§11 - HIỆU QUẢ CỦA NHỮNG CUỘC TRỪ QUỶ

Khi một người bị "những triệu chứng tiêu cực" - tức là một số hình thức của ảnh hưởng ma quỷ - chúng ta thường hay chú ý đến sự cải tiến sau một cuộc trừ quỷ, dù khi sự có mặt của ma quỷ tự nó không biểu lộ trong kỳ trừ quỷ. Khi chúng ta cố gắng xác định có hay không có sự hiện diện của ma quỷ, thì những phản ứng của ngày trừ quỷ tự nó không phải là kết luận. Chẳng hạn, sẽ không thành vấn đề gì nếu vào ngày trừ quỷ, người ấy biểu lộ những dấu hiệu khá hơn hoặc trở nên xấu hơn, ngái ngủ hoặc quờ quạng, thêm những vết bầm tím hoặc cơn đau không thuyên giảm. Điều xảy ra những ngày tiếp sau đó mới là quan trọng. Thường một đôi ngày đầu chưa có gì thay đổi; rồi những dấu hiệu cải tiến bắt đầu xuất hiện sau một thời gian dài từ vài đến nhiều ngày, tuỳ theo sự trầm trọng của cơn bệnh. Nếu sau nhiều ngày mà không nhận thấy sự cải tiến nào, và trong suốt thời kỳ trừ quỷ cũng không thấy có dấu hiệu "tiêu cực" nào xuất hiện, thì thường thường nguồn gốc của vấn đề không phải do ma quỷ. Nếu nhà trừ quỷ còn hồ nghi rằng ma quỷ có thể ẩn trốn, thì ngài có thể khuyên làm phép thêm một lần nữa.

Điều quan trọng là thái độ của bệnh nhân trong suốt những kỳ trừ quỷ và dường như kết quả của việc trừ quỷ cũng là ở đó. Cũng có thể là ảnh hưởng ma quỷ bộc lộ tất cả sức mạnh của nó - dù nhẹ hay nặng - vào ngày đầu tiên. Có những trường hợp, dường như ma quỷ cố gắng ẩn trốn, và sức mạnh của nó dần dần lộ ra qua nhiều kỳ trừ quỷ. Cuối cùng sức mạnh dần dần yếu đi. Tôi nhớ có một chàng thanh niên, thoạt đầu biểu lộ rất ít tính tiêu cực; trong lần trừ quỷ thứ hai anh ta bắt đầu la hét và quậy phá. Mặc dù tình trạng của anh tồi tệ hơn những người khác, thì cũng chỉ cần ít tháng trừ quỷ là anh ta được giải thoát.

Sự hợp tác của bệnh nhân là nền tảng cho sự thành công. Tôi luôn luôn nói rằng việc trừ quỷ chỉ góp 10% cho việc chữa lành; 90% còn lại là trách nhiệm của chính đương sự. Điều đó nghĩa là gì? Nghĩa là đương sự cần phải cầu nguyện nhiều, năng lãnh nhận các nhiệm tích, sống một đời sống phù hợp với Tin Mừng, dùng các phụ tích (tôi sẽ nói sau về việc sử dụng nước, muối, dầu trừ quỷ). Nó cũng có nghĩa là xin những người khác cầu nguyện cho một cuộc chữa lành - lời cầu của toàn thể gia đình, giáo xứ, và cộng đoàn tu trì, những nhóm cầu nguyện... cũng đặc biệt hiệu nghiệm - và đòi hỏi nhiều Thánh Lễ. Những cuộc đi hành hương và những công tác bác ái cũng hữu dụng. Trên tất cả, việc giải thoát có đạt được là do lời cầu nguyện của chính đương sự, và nhờ đó sự kết hợp với Thiên Chúa trở nên một lối sống. Nhiều lần tôi phải đối phó với những người đã bỏ bê việc đạo. Tôi khám phá ra rằng việc tham dự tích cực vào giáo xứ hoặc vào các nhóm cầu nguyện, đặc biệt là các nhóm canh tân, là hết sức lợi ích.

Tôi thường so sánh sự quỷ ám với ma tuý để chứng minh quan điểm của tôi về sự hợp tác. Mọi người đều quá biết ma tuý, ai cũng biết rằng người nghiện ma túy có thể chữa được, với hai điều kiện: Thứ nhất, họ phải được giúp đỡ bằng cách gia nhập một nhóm hỗ trợ hoặc những tổ chức tương tự khác bởi vì họ không thể một mình thực hiện điều đó. Thứ đến, họ cũng phải tích cực cộng tác bằng nỗ lực riêng họ; nếu không thì mọi hình thức giúp đỡ khác sẽ vô ích. Trong trường hợp ảnh hưởng quỷ ám tôi đã nêu lên sự giúp đỡ cá nhân. Trong khi những thành quả trực tiếp của việc trừ quỷ và sự giải thoát xảy ra chậm chạp, tôi đã nhìn thấy những kết quả gián tiếp - tức là sự hoán cải - xảy ra rất nhanh. Toàn thể gia đình trở nên tận tuỵ sốt sáng làm việc lành phúc đức và hiệp nhất với nhau trong lời cầu nguyện - rất thường qua chuỗi Mân côi. Tôi đã chứng kiến sự quảng đại thực sự đã thắng vượt những trở ngại cho việc chữa lành như thế nào, như một tình huống hôn nhân bất hợp pháp hoặc sự không thể tha thứ những sai lầm hoặc sự cam chịu một người nào đó, nhất là những người thân cận mà mọi mối liên hệ với họ đều đã bị cắt đứt.

Một trong những lợi khí hữu hiệu nhất chống lại những ảnh hưởng sự dữ lại là một trong những lời khuyên Phúc Âm khó nhất: hãy tha thứ cho kẻ thù. Trong trường hợp này, kẻ thù thường là kẻ bỏ bùa ngải và kẻ duy trì tác dụng của nó. Sự chân thành tha thứ, bao gồm việc cầu nguyện thay cho người đó và xin lễ cầu nguyện cho họ hoán cải, thường thường sẽ giải toả tình hình bế tắc và giúp mau chữa lành.

Những lợi ích của việc trừ quỷ bao gồm việc chữa lành khỏi các bệnh nạn tật nguyền mà đôi khi xem ra không thể chữa được. Chúng tôi có thể đang phải đương đầu với những cơn đau không thể cắt nghĩa được trong những phần thân thể khác nhau - tôi nhắc lại rằng hầu hết các phần bị ảnh hưởng là ở đầu và bao tử. Hoặc chúng tôi có thể phải đối phó với những bệnh đặc biệt, rõ ràng được chẩn đoán bởi các bác sĩ là những người không thể chữa được hoặc tuyên bố là bệnh nan trị. Ma quỷ có quyền để gây ra bệnh tật. Phúc Âm kể cho chúng ta thấy một người đàn bà bị quỷ ám suốt mười tám năm - có thể đây là bệnh biến dạng cột sống chăng? - và bà đã được chữa lành khi Chúa Giêsu trừ quỷ cho bà. Tương tự, Ngài cũng đã giải thoát cho một người đàn ông bị quỷ câm điếc ám. Chúa Giêsu cũng đã chữa lành cho những người bị điếc và câm không liên quan gì đến ảnh hưởng của ma quỷ. Phúc Âm phân biệt rất rõ ràng giữa những người bệnh và những người bị quỷ ám, dù khi những triệu chứng giống hệt nhau.

Ai là người bị đau khổ nghiêm trọng nhất? Ai khó chữa lành nhất? Theo kinh nghiệm cá nhân tôi, người khó chữa nhất là những nạn nhân của những loại bùa mạnh nhất. Tôi nhớ một số người bị bỏ một thứ bùa ở Brazll, gọi là macumbe. Tôi đã trừ quỷ cho những người bị đau khổ bởi những thày phù thuỷ Phi châu. Tất cả đều cực kỳ khó chữa. Những trường hợp khó khăn khác gồm những loại bùa được bỏ cho toàn thể gia đình để phá hoại họ. Đôi khi có những vấn đề phức tạp mà tôi không biết phát xuất tự đâu. Phải mất một thời gian lâu mới giải thoát được những người mà thỉnh thoảng họ lại bị tấn công bởi những thứ bùa mới. Việc trừ quỷ vẫn mạnh hơn việc bỏ bùa; do đó, việc chữa lành không thể bị cản trở, nhưng có thể bị chậm đi mất một thời gian lâu.

Ai là người đau khổ nhất? Chắc chắn, đó là người trẻ. Khi tôi hồi tưởng lại những nguyên nhân quỷ ám và xem xét lại những cơ hội khiến ma quỷ nhũng nhiễu người ta, thì rõ ràng môi trường ngày nay hết sức nguy hiểm cho giới trẻ. Nguyên nhân là giới trẻ thiếu đức tin và không có lý tưởng; do đó, họ là những người dễ va vào những kinh nghiệm tai quái. Ngay cả trẻ con cũng rất dễ bị tổn thương, không do lỗi cá nhân, nhưng do những yếu đuối của chúng. Nhiều lần chúng tôi trừ quỷ cho người lớn, chúng tôi khám phá thấy dấu vết ma quỷ hiện diện từ hồi họ còn thơ ấu, hoặc tồi tệ hơn nữa, từ lúc mới sinh hoặc từ hồi còn trong bào thai.

Nhiều lần người ta nói tôi đã trừ quỷ cho phụ nữ nhiều hơn cho nam giới. Điều này cũng đúng đối với mọi nhà trừ quỷ. Thật không sai khi nói rằng nữ giới dễ bị quỷ tấn công hơn nam giới. Nam giới và nữ giới không bị tấn công cùng một cách như nhau. Cũng thực sự là phụ nữ có xu hướng chạy đến nhà trừ quỷ để được trừ nhiều hơn nam giới. Nhiều người nam, ngay cả khi họ nắm chắc họ đã bị ám, họ vẫn tuyệt đối từ chối đến gần linh mục. Tôi cũng đã yêu cầu người nam nhiều hơn người nữ phải thay đổi lối sống của họ, và họ đã từ chối. Những người nam này không bao giờ quay trở lại, mặc dù họ ý thức đầy đủ về tai hoạ của họ. Ngãng trở lớn nhất cho việc chữa lành là từ chối hoán cải từ đời sống vô thần tiến đến đời sống đức tin, hoặc từ đời sống tội lỗi đến đời sống ân sủng.

Tôi không phủ nhận điều này: để được chữa lành khỏi sự dữ này đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn lao sống một đời sống Kitô giáo mãnh liệt. Tôi cũng xác tín rằng đây là một trong những lý do tại sao Thiên Chúa cho phép sự dữ này xảy ra. Nhiều lần các nạn nhân của ảnh hưởng quỷ dữ đã thú với tôi rằng đức tin của họ rất nguội lạnh, và đời sống cầu nguyện của họ hầu như không có. Họ thú nhận rằng chính sự dữ làm khổ họ đã khiến họ chạy lại gần Thiên Chúa hơn, đôi khi với lòng sốt sắng lớn lao. Trong khi chúng ta dính bén với cuộc đời này và với thế gian này nhiều hơn chúng ta tưởng, thì Chúa lại nhìn xa hơn; Ngài nhìn đến lợi ích đời đời của chúng ta.

Trong khi đó, nhà trừ quỷ tiếp tục làm phép và không ngừng cố gắng khích lệ bệnh nhân cầu nguyện và theo đuổi tất cả mọi hình thức sống đạo mà chúng ta đã đề cập đến. Ngài cũng sẽ cố gắng khiêu khích ma quỷ, làm cho nó đuối sức đi với mọi dụng cụ ngài có. Sách Nghi thức khuyên nhà trừ quỷ nhấn mạnh trên những phép nào gây cho ma quỷ phản ứng: những phép này thay đổi tuỳ theo người và tùy lúc. Một số người không thể chịu để bị rảy nước thánh; những người khác trở nên cáu giận nếu chúng ta thổi trên họ. (ông Tertulianô nói rằng cách dùng này đã được sử dụng từ thời các thánh giáo phụ). Những người khác không thể chịu nổi mùi nhang; do đó, sử dụng nó rất có lợi. Có những người khác nữa cảm thấy đau đớn khi nghe chơi đàn Organ, nghe thánh nhạc và thánh ca Gregorien. Đó là tất cả những phương pháp hữu ích mà tôi đã trực tiếp trải nghiệm những hiệu quả của chúng.

Ma quỷ cư xử thế nào trong tiến trình trừ quỷ? Tôi sẽ lặp lại điều tôi đã nói. Ma quỷ chịu đau khổ và gây ra đau khổ. Nỗi đau mà nó cảm nghiệm trong một cuộc trừ quỷ thì không thể tưởng tượng nổi đối với chúng ta. Một hôm cha Candido hỏi một tên quỷ xem trong hoả ngục có lửa không, lửa có đốt nóng không. Quỷ trả lời: "Nếu ông biết ông là một thứ lửa đối với tôi, thì ông chẳng hỏi tôi câu hỏi này." Hiển nhiên là chúng ta không nói đến thứ lửa vật chất, do chất đốt gây nên. Chúng tôi chứng kiến cách ma quỷ cháy khi nó phải tiếp xúc với các đồ thánh như Thánh giá, các di tích thánh, và nước thánh. Tôi cũng đã nghe ma quỷ nói với tôi nhiều lần rằng trong cuộc trừ quỷ chúng phải đau khổ nhiều hơn trong hoả ngục. Khi tôi hỏi: "Vậy tại sao mày không vào hoả ngục đi?" chúng trả lời: "Bởi vì chúng tôi chỉ thích hành khổ người ta thôi." Ở đây chúng ta thấy rõ ràng tính chất độc địa của ma quỷ: ma quỷ biết rằng nó không thể kiếm được lợi ích gì từ cái đau khổ mà nó gây ra. Trái lại, nó biết rằng hình phạt đời đời của nó sẽ gia tăng thêm. Thậm chí dù cho có phải trả giá bằng nỗi đau khổ của nó, nó vẫn không ngừng gây ra sự dữ chỉ vì sự dữ.

Nguyên tên của ma quỷ, như trong trường hợp các thiên thần, cũng nói cho chúng ta về chức vụ của nó. Hầu hết những ma quỷ nào quan trọng đều được kể tên trong Thánh Kinh hoặc Thánh truyền: Satan hoặc Beelzebub, Lucifer, Asmodeus, Meridian, Zebulun. Những tên khác cho chúng ta thấy rõ mục đích của các hành động của chúng - Destruction (phá hoại), Perdition (tiêu diệt), Ruin (tàn phá), - hoặc chúng nói lên những sự dữ cá nhân - Insominia (làm mất ngủ), Tenor (khủng bố), Discord (bất hoà), Envy (ham muốn), Jealously (ghen tương), Sloth (lười biếng).

Trong hầu hết các trường hợp, khi chúng rời khỏi một linh hồn là chúng phải vào hoả ngục; đôi khi chúng cũng được thả vào trong sa mạc (trong sách Tobia có nói đến quỷ Asmodeus bị tổng thần Raphael xiềng trong sa mạc). Tôi luôn luôn ép chúng phải đi đến dưới chân Thánh giá, để lãnh nhận bản án của chúng từ nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng là thẩm phán duy nhất.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


§12 - NƯỚC, DẦU, MUỐI

Trong số những biện pháp mà nhà trừ quỷ thường dùng (và không chỉ nhà trừ quỷ mà thôi), trước hết tôi đề cập đến nước trừ quỷ (hoặc ít nhất là nước thánh), dầu trừ quỷ (dầu ôliu), và muối trừ quỷ. Mỗi linh mục đều có thể đọc các kinh trong sách Nghi thức để làm phép ba thứ này; ngài không cần phải xin phép. Hơn nữa, rất hữu ích nếu biết công dụng đặc biệt của ba vật thánh này, mà nếu sử dụng với đức tin sẽ đem lại lợi ích lớn lao.

Nước trừ quỷ. Nước phép đã được dùng rộng rãi trong tất cả các nghi thức phụng vụ. Tầm quan trọng của nó khiến chúng ta nhớ ngay đến bí tích rửa tội. Trong khi dùng nước trừ quỷ chúng ta đọc lời nguyện xin Thiên Chúa, nhờ sự rảy nước thánh, xin Ngài ban cho chúng ta ba lợi ích sau đây: ơn tha tội, ơn bảo vệ khỏi sự dữ của ma quỷ, và ơn che chở thần linh. (ở Ý, khi muốn cho một thí dụ về hai sự vật không tương thích, chúng tôi nói: "Chúng hợp nhau như quỷ và nước thánh".) Lời nguyện tiếp tục bằng việc nhắc đến những ảnh hưởng khác của nước trừ quỷ. Bên cạnh sự giải thoát khỏi ma quỷ, cũng như sự chữa lành khỏi các bệnh tật, nó còn gia tăng thêm các ân sủng thần linh và che chở các nhà và tất cả những nơi cư trú để người tín hữu sống trong đó không bị những ảnh hưởng của Satan khuấy khuất. Sách Nghi thức cũng kể ra sự bảo vệ chống lại mọi mưu chước ma quỷ và gìn giữ họ khỏi bất cứ cái gì làm cho họ mất bình an, ban cho họ được khoẻ mạnh và thanh thản.

Dầu trừ quỷ. Nếu được dùng trong đức tin, dầu này giúp xua trừ các quyền lực ma quỷ, các cuộc tấn công của chúng, và các sự ám ảnh chúng gợi lên. Nó cũng có lợi cho sức khoẻ tâm trí lẫn thể xác. Nó giúp nhớ lại các truyền thống cổ xưa xức dầu trên các vết thương, và quyền năng mà Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ chữa bệnh bằng cách đặt tay và xức dầu. Đặc biệt là dầu trừ quỷ: dầu tách những sự ô uế ra khỏi thân xác. Nhiều lần tôi đã làm phép cho những người bị bỏ bùa do ăn hoặc uống một thứ gì đó đã bị yểm. Rất dễ nhận ra, nếu đó là trường hợp gây ra đau bao tử, vốn là nét đặc trưng của triệu chứng này. Thỉnh thoảng, nó còn bao gồm những triệu chứng như ợ hơi, nấc cục, gầm gừ, đặc biệt trong suốt thời gian làm việc đạo đức như đi nhà thờ, lúc cầu nguyện, và nhất là trong lúc trừ quỷ. Trong những trường hợp này, thân xác phải trục xuất ra bất cứ chất độc gì nó đã ăn vào. Dầu trừ quỷ thì rất hữu dụng để tách thân xác ra khỏi những sự ô uế này. Cũng có thể cho nạn nhân uống nước thánh.

Về điểm này, ai chưa quen hoặc chưa bao giờ nhìn thấy những vật này sẽ khó mà tin được những gì tôi vừa mới nói; do đó, tôi phải nhấn mạnh hơn. Chúng ta trục xuất cái gì? Thỉnh thoảng đó là nước miếng đặc và có bọt hoặc một thứ chất lợn cợn trắng sền sệt. Lần khác chúng tôi thấy những vật rất lạ, như móng tay, những miếng chai, những con búp-bê nho nhỏ bằng gỗ, những chuỗi dây thắt nút, những cuộn dây kẽm, những sợi chỉ mầu sắc khác nhau, những cục máu. Những vật này được trục xuất ra một cách tự nhiên, thường bằng việc nôn mửa. Tôi muốn nhấn mạnh rằng thể xác không bao giờ bị thương tổn, cho dù bởi mảnh chai sắc nhọn; trái lại nó được lợi rất lớn. Cha Candido vẫn còn giữ cả rổ những thứ được trục xuất ra khỏi từ nhiều người khác nhau. Đôi khi những biện pháp tống xuất vẫn còn là một mầu nhiệm. Chẳng hạn, nạn nhân cảm thấy bao tử đau đớn như thể bị một cái móng tay cào vào; và rồi họ thấy một cái móng tay rơi trên sàn nhà gần chỗ họ, và cơn đau biến mất. Điều lạ nhất là tất cả những đồ vật này được hoá thành vào chính lúc chúng được trục xuất. Trong một cuộc phỏng vấn, cha Candido phát biểu: "Tôi đã nhìn thấy những mảnh chai, mảnh sắt, sợi tóc, và những miếng xương được mửa ra, hoặc những vật bằng plastic, có hình dáng con mèo, con sư tử hoặc con rắn. Chắc chắn những vật lạ này có liên hệ với nguyên nhân quỷ ám.

Muối trừ quỷ cũng có lợi trong việc trừ quỷ và chữa lành linh hồn lẫn thể xác. Chức năng đặc biệt của muối này là che chở các nơi chốn khỏi ảnh hưởng hoặc sự hiện diện của ma quỷ. Khi hoài nghi có ma quỷ quấy phá, tôi thường khuyên người ta rải muối trừ quỷ trên ngưỡng cửa và trong bốn góc phòng hoặc các phòng bị ảnh hưởng.

"Giới Công Giáo không tin" có thể cười sự khẳng định của tôi. Chắc chắn rằng các á bí tích ấy sẽ có hiệu nghiệm khi dược dùng với đức tin; nếu không có đức tin thì chúng chẳng có công hiệu gì. Công Đồng Vaticanô II và Giáo Luật (điều 1166) dùng cùng một từ để định nghĩa "các á bí tích là những dấu chỉ thánh, nhờ đó nhiều hiệu quả, đặc biệt là hiệu quả thiêng liêng được biểu thị và được thông ban do lời cầu của Giáo Hội". Bất cứ ai dùng những dụng cụ này với đức tin thì sẽ đạt được những kết quả bất ngờ. Tôi biết nhiều bệnh bất trị đối với mọi thứ thuốc nhưng đã biến mất sau khi tôi chỉ vạch dấu Thánh giá với dầu trừ quỷ trên những phần bị ảnh hưởng.

Trầm hương được làm phép cũng có hiệu quả cho các ngôi nhà; chủ đề này sẽ được bàn đến riêng. Trầm hương đã luôn luôn được coi như một thứ để trừ khử ma quỷ, ngay trong các nền văn minh ngoại giáo, cũng như là một yếu tố để tán dương thờ phượng thần thánh. Việc dùng trầm hương trong phụng vụ đã bị cắt giảm trong thời đại chúng ta, nhưng nó vẫn là một yếu tố hiệu nghiệm để ca tụng Thiên Chúa và chống lại ma quỷ.

Sách Nghi thức cũng gồm có việc làm phép y phục. Nhiều lần tôi đã chứng kiến hiệu quả của nó trên những người bị ảnh hưởng ma quỷ. Những lần khác tôi đã dùng nó như một cách thử để xác định sự có mặt của ma quỷ. Nhiều lần có những người (các cha mẹ, các cô vợ chưa cưới,...) đến hỏi tôi xem người mình yêu có bị ảnh hưởng của ma quỷ không. Nếu người yêu không tin vào sự hiện diện của ma quỷ, thì thường chàng hay nàng cũng chẳng có chút niềm tin tôn giáo nào và cũng chẳng lưu tâm đến việc đến xin linh mục làm phép. Trong tình huống này phải làm gì? Thường thường, sau khi tôi làm phép cho một số quần áo, người ta sẽ đem đặt quần áo ấy trong phòng của người bị ám. Nhiều lần nạn nhân xé rách những y phục đã làm phép ngay khi họ mặc vào, vì họ không thể chịu đựng được sự tiếp xúc ấy. Tôi đã cho một thí dụ về vấn đề này. Nước phép cũng là một cách thử khác. Chẳng hạn, có một người mẹ hồ nghi con trai hoặc chồng bà bị quỷ ám, bà dùng nước phép để nấu cháo, hoặc pha cà phê hay trà. Thường người bị ám sẽ cảm thấy thực phẩm ấy đắng đót và không thể ăn được mà không biết tại sao.

Tôi xin lưu ý rằng những cách thử này là một dấu chỉ tích cực có quỷ ám: tức là, nếu một người nhạy cảm với nước hoặc y phục đã làm phép, thì đó có thể là một dấu hiệu có sự hiện diện của ma quỷ. Tôi không thể nói ngược lại. Tức là, nếu trước những việc thử đó người đó không có phản ứng gì thì cũng không hẳn có nghĩa là không có sự hiện diện của ma quỷ. Ma quỷ có thể làm mọi cách để tránh bị phát hiện.

Chúng cố gắng ẩn trốn trong suốt cuộc trừ quỷ cũng được; sách Nghi thức cũng lưu ý nhà trừ quỷ đối phó với những mưu mô của quỷ. Để cố gắng không bị phát hiện, một tên quỷ có thể không trả lời một số câu hỏi hoặc chỉ trả lời vài câu ngớ ngẩn, không đáng với trí năng như nó. Có khi nó giả vờ xuất khỏi thể xác của người bị ám bằng cách ngưng hết mọi hoạt động nhằm hy vọng lôi kéo kẻ ấy ra khỏi sự chăm sóc của nhà trừ quỷ. Chưa hết, nó còn cố gắng mọi cách để cản trở việc trừ quỷ. Nó còn tạo ra những ngãng trở thể lý hoặc thường là tâm lý để làm cho kẻ ấy bị lỡ hẹn với nhà trừ quỷ, trừ khi một người bạn hoặc thân nhân thúc giục viếng thăm. Thỉnh thoảng nó còn cho thấy những dấu hiệu của một căn bệnh tự nhiên, thường là về tâm lý, để nguỵ trang sự hiện diện của nó. Đôi khi bệnh nhân có những cơn mơ hoặc thị kiến trong đó họ tự lừa dối mình rằng Chúa, Đức Mẹ, hoặc vị thánh nào đó đã giải thoát cho mình. Điều đó khiến họ không đến với nhà trừ quỷ nữa và báo cho ngài rằng mình đã được giải thoát rồi.

Các á bí tích mà tôi đã đề cập đến, không kể những công dụng cụ thể riêng biệt, chúng còn có thể làm giảm bớt những hậu quả của các thủ đoạn mà ma quỷ dùng. Khi giải quyết vụ quỷ ám, đầy những mưu mô thủ đoạn, cần phải cầu nguyện nhiều để được ơn biết phân biệt. Tôi xin nêu ra điều sau đây như là những dấu hiệu thường xảy ra nhất của ảnh hưởng ma quỷ: những thị kiến, những lời phán, những thứ thần bí giả tạo, hoặc đòi được coi là thị nhân. Trong những trường hợp này, nếu chẳng phải chúng ta đang đứng trước những căn bệnh tâm lý thì cũng thường phải đối phó với những mưu mô của ma quỷ.

Tôi xin kết thúc chương này với một giai thoại liên quan đến nước phép. Một hôm cha Candido đang trừ quỷ cho một người bị quỷ ám. Ngài đến gần người ấy với cây chổi rảy nước thánh và bình đựng nước thánh. Lập tức ma quỷ quay lại nói với ngài: "Ông có thể dùng nước ấy để súc miệng ông được đấy!" Lúc đó ngài mới sực nhớ ra rằng ngài đã lấy nước ở vòi ra mà quên chưa làm phép.

Mặc dù sách các phép mới, có hiệu lực từ ngày 11.4.1993, đã thay đổi các công thức, nó cũng không giảm hiệu lực của các phép này, cho dù nó không minh nhiên kể ra tất cả các lợi ích.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth


§13 - TRỪ QUỶ CHO NHÀ CỬA

Kinh Thánh không nói đến việc trừ quỷ cho nhà cửa, nhưng kinh nghiệm chứng minh rằng trong một số trường hợp đây là điều cần thiết và lợi ích. Sánh Nghi Thức cũng không đề cập đến loại trừ quỷ này. Thực ra ở cuối kinh trừ quỷ của Đức Lêô XIII, chúng ta cầu xin phép lành cho nơi chốn mà những lời cầu nguyện ấy đang được đọc lên, nhưng lời cầu ấy tự nó là một lời cầu xin Thiên Chúa che chở Giáo Hội cho khỏi ma quỷ, chứ không đề cập đến nơi chốn.

