến, mà không có vốn liếng nào khác ngoài Chúa Quan Phòng”.
    Khi được phép bề trên trong Giáo Hội, ngài gửi ngay chị Marguerite Lecomte và một vài thiếu nữ đi Vigy và Béfey để lập trường học đầu tiên vào ngày 14-1-1762. Từ đó khai sinh dòng Chúa Quan Phòng. Ngày 21-11-1954, cha Gioan Martino Moyë được Đức Thánh Cha Piô XII tôn vinh Chân phước.

    DÒNG CHÚA QUAN PHÒNG TẠI VIỆT NAM

    Theo lời thỉnh cầu của cha Cordier, bề trên giáo phận Nam Vang, Nhà Mẹ Portieux gửi 6 nữ tu Chúa Quan Phòng đến Cù Lao Giêng, thuộc tỉnh An Giang ngày 12-1-1876, lúc đó Cù Lao Giêng thuộc địa phận Nam Vang. Ngay những tuần lễ đầu, các chị đã nhận nuôi những trẻ em bị bỏ rơi. Đó là khởi điểm của ấu nhi viện và cô nhi viện. Tiếp đến, các chị xây bệnh viện để giúp đỡ cho mọi tầng lớp dân chúng, thu nhận những bệnh nhân nan y.
    Năm 1880, các chị mở tập viện với 6 thiếu nữ Việt Nam đầu tiên. Năm 1881, các chị được giáo quyền mời đi thiết lập cơ sở tại Nam Vang và lập ấu nhi viện, cô nhi viện, dưỡng lão viện và ký túc xá tại đây.

    Bổn mạng: Lễ Thánh Giuse, 19-3.

    Linh đạo: Sống phó thác cho Chúa Quan Phòng.

    Tinh thần: Phó thác, đơn sơ, khó nghèo và bác ái. Đó là 4 nhân đức mà Đấng Sáng lập trối lại cho nữ tu Chúa Quan Phòng như 4 cột trụ chống đỡ toà nhà Hội dòng.

    Mục đích: Thể hiện tình thương nhân hậu của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ và bị bỏ rơi.

    Tôn chỉ: Tất cả vì vinh quang Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô.

    Hoạt động: Truyền giáo, giáo dục, y tế, công tác mục vụ tại các xứ đạo: dạy giáo lý, ca đoàn, sinh hoạt giới trẻ, hướng dẫn các gia đình, thăm viếng và công tác xã hội từ thiện.

    Nhân sự: Tổng số nữ tu khoảng 5.000 người, trên 4 châu lục. Riêng dòng Chúa Quan Phòng nhánh Portieux có khoảng 1.000 nữ tu, hiện diện trong 7 quốc gia.
    Tại Việt Nam: có 85 cộng đoàn, gồm 6 cộng đoàn lớn và 79 cộng đoàn nhỏ rải rác trên 13 tỉnh và thành phố, từ Kontum đến mũi Cà Mau, với số nữ tu là 456 người, 44 tập sinh, 33 thỉnh sinh, 74 đệ tử.

    Điều kiện gia nhập:
    - Học lực: Tốt nghiệp phổ thông trung học.
    - Sức khoẻ tốt.
    - Trí phán đoán lành mạnh, có ý hướng ngay lành.

    Địa chỉ trụ sở Giám tỉnh Việt Nam:
    362 Tầm Vu, Hưng Lợi, Cần Thơ. Đt: 071 838146.Email: providencect@hcm.vnn.vn
    24 Trần Cao Vân,Q.3,Tp.HCM. Điện thoại: 08 8292180

    Phụ trách: Nt. Maria Valéria Phạm Thị Huyện

    Bề trên Tổng quyền: Nt. Jacqueline Heinrich, sinh 1944, khấn dòng 1965.

    Mẹ bề trên Giám tỉnh đương nhiệm: Nt. Marie Emmanuel Nguyễn Thị Phiến, sinh 1942, khấn dòng 1962.


    DÒNG CON ĐỨC MẸ PHÙ HỘ (F.M.A.: CONGREGATIO FILIARUM MARIAE AUXILIATRICIS - DAUGHTERS OF MARY HELP OF CHRISTIANS)

    Lược sử: Từ trời cao, Đức Maria tỏ cho cha Gioan Bosco biết ý định của Mẹ về việc thành lập hội dòng mang danh Mẹ qua nhiều giấc mơ vào những năm 1860 - 1862 và ngài đã chuẩn bị những hạt giống tốt. Đó là những chị em Con Đức Mẹ Vô Nhiễm tại Mornese do cha xứ Don Pestarino hướng dẫn. Năm 1864, trong một cuộc viếng thăm Mornese lần đầu tiên, Don Bosco đã gạêp các chị em và đặt hy vọng ở đây. Quả thật, ngày 5-8-1872, 11 chị em đầu tiên, trong số đó có chị Mazzarello trổi vượt về các nhân đức, đã tuyên khấn tại Mornese (Ý). Hội dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ khai sinh từ đó. Đây là gia đình thứ hai do Thánh Gioan Bosco và Thánh Mazzarello đồng sáng lập. Hội dòng trực thuộc quyền giáo hoàng.
    Tỉnh dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ Việt Nam được thành lập năm 1961. Các chị truyền giáo đầu tiên đã đến ngụ tại Bình Tây, Chợ Lớn. Năm 1963, dòng dời trụ sở về Tam Hà, Thủ Đức.

    Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, 24-5.

    Châm ngôn: “Xin cho con các linh hồn, còn mọi sự khác, xin Ngài cứ cất đi”.

    Sứ mệnh của Hội dòng: Giáo dục và truyền giáo.
    Với linh đạo của phương pháp dự phòng - gia bảo vô giá Don Bosco để lại cho gia đình Salesien, Hội dòng luôn hướng đến việc thăng tiến và giáo dục toàn diện thanh thiếu nữ qua các hoạt động: khánh lễ viện (trung tâm trẻ), huấn giáo, trường học, huấn nghệ, nhóm công tác tông đồ.
    Tại Việt Nam, hiện nay các nữ tu đang tham gia vào công việc giáo dục người trẻ, trẻ em nghèo dưới mọi hình thức, mở lớp tình thương, đón và chăm sóc trẻ em đường phố.

    Nhân sự: Dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ toàn thế giới có 15.074 nữ tu đang làm việc tại 1.549 cộng đoàn trên 89 quốc gia.
    Tại Việt Nam, dòng có 8 cộng đoàn với số chị em: 41 khấn trọn, 61 khấn tạm, 22 tập sinh, 15 thỉnh sinh, 41 đệ tử.

    Tu phục của dòng: áo, lúp trắng hoặc xám, đen (tuỳ quốc gia) và Thánh Giá có khắc chữ F.M.A. phía dưới.

    Điều kiện tuyển chọn:
    - Trình độ văn hoá: tốt nghiệp phổ thông trở lên.
    - Tuổi: không quá 25.
    - Sức khoẻ: tốt.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Istituto Figlie di Mari Ausiliatrice
    Via dell’ Atereo Salesiano,
    81 - 00139 Roma - Italy.
    Trụ sở chính tại Việt Nam:
    57 đường số 4, P. Tam Phú, Q. Thủ Đức, TP. HCM. Đt: 08 8960826.

    Bề trên đương nhiệm: Nt. Antonia Colombo, sinh 12- 4-1935 tại Lecco (Ý), khấn dòng 1959.

    Bề trên đại diện tại Việt Nam: Nt. Rosa Vũ Thị Kim Liên, sinh 26-10-1960, khấn 5-8-1981.

    DÒNG ĐỨC BÀ NỮ KINH SĨ THÁNH AUGUSTIN (C.N.D.: CONGRÉGATION NOTRE DAME, CHANOINESSES DE SAINT AUGUSTIN)

    Lược sử :
    Năm 1597: ra đời đêm Noel tại Lorraine (Pháp), do Thánh Pierre Fourier và Alix Le Clerc đồng sáng lập.
    Năm 1598: mái trường đầu tiên với các em gái nghèo.
    Năm 1628: được Giáo Hội phê chuẩn: một dòng đan tu với luật nội cấm, nhưng cha Pierre Fourier vẫn thúc giục chị em: hãy tiến thẳng ra tận biển cả…
    Từ năm 1969, sau Công đồng Vatican II: Hội dòng Đức Bà trở về nguồn, đón nhận lại ơn gọi tông đồ của mình: chuyên lo giáo dục và thăng tiến con người, nhưng hiện diện và phục vụ dưới những hình thức mới và đa dạng, sẵn sàng cộng tác với mọi tầng lớp xã hội để đáp ứng nhu cầu của mọi hoàn cảnh, mọi quốc gia.

    Bổn mạng: Đức Bà Maria, 15-8.

    Châm ngôn và mục đích: Làm tất cả những việc tốt lành có thể làm được để tôn vinh danh Chúa.

    Hoạt động: “Hãy làm cho Ngài lớn lên”. Lời kêu gọi này Đức Mẹ nói với Mẹ Alix, đấng lập dòng Đức Bà, các nữ tu cố gắng đáp lại qua giáo dục đức tin, giáo dục văn hoá, giáo dục nhân bản, giáo dục xã hội, giáo dục tâm thể lý.

    Nhân sự tại Việt Nam: 60 người, tại TP. HCM: 50 người.

    Các cộng đoàn:
    - Regina Mundi (1950): 228 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.6, Q. 3, TP. HCM.
    Đt: 08 9326991.

