§0 - LỜI NÓI ĐẦU CHO ẤN BẢN ANH NGỮ


Với tư cách một nhà tâm lý liên quan đến những chuyện thiêng liêng, khi được yêu cầu viết lời giới thiệu cho ấn bản này thoạt tiên tôi đã từ chối. Mặc dù tôi đã có kinh nghiệm với những người chịu đau khổ từ cái mà tôi xác tín là những ảnh hưởng của ma quỷ. Tôi có những khó khăn với cách giải quyết của Cha Amorth. Ngài viết về chủ đề hấp dẫn này theo cách hoàn toàn xa lạ với những ý tưởng của thế giới nói tiếng Anh, một thế giới đong đưa giữa chủ nghĩa duy lý nghiêm khắc và lối suy lý phóng khoáng. Các khoa học về hành vi được phân chia dựa trên hiện hữu và bản tính của những hiện tượng huyền bí, như vị giáo sư rất đáng kính Benjamin Wolman đã ghi chú trong cuốn The Handbook of Parapsychology, một tác phẩm tiêu chuẩn.

Mặc dù Cha Amorth rất thông suốt về những nguyên nhân tâm lý của những hành vi khác thường, thì công việc của chính ngài như một nhà trừ quỷ lại không phải là một hình thức tâm lý trị liệu. Đó là một tác vụ thiêng liêng. Ngài rất thành công trong việc giúp đỡ đông đảo những người có những rối loạn nghiêm trọng hoàn toàn vượt trên phạm vi của những chẩn đoán lâm sàng. Ngài nêu lên vấn đề ma quỷ, mà hầu như luôn luôn nhận được một câu trả lời đầy thành kiến, kém hiểu biết. Ngài làm chúng ta suy nghĩ.

Với tư cách là một linh mục hơn là một thầy thuốc lâm sàng, tôi nhận ra trong cuốn sách này trình thuật của một vị chủ chăn khôn ngoan và tận tuỵ đối với các linh hồn, ngài có can đảm đi đến nơi mà hầu hết chúng ta sợ đến. Ngài dùng một thứ hùng biện xa lạ với hầu hết chúng ta và cả đến những ý niệm thần học lạ lẫm với cách suy nghĩ của chúng ta. Nhưng có thể nói trình thuật này cũng giống như trình thuật Phúc Âm về công việc của chính Đấng Cứu Chuộc khi giải thoát "những người bị quỷ ám". Sách này cần được đọc cách cẩn thận và với đầu óc cởi mở.

Father Benedict J. Groeschel, C.F.R., Ed.D.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth

§1 - LỜI NÓI ĐẦU CHO ẤN BẢN TIẾNG Ý

Tôi rất sung sướng được viết mấy lời dẫn nhập cho cuốn sách của cha Gabriele Amorth. Cha Amorth đã là một cộng tác viên đáng kính của tôi suốt nhiều năm trong tác vụ của nhà trừ quỷ. Ngài và tôi đã cùng nhau trải nghiệm một số sự kiện được kể ra trong sách này, và chúng tôi đã cùng nhau chia sẻ những lo âu, những khó nhọc, và những hy vọng trong việc giúp đỡ nhiều người đau khổ đã chạy đến với chúng tôi. Tôi cũng rất vui mừng chào đón sự ra đời của những trang sách này, bởi vì, mặc dù trong những thập niên gần đây người ta viết rất nhiều trong hầu hết mọi lãnh vực luân lý và thần học, nhưng lại bỏ quên hoàn toàn chủ đề về trừ quỷ. Có lẽ chính vì sự thiếu quan tâm và nghiên cứu này mà, thậm chí bây giờ, chỉ có một phần trong sách nghi thức không được cập nhật theo những chỉ dẫn hậu Công Đồng Vaticanô II, là phần liên quan đến việc trừ quỷ. Mặc dù vậy, tác vụ "trừ quỷ" vẫn có tầm quan trọng lớn lao, như chúng ta đã thấy trong Phúc Âm, Tông đồ công vụ, và lịch sử Giáo Hội.

Khi thánh Phêrô, nhờ ơn linh ứng siêu nhiên, được đưa tới nhà của quan bách quân trưởng Cornelius để loan báo đức tin Kitô giáo cho nhóm người ngoại đầu tiên, ngài đã chứng minh rằng Thiên Chúa thực sự ở với Chúa Giêsu bằng cách nhấn mạnh cách cụ thể khả năng của Ngài giải thoát tất cả những ai đang ở trong móng vuốt ma quỷ ( Cv 10, 1-38). Các Phúc Âm thường trình bày những quyền năng phi thường mà Chúa Giêsu đã có trên ma quỷ với những thí dụ cụ thể. Chúa Giêsu đã không thể chọn lựa cách nào mạnh mẽ hơn cách trừ quỷ để tỏ cho chúng ta thấy rằng Chúa Cha đã sai người con duy nhất của Ngài vào trong thế giới này để kết liễu vương quốc tối tăm của Satan trên nhân loại.

Kinh Thánh quả quyết cho chúng ta thấy rằng các hình thức quyền lực Satan trên thế giới bao gồm cả những ám ảnh thể lý. Chúa Giêsu nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại về khả năng trừ quỷ trong số những quyền năng đặc biệt mà Người muốn thông ban cho các tông đồ của Người và những người kế vị các ngài (Mt 10,8; Mc 3,5; Lc 9,l).

Mặc dù Thiên Chúa cho phép một số người bị ma quỷ hành hạ, thì Ngài cũng cung cấp cho nhiều phương thế mạnh mẽ để giúp đỡ họ. Thiên Chúa không chỉ ban cho Giáo Hội nhiều năng lực bí tích hữu hiệu giúp Giáo Hội đương đầu với những khó khăn chống lại những hoạt động chết chóc của Satan; mà ngay từ đầu, Ngài còn chọn Đức Trinh Nữ rất thánh Maria như một liều thuốc giải độc thường hằng trước tình trạng thù hằn giữa nhân loại và Satan (xem Candido Amantini, II mistero di Maria [Naples: Dehoniane, 1971]).

Phần lớn các nhà văn đương thời - gồm cả các nhà thần học Công Giáo - không chối sự hiện hữu của Satan và các thiên thần phản loạn khác nhưng giảm bớt phạm vi ảnh hưởng của chúng trên những vụ việc nhân loại. Thật vậy, ở nhiều khu vực, sự không tin những ảnh hưởng ma quỷ về thể lý lại được coi như một bổn phận và bằng chứng của sự khôn ngoan. Nền văn hoá đương đại nói chung, cho rằng việc tin vào bất cứ cái gì khác với các yếu tố tự nhiên đối với những sự kiện và những biến cố xảy ra chung quanh chúng ta là một ảo tưởng đã lỗi thời.

Hiển nhiên là cái kiểu tin tưởng như thế đã hỗ trợ đáng kể cho công việc của ma quỷ, đặc biệt khi nó được chia sẻ bởi những người đã được ủy thác cho bổn phận và quyền hành để ngăn cản các hoạt động xấu xa của ma quỷ. Nếu thay vì đi theo nền văn hoá đương thời, chúng ta đi theo Kinh Thánh, thần học, và kinh nghiệm hàng ngày, chúng ta sẽ xác tín rằng có rất đông những người bất hạnh đang bị quỷ ám và khoa học có thể đem đến cho họ rất ít trợ giúp. Phần lớn các trường hợp, những người có thể nhận ra các triệu chứng có dính dáng với hoạt động ma quỷ, có thể chẩn đoán một cách khôn ngoan một trường hợp thuộc "ma quỷ bệnh lý" (demonopathy) - đây là thuật ngữ dùng cho mọi ảnh hưởng của ma quỷ.

Một căn bệnh có sự liên kết với hoạt động ma quỷ dù ở mức độ thấp nhất, thì cũng có thể vô hiệu hóa mọi thứ thuốc đã được biết đến. Trái lại, dù cho căn bệnh đã được coi là nguy tử thì cũng được chữa lành một cách mầu nhiệm bởi những can thiệp tôn giáo. Thường thường các nạn nhân của thần dữ tin rằng họ bị khống chế bởi may rủi: họ nhìn đời sống họ như một chuỗi những rủi ro.

Ngày nay, khoa học thừa nhận rằng có một số hành vi bị tác động bởi những yếu tố ngoại thường, và gọi là "huyền bí" tất cả những hành động không thể cắt nghĩa được thực hiện bởi những người bị quỷ ám. Nhiều người tìm cách để tìm ra những nguyên nhân của những hiện tượng này. Chúng tôi không cố gắng phủ nhận những tiến bộ khoa học; chúng tôi chỉ tuyên bố rằng chúng ta chối bỏ thực tại nếu chúng ta tự lừa dối mình rằng khoa học có thể cắt nghĩa mọi thứ và rằng chúng ta có thể khám phá ra mọi thứ bệnh bằng những phương pháp thông thường.

Rất ít nhà khoa học tin một cách nghiêm chỉnh vào khả năng có những sức mạnh vô hình, thông minh, chưa được biết đến, có thể gây ra một số hiện tượng. Hiếm thấy bác sĩ nào thừa nhận rằng có lẽ ông ta đang đương đầu với những chuỗi nguyên nhân khác lạ khi đối mặt với những bệnh nhân mà triệu chứng của họ và những xét nghiệm lâm sàng là không thể cắt nghĩa được. Nếu họ phải đương đầu với trường hợp không thể cắt nghĩa, nhiều người sẽ chạy đến với Freud hơn là đi gọi một nhà trừ quỷ để xin giúp đỡ. Kết quả là tình trạng của những bệnh nhân bất hạnh này không được cải thiện mà còn trở nên tồi tệ hơn.

Tác phẩm vắn gọn và sáng sủa của Cha Amorth cho phép độc giả chứng kiến những hoạt động của nhà trừ quỷ. Những trang này không có ý định cắt nghĩa lý thuyết về sự hiện hữu của ma quỷ và về sự quỷ ám, hay đi đến những kết luận mang tính học thuyết. Chúng chỉ để cho những sự kiện tự bộc bạch bằng cách để cho độc giả cảm nghiệm thấy cái mà một nhà trừ quỷ thấy và làm. Tôi biết tác giả rất yêu mến những linh mục trong Giáo Hội là những người đã được Đức Kitô ủy thác quyền năng trừ quỷ nhân danh Ngài. Tôi tin chắc rằng tác phẩm này sẽ có lợi cho nhiều người trong họ và có thể gợi hứng cho những người khác viết ra những kinh nghiệm của họ về chủ đề này.

Father Candido Amantini

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


§2 - DẪN NHẬP CỦA TÁC GIẢ


Khi vị đại diện Đức Thánh Cha ở giáo phận Roma. Đức Hồng Y Ugo Poletti, bất ngờ uỷ thác cho tôi năng quyền trừ quỷ, tôi đã không ngờ được sự bao la của cái thế giới mà ngài đã mở ra trước mắt tôi và sự đông đảo những người sẽ lũ lượt kéo đến với tác vụ của tôi.

Ban đầu tôi được bổ nhiệm làm phụ tá cho Cha Candido Amantini, linh mục dòng Passionist, nhà trừ quỷ chuyên nghiệp và nổi tiếng. Những người cần sự giúp đỡ của ngài đã từ mọi miền nước Ý, và thường từ ngoại quốc, đến trụ sở của ngài tại nhà thờ Holy Staircase ở Roma. Sự bổ nhiệm này là một ân sủng lớn lao cho tôi; tôi tin rằng cha Candido là người duy nhất trên thế giới có thể tuyên bố một kinh nghiệm ba mươi sáu năm làm người trừ quỷ toàn thời gian. Tôi không thể có được một vị Thầy tốt hơn nữa, và tôi cảm ơn ngài vì đã dẫn dát tôi đi vào tác vụ này với sự kiên nhẫn vô biên.

Tôi đã khám phá ra một điều khác nữa. Có rất ít nhà trừ quỷ ở Ý, còn ít hơn nữa những người đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, và ít hơn nữa tại các quốc gia khác. Do đó, tôi đã thấy mình làm phép cho những người đến từ Pháp, Áo, Đức, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, và Anh quốc, bởi vì những người đến với tôi đã quả quyết rằng họ không thể tìm thấy một nhà trừ quỷ. Có phải đó là vì các giám mục và các linh mục không quan tâm? Hay đó là vì các ngài thực sự không tin vào sự cần thiết và hiệu năng của tác vụ này? Bất kể vì lý do gì, tôi đã cảm thấy tôi được gọi để trở nên một tông đồ giữa những người đã phải chịu đau khổ lớn lao và những người chẳng được ai hiểu - kể cả các thân nhân họ, cả các bác sĩ, cả các linh mục của họ.

Trong khi tác vụ mục vụ này hoàn toàn bị bỏ qua trong thế giới Công Giáo ngày nay, thì trong quá khứ không phải như thế. Nơi một số giáo phái của giáo hội Tin lành, việc trừ quỷ vẫn được thực hành thường xuyên và rất hiệu quả. Mỗi nhà thờ chính toà nên có một nhà trừ quỷ, cũng y như có một "toà xá giải". Khi có nhu cầu lớn hơn - như trong những giáo xứ lớn và những đền thánh - cũng nên có một số lớn các nhà trừ quỷ.

Các nhà trừ quỷ hiện không chỉ ít ỏi về số, nhưng họ cũng ít được chấp nhận, và đôi khi họ còn bị gây trở ngại nữa. Họ ít khi tìm thấy người nào sẵn lòng mở cửa cho họ. Mọi người đều biết rằng đôi khi những người bị quỷ ám la hét lên; đây là lý do chính khiến cho một vị chủ chăn hoặc một bề trên tu viện không muốn một nhà trừ quỷ trong lãnh thổ của họ. Sự bình an và yên tĩnh trở nên quan trọng hơn đức bác ái cứu giúp những người bị quỷ ám. Ngay cả tôi cũng đã trải nghiệm sự chống đối này, mặc dù ít hơn những người khác là những nhà trừ quỷ tốt hơn và danh tiếng hơn. Trước hết tôi muốn nhắc các giám mục về tầm quan trọng của vấn đề này. Các giám mục phải nhận ra rằng tác vụ này được hoàn toàn uỷ thác cho các ngài chăm lo: chỉ các ngài là người có thể thực hành hoặc ủy thác một cuộc trừ quỷ. Đáng buồn thay, vì hầu hết các giám mục chưa bao giờ thực hiện một cuộc trừ quỷ, nên các ngài khó nhận thức được tầm quan trọng của nhu cầu này.

Tác phẩm này đã được gợi hứng do ước muốn của tôi, để chia sẻ với những người quan tâm đến chủ đề này, những kiến thức mà tôi đã thu lượm được qua nhiều kinh nghiệm mà chính yếu là những kinh nghiệm của cha Candido. Chủ yếu tôi muốn phục vụ các nhà trừ quỷ khác và các linh mục. Cũng y như mỗi bác sĩ đa khoa phải có thể chỉ dẫn các bệnh nhân của mình đến bác sĩ chuyên khoa thích hợp nhất (chẳng hạn: các chuyên gia tai, mũi, họng; bác sĩ giải phẫu chỉnh hình; hoặc bác sĩ thần kinh), một linh mục cũng phải có thể xác định khi nào một người cần đến một nhà trừ quỷ. Thực ra nhiều linh mục đã khuyến khích tôi viết cuốn sách này bởi vì một trong những hướng dẫn của cuốn Nghi thức về việc trừ quỷ có khuyên các nhà trừ quỷ nên nghiên cứu "nhiều tài liệu do các chuyên gia viết".

Tuy nhiên, khi chúng tôi cố gắng tìm những cuốn sách nghiêm túc về chủ đề này. chúng tôi thấy rất ít cuốn dùng được. Tôi xin đề nghị ba cuốn sau đây: cuốn Il diavolo của Đức Cha Balducci (Piemme, 1988); phần lịch sử của nó thì dùng được, nhưng phần thực hành thì không. Cuốn sách này bị giới hạn trong phạm vi chuyên môn và chứa đựng nhiều khiếm khuyết; tác giả là một chuyên gia về khoa ma quỷ học chứ không phải về trừ quỷ. Cuốn La preghiera di liberazione (Palermo: Herbita, 1985) của cha Matteo La Grua, một nhà trừ quỷ, được viết cho các nhóm canh tân, và chủ đích của nó là để hướng dẫn các cuộc cầu nguyện giải thoát của họ. Cuốn Cronista all'inferno của Renzo Allegri (Mondadori, 1990) cũng đáng lưu ý. Cuốn này không phải là một bản nghiên cứu có phương pháp nhưng là một cuốn sưu tập những bài phỏng vấn danh tiếng. Nó trình bày những trường hợp tối khẩn, những tình huống hết sức giật gân, trong khi thực sự nó lại không trình bày sự lao nhọc vất vả hàng ngày bình thường của nhà trừ quỷ.

Tóm lại, tôi đã cố gắng qua tác phẩm này để điền vào chỗ trống và để trình bày chứng lý từ mọi góc độ, mặc dù vắn gọn, nhằm vươn tới số lượng độc giả đông đảo hơn. Tôi định viết kỹ hơn ở một số tác phẩm khác, và tôi hy vọng rằng những người khác sẽ đem hết khả năng và sự nhạy bén tôn giáo để viết tiếp, sao cho chủ đề này có thể được bàn giải sâu xa hơn, như nó đã từng được thấy nơi những người Công Giáo thời xưa, nhưng ngày nay chỉ thấy nơi những người Tin lành.

Tôi muốn nêu rõ lên rằng tôi sẽ không cố gắng chứng minh những chân lý đã được bàn giải kỹ lưỡng trong những ấn bản khác, như sự hiện hữu của ma quỷ, thực tại về sự quỷ ám, và quyền năng trừ quỷ mà Đức Kitô đã ban cho những người tin vào sứ điệp Phúc Âm. Đó là tất cả những chân lý được mặc khải; chúng được tìm thấy trong Kinh Thánh; chúng được bao hàm trong thần học; và chúng được dạy mãi bởi huấn quyền của Giáo Hội. Thay vào đó tôi sẽ đi sâu hơn vào những khía cạnh ít được biết đến và những khía cạnh thực tiễn nhằm mang lại lợi ích cho các nhà trừ quỷ và những người ham thích học hỏi về chủ đề này. Tôi xin lỗi vì phải lặp lại một số ý niệm cơ bản.

Xin Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm - Đấng đã là kẻ thù của Satan ngay từ khi ơn cứu độ được loan báo (Stk 3, 15) cho tới khi hoàn tất (Kh l2) và là Đấng đã kết hợp với Con mình trong cuộc chiến đánh bại nó - chúc phúc cho tác phẩm này của tôi. Đó là kết quả của một hoạt động đến kiệt sức mà tôi đã theo đuổi với sự trông cậy tin tưởng vào sự che chở từ mẫu của Mẹ.

Những ghi chú sau đây được thêm vào cho lần xuất bản gần đây nhất của sách này. Tôi đã không mong cuốn sách thành công hoặc được tái bản nhiều lần trong một thời gian ngắn. Sự thành công này chỉ xác chứng ý kiến của tôi rằng có rất nhiều người quan tâm đến chủ đề trừ quỷ và rằng ở Ý và trong toàn thế giới Công Giáo chưa từng có cuốn sách công giáo nào nói về việc trừ quỷ cách trọn vẹn, dù chỉ là vắn tắt. Sự kiện này là rất đáng chú ý và đau lòng. Nó cho thấy một sự thiếu quan tâm đến khó hiểu hoặc có lẽ đơn giản là một sự thiếu tin tưởng thực sự về phía những người đáng lẽ phải dẫn đầu việc nghiên cứu.

Tôi cám ơn hết những ai đã hỗ trợ và nâng đỡ tôi, đặc biệt những nhà trừ quỷ khác. Sự tán thành đáng trân trọng nhất đã đến từ người thầy dày kinh nghiệm của tôi, cha Candido Amantini, người đã nhận ra những giáo huấn của mình nơi tác phẩm của tôi. Sự chỉ trích mà tôi đã nhận được thì ít và không đáng kể; do đó, tôi đã không hiệu chỉnh chút nào, cũng không thấy cần phải sửa chữa cuốn sách. Tôi chỉ bàn giải rộng một số lãnh vực để cho bức tranh về chủ đề này được hoàn hảo hơn. Tôi cũng tin rằng những người này và những nhóm mà tôi phê bình đã hiểu được chủ ý ngay lành của tôi và không lấy làm phật lòng. Tôi đã dùng những phương tiện in ấn trong nỗ lực phục vụ số người đông đảo. Cũng cùng một lòng nhiệt thành đã thúc đẩy tôi phục vụ tất cả những người hằng ngày theo đuổi tác vụ trừ quỷ của tôi.

Tôi cám ơn Chúa vì mọi sự. Tôi phải thêm lời bình sau đây cho lần tái bản bằng tiếng Ý lần thứ mười (1993) của sách này. Có một cái gì đó đã thay đổi trong hai năm từ khi cuốn sách của tôi xuất hiện lần đầu. Các giám mục đã viết lên nhiều tài liệu quan trọng, con số các nhà trừ quỷ đã gia tăng, một số giám mục bây giờ đang thi hành việc trừ quỷ, và các sách mới về chủ đề đã tăng thêm. Có một cái gì đó đang chuyển mình. Tôi không kể công; tôi chỉ đơn giản là thuật lại các sự kiện.

Tôi không thể kết luận mà không tưởng nhớ về Cha Candido Amantini, người đã được Chúa mời ra đi lãnh phần thưởng vào ngày 22.9.1992. Đó là ngày kính thánh Candido, thánh quan thầy của cha Amantini. Trước mặt các anh em linh mục của ngài, những người đến chúc mừng bổn mạng ngài, ngài chỉ trả lời đơn sơ: "Ngày hôm nay tôi đã xin thánh Candido một ân huệ."

Cha Candido sinh năm 1914. Năm mười sáu tuổi đã gia nhập dòng Các Cha Passionist. Ngài đã làm giáo sư môn Kinh Thánh và luân lý. Ngài đã thi hành công việc phục vụ vĩ đại nhất của ngài: việc của nhà trừ quỷ, suốt ba mươi sáu năm. Ngài đã tiếp từ sáu mươi đến tám mươi người mỗi buổi sáng và đã che dấu sự mệt mỏi của ngài dưới bộ mặt tươi cười. Nhiều lần lời khuyên của ngài là do linh hứng. Cha Pio đã nói về ngài: "Cha Candido là một linh mục rất đẹp lòng Chúa."

Cuốn sách này, trừ những sai lầm của riêng tôi ra, được chủ định như một sự xác chứng những kinh nghiệm của cha Candido với tư cách là nhà trừ quỷ, cho lợi ích của tất cả những người quan tâm đến chủ đề. Vì sự xác chứng đó là một trong những lý do chính của sách này, nên tôi hết sức vui mừng khi ngài nhận ra rằng những điều tôi viết rất trung thành với giáo huấn của ngài.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


§3 - QUI TÂM KITÔ


Ma quỷ là một trong những thụ tạo của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nói về ma quỷ và về sự trừ quỷ mà không trước hết đề cập đến một số yếu tố căn bản về kế hoạch sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ không nói điều gì mới mẻ, nhưng có thể trình bày một cái nhìn mới.

Tất cả chúng ta thường có quan niệm sai lầm về sáng tạo, và chúng ta hiển nhiên chấp nhận trình tự sai lầm về các sự kiện. Chúng ta tin rằng ngày xưa Thiên Chúa đã sáng tạo ra các thiên thần; rằng Ngài đặt họ trước cơn thử thách, mặc dù chúng ta không biết chắc cơn thử thách ấy như thế nào; và rằng kết cục chúng ta phân chia họ thành thiên thần và ma quỷ. Các thiên thần được thưởng lên thiên đàng, và ma quỷ bị phạt xuống hỏa ngục. Rồi chúng ta tin rằng một ngày khác Thiên Chúa đã tạo ra vũ trụ, khoáng vật, thực vật, động vật và sau cùng là loài người. Nơi vườn địa đàng, Adam Eva đã nghe lời Satan và bất tùng phục Thiên Chúa; do đó, họ đã phạm tội. Lúc đó để cứu nhân loại, Thiên Chúa đã quyết định sai con của Ngài xuống thế.

Đây không phải là điều Kinh Thánh dạy, cũng không phải giáo huấn của các giáo phụ. Nếu vậy, các thiên thần và sự sáng tạo vẫn còn xa lạ với mầu nhiệm Đức Kitô. Nếu chúng ta đọc trong Tiền Ngôn của Phúc Âm Gioan và hai bản thánh ca Kitô học mở đầu cho các bức thư Ephêsô và Côlosê, chúng ta thấy Đức Kitô là "Trưởng tử trong các thụ tạo" (Cl 1,15). Mọi sự được tạo thành nhờ Ngài và đang trông đợi Ngài.

Thần học không bàn cãi chuyện Đức Kitô được sinh ra có mắc tội Adam hay không. Đức Kitô là tâm điểm của công cuộc sáng tạo; toàn thể các thụ tạo, cả trên thiên đàng (các thiên thần) lẫn dưới trần gian (loài người) đều tìm thấy nơi Ngài cùng đích của mình. Mặt khác, chúng ta có thể khẳng định rằng, xét về tội của tổ tông chúng ta, việc Đức Kitô đến, được coi như đóng một vai trò đặc biệt: Ngài đến như Đấng Cứu Độ. Cốt lõi của hành vi của Ngài được chứa đựng trong mầu nhiệm vượt qua: nhờ Máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá, Ngài đã giao hòa mọi vật trên trời (các thiên thần), dưới đất (loài người) với Thiên Chúa. Vai trò của mỗi thụ tạo tùy thuộc vào quan niệm qui tâm Kitô (christocentric understanding).

Chúng ta không thể bỏ qua mối suy tư về Đức Trinh Nữ Maria. Nếu trưởng tử trong các thụ tạo là Ngôi lời trở thành nhục thể, thì Mẹ, Đấng rất có ý nghĩa trong cuộc Nhập thể cũng phải được Thiên Chúa nghĩ đến trước mọi thụ tạo khác. Từ đó nảy sinh mối tương quan độc đáo của Đức Maria với Chúa Ba Ngôi.

Chúng ta cũng phải lưu tâm đến ảnh hưởng của Đức Kitô trên các thiên thần và ma quỷ. Trong chuyện liên quan đến các thiên thần, một số thần học gia tin rằng các thiên thần chỉ đạt được phúc hưởng kiến Thiên Chúa nhờ mầu nhiệm Thánh giá. Chẳng hạn thánh Athanasiô viết rằng các thiên thần được ơn Cứu Độ nhờ Máu Chúa Kitô. Các Phúc Âm cho chúng ta nhiều bằng chứng liên quan đến ma quỷ, và chứng minh rõ ràng rằng Chúa Kitô đã đánh bại vương quốc Satan nhờ cây Thánh giá và Ngài đã thiết lập vương quốc của Thiên Chúa. Những tên quỷ nhập vào người đàn ông ở Gerasenô đã kêu lên rằng: Lạy con Thiên Chúa, chúng tôi có liên quan gì với Ngài? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi trước thời gian của chúng tôi?" (Mt 8, 29). Đây là một điểm tham khảo rõ ràng về sự kiện quyền hành của Satan đã dần dần bị Đức Kitô phá vỡ. Do đó, quyền lực của Satan vẫn hiện hữu và sẽ còn tiếp tục hiện hữu cho tới khi sự Cứu Độ chúng ta được hoàn tất" (Kh 12,10). Để biết thêm về vai trò của Đức Maria, kẻ thù của Satan ngay từ khi ơn cứu độ được loan báo, chúng ta có thể tham khảo trong tác phẩm rất hay của Cha Candido Amantini: "Il mistero di Maria" (Naples: Dehoniane, 1971).

Nếu nhìn mọi sự dưới ánh sáng qui tâm Kitô, chúng ta có thể nhìn thấy kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng tạo thành mọi sự "nhờ Đức Kitô và hướng về Đức Kitô". Và chúng ta có thể nhìn thấy những hành động của Satan, tên kẻ thù, tên cám dỗ, tên tố cáo. Vì chước cám dỗ của nó mà sự dữ, đau khổ, tội lỗi, và sự chết đã đột nhập vào thế gian. Chính trong bối cảnh đó mà chúng ta có thể nhìn thấy sự khôi phục kế hoạch của Thiên Chúa. kế hoạch mà Đức Kitô đã thực hiện nhờ giá máu của Ngài.