Tôi sẽ nói ngay rằng tôi chưa bao giờ cảm nghiệm thấy những nơi chốn bị quấy phá bởi ma quỷ như một số tiểu thuyết hoặc phim ảnh mô tả, chẳng hạn như một lâu đài cổ xưa bị bỏ hoang. Đó chỉ là một nỗ lực trình bày cho có vẻ ly kỳ hấp dẫn chứ không có chút dấu vết nào của việc nghiên cứu nghiêm túc. Trong thực tế chúng ta thường gặp những tiếng động như tiếng gõ hoặc tiếng đập. Nhiều lần có cảm giác như đang bị một ai đó vô hình theo dõi, đang bị quan sát, hoặc bị đụng chạm, hoặc bị tấn công. Sự sợ hãi gây nên phần lớn trong những cảm giác này, biến bóng thành thật.

Cũng có nhiều vấn đề phức tạp hơn. Chẳng hạn những cánh cửa và cửa sổ mở đóng vào một giờ nào đó; những bước đi ngoài hành lang; những đồ vật di chuyển, hoặc lúc ẩn lúc hiện trong những nơi không ai nghĩ tới; và những con vật mà ta chỉ nghe thấy tiếng chứ không nhìn thấy.

Chẳng hạn, tôi còn nhớ rằng tất cả mọi thành viên của một gia đình có thể nghe tiếng mở, đóng cửa đàng trước và rồi tiếng bước chân rõ ràng của một người đàn ông bước qua tiền sảnh, rồi biến mất trong căn phòng nào đó. Một lần một người bạn đến thăm đã nghe thấy những tiếng động tương tự như thế và đã hỏi xem ai đã đi vào. Để tránh làm anh ta sợ, gia đình đã bảo anh ta rằng đó là một người khách trọ qua đêm. Tôi biết có những côn cùng, những con mèo, và những con rắn thình lình xuất hiện. Một người mà tôi đã trừ quỷ cho thậm chí đã thấy một con cóc còn sống ở trong cái gối của anh ta!

Sự hiện diện của ma quỷ được biểu lộ qua những khó chịu thể lý; mất ngủ, nhức đầu, hoặc đau bao tử; hoặc một nỗi khó chịu thường xảy ra khi ở một nơi chốn đặc biệt nào đó mà không xảy ra khi ở nơi khác. Khi điều này xảy ra thì người ta dễ đi khám bác sĩ, nhưng không dễ gì định được nguyên nhân. Chẳng hạn, một người kêu rằng cứ mỗi lần anh ta làm khách mời tại nhà một người họ hàng hoặc bạn bè là anh ta lại cảm thấy khó chịu: mất ngủ, đau đầu, hoặc những chứng đau khác có thể kéo dài nhiều ngày, trong khi những triệu chứng này không có ở bất cứ nơi nào khác. Việc chẩn đoán thì dễ, nhưng không dễ tìm ra nguyên nhân của vấn đề, nó có thể có nhiều nguồn gốc khác nhau. Nó có thể là hậu quả của sự tự kỷ ám thị, nếu có lý để nói như vậy - chẳng hạn, một cô con dâu đến thăm bố mẹ chồng là những người đã chống đối cuộc hôn nhân của cô hoặc là những người chỉ muốn giữ người con trai cho riêng mình. Tuy nhiên, những nguyên nhân sự dữ không thể tự động mà được xua trừ.

Cũng nên lưu ý rằng hành vi của các con vật nuôi trong nhà khi những hiện tượng này xảy ra cũng rất nên để ý. Chẳng hạn, nếu có một cảm giác về một sự hiện diện vô hình trong một căn phòng, thì một con chó hoặc con mèo thường dán chặt mắt vào một điểm đặc biệt. Có khi những con vật ấy sẽ nhảy lên và chạy trốn vì sợ hãi, cứ như là một sự hiện diện bí nhiệm trấn áp chúng. Tôi có thể nói đến nhiều chi tiết đáng quan tâm đối với những người muốn nghiên cứu về chủ đề này. Ở đây tôi chỉ muốn nói tôi tin rằng trong khi những con vật không nhìn thấy bất cứ cái gì cụ thể, thì chúng vẫn nhạy bén trước sự hiện diện lạ hơn chúng ta. Tôi tin rằng hành vi của các vật nuôi trong nhà có thể là một trong những yếu tố quyết định để xác định có nên trừ quỷ cho căn nhà hay không.

Điều quan trọng nhất là phải hỏi cạn kẽ những người có vẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi loại sự cố này trước khi tiến hành một việc trừ quỷ. Phần lớn những hiện tượng này không phải ma quỷ ám ảnh một căn nhà nhưng chỉ ám ảnh một hay nhiều cá nhân mà thôi. Nhiều lần tôi đã không thành công trong việc trừ quỷ căn nhà, nhưng khi tôi trừ quỷ cho một hay nhiều cá nhân, thì những hiện tượng trong nhà giảm đi và dần dần mất hẳn.

Làm thế nào để trừ quỷ căn nhà? Cha Candido và tôi dùng cùng một phương pháp. Sách Nghi thức có khoảng mười kinh cầu xin Chúa che chở nơi chốn cho khỏi ảnh hưởng ma quỷ. Chúng bao gồm việc làm phép nhà, trường học, và những dinh thự khác. Chúng tôi đọc một số trong các kinh này. Rồi chúng tôi đọc phần đầu của lần trừ quỷ đầu tiên cho các cá nhân, rồi biến báo sang việc làm phép nhà. Kế tiếp chúng tôi trừ quỷ cho mỗi căn phòng, cũng giống như làm phép căn nhà bình thường. Sau đó, chúng tôi làm lại một vòng nữa, lần này làm với trầm hương đã làm phép. Chúng tôi kết thúc với những kinh nguyện khác. Sau khi trừ quỉ, nếu cử hành một Thánh Lễ Misa trong nhà thì rất hiệu nghiệm.

Nếu sự quấy phá nhẹ, thì chỉ nguyên việc trừ quỷ cũng đã đủ. Nếu những rắc rối bị gây nên do một sự yểm bùa, và bùa ấy mới bị yểm lại, thì việc trừ quỷ cũng phải được lặp lại cho tới khi căn nhà trở nên "miễn nhiễm đối với ma quỷ". Trong tình cảnh tồi tệ nhất thì sẽ gặp nhiều khó khăn. Chẳng hạn, chính tôi đã tìm cách trừ quỷ những căn hộ đã từng được dùng một thời gian lâu để lên đồng hoặc nơi những thầy phù thuỷ làm những quỷ thuật đen. Những thí dụ tồi tệ nhất gồm có những nghi lễ Satan. Đôi khi sự quấy phá trầm trọng và rất khó cho việc giải thoát hoàn toàn đến nỗi tôi bắt buộc phải khuyên rời bỏ chỗ ở.

Mặt khác, những hoàn cảnh ít nghiêm trọng, chỉ cần cầu nguyện là đủ để tái lập bình an, một gia đình hay bị những tiếng ồn ào quấy phá vào ban đêm; sau khi cử hành mười Thánh Lễ, những tiếng ồn ào đó ngưng hẳn. Có thể có những linh hồn đau khổ đáng thương trong luyện tội được Chúa cho phép về xin ta cầu nguyện cho không? Điều này khó nói, nhưng cũng đã hơn một lần xảy ra. Cha Pellegrino Emetti, một nhà trừ quỷ danh tiếng nhất ở khu vực Venice - cũng là một người nổi tiếng là một học giả Kinh Thánh và âm nhạc - đã trải nghiệm một số trường hợp rất nghiêm trọng. Một gia đình nọ đã bị không chỉ các cửa sổ và cửa ra vào cứ tự nhiên đóng vào mở ra mặc dù đã được sửa chữa rất kỹ lưỡng, mà còn bị các bàn ghế tủ rả di chuyển nhảy múa và nhiều sự kiện khó tin khác. Nhà trừ quỷ đã trừ thành công bằng cách dùng cùng một lúc tất cả ba á bí tích vốn là công cụ tiêu chuẩn của nhà trừ quỷ. Ngài khuyên gia đình trộn lẫn một tách hoặc một ly gồm nước trừ quỷ với dầu và muối; rồi mỗi buổi chiều, đổ một muỗng nhỏ hỗn hợp đó trên mép cửa sổ và ngưỡng cửa ra vào, vừa làm việc đó vừa đọc kinh Lạy Cha. Cách chữa trị này có hiệu quả. Một tuần sau khi gia đình ngưng thực hiện việc này, những sự quấy phá lại tái diễn. Chúng ngưng ngay lập tức khi gia đình tiếp tục thực hiện theo sự chỉ dẫn của nhà trừ quỷ.

Tôi cũng đã được hỏi về khả năng nhập vào quấy phá các vật nuôi trong nhà. Có thể có không? Chữa trị bằng cách nào? Phúc Âm thuật lại cho chúng ta rằng một sư đoàn ma quỷ xin Chúa Giêsu cho phép nhập vào đàn heo. Chúa Giêsu đã cho phép, và cả đàn đâm nhào xuống biển Gerasene (Mt 8, 28-33). Tôi biết có một nhà trừ quỷ không kinh nghiệm đã ra lệnh cho một tên quỷ nhập vào một con heo của một người nông dân. Con heo bỗng trở nên hung dữ và tấn công vợ anh ta. Khỏi phải nói, con heo lập tức bị giết chết. Đó là những trường hợp hiếm hoi, và mỗi lần chúng đều dẫn tới cái chết tức khắc cho con vật. Tôi cũng nghe nói về một ông thày mo đã dùng một con mèo của ông ta để phát tán các lá bùa của ông đến những nơi chúng đến; ở đây tôi muốn nói rằng chính ông chủ là người bị ám chứ không phải con vật. Người ta cũng thường nói rằng con mèo là một con vật "hấp linh" (absorbs sprits) và rằng các thần linh xấu mang dáng vẻ tựa một con mèo để không bị phát hiện. Đối với một số tay phù thủy và một số hình thức ma thuật, thì việc dùng mèo là căn bản. Tôi muốn làm sáng tỏ ra rằng đó chẳng phải là lỗi của con thú cưng dễ thương này.

Việc nhập vào những con vật là có thể xảy ra, và do đó, có việc làm phép để trừ khử. Trong trường hợp này, cũng như trong mọi trường hợp khác, nhà trừ quỷ phải khám phá ra những lý do đằng sau sự biểu hiện của quỷ. Rất cần sự hiểu biết để tránh lầm lạc, mặc dù tôi sẽ không nói đến vấn đề trong sách này.

Tôi sẽ lưu ý rằng ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, chúng ta đã thấy những trường hợp trừ quỷ được thực hiện trên nhà cửa, súc vật, và đồ vật. Trong số những vị khác, Ôrigênê chứng minh cho việc thực hành này. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo cũng nói ngay đến việc trừ quỷ không chỉ cho con người nhưng cũng còn cho cả các đồ vật nữa (1673).

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth



§14 - LỜI NGUYỀN RỦA

Tôi đã lưu ý rằng một lời nguyền rủa (curse) có thể gây cho một người vô tội bị tấn công bởi ma quỷ. Vì đây là trường hợp hết sức thông thường, tôi phải bàn giải nó cho rõ ràng. Tôi sẽ cố gắng dùng từ ngữ chuyên biệt. Không có một thuật ngữ được chấp nhận phổ quát; do đó, mỗi nhà văn phải định nghĩa thuật ngữ riêng của mình.

Lời nguyền rủa là một từ chung chung. Nó thường được định nghĩa là "sự làm hại người khác thông qua sự can thiệp của ma quỷ". Đây là một định nghĩa chính xác, nhưng nó lại không cắt nghĩa nguyên nhân của sự làm hại, cho nên vẫn còn mơ hồ. Chẳng hạn, một số người tin rằng lời nguyền rủa đồng nghĩa với bùa mê hoặc quỷ thuật. Theo ý kiến của tôi, bùa mê và quỷ thuật là hai loại lời nguyền rủa khác nhau. Tôi không đòi đưa ra một sự giải thích dễ hiểu, và tôi chỉ dựa vào kinh nghiệm của riêng tôi khi tôi định nghĩa những hình thức lời nguyền rủa sau đây. Chúng khác nhau nhưng không độc lập với nhau; thường đan xen lẫn nhau: (l) ma thuật đen (magic black), (2) lời nguyền rủa (curse), (3) bùa-nhìn (evil eye), và bùa mê (spell)

1. Ma thuật đen, hay quỷ thuật, hay các lễ nghi Satan mà tột điểm là lễ misa đen. Tôi sẽ trình bày những việc thực hành này dưới một đề mục vì tính loại suy của chúng. Tôi liệt kê chúng theo thứ tự quan trọng. Nét đặc trưng thông thường của chúng là đạt được một lời nguyền rủa chống lại một con người đặc biệt nào đó thông qua các nghi lễ hoặc công thức ma thuật - đôi khi rất phức tạp - bằng cách gọi ma quỷ, nhưng không kèm theo việc sử dụng các đồ vật đặc biệt. Bất cứ ai tự hiến mình cho những việc này thì trở nên tôi tớ của Satan tại lỗi của chính họ. Ở đây tôi sẽ bàn về chúng chỉ như những dụng cụ làm tổn hại người khác thông qua lời nguyền rủa.

Kinh Thánh cấm chỉ những việc thực hành này bởi vì chúng là một sự chối bỏ Thiên Chúa và quay về với Satan: "Giữa anh em, không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tường số, phù thủy, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em" (Dnl 18, 10-12). "Các ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi" (Lv 19,31). "Khi người đàn ông hay người đàn bà nào có ma nhập thần ốp thì phải bị xử tử; người ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng" (Lv 20,27), cũng trong sách Lêvi 19, 26-31. Sách Xuất Hành cũng chẳng khoan dung hơn: "Đàn bà phù thủy, ngươi không được để cho sống"(Xh 22,17). Những nền văn hoá khác cũng trừng phạt ma thuật đen với án tử hình; dù cho thuật ngữ họ dùng có khác, thì ý nghĩa của chúng cũng rất rõ ràng. Tôi sẽ nói nhiều hơn về chủ đề này sau.

2. Những lời nguyền rủa (curse). Lời nguyền rủa cầu đến cái ác, mà nguồn gốc của mọi cái ác là ma quỷ. Khi lời nguyền rủa được nói ra với một sự bội bạc thực sự, đặc biệt nếu có mối liên hệ huyết thống giữa người nguyền rủa và người bị nguyền rủa, thì hậu quả thật khôn lường. Những trường hợp thông thường nhất mà tôi đã gặp gồm có cha mẹ hay ông bà nguyền rủa con hay cháu. Những hậu quả nghiêm trọng nhất xảy ra khi cái ước muốn xấu phạm đến mạng sống của một ai đó hoặc khi nó được phát ra vào một dịp đặc biệt, như dịp lễ cưới. Quyền bính và những mối dây liên hệ ràng buộc cha mẹ với con cái họ thì mạnh hơn bất cứ ảnh hưởng của người nào khác.

Tôi sẽ đưa ra ba thí dụ tiêu biểu về những lời nguyền rủa. Tôi đã giúp đỡ một chàng thanh niên mà cha của anh ta đã muốn sự dữ cho anh từ lúc mới sinh (rõ ràng là ông ấy không muốn đứa trẻ này) và ông ấy vẫn tiếp tục giữ thái độ đó suốt thời gian đứa con sống trong nhà. Người thanh niên đáng thương này phải chịu đau khổ từ nỗi bất hạnh rất dễ hiểu: anh ta kém sức khoẻ, không thể kiếm được việc làm, cuộc hôn nhân đầy khó khăn, con cái anh ta trở nên èo uột. Những cuộc trừ quỷ chỉ có thể giúp anh về mặt thiêng liêng, nhưng không giúp gì thêm nữa. Một trường hợp thứ hai là một phụ nữ trẻ muốn kết hôn với một thanh niên giầu có, người mà cô rất yêu mến. Cha mẹ cô chống đối, nhưng khi mọi nỗ lực của họ thất bại, họ đến dự đám cưới. Cùng ngày đó người cha đã dẫn cô con gái ra một nơi riêng nói vài lời bào chữa và xổ ra mọi lời độc dữ mà ông ta có thể nghĩ ra được để nguyền rủa cô, chồng cô và các con cái của cô trong tương lai. Và điều đó đã xảy ra bất chấp sự trừ quỷ và lời cầu mãnh liệt.

Một thí dụ nữa. Một hôm có một người đàn ông học thức đã đến gặp tôi. Ông thở hổn hển và đưa cho tôi xem đôi chân của ông, đầy những vết sẹo ghê gớm bởi một chuỗi những cuộc giải phẫu, và ông kể cho tôi câu chuyện của ông. Hồi cha ông còn là một thanh niên trẻ tuổi rất thông minh; bà nội ông đã muốn chàng trở nên một linh mục bất cứ giá nào, nhưng chàng không nghĩ là mình có ơn gọi. Dần dần cuộc sống trong nhà trở nên ngột ngạt, và chàng thanh niên phải bỏ nhà ra đi. Chàng tốt nghiệp đại học, trở nên thành công trong nghề nghiệp của mình, đã kết hôn và có con cái. Tất cả điều này xảy ra sau cuộc đổ vỡ dứt khoát với mẹ chàng, bà không chịu gặp chàng bất cứ vì lý do gì. Rồi người đàn ông này đã cho tôi xem tấm hình của ông được cha ông chụp hồi tám tuổi. Đó là bức hình một bé trai xinh đẹp với nụ cười quyến rũ, trong chiếc quần ngắn phơi đầu gối ra, và đôi vớ dài, đó là thời trang vào lúc bấy giờ. Cha ông đã có một ý tưởng không may là gửi bức hình này cho bà nội đứa trẻ, hy vọng nhìn thấy đứa cháu nội xinh đẹp bà sẽ nguôi giận và đồng ý làm hoà. Thay vào đó, bà đã gửi lại thông điệp này: "Chớ gì đôi chân của đứa trẻ luôn luôn èo uột, và nếu mày có khi nào trở về ngôi làng này thì mày sẽ chết trên chính cái giường mà mày đã sinh ra." Và đã xảy ra như vậy. Người đàn ông đã kể tiếp cho tôi rằng cha ông đã trở về làng nhiều năm sau khi bà mẹ qua đời, nhưng lập tức ông ngã bệnh; người ta đưa ông vào ngôi nhà xưa kia ông đã sinh ra, và ông đã chết ngay trong đêm ấy.

3. Bùa-nhìn (the evil eye). Đây là sự bỏ bùa bằng cách nhìn vào một người nào đó. Nó không xảy ra, như nhiều người nghĩ, bằng cách tin rằng một số người nào đó gây ra vận rủi chỉ bằng cách nhìn vào bạn; điều này vô lý. Bùa nhìn (evil eye) là một thứ bùa thực sự; nói cách khác, nó bao hàm một ý muốn làm hại một người đã được định trước với sự can thiệp của ma quỷ. Trong trường hợp này ý định bất chính được hoàn tất qua thị giác. Trong khi tôi chưa bao giờ có thể chắc chắn là một thứ bùa đặc biệt lại là kết quả của bùa-nhìn (the evil eye) và một cái nhìn đã đủ hay chưa, thì hậu quả đã rõ ràng. Nhiều khi người ta không biết được thủ phạm bỏ bùa là ai, và nó bắt đầu như thế nào. Điều quan trọng là nạn nhân không nên nghi ngờ mọi người mà họ đã gặp nhưng nên hết lòng tha thứ cho bất kỳ người nào đã gây sự dữ cho mình, bất kể là ai. Tôi muốn nhấn mạnh điều đó, trong khi tôi tin rằng bùa nhìn là có thể có, tôi không thể quả quyết rằng tôi đã đương đầu với nó trong kinh nghiệm của tôi như một nhà trừ quỷ.

4. Sự bỏ bùa ( cũng được gọi là sự gây ác hại (malefice) hay yểm bùa). Điều này còn xa với những ý nghĩa thường dùng nhất để chỉ việc hoàn thành điều ác. Danh từ (La ngữ là male factus) có nghĩa là làm ra cái ác, tức là làm hay tạo ra một số đồ vật với những chất liệu kỳ lạ và khác nhau. Vật này có một giá trị biểu tượng: đó là một dấu hiệu khả giác của ý muốn làm hại, và nó được dâng cho Satan để được in dấu quyền lực độc ác của nó. Người ta cũng thường nói là Satan bắt chước Thiên Chúa; trong trường hợp này chúng ta có thể dùng các bí tích theo loại suy. Các bí tích dùng chất liệu khả giác (chang hạn nước của phép rửa) như một dụng cụ của ân sủng. Trong việc bỏ bùa chất liệu được sử dụng như dụng cụ làm hại.

Có hai cách khác nhau để một việc bỏ bùa được áp dụng cho một mục tiêu xác định. Cách trực tiếp gồm việc pha trộn đồ vật được dùng làm bùa vào đồ ăn hay thức uống của nạn nhân. Như đã đề cập đến, cái này đã được chế tạo bằng những chất liệu rất khác nhau; nó có thể là kinh huyết; xương người chết; các loại tro khác nhau, thường là màu đen, các bộ phận của súc vật - dường như tim là hay được dùng nhất; các loại cỏ riêng biệt; và còn nhiều thứ nữa. Nhưng hiệu quả ác độc không nằm trong chất liệu nhiều cho bằng trong ý muốn làm hại thông qua sự can thiệp của ma quỷ. Điều này sẽ được biểu lộ trong các công thức quỷ thuật đen được ngâm tụng trong khi pha trộn chất liệu này. Hầu như luôn luôn những người bị bỏ bùa, bên cạnh những triệu chứng khác, họ phải chịu chứng đau dạ dày rất đặc trưng mà các nhà trừ quỷ rất quen và được chữa trị chỉ sau khi đã nôn mửa thật nhiều hoặc tống ra phân và những đồ vật lạ.

Cách thứ hai để áp dụng một sự bỏ bùa là cách gián tiếp (ở đây tôi qui chiếu thuật ngữ mà Cha La Grua dùng trong sách của ngài: cuốn La pregheiera di liberazione. Điều này cốt tại yểm bùa những đồ vật thuộc về người bị nhằm đến (các hình ảnh, y phục, hoặc những đồ vật khác của người đó) hoặc những hình ảnh tượng trưng cho người xấu số: những hình nộm, búp-bê, những con vật, và cả đến người thật cùng tuổi và giới tính. Điều này được gọi là chất liệu "chuyển tải", và nó bị hành với cùng những thứ bệnh như nhau được định cho nạn nhân. Một hình nộm là một thí dụ rất thông dụng: trong lễ nghi Satan này, những chiếc đinh ghim được cắm chung quanh đầu của hình nộm. Kết quả là nạn nhân bị đau đầu dữ dội và chạy đến nói với nhà trừ quỷ: "Đầu tôi như thể bị những chiếc kim nhọn sắc đâm thâu." Có thể là những chiếc kim, những móng tay, và những con dao được đâm vào thân hình nộm như một "vật thay mặt" cho nạn nhân. Thường thường kẻ xấu số cảm thấy cơn đau nhức nhối đâm thẳng vào chính những chỗ như thế. Một số người được gọi là nhà ngoại cảm", mà tôi sẽ nói đến sau, họ có thể nói với nạn nhân: "Bạn có một cái đinh xuyên qua bạn từ điểm này đến điểm kia", và vạch rõ cả những vị trí chính xác. Tôi đã nhìn thấy những người tống ra những chiếc đinh rất dài và kỳ lạ được làm bằng một chất liệu trông giống như plastic hoặc gỗ rất mềm từ chỗ đau và lập tức cơn đau được giải trừ. Thông thường sự giải thoát đi theo sau sự trục xuất những vật liệu hết sức bất thường: những sợi chỉ coton màu mè, những giải ruy băng, những móng tay, những cuộn giây kẽm.

Một sự bỏ bùa mang hình thức "trói buộc" đáng được lưu ý đặc biệt. Bất cứ chất liệu nào được dùng để chuyển tải sự dữ đều được buộc bằng sợi tóc hay những miếng vải màu mè (đặc biệt màu trắng, đen, xanh và đỏ, tuỳ theo kết quả được muốn). Chẳng hạn, khi để tấn công thai nhi của một bà có thai, một hình nộm đã được trói buộc từ cổ tới vùng rốn với một cây kim có xâu những sợi lông ngựa, với chủ ý làm méo dạng hài nhi bằng cách gây ra sự phát triển không bình thường các bộ phận trong vùng "bị buộc". Điều này thực sự đã xảy ra; may thay, sự tổn hại được chứng nhận là ít nghiêm trọng hơn dự định. Những sự trói buộc đặc biệt được dùng để ngăn cản sự phát triển một vài phần cơ thể, nhưng rất thường chúng được dùng để ngăn chặn sự phát triển tâm thần. Những trói buộc đầu óc khiến cho nạn nhân không có khả năng học hành làm việc hoặc hành xử bình thường. Khi sự bỏ bùa này thành công, các bác sĩ không thể xác định được nguồn gốc của căn bệnh và không thể chữa trị được.

Cũng thường hay xảy ra là bằng chứng của bùa thuật hiện ra dưới gối, chăn trong hình thức những vật lạ. Nếu tôi phải nói về những sự kiện kỳ cục khó tin mà tôi đã chứng kiến, thì nói chẳng bao giờ hết được. Tôi đã tìm thấy đủ mọi thứ, từ những giải ruy băng màu sắc được cột lại tới những bện tóc thắt chặt; những chuỗi thắt nút và len được bện dày bởi sức mạnh siêu nhân có hình dáng chiếc triều thiên; những con vật - đặc biệt là chuột nhắt - hoặc những hình dáng hình học; và những cục máu. Tôi đã nhìn thấy những thớt gỗ hoặc sắt, giây thép xoắn, và những hình nộm đầy những dấu vết nhọn sắc và tôi đã chứng kiến sự xuất hiện bất thình lình những bện tóc dày của phụ nữ và trẻ em. Tất cả những thứ này không thể cắt nghĩa nếu không có sự can thiệp của bàn tay vô hình. Đôi khi những vật lạ này không hiện hình khi gối hoặc chăn đệm được mở ra lần đầu, nhưng sau khi rảy nước thánh trừ quỷ, hoặc sau khi đưa ảnh tượng thánh ra - đặc biệt là tượng chịu nạn hoặc ảnh Đức Maria - thì những đồ vật kỳ lạ nhất mới hiện ra. Tôi sẽ trở lại chủ đề này ở những trang sau.

Bây giờ tôi tin là đã đến lúc lặp lại lời khuyên mà Cha La Grua đã khuyên trong cuốn sách của ngài đã nói ở trên, cuốn La preghiera di liberazione: "Dù điều tôi đã viết là kết quả của kinh nghiệm trực tiếp, chúng ta cũng đừng quá dễ tin vào những thứ bùa ngải, đặc biệt những thứ được bỏ bằng những phương thế yểm bùa." Bùa ma thuật luôn luôn hiếm. Khi những lời phàn nàn được đem đến cho nhà trừ quỷ được phân tích ra, thì chúng hầu hết cho thấy đều có những nguyên nhân tâm lý cũng như là những nỗi sợ hãi gợi nhớ và giả tạo. Cũng vậy, những thứ bùa thường không thành công vì nhiều lý do, chẳng hạn, vì Thiên Chúa không cho phép sự dữ, hoặc nạn nhân lại là một người có đời sống cầu nguyện sâu xa và kết hợp với Thiên Chúa. Thêm nữa, nhiều tay phù thủy non tay ấn hoặc không đủ khả năng thực hiện; những kẻ khác chỉ là những thày mo; hoặc chính ma quỷ, "kẻ nói dối từ ban đầu", như Phúc Âm đã gán cho hắn, đã lừa dối các tôi tớ của hắn. Thật là một sai lầm trầm trọng khi sống trong nỗi sợ trở thành nạn nhân của bùa thuật. Kinh Thánh không bao giờ bảo chúng ta phải sợ ma quỷ; thay vào đó, chúng ta đã được bảo phải kháng cự lại nó và bảo đảm là nó sẽ phải chạy trốn chúng ta (Gc 4,7) và phải tỉnh thức đối phó với các cuộc tấn công của nó, bằng cách kiên vững trong đức tin của chúng ta (1Pr 5,9).

Chúng ta đã được ban cho ân sủng của Đức Kitô, Đấng đã đánh bại Satan bàng Thánh giá của Ngài; chúng ta có sự cầu bầu của Mẹ Maria, Đấng là kẻ thù của Satan từ khởi thủy loài người; chúng ta có sự trợ giúp của các thiên thần và các thánh. Hơn hết, nhờ phép rửa chúng ta đã được Ba Ngôi cực thánh niêm ấn. Nếu chúng ta sống trong sự hiệp thông với Thiên Chúa, thì chính Satan và cả hoả ngục phải run sợ trước sự hiện diện của chúng ta - trừ khi tự chúng ta mở cửa cho nó.

Vì sự bỏ bùa là hình thức thông thường nhất của ảnh hưởng ma quỷ, nên tôi sẽ nói thêm một vài suy tư khác mà tôi đã hái lượm được qua kinh nghiệm.

Sự bỏ bùa có thể bao gồm những nét đặc trưng khác nhau, tuỳ theo mục đích mà nó được nhắm tới. Chẳng hạn, nó có thể được gọi là "bùa chia rẽ" nếu nó được chủ định để phân rẽ các đôi vợ chồng, các cặp đính hôn là những người đang yêu nhau, gây đổ vỡ mà chẳng có lý do gì bên ngoài, và chẳng thể giàn xếp hoà giải gì được. Về sau tôi tìm ra rằng một trong hai bên cha mẹ đã chống lại cuộc hôn nhân của họ và chạy lại với người thực hành ma thuật đen để phá vỡ sự hứa hôn. Loại bùa khác có thể được gọi là "bùa yêu", nó được dùng để khiến cho người ta phải lòng nhau. Tôi biết một cô gái phải lòng anh chàng vị hôn phu của cô bạn mình. Sau những cố gắng bất thành để làm cho chàng yêu mình, cô ta đã đi đến với một tên phù thủy. Thế là đôi tình nhân đã đính hôn kia chia tay nhau và anh chàng đó đã kết hôn với cô gái dùng bùa. Khỏi cần nói, đó là một cuộc hôn nhân ghê tởm; người chồng không thể nào lìa bỏ vợ được nhưng chàng đã chẳng bao giờ yêu nàng và luôn luôn có cảm giác rằng chàng đã bị ép phải lấy nàng.

Những loại bùa khác được gọi là "bùa gây bệnh nạn", bởi vì mục tiêu sẽ luôn là bệnh tật. Cái gọi là bùa tử có tên là "phá hoại". Trong trường hợp này, chỉ cần nạn nhân kêu cầu đến sự che chở của Giáo Hội: nói cách khác, là nạn nhân bắt đầu cầu nguyện, xin người khác cầu nguyện cho một cách mãnh liệt, và tìm đến sự trừ quỷ, và sự chết có thể tránh được. Tôi đã theo dõi nhiều trường hợp như thế; tôi đã từng nói rằng Thiên Chúa đôi khi can thiệp cách lạ lùng, hoặc ít ra bằng những đường lối mà nhân loại không thể cắt nghĩa được, để cứu những nạn nhân khỏi cơn nguy tử và, đặc biệt, khỏi sự cố gắng tự tử. Hầu như luôn luôn (tôi muốn nói là luôn luôn, ít nhất, trong những trường hợp mà tôi đã biết này), khi bùa ngải mạnh mẽ nó cũng bao gồm sự áp bức của ma quỷ ngay cả đến quỷ ám. Đó là lý do tại sao sự trừ quỷ là cần thiết. Những thứ bùa kinh tởm nhất có thể là những bùa được định để phá hoại toàn thể gia đình hoặc tấn công vào cả gia đình.

Qui tác số 8 trong sách Nghi thức về việc trừ quỷ cảnh báo chống lại việc chỉ dẫn những người đang là mục tiêu của những bùa chú đến tìm sự chữa lành nơi những tay phù thủy hay thày mo hoặc những cá nhân không phải là thừa tác viên của giáo hội. Việc sử dụng bất cứ hình thức mê tín dị đoan nào hoặc những phương pháp bất hợp lệ khác nhằm cố gắng để được chữa lành đều bị cấm chỉ. Kinh nghiệm dạy rằng lời cảnh cáo này là cần thiết. Những tay phù thủy thì rất đông; mà những nhà trừ quỷ lại ít ỏi. Không may, một số tác giả đã khuyên nên đi đến với thày phù thuỷ để xin giúp đỡ chống lại những bùa ngải, dù là bệnh nhân nghi ngờ rằng mình sẽ là mục tiêu cho một thứ bùa khác nữa. Một lời khuyên như thế là một sai lầm không thể tha thứ được, đặc biệt lại phát xuất từ những tác giả từng trải và đáng kính, trong những tác phẩm về mặt khác rất đáng ca tụng. Lời cảnh cáo này là đặc biệt quan trọng bởi vì cái xu hướng chạy đến với các tay phù thuỷ, thày cúng, thày mo và những loại như thế thì cũng xưa như trái đất. Bất kể những tiến bộ về mặt xã hội, văn hoá và khoa học, thói quen tham khảo ý kiến các nhà huyền bí dường như vẫn cùng tồn tại một cách dễ dàng trong "thế giới hiện đại" của chúng ta. Mọi tầng lớp xã hội, ngay cả những người học vấn uyên bác nhất, các kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, các nhà chính trị... đều dính vào đấy.

Qui tắc số 20 của sách Nghi thức gợi ý nên hỏi ma quỷ về nguyên nhân sự hiện diện của nó, đặc biệt hỏi xem có phải do nạn nhân ăn hoặc uống một thứ gì đó không. Nếu nguyên nhân là thế thì nhà trừ quỷ phải bắt nạn nhân mửa ra. Nếu bùa là do một số vật lạ, nhà trừ quỷ phải hỏi để biết vật đó đang dấu ở đâu, tìm nó và đốt nó đi.

Đó là tất cả những đề nghị thông dụng. Thực ra, khi đồ ăn thức uống dùng làm phương tiện chuyển tải một loại bùa, chúng ta sẽ luôn luôn phải đối phó với chứng bệnh đau bao tử, mà tôi đã đề cập đến ở trên; trong trường hợp này, sự giải thoát luôn luôn xảy ra qua những phương pháp vật lý. Việc sử dụng nước thánh, dầu, muối sẽ giúp rất nhiều cho tiến trình. Cũng có thể là một số đồ vật làm bùa được trục xuất ra bằng những cách lạ lùng như tôi đã cắt nghĩa: chẳng hạn, nạn nhân có thể bất thình lình cảm thấy một sức nặng kỳ lạ trong bao tử, cứ như là một cục đá. Sau một lát, anh ta thấy một cục đá trên mặt đất, và cơn đau biến mất. Những đồ vật khác - những giải màu, những dây thừng, và nhiều thứ khác - có thể được tìm thấy. Tất cả chúng phải được rảy nước thánh - nạn nhân cũng có thể tự làm điều này - rồi đem đốt chúng đi, ném tro xuống dòng nước chảy. Những vật nào không thể đốt được, như dây kẽm, cũng phải ném xuống dòng nước chảy, dòng sông hay cống nước cũng được. Đừng ném cái gì vào trong nhà cầu hay bể rửa; nếu làm thế, cả nhà sẽ bị lụt, hoặc mọi cống rãnh sẽ bị tắc.

Thường những đồ vật lạ thấy trong chăn, gối thì không do hỏi ma quỷ mà tìm thấy nhưng nhờ sự chỉ dẫn của những người nhạy bén và có uy tín - tôi sẽ trở lại đề tài này - mà sau đó nhà trừ quỷ được gọi đến. Về điểm này cũng cần phải đốt chăn gối ở ngoài cửa, sau khi rảy nước thánh trên chúng, và giải quyết tro như tôi đã nói ở trên.

Điều quan trọng là, trong khi những vật làm bùa đang cháy, mọi người phải cầu nguyện. Sự cẩn thận của chúng ta không bao giờ thừa, đặc biệt khi bùa được khám phá nhờ cơ may ma quỷ tiết lộ cho. Hồi tôi đang tập huấn, cha Candido kể cho tôi nghe về một sai lầm mà ngài đã mắc phải khi mới hành nghề.

Cha Candido và một linh mục nhiệt thành khác, cả hai đều được đức giám mục uỷ quyền để trừ quỷ cho một cô gái. Trong khi hỏi ma quỷ, các ngài khám phá ra rằng cô gái đang bị bỏ bùa. Các ngài hỏi để biết hình thức của nó, và đã được trả lời rằng đó là một cái hộp bằng gỗ lớn bằng bàn tay. Các ngài hỏi để biết chính xác vị trí và được trả lời rằng nó được chôn sâu ba bộ, gần một gốc cây. Đầy lòng nhiệt thành các ngài vác cuốc xẻng đi đào bới chỗ đó. Các ngài tìm thấy cái hộp, hệt như đã được nói, mở nó ra, và thấy một bức tượng khiêu dâm nằm giữa nhiều thứ tạp nhạp khác. Các ngài đã đổ cồn lên mọi thứ và đốt ngay lập tức mọi thứ một cách cẩn thận, cho tới khi chỉ còn lại một đống tro. Nhưng các ngài quên cầu nguyện trong suốt tiến trình, để cầu xin sự che chở của Máu thánh Đức Kitô. Các ngài đã đụng chạm vào những vật này mà không rửa tay ngay với nước thánh. Kết cục câu chuyện này là: cha Candido đã nằm liệt giường suốt ba tháng với chứng đau bao tử nghiêm trọng; những cơn đau này còn tiếp tục thêm mười năm nữa nhưng nhẹ hơn, và thỉnh thoảng nó vẫn còn tái lại. Đây là bài học nhớ đời, nhưng nó có ích cho tôi và cho bất cứ ai có thể ở trong tình huống tương tự.

Tôi đã hỏi cha Candido rằng sau tất cả sự khó nhọc và đau khổ đó, người thiếu nữ kia có được giải thoát không. Câu trả lời là không; cô ta không cảm thấy được lợi gì. Điều này dạy chúng ta rằng, đôi khi, bùa thuật gây được mọi thứ tổn hại khi chúng lần đầu tiên được đặt vào vị trí: việc tìm ra những đồ vật và phá hủy chúng về sau là vô ích. Tôi đã giải quyết nhiều trường hợp tương tự trong đó khoảng thời gian giữa lúc bỏ bùa và lúc tìm ra các đồ vật đã trải qua nhiều năm. Sự bỏ bùa đã hoàn tất mọi việc xấu xa của nó, và chẳng có lợi ích nào đạt được khi đồ vật được tìm ra và bị phá hủy. Điều trợ giúp về sau là việc trừ quỷ, cầu nguyện và các bí tích.

Trong những hoàn cảnh khác, việc đốt bỏ đồ vật cũng giải hết bùa; chẳng hạn, cái gọi là bùa giết người bằng vật thối rữa. Một lần kia, trong khi đang điều tra về một thứ bùa, tôi đã khám phá ra rằng một số thịt yểm bùa đã được chôn. May là nó đã được tìm thấy và được phá hủy trước khi thối rữa, và do đó, kẻ xấu số đã tránh được cái chết. Đôi khi các con vật được đem chôn sống, đặc biệt là những con cóc, để một túi không khí chung quanh để nó có thể thở được ít lâu. Nếu người ta tìm thấy nó trước khi nó chết, thì việc bỏ bùa đó bị thất bại. Tuy nhiên, dụng cụ chủ lực chống lại việc bỏ bùa là trừ quỷ, cầu nguyện, các bí tích và các á bí tích.

Tôi không thể nhấn mạnh cho đủ được tầm quan trọng của việc quay trở lại với Thiên Chúa và những phương pháp giải thoát của Ngài thay vì của một tay phù thủy hoặc một thày pháp, ngay cả khi chúng ta cảm thấy những đường lối của Thiên Chúa thì không nhanh chóng. Chúa ban cho chúng ta quyền năng danh Ngài, sức mạnh của lời cầu nguyện - cả của cá nhân cả của cộng đoàn, và sự cầu bầu của Giáo Hội. Đến với một tay phù thuỷ, với một người nào đó che dấu các hành động của nó dưới danh xưng giả mạo là "ma thuật trắng" (thực tế nó luôn luôn gọi sự trợ giúp của Satan, cũng như bất cứ kẻ nào dùng một thứ bùa để trừ bùa), thì chỉ có thể làm cho sự dữ trầm trọng thêm. Phúc Âm nói về ma quỷ khi rời bỏ một linh hồn sau đó nó trở lại với bảy quỷ khác dữ dằn hơn nó (Mt 12, 43-45). Đây là điều xảy ra khi chúng ta chạy lại với phù thuỷ. Tôi sẽ cho ba thí dụ tiêu biểu.

Thí dụ thứ nhất: có người bắt đầu cảm thấy đau đớn thể lý. Anh ta thử nhiều thày nhiều thuốc, nhưng cơn đau cứ tăng chứ không giảm; không tìm ra nguyên nhân. Lúc đó anh ta đi đến với thày phù thủy, đến với một tay bói bài là những người thực hành ma thuật, và họ nói với anh: "Anh đã bị bỏ bùa. Nếu anh muốn, tôi sẽ trù bùa cho anh. Tôi chỉ đòi anh một nghìn Dollars thôi." Bệnh nhân suy nghĩ một lúc, rồi trả tiền. Đôi khi hắn đòi một tấm hình chụp, một thứ y phục thiết thân, hoặc một lọn tóc. Sau vài ngày bệnh nhân cảm thấy khoẻ và tin chắc rằng mình đã sài tiền một cách khôn ngoan. Vậy là, ma quỷ đã rời đi. Sau một năm những cơn đau tương tự bắt đầu xuất hiện lại. Nạn nhân đáng thương lại bắt đầu đi hết bác sĩ này đến bác sĩ kia, nhưng y khoa càng ngày càng trở nên bất lực, và cơn đau cứ gia tăng thê thảm. Khi không còn cách nào nữa, nạn nhân tự nhủ: "Thày phù thủy kia đòi tôi có một nghìn Dollars, nhưng làm tôi hết bệnh." Lúc đó anh ta trở lại, mà không nhận ra rằng chính thày phù thủy đó đã làm cho bệnh của anh ta nặng thêm.

Lần này tay phù thủy nói với anh ta: "Bùa của anh lần này nặng hơn bùa lần trước. Tôi sẽ giải trừ cho anh, và chỉ lấy năm ngàn Dollars thôi; tôi sẽ đòi giá gấp đôi nếu tôi chữa cho những người khác đấy". Và thế là nạn nhân lại bắt đầu mọi sự; nếu cuối cùng anh ta quyết định đến với nhà trừ quỷ, anh ta hẳn phải được giải thoát không chỉ khỏi sự dữ ban đầu mà cũng khỏi sự dữ lớn hơn bị gây ra bởi tên phù thủy nữa.

Thí dụ thứ hai; cũng như thí dụ trên. Bệnh nhân trả tiền, được chữa lành bởi phù thủy. Tuy nhiên, cơn bệnh của anh ta lại truyền sang vợ, con, cha mẹ, và anh chị em ruột của anh ta. Trong trường hợp này sự dữ cứ tăng lên nhiều thêm. Nó có thể mang hình thức của một chủ thuyết vô thần ngoan cố, một đời sống tội lỗi, một loạt các tai nạn xe cộ, những rủi ro, tuyệt vọng...

Thí dụ thứ ba, cũng như thí dụ một và hai: bệnh nhân được chữa, và sự chữa trị vẫn còn công hiệu. Tuy nhiên, sự dữ đó về nguồn gốc đã được Thiên Chúa cho phép xảy ra để cho nạn nhân đền tội, để khích lệ nó bắt đầu một đời sống cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích và trở về với Giáo Hội. Mục đích của căn bệnh đó là đưa đến những kết quả thiêng liêng lớn lao cho phần rỗi linh hồn nó. Khi nó nhờ sự can thiệp của ma quỷ để chữa lành bệnh, thì sự qui hồi mà Chúa muốn đem đến qua cơn bệnh sẽ không xảy ra.

Chúng ta phải hiểu rõ thực tế rằng Thiên Chúa cho phép những cơn thử thách xảy ra vì thiện ích của riêng chúng ta. Ngài cho phép có Thánh giá chỉ vì nó dẫn chúng ta lên thiên đàng. Chân lý này thật hiển nhiên, chẳng hạn, khi những người được ban cho những đặc sủng riêng biệt thì hay bị nhiều đau khổ hành hạ. Trong những trường hợp này chúng ta phải cầu xin để được chữa lành. Mọi người đều nhớ cha thánh Pio, người mà suốt năm mươi năm phải chịu những đau đớn nhức nhối của các dấu đanh. Đâu có ai nghĩ đến việc xin Chúa cất những dấu đanh; điều đó quá rõ ràng rằng đây là những phương pháp Thiên Chúa dùng vì một kết quả thiêng liêng lớn lao. Ma quỷ thì ranh mãnh; nó quá muốn cất các dấu vết của cuộc thương khó của Chúa cho khỏi thân xác cha Pio đi chứ! Sự trái ngược cũng có, khi chính ma quỷ là kẻ gây ra các dấu đanh và đưa ra những nhà thần bí giả.

Tác giả: Lm. Gabriele Amorth