    - Đức Bà Lâm Viên Đà Lạt (1935):
    2 Huyền Trân Công Chúa, TP. Đà Lạt.
    Đt: 063 825917.

    - CĐ Phú Nhuận (1972):
    158 Nguyễn Trọng Tuyển, Phú Nhuận.
    Đt: 08 8449690.

    - CĐ Bình Thạnh (1974):
    40/3 Lam Sơn, Q. Bình Thạnh.
    Đt: 08 8420195.

    - CĐ Tân Thuận (1993): 52/3 đường số 22, P. Tân Kiểng, Q. 7
    Đt: 08 8721969.

    - CĐ Long Thành (1997)
    Đt: 061 845798.

    Trụ sở chính:
    228 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, P.6, Q.3, TP. HCM.
    Đt: 08 9326991.
    Fax: 84 08 9326843.

    Bề trên Giám tỉnh: Nt. Marie Alexia Nguyễn Thị Hồng Quỳ.


    DÒNG ĐỨC BÀ TRUYỀN GIÁO (N.D.M.: NOTRE DAME DES MISSIONS)

    Lược sử: Dòng Đức Bà Truyền Giáo là một hội dòng truyền giáo quốc tế do Mẹ Euphrasie Barbier sáng lập. Dòng được chính thức thành lập ngày 25-12-1861 tại Lyon, Pháp. Hiện nay, dòng đang phục vụ tại 20 quốc gia trên thế giới.

    Bổn mạng:
    Bổn mạng I: Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
    Bổn mạng II: Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng.

    Đặc sủng: Nhận biết Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn gốc của mọi hoạt động truyền giáo (HP.1).

    Linh đạo: Đón nhận và sống các sứ vụ trong Ba Ngôi như Đức Maria trong sự thờ lạy, yêu mến và phục vụ (HP.3) thể hiện qua 3 khía cạnh Chiêm niệm - Hiệp thông - Sứ mạng.

    Hoạt động ưu tiên:
    - Những nơi chưa từng nghe biết Tin Mừng.
    - Những nơi Giáo Hội chưa được thành lập hoàn toàn, những nơi niềm tin Kitô đã suy yếu hoặc mất đi.
    - Sống tương quan theo mẫu gương Thiên Chúa Ba Ngôi là trọng tâm của đặc sủng dòng.
    - Chọn sống liên đới với người nghèo, đặc biệt phụ nữ, trẻ em, sắc tộc, di dân.

    Các cộng đoàn: Dòng đã có mặt tại VN ở Phát Diệm (1924), Thanh Hoá (1926), Hà Nội (1941).
    Hiện nay, dòng đang phục vụ tại các cơ sở : Nha Trang (1956), Thị Nghè (1957), Thủ Đức (1960), Đà Lạt (1964), Củ Chi (1970), Vinh Trang (1973), Phương Lâm (1975), Long Khánh (1978), Long Điền (1982), Suối Đá (1991), Minh Hưng (1994), Phước Đồng (1995), Bù Đăng (1995), Vĩnh Hảo (1998), Nam Ban (1998).

    Nhân sự:
    Số tu sĩ tại Việt Nam: khấn trọn 72, khấn tạm 39, tập sinh 21, chuẩn sinh 11, đệ tử 34.
    Số tu sĩ trên toàn thế giới: 1.200.

    Điều kiện tuyển chọn: Hết lớp 12, tuổi cao nhất: 25.

    Địa chỉ Nhà Mẹ:
    Via di Bravetta 62800164 Roma - Italy.
    Tel: 06 66158400.
    Fax: 06 66157365.
    Email: cltrndm@tin.it

    Nhà chính ở VN:
    151 Võ Văn Ngân, P. Linh Chiểu, Thủ Đức, TP. HCM.
    Đt: 08 8960288 - 8973835.
    Fax: 84 08 8972655.
    Email: celestinerndm@pmail.vnn.vn

    Bề trên Tổng quyền:
    Nt. Maureen Mc Bride, sinh năm 1953.

    Bề trên Giám tỉnh VN: Nt. M. Célestine Đinh Thị Nga, sinh 1950, khấn dòng 1970.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đối thoại với thương đế
    By Itdepx in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 27-01-2012, 05:37 PM
  2. Wake me up
    By trango in forum Tâm sự nhỏ to, chia sẻ, suy ngẫm
    Trả lời: 1179
    Bài mới gởi: 02-06-2011, 07:20 PM
  3. Quán truyện free
    By Luna in forum Tâm sự nhỏ to, chia sẻ, suy ngẫm
    Trả lời: 86
    Bài mới gởi: 13-05-2011, 07:41 AM
  4. BÍ MẬT THÚ VỊ VỀ LINH HỒN LUYỆN NGỤC
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 28-04-2011, 10:26 PM
  5. Con Ma Dễ Thương-Thiên Hùng
    By nghichngom85 in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 27-03-2011, 03:17 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •