thiên chúa jésus christ

Thiên-Lý Bửu-Tòa, Ðàn chấp bút ngày 26-7-1977

Thi rằng:

THIÊN phúc truyền thông khắp địa cầu,

CHÚA Thánh trị đời chúng lạc âu,

GIÊ-SU giáo luyện bình ngôi Chúa,

Ðấng CHRIST qui điều khải Á, Âu.

Thi bài:

Bài tiếp điển bút cơ Quan-Thánh,

Giáo luyện cùng đức tánh bực Vua,

Vua là chúa tể quốc gia,

Là ngôi vương tước sơn hà một tay.

Vua là bực anh tài chí thánh,

Vua anh minh nước mạnh dân giàu,

Vua lành yêu nước một màu,

Vua minh văn võ nội trào kỉnh tôn.

Vua thánh-quân quần thần học mẫu,

Vua đức tài gồm đủ mười phân,

Vua mà yêu nước thương dân,

Vua còn trách nhiệm biên cương dấy loàn.

Sáu mối giềng đa đoan nắm giữ,

Gánh sơn hà xã tắc đôi vai,

Núi sông nắm một bàn tay,

Liệu gìn cho chặt đức tài đáng Vua.

Tài với đức thi đua cân xứng,

Chiếc ngai vàng mới vững trăm năm,

Ðừng cho sái bước lạc lầm,

Vua đừng bạo chúa thần dân rối loàn.

Dân rối loàn nước tràn đê vỡ,

Nhớ đời Tần muôn thuở còn lưu,

Vẻ chi một bức tranh chiều,

Cho đời bạo chúa thiu thiu giấc vàng.

Chúa bạo tàn giàu sang bốn biển,

Thói bạo tàn nhung nhuyễn tham lam,

Tận thâu lục quốc bạo cường,

Túi tham không đáy khó lường đầy vơi.

Chứa trăm kho vàng mười ngọc báu,

Hầu trăm ngàn ả đẹp nội cung,

Lòng còn muốn trọn thỉ chung,

Muốn cho trường thọ sống muôn tuổi đời.

Kẻ tham tâm lòng Trời khó giúp,

Thác cũng còn tham dụng cho đời,

Mả vua đính ngọc vàng mười,

Xây thành đắp lũy dụng thời tay dân.

Giọt mồ hôi oán hờn trăm họ,

Nhuộm máu hồng vì chúa bạo tàn,

Ngỡ rằng mồ mả quân vương,

Ngọc ngà đáy huyệt nắm xương đặng nhờ.

Nào ngờ sau mả mồ tan vỡ,

Bị xới đào vì của mang theo,

Muốn cho vĩnh trị trăm đời,

Bắt dân vô tội đắp xây lũy thành.

Vạn-Lý Thành nhọc nhành tân khổ,

Kể xiết chi tắm máu mồ hôi,

Biết bao sanh mạng dân Trời,

Vì thành Vạn-Lý xương phơi chập chồng.

Thành không chắc, lòng dân mới chắc,

Ðức mới là lũy sắt thành đồng,

Làm vua chưởng đức trị dân,

Vua đừng bạo chúa quần thần loạn quan.

Chúa mà bạo các quan ảnh hưởng,

Quân lính đồng xu hướng hại dân,

Làm cho tổ-quốc ngửa nghiêng,

Nhà hư, nước mất, đảo huyền sanh linh.

Chúa đức lành sử xanh lưu tiếng,

Ðời Thuấn Nghiêu kinh quyện còn vang,

Tiếng nhơ là tiếng Trụ-Vương,

Ngàn năm bia miệng hổ thầm cho vua!

Dầu bực vua phải vùa đạo đức,

Phải noi gương các bực cổ hiền,

Mới là chơn chúa trị yên,

Mới là phải mặt đức hiền Thánh-vương.

Chúa phải tu cho đường nhơn-đạo,

Vua phải tròn thiện bảo đức tài,

Biết yêu tổ-quốc nhơn loài,

Biết mình chơn chúa học đòi Thánh-nhân.

Kề đôi vai non sông một gánh,

Ðạo với đời đôi cánh tròn xong,

Ngai vàng vĩnh ngự thân rồng,

Rạng danh chúa tể mới không thẹn lòng.

Bực công thần cùng thông lý triết,

Thượng, hạ-quan hiểu biết phận mình,

Xử tròn trung trực công bình,

Phục tùng thượng cấp phân minh chánh tà.

Bực cao quyền đối qua hạ cấp,

Cũng công bằng minh xét chánh chơn,

Ðừng vì lấn tước cao quờn,

Không màng kẻ dưới, oan ưng chẳng cần.

Trên rộng lượng đức ân dung thứ,

Dưới phục tùng thứ tự in khuôn,

Góp công gìn giữ nước non,

Sơn hà rạng rỡ vua quan tươi cười.

Quân cùng dân đồng thời giữ phận,

Ðừng trái ngang bất luận pháp điều,

Ðạo nhà luân lý một chiều,

Cha lành, con thảo, vợ hiền, tôi ngay.

Mỗi điều được vẽ bày theo mẫu,

Ấy là đời Nghiêu Thuấn hưởng an,

Dương trần là cõi Thiên-Ðàng,

Gắng công noi dấu vẹn đàng lý chơn.

Ðời phải tỉnh qua cơn mộng huyễn,

Cảnh tương tàn diễn tiến cận kề,

Ta không phóm phỉnh lời phê,

Ta thương xót cảnh thảm thê đời tàn.

Vớt cho người lên thoàn khỏi lụy,

Chớ hững hờ mà trễ đừng than,

Sớm lo vâng thửa lời vàng,

Thì dân mới được cứu an phục hồi.

Nay mấy lời tỏ bày hắc bạch,

Mãn điển đồng nơi cảnh Diệu-Ðàn,

Phản hồi cảnh thượng Thiên-bang,

Ta đà nương gió vượt ngàn cung mây.

Thăng.