Trong bối cảnh này, chúng ta biết được quyền lực của ma quỷ. Chúa Giêsu gọi hắn là "ông hoàng của thế gian này" (Ga 12, 31; 14,30; 16,11). Thánh Gioan khẳng định rằng "Toàn thể thế giới đều nằm dưới quyền lực ác thần" (1Ga 5, 19); qua từ "thế gian" Thánh Gioan muốn nói mọi sự đều đối nghịch với Thiên Chúa. Satan đã từng là một thần sáng láng nhất trong các thiên thần; hắn đã trở nên ác độc nhất trong các ma quỷ và làm thủ lãnh chúng. Các ma quỷ vẫn còn bị ràng buộc chặt chẽ về phẩm trật đã được ban cho chúng khi chúng còn là thiên thần: ngai thần, quản thần, lãnh thần, uy thần (Cl 1, 16). Tuy nhiên, trong khi các thiên thần, với Thánh Micae làm thủ lãnh, được ràng buộc bởi phẩm trật của tình yêu, thì ma quỷ phải sống dưới lề luật nô lệ.

Chúng ta cũng biết hành động của Đức Kitô, Đấng đã đánh tan nước Satan và thiết lập vương quốc Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao các trường hợp Đức Kitô trừ quỷ cho những người bị quỷ nhập là đặc biệt quan trọng. Khi thánh Phêrô dạy cho Cornelius về Đức Kitô, thánh nhân không nêu ra bất cứ phép lạ nào ngoài sự kiện là Chúa đã chữa lành "tất cả những người bị quỷ nhập" (Cv 10, 38). Do đó, chúng ta hiểu ra tại sao năng quyền đầu tiên mà Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ là quyền trừ quỷ (Mt 10,1). Chúng ta có thể nói tương tự cho tất cả những người tin: "Những người tin sẽ được các dấu lạ này: nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ" (Mt 16,17). Như vậy Chúa Giêsu đã chữa lành và tái lập kế hoạch thần linh đã bị tàn phá do sự bất tuân của một số thần dữ và của tổ tông chúng ta. Chúng ta cần phải làm sáng tỏ vấn đề này: sự dữ, đau khổ, sự chết, và hỏa ngục (tức là hình phạt muôn đời trong nỗi đau đớn tột cùng) không phải là những việc Thiên Chúa làm, tôi muốn triển khai điểm này. Một hôm cha Candido trừ một tên quỷ. Cho đến phút chót của một cuộc trừ quỷ, ngài quay sang phía thần dữ và nói với nó cách mỉa mai: "Cút khỏi đây ngay. Đức Chúa đã chuẩn bị cho mi một chỗ đẹp lắm, một căn nhà rực lửa!" Bấy giờ quỷ trả lời: "Ông không biết gì cả! Nào có phải Thiên Chúa là Đấng làm nên hỏa ngục đâu. Chính là chúng tôi đấy. Lúc ấy Ngài còn chưa từng nghĩ đến đó." Tương tự, vào một dịp khác, trong khi tôi đang chất vấn một tên quỷ để biết xem nó có góp phần tạo nên hỏa ngục hay không, nó đã trả lời: "Tất cả chúng tôi đều cộng tác vào."

Tính chất qui tâm Kitô trong kế hoạch sáng tạo và sự phục hồi kế hoạch đó nhờ việc cứu chuộc là nền tảng để hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa và sự tận thế. Các thiên thần và loài người đã lãnh nhận một bản tính có trí năng và sự tự do. Khi tôi nghe những người lầm lẫn giữa sự tiền định và sự quan phòng của Thiên Chúa, nói rằng Thiên Chúa đã biết trước ai sẽ được cứu chuộc và ai sẽ bị trầm luân, và do đó mọi việc chúng ta làm đều vô ích, tôi thường trả lời bằng bốn chân lý mà Kinh Thánh đã nói cho chúng ta: Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi; không ai bị tiền định phải vào hỏa ngục; Chúa Giêsu đã chịu chết cho mọi người; và mọi người đều được ban đầy đủ ân sủng để được cứu rỗi.

Tính chất qui tâm Kitô dạy chúng ta rằng chúng ta có thể được cứu rỗi chỉ nhờ danh của Ngài. Chỉ nhờ danh Ngài mà chúng ta có thể chiến thắng và tự giải thoát khỏi kẻ thù của ơn cứu độ là Satan. Vào những phút chót của những cuộc trừ quỷ quá gay go, lúc mà tôi phải đương đầu với toàn thể sức mạnh xâm lấn của ma quỷ, tôi đọc bài thánh ca Kitô học trong thư Thánh Phaolô gửi Philip (2, 6-11). Khi tôi đọc đến những từ "Sao cho mọi tạo vật trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quì gối xuống trước danh Giêsu", thì tôi quì, mọi người có mặt cũng luôn luôn quì theo, và người bị quỷ nhập cũng bị cưỡng bức phải quì. Đó là khoảnh khắc cảm động và đầy quyền uy. Tôi luôn luôn cảm thấy tất cả các cơ binh thiên thần đang bao quanh chúng tôi, cũng quì gối trước danh xưng Giêsu.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


§4 - QUYỀN LỰC CỦA SATAN

Vì chủ đề mà tôi đã quyết định nhắm tới trong cuốn sách này, nên tôi không thể tiếp tục những vấn đề thần học rất hay khác. Tôi sẽ chỉ đề cập đến vài điểm nêu lên như kết quả của những cuộc trừ quỷ. Một người trừ quỷ với nền tảng thần học và Kinh Thánh chắc chắn như cha Candido, người đã nói chuyện với ma quỷ trong ba mươi sáu năm, thì quá đủ tư cách để bàn về những chủ đề - như tội phản loạn của các thiên thần - mà các nhà thần học trong quá khứ đã gạt bỏ với một câu "chúng tôi không biết". Mọi sự đã được Thiên Chúa tạo thành theo một bản thiết kế hài hòa; do đó, nguyên tử bé nhỏ nhất cũng có ảnh hưởng đến mọi vật, và mỗi một cái bóng cũng làm nên một số khoảng tối trên mọi sự. Thần học sẽ giang giở và không thể hiểu được cho đến khi nó tập trung vào thế giới các thiên thần. Một khoa Kitô học mà không biết đến Satan thì kể như què quạt và sẽ không bao giờ hiểu được tầm cỡ của sự cứu chuộc.

Bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục với Đức Kitô, trung tâm điểm của vũ trụ. Vì Ngài và vì sự Giáng lâm (his Coming) của Ngài, mà mọi vật đã được tạo thành: trên thiên đàng (các thiên thần) và dưới đất (thế giới hữu hình, trên hết là con người). Nếu chỉ nói về Đức Kitô thì quá tuyệt vời, nhưng nếu không theo đúng từng giáo huấn và hành vi của Ngài thì chúng ta không bao giờ có thể hiểu Ngài. Kinh Thánh nói với chúng ta về vương quốc của Thiên Chúa nhưng cũng nói về vương quốc của Satan nữa. Kinh Thánh nói cho chúng ta về quyền năng của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và là Đức Chúa của vũ trụ, nhưng cũng nói về quyền lực của bóng tối. Kinh Thánh nói về những người con của Thiên Chúa và những đứa con của Satan. Không thể nào hiểu được hành vi cứu độ của Đức Kitô nếu chúng ta không biết hành vi phá hoại của Satan.

Satan đã từng là hữu thể rất hoàn hảo được bàn tay Thiên Chúa tạo thành. Vì quyền hành và ưu thế Chúa ban cho nó trên các thiên thần khác được tất cả nhìn nhận, nên nó đã nghĩ rằng nó cũng có quyền thế tương tự như thế trên tất cả mọi vật mà Thiên Chúa đã tạo thành. Satan cố gắng hiểu tất cả kế hoạch sáng tạo nhưng không thể được. Bởi vì tất cả kế hoạch sáng tạo đã được nhắm về Đức Kitô. Kế hoạch của Thiên Chúa đã không thể được mạc khải hoàn toàn cho tới khi Đức Kitô đến trên trần gian. Do đó, Satan đã khởi loạn. Nó muốn tiếp tục được là tuyệt đối trên hết, là trung tâm của cuộc sáng tạo, ngay cả nếu điều đó đi ngược lại với kế hoạch của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Satan liên tục cố gắng thống trị thế giới. "Toàn thể thế giới nằm dưới quyền lực sự dữ" ( 1 Ga 5, 19). Bắt đầu với nguyên tổ chúng ta, nó tìm cách biến con người thành nô lệ bằng cách làm cho họ nghe theo nó và bất tuân phục Thiên Chúa. Hắn đã thành công với tổ tông chúng ta: Ađam và Evà, và hắn hy vọng sẽ tiếp tục với tất cả mọi người với sự trợ giúp của "một phần ba các thiên thần", những kẻ mà theo sách Khải huyền, đã đi theo hắn trong cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa.

Thiên Chúa không bao giờ loại bỏ các thụ tạo của Ngài. Do đó, mặc dù đổ vỡ với Thiên Chúa, Satan và các thiên thần của nó vẫn còn quyền lực và đẳng cấp (ngai thần, quản thần, lãnh thần, uy thần...) ngay cả khi chúng dùng quyền lực vào những mục đích xấu xa. Thánh Augustinô đã không phóng đại quá khi tuyên bố rằng nếu Thiên Chúa để cho Satan được tự do thì chẳng ai sẽ có thể sống sót. Bởi vì Satan không thể tiêu diệt chúng ta, nên hắn cố gắng "lôi kéo chúng ta đi theo hắn để chống lại Thiên Chúa, hệt như hắn đã chống đối Ngài".

Chân lý của sự cứu rỗi là thế này: Chúa Giêsu đã đến "phá hủy các mưu đồ của ma quỷ" (1Ga 3,8), để giải phóng con người khỏi kiếp nô lệ cho Satan, và thiết lập vương quốc Thiên Chúa sau khi đã phá hủy nước của Satan. Tuy nhiên, giữa lần giáng lâm thứ nhất của Đức Kitô và cuộc Quang lâm (lần giáng lâm thứ hai, lần đến khải thắng của Đức Kitô như vị thẩm phán), ma quỷ cố gắng chiêu dụ nhiều người hết sức có thể về phe hắn. Đó là một cuộc chiến mà hắn tiến hành với nỗi tuyệt vọng của một kẻ biết mình đã bị đánh bại, vì biết rằng "thời giờ của hắn còn rất ngắn" (Kh 12,12). Do đó, Thánh Phaolô đã nói rất thật với chúng ta rang "chúng ta đang chiến đấu không phải với loài xác thịt và máu huyết, nhưng là chống lại với các vương tôn, quyền bính, với bá chủ thế gian này, với bọn tà thần gian ác chốn không trung" (Ep 6,12).

Kinh Thánh cho chúng ta biết các thiên thần và ma quỷ (tôi muốn đặc biệt nhấn mạnh đến Satan) là những thụ tạo thiêng liêng nhưng cũng là những cá thể được phú ban cho trí tuệ, ý chí, tự do và sáng kiến. Các thần học gia hiện đại, họ đồng hóa Satan với ý niệm trừu tượng về sự dữ là hoàn toàn sai lầm. Quan niệm của họ thật là dị giáo; tức là rõ ràng trái với Kinh Thánh, thánh truyền và quyền giáo huấn của Giáo Hội. Trong quá khứ, sự thật về Satan chưa bao giờ bị hoài nghi; do đó, không có những định tín về phương diện này trừ ra tuyên bố sau đây của Công Đồng Lateran IV: "Ác quỷ (tức là Satan) và các ma quỷ khác đã được Thiên Chúa tạo dựng cách tốt lành; nhưng chúng đã trở nên ác độc tại lỗi lầm riêng của chúng." Bất cứ ai chối Satan thì cũng chối tội lỗi và không còn hiểu gì về những hành động của Đức Kitô.

Chúng ta hãy làm sáng tỏ điều này: Chúa Giêsu đã đánh bại Satan nhờ sự hy sinh của Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng đã đánh bại Satan trước khi Ngài chịu chết, nhờ những giáo huấn của Ngài: "Nếu chỉ nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì ắt hẳn nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi"(Lc 11,20). Chúa Giêsu là Đấng mạnh mẽ nhất, Ngài đã trói buộc Satan (Mc 3, 27), đã hạ bệ hắn và tàn phá vương quốc của hắn, vương quốc ấy đã đến hồi kết thúc (Mc 3, 26). Chúa Giêsu trước hết trao quyền trừ quỷ cho các tông đồ, rồi mở rộng ra cho bảy mươi hai môn đệ, và cuối cùng Ngài đã ban cho tất cả những ai tin vào Ngài.

Sách Tông đồ công vụ cho chúng ta thấy sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các tông đồ tiếp tục trừ quỷ, và tất cả các Kitô hữu cũng đã làm như thế theo gương các ông. Các thánh giáo phụ sớm nhất, như thánh Justin, thánh Irenê, đã bộc lộ rõ rằng tư tưởng Kitô giáo về ma quỷ và về quyền năng xua trù nó. Các giáo phụ khác, đặc biệt là Tertullianô và Ôrigênê, cũng đồng quan điểm. Chỉ cần bốn tác giả này cũng đủ để bác bẻ nhiều thần học gia hiện đại là những người cố tình không tin có ma quỷ hoặc hoàn toàn phớt lờ chúng.

Công Đồng Vaticanô II mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta về giáo huấn vĩnh cửu của Giáo Hội: "Trận chiến sinh tử chống lại các quyền lực bóng tối đang xâm lấn toàn thể lịch sử loài người đã được giao tranh ngay từ khởi thủy thế giới" (Gaudium et Spes, no 37). "Mặc dù con người đã được Thiên Chúa tạo dựng trong trạng thái thánh thiện, từ lúc bình minh của lịch sử, loài người đã lạm dụng tự do của mình, nghe theo sự xúi giục của thần dữ. Con người đã tự mình chống lại Thiên Chúa và tìm kiếm sự viên mãn bên ngoài Ngài. Mặc dù con người biết Thiên Chúa nhưng họ đã không tôn vinh Ngài như Thiên Chúa, trái lại tâm hồn mê muội của họ đã ra tối tăm, và họ đã phụng sự tạo vật hơn là phụng sự Đấng tạo hóa" (số 13). "Ngài đã sai con của Ngài mặc lấy xác phàm chúng ta, để nhờ Chúa Con, Ngài giải thoát nhân loại khỏi quyền lực tối tăm và Satan" (An Gentes 3). Những ai chối bỏ sự hiện hữu và những hoạt động của Satan thì làm sao có thể hiểu được những chiến công của Đức Kitô? Làm thế nào họ có thể hiểu được giá trị cái chết cứu chuộc của Đức Kitô? Dựa trên căn bản Kinh Thánh, Công Đồng Vaticanô II khẳng định rằng "[Đức Kitô], nhờ cái chết và sự phục sinh của Ngài, đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực Satan" (Sacrosanctum Concilium, số 6). Và "[Đức Kitô] đã chịu tử giá và sống lại để bẻ gãy xiềng xích của ác thần" (Gaudium et Spes, số 2).

Bị Đức Kitô đánh bại, Satan quay ra chống lại các môn đệ của Ngài. Cuộc chiến cam go chống lại ác thần "tiếp diễn suốt trong lịch sử nhân loại, khởi đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng như lời Chúa phán" (số 37). Trong thời gian này, mỗi người phải tỉnh thức chiến đấu vì cuộc sống trên thế gian này là một cuộc thử thách của lòng trung thành với Thiên Chúa. "Vậy chúng ta phải phấn đấu để làm vui lòng Chúa trong mọi sự" (x. 2Cr 5,9). Chúng ta mặc áo giáp của Thiên Chúa để có thể đương đầu với những mưu chước ma quỷ và đứng vững được trong thời buổi gian ác vì trước khi chúng ta được đồng trị với Đức Kitô vinh quang, chúng ta hết thảy sẽ phải ra trình diện trước tòa án Đức Kitô, sao cho mỗi người có thể lãnh nhận những gì họ đã chiến thắng nhờ thể xác, tùy theo việc họ làm tốt hoặc xấu (2 Cr 5,10)" (Lumen Gentium số 48).

Tuy cuộc chiến chống Satan này liên quan đến mọi người và mọi thời, nhưng chắc chắn quyền lực của Satan sẽ càng ghê gớm hơn khi mà sự lan tràn tội lỗi nơi các cộng đồng càng trở nên rõ rệt hơn. Chẳng hạn, khi tôi thấy sự suy đồi của đế quốc Rô ma, tôi có thể thấy sự tan rã tinh thần của một giai đoạn lịch sử. Bây giờ chúng ta cũng đang ở cùng một cấp độ suy đồi tương tự, một phần là do hậu quả của sự lạm dụng các phương tiện thông tin đại chúng (những phương tiện ấy tự chúng không phải là xấu) và một phần do chủ nghĩa tiêu thụ và chủ nghĩa hưởng thụ phương tây, vốn đang đầu độc xã hội chúng ta.

Tôi tin rằng Đức Thánh Cha Lêô XIII, trong một thị kiến sẽ được trình bày chi tiết ở phần phụ lục chương này, đã nhận được một lời cảnh báo tiên tri liên quan đến cuộc tấn công quỷ quái này vào thời đại chúng ta. Ma quỷ làm thế nào để đối đầu với Thiên Chúa và Đấng Cứu Chuộc chúng ta? Bằng cách kêu gọi người ta thờ chính nó thay vì tôn thờ Chúa và bằng cách bắt chước dựng nên các tổ chức giống như của giáo hội. Do đó, nó là tên phản Kitô và phản Giáo hội. Satan dùng thần tượng tính dục, làm hạ giá thân xác con người xuống thành một dụng cụ của tội lỗi, chống lại sự Nhập thể của Ngôi Lời, Đấng đã hóa thân làm người để cứu chuộc con người. Satan dùng giáo hội của nó, sự tế tự nó, những người sùng mộ nó (thường thường được hiến cho nó qua việc uống máu ăn thề), những kẻ tôn thờ nó, những người chạy theo những lời nó hứa, để bắt chước sự tôn thờ dành cho Thiên Chúa. Hệt như Đức Kitô đã ban cho các tông đồ và các môn đệ của các ngài những sức mạnh đặc biệt để làm ích cho thể xác và linh hồn, Satan cũng tặng sức mạnh đặc biệt như vậy cho các kẻ theo nó nhưng để làm hại thể xác lẫn linh hồn họ. Chúng ta sẽ khảo sát những sức mạnh đặc biệt này qua việc giải thích về ma thuật.

