Kinh điển ngụy tạo

Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHAL – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo bắc truyền ở nhiều khu vực châu Á giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.

Một vài kinh ngụy tạo, đặc biệt của Phật giáo phát triển ở đông á, mạo nhận nó chính là giáo pháp của Đức Phật – Buddhavacana (Word of the Buddha) tức tự mạo nhận KINH (Sutra).
Kinh ngụy tạo đôi khi cũng tự mạo nhận là lời luận giảng về kinh từ một vị thầy có tiếng tăm (hoặc có khi cũng vô danh) của Phật giáo Ấn Độ, tức tự mạo nhận là LUẬN (Sastra).

Một số kinh ngụy tạo tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng giác ngộ ở Ấn Độ hoặc là người được truyền thừa tuệ giác từ một dòng phái chính thức, ví dụ như trường hợp “các bộ Thánh Thư Quí Báu” (Gterma) của Tây Tạng tự cho là đã được dấu kín và rồi được khám phá lại bởi những người đủ cơ duyên.
Một số kinh ngụy tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, ví dụ như trường hợp bộ “Tiền thân Đức Phật” (Jataka) của khu vực Đông Nam Á.

Điều này cho ta cái nhìn về mục đích của kinh ngụy tạo: Tích hợp tư liệu Ấn Độ vào những nội dung bản địa – có thể là tôn giáo, văn hóa xã hội, hoặc chính trị – bằng cách ấy nó được mặc nhiên công nhận, thông qua và làm cho tôn giáo địa phương trở thành dễ hiểu đối với con người đương thời của vùng đất mới, nơi Đạo Phật được đưa vào.

Trong bộ sưu tập các kinh giả, phải nói “kinh dị” nhất là các kinh giả của Đạo Phật Đại thừa. Các kinh này mạo nhận cấp bậc cao nhất của truyền thống Ấn Độ bằng cách tự nhận là lời nói của chính Đức Phật. Hiển nhiên khi kinh ngụy tạo mạo nhận là thánh điển, nó không thể không bị phát hiện bởi các nhóm trưởng lão hay tư do trong cộng đồng Phật tử. Trong thời kỳ trung cổ các kinh giả trở thành đối tượng bị khinh bỉ nhưng ngược lại chúng cũng đã trở thành công cụ và lực lượng vật chất làm biến đổi ý nghĩa của Phật giáo.