Tôi sẽ lại lưu ý thêm nữa về chủ đề này. Thật là sai lầm khi từ chối sự hiện hữu của Satan, thì cũng sai lầm không kém khi chấp nhận ý kiến đang thịnh hành rằng có những hữu thể thiêng liêng không được đề cập đến trong Kinh Thánh. Đó là những phát minh của những nhà thông linh (spiritists), của những người chuyên theo đuổi sự huyền bí, của những người ủng hộ thuyết đầu thai (reincarnation), hoặc của những người tin vào các "cô hồn" (wandering souls). Không có thần lành nào ngoài các thiên thần và cũng không có thần dữ nào ngoài các ma quỷ. Hai Công Đồng của Giáo Hội (Lyon và Florence) đã nói cho chúng ta rằng linh hồn những người chết đi thẳng vào thiên đàng hoặc vào hỏa ngục hay luyện ngục. Hồn người chết hiện diện trong buổi lên đồng hoặc hồn người chết nhập vào người sống để hành hạ họ không là ai khác ngoài ma quỷ. Rất hiếm khi Thiên Chúa cho phép linh hồn trở về trần gian, nhưng chúng tôi nhận thấy rằng chủ đề này vẫn hoàn toàn là những điều chưa biết (unknowns). Cha La Grua cố gắng cắt nghĩa một số kinh nghiệm của ngài với những người bị quỷ nhập, nhưng tôi phải nói tóm gọn lại rằng đây là một vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm nữa, và tôi sẽ trình bày trong một tác phẩm khác.

Một số người có khả năng kỳ dị của quỷ để cám dỗ người ta và thậm chí có thể chiếm hữu thể xác (nhưng không bao giờ có thể chiếm được linh hồn trù khi người ta tự do trao linh hồn cho chúng) qua việc ám ảnh và áp bức. Chúng ta nên nhớ lại điều đã được viết trong sách Khải Huyền (12, 7...): "Xảy ra trên trời có chiến tranh dữ dội, Micae và các chư thần của người tranh chiến cùng con rồng, con rồng cùng các thần của nó chiến đấu lại. Nhưng không thắng nổi, mà chỗ của chúng cũng chẳng còn thấy trên trời nữa. Con rồng lớn bị ném xuống, đó là con cựu xà, cũng gọi là ma quỷ và Satan. Chính nó đã lừa dối cả hoàn cầu, đã bị quăng xuống đất, cả những thần của nó cũng đều bị quăng xuống... sau khi con rồng thấy rằng nó bị đẩy xuống đất, nó liền khủng bố người đàn bà kia, người mặc áo mặt trời, và từ nơi người ấy Chúa Giêsu đã được sinh ra (hiển nhiên là chúng ta nói về Đức Trinh Nữ rất thánh). Khi con rồng nhận ra những cố gắng của nó bị thất bại, "nó liền đi giao chiến cùng con cái bà là những kẻ giữ giới răn Thiên Chúa và có dấu chứng Đức Giêsu Kitô."

Vào ngày 24.5. 1987, khi viếng đền thánh kính Tổng Thần Micae, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Cuộc chiến đấu chống lại ma quỷ là bổn phận chính của Đức Tổng Thần Micae, vẫn còn kéo dài đến ngày nay, bởi vì ma quỷ vẫn còn tồn tại và hoạt động trên thế giới. Ngày nay sự dữ vẫn bao vây chúng ta, những sự tháo thứ đang gây tai họa cho xã hội chúng ta, sự đổ vỡ và mâu thuẫn nơi con người không chỉ là hậu quả của tội nguyên tổ, nhưng cũng còn là hậu quả của hành vi đen tối tràn ngập của Satan nữa."

Câu cuối cùng rõ ràng trích dẫn từ lời Thiên Chúa tuyên phạt con rắn trong sách Sáng thế ký: "Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người Nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người Nữ; người miêu duệ ấy sẽ đạp nát đầu mi, và mi sẽ rình cắn gót chân Người" (Stk 3,15). Satan không ở trong hỏa ngục sao? Cuộc chiến giữa các thiên thần đã xảy ra khi nào? Chúng ta không thể trả lời những câu hỏi này trừ phi chúng ta nhớ rằng hỏa ngục là một trạng thái của trí khôn hơn là một nơi chốn. Nơi chốn và thời gian là những ý niệm khác đối với loài thần linh.

Sách Khải huyền cho chúng ta thấy rằng ma quỷ đã bị ném xuống đất; do đó, bản án tối chung của chúng vẫn chưa xảy ra, cho dù là không thể vãn hồi. Điều này có nghĩa là chúng vẫn có những quyền hành mà Thiên Chúa đã ban cho chúng, dù chỉ "trong một thời gian ngắn". Đó là lý do tại sao chúng đã hỏi Chúa Giêsu: "Sao Ngài lại đến hành hạ chúng tôi trước thời gian?" (Mt 8,29). Đức Kitô là thẩm phán duy nhất; Ngài sẽ tập họp Thân Thể Mầu nhiệm của Ngài lại với Ngài. Do đó, đây là cách chúng ta cắt nghĩa lời Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Côrinthô: "Anh em lại không biết chúng ta sẽ xét xử các thiên thần ư? (1Cr 6,3). Khi "cơ binh" ma quỷ nhập vào một người ở Gêrasa nài xin Chúa Giêsu "xin đừng phạt chúng xuống vực thảm" (Lc 8, 31-32), chúng đã tìm cách giữ lại quyền lực của chúng. Đối với một tên quỷ, việc lìa khỏi thân xác của một người và chìm vào hỏa ngục là một bản án tử không thể vãn hồi; đó là lý do tại sao ma quỷ chống lại điều đó đến cùng. Tuy nhiên, sự đau khổ đời đời của nó sẽ gia tăng cân xứng với những đau khổ nó gieo rắc trên trần gian. Chính thánh Phêrô đã nói cho chúng ta rằng ma quỷ chưa bị kết án dứt điểm: "Thiên Chúa không dung thứ những thiên thần phạm pháp nhưng tống chúng vào hỏa ngục, và trói buộc chúng nơi tối tăm để đợi ngày phán xét" (2Pr 2, 4). Vinh quang của các thiên thần cũng vậy, sẽ được gia tăng tùy theo những việc thiện các ngài làm; do đó, rất nên cầu xin các ngài giúp đỡ.

Ma quỷ có thể gây tổn hại gì cho người sống? Có quá ít sách vở nói về chủ đề này và thiếu từ ngữ thông dụng. Bây giờ tôi sẽ cố gắng định nghĩa các từ mà tôi sử dụng trong sách này.

Hoạt động thông thường. Đây là việc "cám dỗ", đó là hoạt động thông thường nhất của ma quỷ, và nó trực tiếp chống lại hết mọi người. Khi Chúa Giêsu cho phép Satan cám dỗ Ngài, Ngài đã chấp nhận thân phận nhân loại của chúng ta. Tôi không có ý nói đến loại nỗ lực thông thường này của ma quỷ, vì mục đích của sách này là làm nổi bật "hoạt động ngoại thường" của Satan, chỉ xảy ra nếu Chúa cho phép.

Loại thứ hai này có thể mang sáu hình thức khác nhau:

1. Đau đớn thể lý bên ngoài do Satan gây ra. Chúng ta biết về điều này từ nhiều cuộc đời của các thánh. Chúng ta biết Thánh Phaolô Thánh giá, cha sở họ Ars, cha Padre Pio, và nhiều vị thánh khác đã bị ma quỷ đánh đập. Hình thức hành hạ bề ngoài này không ảnh hưởng đến linh hồn; do đó, với loại này không bao giờ cần đến việc trừ quỷ, chỉ cần cầu nguyện. Ở đây tôi chỉ nhấn mạnh đến những loại hành động khác trực tiếp liên quan đến các nhà trừ quỷ.

2. Quỷ nhập (Demonic possession). Điều này xảy ra khi Satan hoàn toàn chiếm trọn thể xác (không chiếm linh hồn); nó nói và hành động mà nạn nhân không biết hoặc không đồng ý, do đó nạn nhân không mắc lỗi luân lý. Đó là hình thức trầm trọng và đáng chú ý nhất trong các tai ách do ma quỷ gây nên, và nó đã thu hút sự chú ý của các nhà làm phim ảnh như bộ phim The Exorcist. Theo cuốn nghi thức trừ quỷ, một số dấu hiệu quỷ nhập bao gồm: nói các thứ ngôn ngữ, có sức mạnh ngoại thường, và tiết lộ điều chưa biết. Người đàn ông ở Gerasa là một thí dụ rõ ràng bị quỷ nhập trong Phúc Âm. Ấn định một "kiểu mẫu cố định cho hiện tượng quỷ nhập là một sai lầm nghiêm trọng; tai họa quỷ nhập đưa tới hàng loạt những triệu chứng và sự ác liệt. Chẳng hạn, tôi đã trừ quỷ cho hai người bị quỷ nhập hoàn toàn, họ hoàn toàn thinh lặng và bất động trong suốt thời gian trừ quỷ. Tôi có thể kể ra nhiều thí dụ khác và nhiều triệu chứng khác nhau.

3. Quỷ hành (Diabolical Oppression). Nhiều triệu chứng từ rất nặng cho đến cơn bệnh nhẹ. Nạn nhân không bị ám, không mất ý thức, không nói năng lảm nhảm. Kinh Thánh cho chúng ta nhiều thí dụ về sự quỷ hành, trong đó có trường hợp ông Gióp. Ông ta không bị quỷ nhập, nhưng bị mất hết con cái, của cải và sức khỏe. Người đàn bà trắc nết và người đàn ông vừa câm vừa điếc được Chúa Giêsu chữa lành không phải những người bị quỷ nhập hoàn toàn, nhưng có một sự hiện diện ma quỷ gây nên sự phiền phức thể lý. Thánh Phaolô chắc chắn không bị quỷ nhập, nhưng ngài đã bị một cơn hành hạ của ma quỷ, khiến ngài phải sầu muộn: "Lại sợ rằng sự cao siêu về các ơn mạc khải tâng bốc tôi, nên Chúa đã cho tôi cái gai xác thịt - tức là sứ giả của ma quỷ để soi mói tôi." (2Cr 12,7). Như vậy, không còn hồ nghi gì về nguồn gốc xấu xa của những cơn sầu khổ.

Trong khi ngày nay tương đối hiếm có trường hợp bị quỷ nhập, chúng tôi lại phải bù đầu với rất đông đảo những người bị ma quỷ đánh vào sức khỏe, nghề nghiệp, hoặc những mối quan hệ. Chúng tôi cũng cần phải nói rõ việc chẩn đoán và chữa lành một trường hợp bị hành liên quan đến bệnh tật thì không dễ hơn chút nào so với việc chẩn đoán và chữa cho một người bị quỷ nhập toàn phần. Mức độ nghiêm trọng có thể khác nhau, nhưng sự khó khăn trong việc chẩn đoán và số thời gian dành để chữa lành thì cũng như nhau.

4. Quỷ ám (Diabolic obsession). Triệu chứng bao gồm những sự lên cơn đột ngột, trong lúc đó tư tưởng bị ám ảnh, đôi khi trí khôn ra đờ đẫn, và dĩ nhiên là nạn nhân không thể tự giải thoát cho mình được. Do đó, người bị quỷ ám thường xuyên phải sống trong tình trạng quằn quại tuyệt vọng, và cứ chực tự tử. Hầu như sự quỷ ám luôn ảnh hưởng đến những giấc mộng. Một số người sẽ cho đây là những trường hợp bị bệnh tâm thần cần có sự giúp đỡ của các bác sỹ tâm thần hay các nhà tâm lý học. Người ta có thể nói tương tự như thế về tất cả các hình thức của hiện tượng quỷ ám. Tuy nhiên, một số triệu chứng khác hẳn với những cơn bệnh đã được biết đến cho nên chắc chắn là có nguồn gốc do ma quỷ. Chỉ có người chuyên môn và có cặp mắt tinh tường mới có thể xác định được những dị biệt chủ yếu.

5. Quỷ phá (Diabolic infestation). Những sự phá phách ảnh hưởng đến nhà cửa, đồ vật, hoặc súc vật. Sách này sẽ chỉ nêu lên chủ đề. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng tôi sẽ không bao giờ dùng từ này khi nói về con người. Tôi sẽ luôn luôn nói về hiện tượng quỷ nhập, quỷ hành và quỷ ám.

6. Quỷ điều khiển (Diabolical subjugation, or dependence). Người ta rơi vào hình thức xấu xa này khi họ tự nguyện thần phục Satan. Hai hình thức thông thường nhất của sự tùy thuộc này là ký máu ăn thề với ma quỷ và hiến mình cho Satan.

Làm thế nào để chúng ta có thể giữ mình khỏi tất cả những sự xấu xa này? Sự giải thích chặt chế của sách Nghi Thức chỉ hạn chế hướng dẫn cho những trường hợp bị quỷ nhập thực sự. Tuy nhiên, như tôi đã nói trước, sách Nghi Thức hiện nay không đáp ứng được nhiều trường hợp để nhà trừ quỷ chẩn đoán một ảnh hưởng tai ác. Trong tất cả các trường hợp mà không phải quỷ nhập, những biện pháp thông dụng để có được ân sủng là đủ. Những biện pháp đó là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, làm phước bố thí, sống cuộc sống Kitô hữu, tha thứ cho kẻ xúc phạm, và cầu xin sự trợ giúp của Chúa, Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần. Bây giờ tôi sẽ nói một ít lời về các thiên thần. Tôi vui mừng chấm dứt chương nói về ma quỷ kẻ thù của Đức Kitô, bằng cách nói về các thiên thần. Các ngài là những đồng minh vĩ đại của chúng ta. Chúng ta mắc nợ các ngài nhiều lắm và thật là sai lầm vì chúng ta hiếm khi nhắc đến các ngài. Mỗi người trong chúng ta đều có một thiên thần bản mệnh, một người bạn trung thành nhất trong các người bạn, đi theo chúng ta hai mươi bốn giờ mỗi ngày từ khi hoài thai cho tới khi qua đời. Ngài không ngừng che chở chúng ta, cả thân xác lẫn linh hồn, trong khi chúng ta chẳng bao giờ nghĩ tới ngài. Chúng ta cũng biết rằng mỗi quốc gia cũng có một thiên thần đặc biệt canh giữ, và có lẽ mỗi cộng đồng hay mỗi gia đình cũng có một vị, mặc dù hai trường hợp sau chúng ta không chắc chắn cho lắm. Tuy nhiên chúng ta biết rằng các thiên thần thì rất đông, và họ ao ước giúp đỡ chúng ta còn hơn cả Satan ước muốn phá hoại chúng ta.

Kinh Thánh thường nói cho chúng ta về sứ mạng mà Thiên Chúa đã ủy thác cho các thiên thần của Ngài. Chúng ta biết tên của vị thủ lãnh các thiên thần là Đức Micae. Giữa các thiên thần có một đẳng cấp dựa trên tình yêu, được hướng dẫn bởi trí tuệ thần linh "Trong Ý chí của trí tuệ thần linh đó mà chúng ta tìm được bình an", như thi sĩ Dante nói. Chúng ta cũng biết tên của hai đức tổng thần khác: Gabriel và Raphael. Ngụy thư thêm tên vị tổng thần thứ bốn là Uriel. Kinh Thánh chia các thiên thần thành chín phẩm: các quản thần (dominions), các quyền thần (powers), các ngai thần (thrones), các lãnh thần (principalities), các dũng thần (virtues), các thiên thần (angels), các tổng thần (archangels), cuối cùng là các cherubim và seraphim (luyến thần). Người tín hữu nào sống trong sự hiện diện của Chúa Ba Ngôi và chắc chắn có sự sống ấy trong mình, thì cũng biết rằng mình có một người Mẹ, người Mẹ riêng của Thiên Chúa, không ngừng trợ giúp mình. Người ấy biết rằng mình luôn luôn có thể trông cậy vào sự trợ giúp của các thiên thần và các thánh; do đó, làm thế nào người ấy cảm thấy cô đơn, bị bỏ rơi, hoặc bị quỷ hành hạ được? Trong đời sống của người tín hữu vẫn có đau khổ, vì đó là con đường Thánh giá cứu độ chúng ta, nhưng không có chỗ cho thất vọng. Người tín hữu luôn luôn sẵn sàng làm chứng cho mọi người về niềm hy vọng đang nâng đỡ họ (x. 1Pr 3, 15).

Hiển nhiên là người tín hữu phải trung thành với Thiên Chúa và phải sợ tội. Đây là nền móng sức mạnh của chúng ta như Thánh Gioan đã nói: "Chúng ta biết rằng phàm ai được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội; nhưng có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra gìn giữ người ấy, và ác thần không đụng đến người ấy được." (1Ga 5, 18). Nếu đôi khi sự yếu đuối làm chúng ta sa ngã, chúng ta phải lập tức chỗi dậy, cầu xin lòng thương xót Chúa: xám hối và xưng tội.

PHỤ CHƯƠNG 1

Thị kiến của Đức Thánh Cha Lêô XIII về ma quỷ.

Nhiều người còn nhớ rằng trước những cải cách của Công Đồng Vaticanô II, vào cuối mỗi Thánh Lễ, các người tham dự lễ quì gối đọc một kinh kính Đức Mẹ, và một kinh kính Đức Tổng thần Micae. Đây là lời kinh tuyệt vời, đem lại nhiều lợi ích cho những người đọc.

Lạy Đức Thánh Micae, Tổng lãnh thiên thần, xin cứu giúp chúng con trong cơn giao chiến, hãy phù hộ chúng con đánh phá mưu thâm quỷ giữ, chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó, cùng xin nguyên soái cơ binh trên trời lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỷ dữ đang dong duổi khắp thế làm hại các linh hồn, bắt nó xuống giam cầm nơi hoả ngục. A men.

Nguồn gốc kinh này ra sao? Xin trích đoạn đăng trong tạp chí Ephemerides Liturgicae xuất bản năm 1995 trên trang 58-59:

Cha Dominico Pechenino viết: "Tôi không nhớ chính xác năm nào. Một buổi sáng Đức Thánh Cha Lêô XIII đã dâng Thánh Lễ như thường lệ, vào lúc ngài đang cám ơn rước lễ, đột nhiên chúng tôi thấy ngài ngẩng đầu lên và nhìn chăm chú vào một cái gì đó ở trên phía đầu chỗ chủ tế ngồi. Ngài nhìn một cách hết sức chăm chú và không chớp mắt. Thái độ của ngài hết sức kinh sợ, sắc diện cũng thay đổi nhanh chóng. Có một cái gì đó bất thường đang xảy đến cho ngài.

"Cuối cùng, dường như ngài tỉnh lại, một cách nhẹ nhàng nhưng mạnh mẽ, ngài chống tay đứng dậy đi về phòng riêng. Người trợ tá của ngài hết sức lo lắng ân cần hỏi ngài: 'Thưa Cha, cha không được khỏe? Cha có cần gì không?' Ngài trả lời: 'không, không cần gì hết. ' Khoảng nửa giờ sau, ngài gọi Thư ký Thánh bộ phụng tự đến, trao cho một tờ giấy và truyền phải in ra gửi cho các giám mục khắp thế giới. Giấy gì vậy? Đó là bản kinh mà chúng ta vẫn đọc cuối mỗi Thánh Lễ. Kinh cầu xin Đức Mẹ và lời tha thiết xin tổng lãnh thiên thần cầu xin Thiên Chúa bắt Satan giam vào hỏa ngục. "

Đức Thánh Cha Lêô XIII dạy phải quì gối khi đọc những kinh này. Điều chúng tôi vừa tường thuật cũng đã được đăng trên tạp chí La settinmana del clero, ngày 30.3.1947, nhưng không nói rõ nguồn gốc. Tuy nhiên, chúng ta có thể chắc chắn rằng kinh đã thực sự được gửi cho các giám mục vào năm 1886, trong những hoàn cảnh bất thường. Một nhân chứng đáng tin cậy, đức Hồng Y Nasalli Rocca, trong một lá thư mục vụ gửi cho giáo phận Bologna vào mùa chay năm 1946, đã viết: "Đức Thánh Cha Lêô XIII đã đích thân viết kinh này. Câu (các thần dữ đang dong duổi khắp thế làm hại các linh hồn, có một sự cắt nghĩa lịch sử được lặp lại nhiều lần bởi Đức cha Rinaldo Angeli, thư ký riêng của ngài. Đức Lêô XIII thực sự đã nhìn thấy qua một thị kiến, ma quỷ đang tụ tập trên kinh thành vĩnh cửu (Roma). Bản kinh mà ngài yêu cầu toàn thể Giáo Hội đọc là kết quả của kinh nghiệm này. Ngài đọc bản kinh đó với một cung giọng rất mạnh mẽ dõng dạc: chúng tôi nghe thấy nhiều lần ở đền thánh Vatican. Đức Lêô XIII cũng đích thân viết một kinh trừ quỷ được in trong sách lễ Roma (ấn bản 1954, XII, C.III, p. 863 và tiếp...). ngài khuyến khích các giám mục linh mục đọc kinh trừ quỷ ấy thường xuyên trong các giáo phận và giáo xứ các ngài. Chính ngài cũng đọc kinh ấy hằng ngày.

Một yếu tố khác chứng minh giá trị của những kinh mà chúng ta vẫn đọc sau mỗi Thánh Lễ. Đức Thánh Cha Piô XI đã thêm vào một chủ ý đặc biệt cầu cho nước Nga trở lại (diễn từ ngày 39.6.1930). Trong bài diễn từ này, sau khi nhắc nhở mọi người cầu nguyện cho nước Nga, và cho cuộc bách hại đạo tại nước Nga, ngài đã kết thúc với những lời sau: "Chúng ta hãy đọc những kinh mà vị tiền nhiệm vĩ đại của tôi, Đức Lêô XIII, đã hướng dẫn tất cả các linh mục và tín hữu cầu nguyện vào cuối Thánh Lễ, thêm ý chỉ cầu xin cho nước Nga trở lại. Tất cả các giám mục và các linh mục hãy thông báo cho mọi người có mặt trong Thánh Lễ, và hãy thường xuyên nhắc nhở họ" (Civilltà cattolica, 1930, vol. 3)

Chúng ta thấy đó, các Đức Thánh Cha thường xuyên nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện kinh khủng của Satan ở giữa chúng ta. Hơn nữa, lời khuyến cáo của Đức Thánh Cha Pio XI nhấn mạnh vào cốt lõi của những học thuyết sai lạc đang tràn ngập thế kỷ chúng ta và vẫn còn tiếp tục đầu độc cuộc sống không chỉ của các thần học gia mà còn cả dân chúng nữa. Thật ra những hướng dẫn của Đức Thánh Cha Pio XI không được mấy ai tuân theo là do lỗi của những người có trách nhiệm thực hiện. Những hướng dẫn này đã được ban ra trước khi những cuộc hiện ra ở Fatima được toàn thế giới biết đến, và chúng tách biệt hẳn - nhưng vẫn phù hợp với nhau - khỏi những sự kiện đặc sủng mà Chúa dùng để ban phước cho nhân loại qua các cuộc hiện ra.

Những quà tặng của Satan

Satan có quyền ban một số năng lực cho kẻ theo nó. Vì ma quỷ thực sự là kẻ dối trá, đồng thời những người lãnh nhận những quyền lực này cũng không biết hoặc không muốn biết nguồn gốc của chúng; tất cả họ đều sung sướng lãnh nhận những món quà tặng miễn phí này. Có người được tặng cho khả năng thấu thị [bọn đồng bóng]. Người khác có thể ngồi trước tờ giấy trắng cầm bút viết từ trang này sang trang khác những thông điệp tự phát. Những người khác nữa cảm thấy mình có thể ở hai nơi và một phần con người của họ có thể bước vào một biệt thự cho dù ở cách xa. Điều rất thông dụng cho nhiều người là nghe thấy "một tiếng nói lúc thì gợi lên những lời kinh, lúc khác lại gợi lên bất kỳ tiếng nào trừ lời kinh.

Tôi có thể liệt kê hàng loạt. Đâu là nguồn gốc của những tặng ân này? Đó là những đặc sủng của Chúa Thánh Linh chăng? Hay là của Satan? Những điều này chỉ là những tặng ân siêu hình chăng? Để có thể phân biệt được sự thật, chúng ta phải quay về với những người có kinh nghiệm về vấn đề này. Khi thánh Phaolô ở Thyatira, ngài gặp một người tớ gái có khả năng thấu thị và do đó cô ta làm lợi nhiều cho các chủ của cô. Đây là một quà tặng phát xuất từ Satan, và nó biến mất ngay sau khi Thánh Phaolô trừ khử thần dữ (Cv 16, 16- 18).

Tôi sẽ cho một thí dụ về một nhân chứng tự xưng là "Eramus of Bari", như đã được đăng trong tạp chí Rinnovamento dello Spirito Santo tháng Chín 1987, những ghi chú trong ngoặc là của riêng tôi.

Cách đây vài năm, tôi đã trải nghiệm trò chơi gương (glass), mà không biết rằng đó là một hình thức thông linh (spiritism). Những thông điệp tôi nhận được trong trò chơi này nói về hòa bình và về tình huynh đệ [lưu ý ma quỷ có thể ẩn mình dưới vẻ bề ngoài của những việc thiện như thế nào]. Ít lâu sau, trong khi tôi ở Lộ Đức đang lúc tôi thi hành tác vụ của tôi, tôi đã được ban cho những khả năng lạ lùng [đây cũng là một điểm đáng lưu ý; không chỗ nào ma quỷ không len lỏi vào được, bất kể nơi thánh và trong vấn đề thánh thiêng].

Khoa siêu tâm lý định nghĩa những khả năng mà tôi được ban cho là siêu cảm giác, tức là, thấu thị, đọc được tư tưởng, chẩn đoán y khoa, đọc được tâm hồn và sinh mệnh của những người sống và người chết, và các năng lực khác. Vài tháng sau tôi nhận được những tài năng khác: khả năng cất cơn đau cho bệnh nhân chỉ bằng cách đặt tay. Tôi có thể cất hẳn hoặc giảm bớt bất cứ thứ đau đớn nào; đây có thể là "Thần linh liệu pháp " (prana therapy) chăng?

Với tất cả những năng lực này, tôi dễ dàng tiếp xúc với người ta, nhưng sau khi gặp nhau, họ liền bỏ đi, họ bị xốc với cuộc trò chuyện với tôi và họ bị bối rối sâu xa bởi vì tôi có thể nhìn thấy linh hồn họ, và lên án tội mà họ đã phạm. Tuy nhiên, khi đọc lời Chúa, tôi nhận ra rằng cuộc sống của tôi không có gì thay đổi. Tôi vẫn tiếp tục mau nổi giận, chậm tha thứ, dễ phẫn uất, hơi tí là khó chịu. Tôi sợ thánh giá, sợ tương lai, sợ chết.

Sau một thời gian dài tìm kiếm câu trả lời và trải nghiệm nhiều đau khổ, Chúa Giêsu đã hướng dẫn tôi đến với phong trào canh tân, ở đó, tôi tìm được những người anh em, họ cầu nguyện cho tôi, và chúng tôi nhận ra rằng điều xảy ra cho tôi là do quỷ chứ không phải do Thiên Chúa. Tôi có thể làm chứng rằng tôi đã nhìn thấy quyền năng của Danh Chúa Giêsu. Tôi đã nhận ra và đã xưng các tội đã qua, tôi dứt bỏ mọi hình thức tối tăm. Những quyền lực này đã chấm dứt và Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi; tôi cám ơn Ngài về điều đó.

Chúng ta đừng quên rằng Kinh Thánh cho chúng ta thấy những thí dụ về những việc phi thường được thực hiện do Thiên Chúa và do ma quỷ. Một số những việc kỳ diệu mà Mosê đã thực hiện theo lệnh của Chúa trước mặt Pharaon, đã được các phù thủy trong triều đình bắt chước. Đó là lý do tại sao những việc kỳ diệu thuộc loại này, tự chúng không thể nói lên nguồn gốc của chúng.

Thường thường những người dễ bị nhiễm những rối loạn xấu xa, thì cũng hay được phú cho "độ nhạy cảm" đặc biệt. Chẳng hạn, họ có thể ngay lập tức cảm nhận được tính chất tiêu cực nơi những người khác, họ có thể nhìn thấy trước những biến cố tương lai, hoặc lúc thì họ có một xu hướng mạnh mẽ "đạt tay" trên những người yếu bóng vía. Lúc khác họ cảm thấy họ có thể gây ảnh hưởng trên cuộc đời những người khác, muốn ai bệnh là bệnh, hầu như là một sự thống trị, điều đó phát xuất từ bên trong. Tôi đã làm chứng rằng chỉ có một con đường duy nhất để chữa khỏi những rối loạn này; đó là chiến đấu và chiến thắng những khuynh hướng này.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth