kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Ðề tài: TRÍCH THIÊN TỦY-BẢN GIẢN LƯỢC

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định TRÍCH THIÊN TỦY-BẢN GIẢN LƯỢC

    TRÍCH THIÊN TỦY
    Phần I: Thông Thần Luận
    chương 1: Thiên Đạo
    chương 2: Địa Đạo
    chương 3: Nhân Đạo
    chương 4: Tri Mệnh
    chương 5: Lý Khí
    chương 6: Phối Hợp
    chương 7: Thiên Can
    chương 8: Địa Chi
    chương 9: Can Chi Tổng Luận
    chương 10: Hình Tượng
    chương 11: Phương Cục
    chương 12: Bát Cách
    chương 13: Thể Dụng
    chương 14: Tinh Thần
    chương 15: Nguyệt Lệnh
    chương 16: Sinh Thời
    chương 17: Suy Vượng
    chương 18: Trung Hòa
    chương 19: Nguyên Lưu
    chương 20: Thông Quan
    chương 21: Quan Sát
    chương 22: Thương Quan
    chương 23: Thanh Khí
    chương 24: Trọc Khí
    chương 25: Chân Thần
    chương 26: Giả Thần
    chương 27: Cương Nhu
    chương 28: Thuận Nghịch
    chương 29: Hàn Thử
    chương 30: Táo Thấp
    chương 31: Ẩn Hiển
    chương 32: Chúng Quả
    chương 33: Chấn Đoài
    chương 34: Ly Khảm
    Phần II: Lục Thân Luận
    chương 1: Phu Thê
    chương 2:Tử Nữ
    chương 3: Phụ Mẫu
    chương 4: Huynh Đệ
    chương 5: Hà Tri Chương
    chương 6: Nữ Mệnh Chương
    chương 7: Tiểu Nhân
    chương 8: Tài Đức
    chương 9: Phấn Úc
    chương 10: Ân Oán
    chương 11: Nhàn Thần
    chương 12: Tòng Tượng
    chương 13: Hóa Tượng
    chương 14: Giả Tòng
    chương 15: Giả Hóa
    chương 16: Thuận Cục
    chương 17: Phản Cục
    chương 18: Chiến Cục
    chương 19: Hợp Cục
    chương 20: Quân Tượng
    chương 21: Thần Tượng
    chương 22: Mẫu Tượng
    chương 23: Tử Tượng
    chương 24: Tính Tình
    chương 26: Tật Bệnh
    chương 27: Xuất Thân
    chương 28: Địa Vị
    chương 29: Tuế Vận
    chương 30: Trinh Nguyên

    Phần I
    Thông Thần Luận
    Trời có âm dương ; cho nên mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy, tứ quý thổ vậy; tùy theo thời lệnh mà hiển hiện sinh sát; trong mệnh có trời đất người tức lý tam nguyên, mọi thứ căn bản đều như thế cả.
    Can là thiên nguyên, chi là địa nguyên, trong chi tàng chứa nhân nguyên. Con người thụ mệnh, các khí không đồng đều, chung quy không vượt khỏi cái lý tam nguyên, nó chính là phương pháp tông vậy. Âm dương vốn là thái cực, mệnh danh vua nâng đỡ, ngũ hành đi khắp bốn mùa, là thần sinh sát, thống quản hệ tam tài, vạn vật bắt nguồn từ đó . “trích thiên tủy” chương thiên đạo tỏ rỏ như thế.
    Lời người dịch:

    Lời nói của người xưa thường ngắn gọn, súc tích đôi khi khó hiểu. Chương thiên đạo này, cổ nhân muốn bàn đến cái nguồn gốc âm dương mà kinh dịch đã nói đến. Hai khí âm dương này cọ xát nhau mà có bốn mùa, mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy và bốn tháng cuối của bốn mùa là thổ khí (tháng 3, 6, 9, 12). Năm cái khí này tư lệnh bốn mùa, thuận thì sinh nghịch thì sát.
    Con người bẩm thụ cái thiên khí âm dương, ngũ hành mà thành hình tượng. Tuy thụ mệnh không đồng như nhau, nhưng tựu trung lại thì không vượt ra khỏi lý tam nguyên thiên địa nhân vậy. Mệnh bẩm thụ khác nhau thì cát hung cũng không giống nhau, thế gian có vạn vật tất có vạn sự.
    Thế cho nên người học đoán mệnh cái cần yếu nhất là hiểu được cái cơ động tịnh của âm dương, cái sinh vượng của ngũ hành trong tứ trụ có trong thiên can và địa chi được mệnh danh là tam tài thiên địa nhân. Cứ theo cái lẻ ấy mà luận đoán cát hung, đó là phương pháp chính tông vậy. Vì vậy mà cổ nhân mới khuyên chúng ta: muốn biết được lý tam nguyên thí trước phải xem sự động tịnh của âm dương sau đó mới xét đến cái lý của ngũ hành (Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công) là như thế đó.
    Chương 2: Địa Đạo
    Đất có cương nhu, mà ngũ hành sinh ở đông nam tây bắc và trung ương, trời đất giao cảm nhau mà sinh ra cái khí diệu dụng. Con người do bẩm thụ cái thiên khí không đồng đều nhau , cũng vì vậy mà cát hung theo đó cũng khác nhau như thế.
    “cao lớn thay đức của kiền, vạn vật từ đó”, “cao lớn thay đức của khôn, vạn vật được sinh”, kiền chủ cương cứng, khôn chủ chủ nhu thuận. Cương nhu theo nhau, mạnh yếu trợ nhau; đắp đổi nhau, qua lại đóng mở. Chỉ do cái khí ngũ hành thiên lệch, mà cát hung của mệnh nhân đó mới phát sinh vậy.

    Âm dương cọ sát nhau mà sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Đứng đầu quẻ dương là kiền, đứng đầu quẻ âm là khôn. Kiền chủ cương kiện là cái tượng ban đầu của sự vật, nên thánh nhân mới bảo “đại tai kiền nguyên”. Khôn chủ nhu thuận là cái hình của sự vật, nên thánh nhân mới bảo”chí tai khôn nguyên”.

    Hai khí kiền khôn này một cái cương một cái nhu cùng theo nhau, tương trợ nhau, cùng giao cảm nhau mà sinh ra sáu quẻ chấn tốn ly khảm cấn đoài. Vạn vật cũng từ đó mà tương sinh tương diệt.Thông cũng tượng cho quẻ Thái là thời mà âm dương tương giao tư sinh vạn vật. Giam cũng tượng cho quẻ Bĩ là thời mà hai khí âm dương bất tương giao vạn vật tất tương diệt.

    Nhân sinh bẩm thụ mệnh, khí ngũ hành thiên lệch bất toàn mà họa phúc, cát hung cũng từ đó mà sinh ra. Vì thế cho nên, thánh nhân khuyên người học đoán mệnh cần hết sức quan tâm sự thông thuận của hai khí âm dương, sự lệch lạc của ngũ hành mà quyết định cát hay hung, thành hay bại, thọ yểu cùng thông (Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung) ý là như vậy đó.

    chương 3: Nhân Đạo
    Vạn vật sinh ra trong trời đất không có giống nào mà chẳng thụ cái khí ngũ hành, duy chỉ con người thụ được cái khí ngũ hành toàn mà quý vậy. Nhưng cát hung chẳng đồng nhau là do ngũ hành đi thuận hay nghịch đó vậy.
    Con người sống giửa trời đất, đầu tiếp giáp trời chân tiếp giáp đất, bát tự cần nhất là thiên can và địa chi thông thuận chớ nên nghịch thường. Thuận thì được tương sinh, nghịch thì bị khắc hại, thế cho nên cát hung cũng từ đó mà phân rẻ vậy.

    Như thiên can khí nhược, được địa chi sinh, địa chi khí suy, được thiên can trợ chi, tức can chi thông thuận tất cát; giả như thiên can suy nhược mà còn bị địa chi ức chế, địa chi khí nhược mà còn bị thiên can khắc chế, tức can chi nghịch thường hung nguy vậy.

    Thí như thiên can mộc rất sợ hành kim khắc thiên can mộc, địa chi có tý hợi hóa kim sinh can; nếu địa chi không có tý hợi, mà thiên can có nhâm quý có thể hóa kim sinh mộc; còn như thiên can không có nhâm quý mà địa chi có dần mão mộc, tức thiên can thông gốc (thông căn); bằng như địa chi không có dần mão mộc, thiên can có bính đinh hỏa khắc chế kim, thiên can mộc có sinh cơ, sự cát có thể biết được.

    Nhược bằng thiên can không có nhâm quý, mà trái lại trên can còn hiển lộ can mậu kỷ; còn địa chi không có hợi tý dần mão, mà trái lại còn thấy xuất hiện thìn tuất sửu mùi thân dậu, thổ kim trùng trùng sinh trợ kim, thiên can mộc bị khắc vô sinh trợ, hung nguy có thể biết được vậy. Dư lại các loại cứ thế mà suy.

    Đại phàm vạn vật không vật nào mà chẳng mang thuộc tính ngũ hành, trên tiếp giáp với trời dưới tiếp giáp với đất, như loài chim bay trên trời cá bơi dưới nước, cỏ cây muôn thú chạy trên bờ đều mang thuộc tính ngũ hành khí chuyên sinh của nó, như loài mang bộ lông vũ thuộc hỏa, loài cỏ cây thuộc mộc, loài cá bơi lội dưới nước thuộc kim, duy con người thụ đắc khí thuộc thổ, cư trung ương gồm nắm cả kim mộc thủy hỏa, kim mộc thủy hỏa thành từ thổ, vì vậy tuy ngũ hành nhất khí nhưng rất tôn quý. Thế cho nên bát tự tối cần tứ trụ lưu thông, ngũ hành sinh hóa hữu tình, đại kỵ tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô. Ngụy thư vọng ngôn cho rằng tứ trụ tứ mậu ngọ là mệnh thánh đế, tứ quý hợi là mệnh của hầu bá, nghiên cứu cận lý mới biết hậu nhân ngoa truyền.

    Ta trong quá trình hành đạo, đã xem qua những tứ trụ có tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất và nhiếu hơn thế nửa, đều luận mệnh theo lẻ thiên khô, chẳng cái nào mà không ứng nghiệm.
    Thí như Càn tạo mệnh tứ trụ tứ nhâm dần, địa chi dần tàng chứa hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, trên có nhâm thủy sinh cho, mặc dù thê tài tử tôn ngộ lộc, nhưng chẳng toàn mỹ, nguyên nhân là do hỏa thố trong dần không có chi dẫn xuất, cho nên tuổi thơ cô khổ, trung vận cơ hàn, mãi quá 30 tuổi, hạn hành phương nam dẫn xuất hỏa trong dần, kinh doanh phát tài, tuổi già không con, gia nghiệp bị phân chia tranh đoạt, có thể biết được như vậy nhờ luận theo cách cục thiên khô. Do vậy nghiệm ra rằng, mệnh cục quý trung hòa, thiên khô chung quy có tổn hại; mệnh cục cần ngũ hành cân bằng đầy đủ, mệnh cục kỳ dị bất túc lấy chi nương tựa vậy.
    Trời đất có âm dương ngũ hành, nhị khí giao cảm nhau mà sinh ra vạn vật. Thế cho nên, dưới thế gian không có giống loài nào mà không thụ đắc cái khí âm dương ngũ hành của trời đất.
    Con người là động vật chí linh, do bẩm thụ khí âm dương ngũ hành toàn vẹn. Nhưng do sự thụ khí bất đồng và sự lưu hành của khí âm dương ngũ hành thuận nghịch mà cát hung họa phúc không đồng nhau vậy.
    Âm dương ngũ hành trong bản mệnh chính là can chi, cần nhất là trung hòa, bất túc, khiếm khuyết dù có phú quý chăng nữa cũng bất toàn. Thế cho nên, thánh nhân khảo mệnh cần sự trung hòa đầy đủ theo thường lý, chớ nên kỳ dị khác lạ nghịch thường chung cuộc hung hại (Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc bội).

    Chương 4: Tri Mệnh
    Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội
    Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho ấn thực là phúc, kiêu kiếp là tai ương, mà không biết rằng tài quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn tài có thể dưởng mệnh, quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!

    Ví như nguồn tài có thể dưởng mệnh mà tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có ma bần tiện đó sao, quan có thể vinh thân mà thân suy quan vượng chỉ lá quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:”dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:” chẳng dụng tài tinh có thể dụng kiếp, chẳng dụng quan tinh có thể dụng thương quan, dụng thần ấn tinh có thể dụng tài, dụng thần thương thực có thể dụng kiêu”. Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!
    Càn tạo mệnh:

    Tân mão đinh dậu canh ngọ bính tý

    Đại vận: bính thân ất mùi quý tỵ nhâm thìn canh dần kỷ sửu mậu tý đinh hợi

    Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).
    Đổng trung đường tạo mệnh:

    Canh thân canh th́n mậu th́n mậu ngọ

    Đại vận: tân tỵ mậu ngọ quư mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tư

    Nhật can mậu thổ, sinh vào tiết quư xuân vào giờ ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi th́n thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưởng canh, chi hội thân th́n, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là đinh hỏa tàng trong chi ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung ḥa. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái b́nh sự nghiệp, măi đến vận mậu tư hội thân tư th́n thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.

    Càn tạo mệnh:

    Tân dậu tân sửu kỷ dậu bính dần
    Đại vận: nhâm dần quư măo giáp th́n ất tỵ bính ngọ đinh mùi mậu thân kỷ dậu

    Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại th́ cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm quư thủy thi hương trắc trở, sang vận tỵ ngọ mùi hỏa địa, tiền tŕnh tốt đẹp không thể nói hết(Tân Tăng).

    Càn tạo mệnh:

    nhâm th́n nhâm dần giáp dần canh ngọ
    Đại vận: quư măo giáp thần ất tị bính ngọ đinh vị mậu thân kỷ dậu canh tuất

    Họ vương tạo mệnh, luận theo lẻ thường cho rằng thân cường sát thiển, lấy canh kim thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đóng, cố gắng độc thư tất sau nên danh; măi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm th́n thổ là thủy khố, chứa thủy dưởng mộc, không thể sinh kim, một canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị ngọ hỏa chế khắc, nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà c̣n trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển quư, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận bính ngọ, khắc mất canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên canh kim là khắc thần vậy.

    Càn tạo mệnh:

    quư dậu giáp tư quư hợi tân dậu

    đại vận: quư hợi nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính th́n

    Một người ở phúc kiến không tính danh, mùa đông năm canh ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳnng nên lấy hỏa thổ làm dụng. người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ ǵ lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gi chăng? Sách xưa thường viết:”vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận quư hợi, quư thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận nhâm tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị h́nh phạt hao tán; tân dậu canh thân, đinh tài lưỡng vượng; kỷ mùi mậu ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo ḍng nước chảy, h́nh thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “ nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi ḍng, không nên nghịch ḍng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.

    Càn tạo mệnh:

    Quư dậu quư hợi quư hợi tân dậu
    Đại vận: nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính th́n ất măo

    Theo “trích thiên thủy” chép cách tạo mệnh trên như quư dậu/giáp tư/quư hợi/tân dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày giáp tư mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày quư hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ nhâm thiết tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẻ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy đựơc, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lư, đại khái bát tự thuộc loại h́nh dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ư tứ sâu xa vựơt thời đại, chẳng kiềm hăm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngữa ḷng người vậy.

    Lời người dịch:
    Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lư hội” vậy.

    Chương 5: Lư Khí
    Lư thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương

    Cái khí đóng mở qua lại, lưu hành trong khoảng trời đất. Cái khí đó khi ban đầu th́ nó tiến, tiến măi cùng cực th́ nó thoái, như giáp mộc vào tháng 3; một khi cái khí này tiến đến cực thịnh th́ nó thoái, như giáp mộc sinh vào tháng 9 vậy. Người học mệnh nên b́nh lặng mà ḍ xét nông sâu, ấy có thể là ngôn mệnh vậy.
    Cái cơ tiến thoái, không thể không biết. Trường sinh thì sinh vượng tử tuyệt thì suy, cần nên biện rỏ cái lý tiến thoái, sau đến xem xét cái chân suy vượng vậy. Đại phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, dựa theo tứ quý mà định. Tương lai giả tiến, tức vượng tướng; tiến mà đương lệnh nắm quyền tức vượng cực; sau khi khí vượng cực tức hưu; thoái mãi vô khí tức tù. Cho nên, cần biện rỏ hưu tù vượng tướng, biết được cái cơ tiến thoái vậy. Là nhật chủ, là dụng thần tối cần vượng tướng, chẳng nên hưu tù vô khí; là hung sát, là kỵ thần chẳng nên vượng tướng, mà nên hưu tù tử tuyệt. Như cái khí ban đầu hành vượng, khí vượng vật tất thịnh, vượng thịnh khí chậm thoái, tướng là phương hướng khí trường sinh, hành khí cấp mạnh mẽ vô cùng tận. Hưu quá tức tù khí, khí tù là cái khí đã cực vượng, nên khí sinh chậm; cư nơi phương vị thoái khí, đang tiềm ẩn chưa hiển lộ. Vì vậy luận khí tiến thoái là phương pháp luận chính mà học giả cần phải chú tâm vậy.

    Viên cử lượng tạo mệnh:

    Đinh hợi canh tuất giáp thìn nhâm thân

    Đại vận: kỷ dậu mậu thân đinh mùi bính ngọ ất tỵ giáp thìn quý mão nhâm dần

    Giáp mộc cực hưu tù, canh kim lộc vượng chắc can giáp mộc, can năm đinh hỏa khả dĩ chế sát hộ thân, tối hiềm thìn tuất hai chi tài sinh sát khắc thân, mệnh cục tựa chừng như sát trọng thân khinh, người thường không biết rằng giáp mộc sinh tháng 3 khí đang tiến, nhâm thủy cùng với thân kim tương sinh nhật chủ, bất thương đinh hỏa. Đinh hỏa tuy nhược nhưng thộng căn tuất thổ, thìn thuộc thấp thổ, mộc thuộc dư khí. Thiên can nhật chủ nhất sinh nhất chế, địa chi gặp trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu tình, ngũ hành bất tranh bất kị. hạn hành đinh hỏa vận khoa giáp liên đăng, dụng thần hỏa chế sát quá tỏ rỏ.


    ất hợi canh thìn giáp tuất nhâm thân

    đại vận: kỷ mão mậu dần đinh sửu bính tý ất hợi giáp tuất quý dậu nhâm thân

    Cũng như cách tạo mệnh trên có khác đôi chút nhưng không lớn. Người thường luận”giáp là anh trai của ất, ất lấy canh làm chồng, biến hung thành cát”, tham hợp quên xung, tức canh kim làm cách cục tốt đẹp, văn chương quý hiển, cớ sao mệnh gặp cơ hàn? Do không biết rằng ất canh hợp hóa kim trở lại phù trợ khắc thần. Trên nhật chủ giáp thìn(tức mệnh của họ Viên trên-ND), thìn thuộc thấp thổ có thể sinh mộc, còn mệnh này nhật chủ giáp tuất, tuất thuộc táo thổ không thể sinh giáp mộc; trên thân thìn củng hóa, còn tạo mệnh dưới thân tuất bán hội kim cục sinh sát khắc thân. Trên giáp mộc đang tiến khí, tức canh kim thoái khí, còn dưới canh kim tiến khí, giáp mộc thoái khí. Chọn lấy hai cách tạo mệnh trên , cách cục tự nhiên, cái cơ tiến thoái, không thể không biết vậy.

    Lời người dịch:
    Ở chương tri mệnh này, thánh nhân muốn nói đến cái dụng của tạo mệnh. Con người sống giửa trời đất, không hiểu mệnh như người lạc lối không phương hướng, hiểu biết và vận dụng được nó không những có thể giúp cho mình sang suốt không lầm lạc mà còn giúp cho mọi người hay cho cả thiên hạ thoát khỏi mông muội vậy. Đồng thời người cũng nhấn mạnh đến cái lý tiến thoái của âm dương ngũ hành, tiến tức sinh vượng, thoái tức hưu tù. Thế cho nên,” Lý thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương” vậy.

    Chương 6: Phối Hợp
    Phối hợp chi cơ tử tế tường, đinh nhân phúc họa dữ tai tường
    Thiên can địa chi tương phối tương hợp, người học mệnh cần phải tế tâm suy tường cái cơ tiến thoái, mà có thể đoán định được họa phúc tai ương vậy.
    Nhâm thị viết: chương này cốt làm sáng tỏ những sai lầm ngụy tạo. Phối hợp can chi, cần sưu tầm nghiệm suy chính lý, cùng vượng suy hỉ kị của ngũ hành, không thể không luận can chi tứ trụ, chuyên lấy kỳ cách dị cục, thần sát các loậi mà vọng đàm, mới biết họa phúc lấy chi làm bằng cớ, cát hung không nghiệm. cái lý của mệnh, tồn đọng ở dụng thần, chẳng nên phân biệt câu nệ tài, quan, ấn thụ, kiêu kiếp, thương thực, mà điều có thể làm dụng thần, cho rằng đẹp thì tốt cát lợi, ác tức xấu, tăng đạo. Nên cần nhất xem xét nhật chủ cường vượng, dụng thần hỉ kị, cần đè nén, ức chế thì đè nén ức chế, cần sinh phù thì sinh phù, do cái sự phối hợp qua lại mà xác định nên bỏ hay nên lấy, từ đó biết được vận đồ bỉ thái, họa phúc tai ương, chẳng không ứng nghiệm vậy.

    Càn tạo mệnh:

    Giáp tý mậu thìn canh thân nhâm ngọ

    Đại vận: kỷ tỵ canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi bính tý

    Luận theo thói thường, thiên can thấu tam kỳ thì cát, địa chi quý nhân củng hợp là vinh, vả lại, thân tý thìn tam hợp hội cục không gặp xung, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song toàn. Tuy nhiên canh kim sinh vào trọng xuân, thủy vốn hưu tù, nguyên có thể lấy quan tinh làm dụng thần, hiềm vì chi hội thủy cục, tất khảm thủy khí thế cường vượng, tức ly hỏa khí thế suy nhược, quan tinh thụ thương, không thể dùng làm dụng thần được. muốn lấy nhâm thủy vượng cực đối địch khắc thần, chỉ hiềm canh kim đắc tam kỳ thấu mậu, kiêu vượng đoạt thực, cũng không thể lấy làm dụng thần. giáp mộc tài tinh vốn có thể phù trợ dụng thần, làm thông thổ bảo vệ thủy, tiết thương sinh quan, tứ trụ dường như hữu tình, mà không biết rằng giáp mộc thoái khí, mậu thổ đưong quyền, không thể thông thổ. Lấy giáp mộc làm dụng thần, cũng là giả dụng thần, chẳng qua cũng chỉ là người bình thường mà thôi. Huống chi đại vận hành phương tây nam, giáp mộc ở đất hưu tù, tuy được của cải tổ nghiệp truyền lại, cũng bằng không, còn hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Lấy cách tam kỳ củng quý nhân luận mệnh, chẳng xem dụng thần sinh vượng, thật hư ngụy quá lắm.
    Càn tạo mệnh:
    Bính tý kỷ hợi ất sửu nhâm ngọ
    Đại vận: canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi
    Thiên can nhâm thủy khắc bính hỏa, địa chi tý thủy xung khắc ngọ hỏa, hàn mộc hỉ dương, chính ngọ hỏa thủy thế vượng thịnh, tất hỏa khí bị khắc tuyệt, tựa hồ danh lợi không thành. Ta suy nghĩ, ba thủy hai thổ hai hỏa, thủy thế tuy vượng, không có nguồn; hỏa vốn hưu tù cần thổ bảo vệ che chở, nhân đó mà dược cứu; huống chi thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏa sinh kỷ thổ, đều lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình, không có cái ý tương tranh tương khắc. Địa chi tuy cư bắc phương, nhưng hỉ kỷ thổ nguyên thần thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương che chở giúp đở, cần nên ngăn thủy bảo vệ hỏa, chính là có bệnh mà được cứu vậy. Với lại khí nhất dương vạn vật bắt đầu sinh sôi, mộc hỏa tiến khí, do đó thương quan dụng thần tú khí. Trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần sinh vượng, tuổi trung niên thi đậu. Giao vận dần, hỏa sinh mộc vựơng, đăng khoa giáp bản, nhập cung vua, thanh vân đắc lộ vận trình tiến tới. Từ hai cách tạo mệnh trên cho thấy, phối hợp can chi có lý, có thể xem xét qua loa được ư?

    Chương 7: Thiên Can
    Ngũ dương giai dương bính vi tối, ngũ âm giai âm quý vi chí
    Dịch nghĩa:
    Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương, duy chỉ bính hỏa mang khí thuần dương, dương trong dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm, duy chỉ quý thủy mang khí thuần âm, âm trong âm.
    Dịch nghĩa:
    Bính thuộc hỏa khí thuần dương, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà phát triển, thu liễm; quý thuộc thủy khí thuần âm, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà sinh ra, tươi tốt. Dương cực thì âm sinh, do vậy bính tân hợp hóa thủy; âm cực thì dương sinh, do vậy mậu quý hợp hóa hỏa. Âm dương tương giao, vạn vật khéo sinh sôi vậy. Đến như khí của mười can, theo tiên thiên mà nói thì khí đó đồng nhất khí (tức là do âm dương nhị khí sinh ra vậy-ND), theo hậu thiên mà luận thì khí đó cũng do hai khí tương hợp nhau mà thành. Giáp ất thuộc mộc, bính đinh thuộc hỏa, mậu kỷ thuộc thổ, canh tân thuộc kim, nhâm quý thuộc thủy cũng do phân biệt thể dụng mà ra, nhưng cũng không ngoài cái khí âm nhu thuận, cái dương khí cương kiện đó. Các mệnh gia nông cạn, làm ra các bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương đóng, ất mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu thổ làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim thuộc châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo đó đã lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi là tử mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân ra sinh tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí sinh vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời thực tế như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.

    Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

    Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.
    Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.
    Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.
    Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.
    Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!

    ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.
    Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy
    Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.

  2. #2

    Mặc định

    Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ tuyết. năng đoán canh kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ mã khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt(nhất bản tác hổ mã khuyển hương, giáp lai thành diệt).
    Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt, không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí mùa đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được, tân kim vốn mền yếu, nhưng bính hỏa vi hợp mà thành nhu nhược. Thổ là con của bính, nên tứ trụ thấy nhiều mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là vua của vạn vật, gặp nhâm quý vượng mà hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy. Bính hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt bốc lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ tuất, mà trên thiên can lộ giáp mộc tức mộc bị đốt cháy vậy.
    Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim, giống như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa, bính tân hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè xuống dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất là nơi hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt, trong trụ còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy. Theo đó mà luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản khí hỏa mãnh liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng tân kim hợp hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính hỏa; mậu thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy. Nhâm thủy có cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý thủy âm nhu, gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn, hợp hóa bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương cứng, cương gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi thế sự nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!
    Đinh hỏa nhu trung, nội tính chiêu dung. Bảo ất nhi hiếu, hợp nhâm nhi trung. Vựơng nhi bất liệt, suy nhi bất cùng, như hữu đích mẫu, khả thu khả đông.
    Đinh thuộc can âm, hỏa tính tuy âm nhu nhưng được khí trung chính. Bên ngoài tuy nhu thuận nhưng bên trong rất sáng đẹp, cái tính bên trong há chẳng sáng rỏ hay sao? ất mộc không sinh được đinh hỏa, ất mộc tối úy tân kim nhờ có đinh hỏa khắc chế tân kim mà cứu ất, không giống như bính hỏa khắc chế canh kim bảo vệ giáp mộc mà còn trở lại đốt cháy mộc, cũng như ất mộc bảo vệ đinh hỏa mà trở ngược lại làm cho đinh hỏa mờ ám tối tăm, đó chẳng phải là trái với đạo hiếu thường sao. Nhâm là vua của đinh, nhâm thủy rất sợ mậu thổ mà đi hợp với đinh, cái đinh hỏa này bề ngoài có vẻ như sinh trợ mậu thổ, nhưng bên trong ngầm hợp với nhâm thủy hóa mộc khắc chế thổ, khiến cho thổ không thể khắc thủy được, điều đó chẳng là trái với cái đạo trung quân sao. Sinh vào mùa thu mùa đông, thiên can trong tứ trụ có một giáp mộc, tức hỏa có nguồn nên sáng đẹp vô cùng không lo sợ phải bị tắt ngấm, cho nên mới nói khả thu khả đông. Đó là cái đạo nhu vậy.
    Đinh chẳng phải là đèn đuốc, so với bính đinh hỏa thuộc khí nhu thuận trung chính vậy. Bên trong sáng đẹp, có cái tượng văn minh. Khắc chế tân kim bảo vệ ất mộc, tân kim không thể khắc ất mộc do đó mà ất mộc được cứu; hợp nhâm thủy hóa mộc bảo vệ thủy, mậu thổ không thể khắc được nhâm thủy cho nên nhâm thủy được cứu. Do tính nhu thuận trung chính, mà không đi đến thái quá hay bất cập, tuy thời khí đang thừa vượng cũng không cháy rực; gặp lúc thất thời khí suy cũng không tận diệt. Thiên can trong tứ trụ thấu giáp ất mộc, sinh mùa thu chẳng sợ kim cường, địa chi trong tứ trụ tang chứa dần mão mộc, sinh vào mùa đông giá rét không sợ thủy vượng.
    Mậu thổ cố trọng, ký trung thả chính.Tĩnh hấp đông tích, vạn vật ty mệnh. Thủy nhuận vật sinh, hỏa táo vật bệnh. Nhược tại cấn khôn, phạ trùng nghi tĩnh.
    Mậu thổ chẳng là tường vách, so với kỷ thổ mậu thổ có tính chất khô cứng cao hậu, cùng kỷ thổ là nơi phát nguyên đại địa, nên đắc được cái khí trung chính to lớn vậy. Mùa xuân mùa hạ thì khí phát tích mà sinh vạn vật, mùa thu mùa đông thì khí thu vào mà thành vạn vật, do vậy mà làm chủ vạn vật. Mậu thổ có tính khí thuộc dương, nên ưa thích nhuận trạch không thích khô táo, tọa dần sợ thân xung, tọa thân sợ dần xung. Nếu bị xung tức căn gốc bị động, chẳng là mất đi cái khí trung chính cho nên cần tĩnh không nên động vậy.
    Mậu thuộc dương thổ, khí thế cố trọng, cư nơi trung chính. Mùa xuân mùa hạ khí động nên phát ra, tức khí phát sinh, mùa thu mùa đông khí tĩnh nên thu vào, tức khí thu tàng, do vậy mà làm chủ vạn vật. Có cái khí cao hậu, nên sinh vào mùa xuân mùa hạ hỏa khí thời vượng cần có thủy làm nhuận thổ, tắc vạn vật sinh sôi, khô táo tắc vạn vật chết khô; sinh vào mùa thu mùa đông, thủy nhiều cần hỏa sưởi ấm, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vạn vật thụ bệnh. Sinh vào tháng dần nguyệt tọa cung cấn sinh vào tháng thân nguyệt tọa cung khôn. Thổ mùa xuân bị mộc khắc khí chất hư nhược cần nên tĩnh; thổ mùa thu bị tiết khí nhiều quá thể chất bạc nhược không nên gặp xung. Tứ trụ, nhật chủ tọa dần thân ưa thích yên tĩnh tối kỵ gặp xung. Như sinh vào bốn tháng tứ quý (thìn, tuất, sửu, mùi), tối hỷ nhật chủ canh thân tân dậu khí kim, tú khí lưu hành bất tận tắc đoán định quý cách, kỷ thổ cũng đồng như thế. Bằng như tứ trụ gặp mộc hỏa, hay vận hành hỏa mộc tắc phá cách vậy.
    Kỷ thổ ty thấp, trung chính súc tàng. Bất sấu mộc thịnh, bất úy thủy cuồng. hỏa thiểu hỏa hối, kim đa kim quang. Nhược yếu vật vượng, nghi trợ nghi bang.
    Kỷ thổ khí chất ẩm thấp mỏng manh, cùng mậu thổ là chổ phát nguyên đại địa, cũng có tính trung chính mà có khả năng nuôi dưỡng vạn vật. Nhu thổ có khả năng sinh mộc, chứ mộc không thể khắc được nhu thổ, do đó mà không lo mộc vượng; thổ sâu có thể chứa thủy, thủy không thể nhiều đồng đãng, do vậy mà không sợ thủy cuồng. Hỏa yếu không gốc chẳng những không thể sinh thấp thổ, mà ngược lại còn bị thổ làm cho mất sáng; thấp thổ có thể làm tươi nhuận khí kim, cho nên kim nhiều kim sáng, mà trở nên trong suốt ưa nhìn. Đó là vô vi lấy hữu vi làm diệu dụng vậy. Nhược bằng vạn vật sung thịnh cường vượng, chỉ có thổ thế thâm sâu, được hỏa khí sưởi ấm tắc bốn phương thuận hòa vậy.
    Kỷ thổ thuộc đất ẩm ướt, khí thế trung chính tàng chứa, khí quán tám phương mà vượng bốn mùa, có cái công tư sinh diệu dụng không ngừng nghĩ vậy. Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không bị mộc khắc . Chẳng sợ thủy cuồng, có tính chất ngưng đọng cho nên thủy có thể được dung nạp mà không xung khắc vậy. Thủy ít hỏa tối, đinh hỏa chẳng sinh âm thổ mà còn bị thấp thổ làm cho che lấp mất sáng. Kim nhiều kim sáng, thấp thổ có thể sinh kim, làm nhuận kim. Trong trụ thổ nhiều tức thổ dầy, lại còn được bính hỏa xua đẩy khí ẩm ướt, đủ để tư sinh vạn vật. Cho nên nói nghi trợ nghi bang là như thế.
    Canh kim đái sát, cương kiện vi tối. đắc thủy nhi thanh, đắc hỏa nhi duệ. Thổ thuận tắc sinh, thổ can tắc thúy. Năng doanh giáp huynh, thâu vu ất muội.
    Canh kim trên trời là thái bạch kim tinh, tính cương kiện lại hay sát, kim vượng gặp thủy, tắc kim bạch thủy thanh dòng chảy không ngừng; kim cứng gặp hỏa, tắc khí tinh thuần mà sắc bén. Có thổ có thủy có thể tương sinh liên tục; có thổ có hỏa làm cho kim trở nên giòn yếu. Giáp mộc tuy cứng, nhưng có đủ sức khắc phạt; ất mộc tuy nhu nhưng hợp canh, canh kim trở nên nhu nhược.
    Canh kim thuộc khí túc sát mùa thu, tính rất cương kiện. thủy được kim thì xanh trong, nhâm thủy có thể dẫn xuất canh kim sinh xuất thủy tinh anh. Canh kim được hỏa thì trở nên sắc bén, đinh hỏa khí âm nhu, không cùng với canh kim thù địch, mà còn đi trợ kim biến thành lò luyện nung nấu kiếm kích bén nhọn. sinh vào mùa xuân mùa hạ khí thế còn non yếu, gặp được chi sửu thìn thấp thổ tức được sinh, gặp chi mùi tuất táo thổ bị giòn yếu. canh kim đích thị là cừu địch của giáp mộc, có thể khắc phạt giáp mộc; cùng với ất mộc tương hợp mà trở nên hữu tình. Ất mộc không cùng canh hợp hóa đi trợ bạo, canh kim cũng chẳng phải cùng ất hợp hóa thành nhu nhược, cần nên tỏ tường biện bạch cho rỏ ràng vậy.
    Tân kim nhuyễn nhược, ôn nhuận nhi thanh. úy thổ chi diệp, nhạc thủy chi doanh. Năng phù xã tắc, năng cứu sinh linh. Nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh.
    Tân thuộc âm kim, chẳng phải là châu ngọc. Đại phàm vật nhu nhuyễn thanh nhuận điều thuộc tân kim. Mậu kỷ thổ nhiều có thể bị chôn lấp, cho nên cũng không hay; nhâm quý thủy nhiều thì đẹp đẻ, cho nên mừng gặp. Tân kim lấy bính hỏa làm thần, hợp bính hỏa hóa thủy, khiến bính hỏa đi thần phục nhâm thủy mà phò trợ xã tắc; tân kim lấy bính hỏa làm vua, hợp bính hỏa hóa thành thủy sinh giáp, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, mà cứu giúp sinh linh. Sinh vào cuối hạ còn gặp thổ tức có thể làm cho hỏa yếu tối mà bảo tồn tân kim; sinh vào cuối đông còn gặp đinh hỏa tức đinh hỏa có thể xua hàn sưởi ấm tân kim. Cho nên tân kim sinh vào tháng mùa đông gặp bính hỏa tắc nam mệnh không hiển quý, dù có hiển quý cũng không bền; nữ mệnh khắc phu, không thì cũng bất hòa. Gặp đinh hỏa nam nữ mệnh thải điều quý hiển vậy.
    Tân thuộc khí kim ở chốn nhân gian, cho nên thanh nhuận dễ nhìn. Sợ thổ nhiều, thổ trọng mà thủy cạn kiệt kim bị chôn lấp; thủy đẹp đủ đầy, nhâm thủy có dư thừa mà có thể nhuận thổ dưỡng kim. Tân kim lấy giáp làm vua, bính hỏa có thể đốt cháy giáp mộc, may nhờ tân hợp bính hóa thủy khắc hỏa, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, trở nên tương sinh; tân lấy bính làm thần, bính hỏa có thể sinh mậu thổ, tân hợp bính hóa thủy, khiến cho không thể sinh mậu thổ, trở nên tương trợ. Há không phải phò trợ xã tắc cứu sinh linh sao? Sinh vào mùa hạ mà gặp nhiều hỏa, tứ trụ có kỷ thổ tức hỏa yếu tối kỷ thổ có thể sinh kim; sinh vào mùa đông gặp lúc thủy vượng, gặp hỏa tức hỏa làm ấm thủy mà dưỡng kim. Vì vậy mà nói nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh là như thế.
    Nhâm thủy thông hà, năng tiết kim khí, cương trung chi đức, chu lưu bất trệ. Thông căn thấu quý, xung thiên bôn địa. hóa tắc hữu tình, tòng tắc tương tể.
    Nhâm thủy tức là phát nguyên của quý thủy, là nước song côn lôn; quý thủy tức là nới quy về của nhâm thủy, là nước biển đông. Có phân có hợp, lưu chảy không ngừng, cho nên gọi là nước của trăm song, cũng là nước mưa móc thật khó mà phân biệt. Thân thuộc thiên quan, là nơi cửa sông thiên hà, vị trường sinh của nhâm thủy, có thể tiết chế khí kim túc sát tây phương. Có tính lưu chuyển chuyển động không ngừng, có đức tính cương trung tư nhiên vậy. Như trong tứ trụ có đủ thân tý thìn mà trên can còn thấu quý thủy, tức khí thế xung động mạnh, không thể ngăn cản nổi. Giống như nước biển đông vốn phát khởi ở thiên hà, trở thành họa thủy, trong tứ trụ bằng như gặp phải mà trong mệnh không có tài quan, tất gách lấy tai họa vậy thai! Nhâm hợp đinh hóa mộc mà sinh hỏa, có thể nói là hữu tình; nhâm thủy có thể chế bính hỏa chẳng khiến

    Nhâm thuộc dương thủy. Là nước sông dài tức thiên hà, trường sinh tại thân, thân tức là cửa sông thiên hà, vị trí tại cung khôn, có thể tiết khí tây phương kim túc sát, cho nên gọi là cương trung chi đức vậy. Là nguồn phát nguyên của trăm sông, lưu chuyển không ngừng, di chuyển tiến tới không thoái lui. Như trong trụ tam hợp thân tý thìn đầy đủ, như lại còn thấu quý thủy, tất khí thế phiếm lạm, dù có mậu kỷ thổ cũng không có thể ngăn nổi dòng chảy, giống như lấy cương chế cương phản thành xung kích mà thành họa thủy, tất cần dụng mộc tiết chế bớt khí thế nhâm thủy, thuận theo khí thế chẳng nên xung động. Nhâm hợp đinh hóa mộc có thể sinh hỏa, diệu dụng vô cùng hợp hóa thật hữu tình. Sinh vào các tháng tư năm sáu, trong trụ hỏa thổ thịnh vượng, chẳng hề có kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhân đó mà có cái công tương trợ vậy.

    Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận, công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa, hóa tượng tư chân.
    Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa vân vũ, có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Phàm trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa vừa sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ nhiều cũng không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không sợ kim nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý trường sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa vậy. Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề khuyết hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương bắt đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy.
    Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim, sinh sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì không thể hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can gặp chi thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa thổ, quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận canh kim, quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy trở nên đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô dày, trong trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận chân chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy.

  3. #3

    Mặc định

    Chương 8. Địa Chi

    Dương chi động thả cường, tốc đạt hiển tai tường; âm chi tĩnh thả chuyên, phủ thái mỗi kinh niên.
    Địa chi tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc dương tính động, khí thế cương mãnh lại phát cực nhanh, họa phúc hiển hiện rỏ ràng; địa chi sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm tính tĩnh, khí chất chuyên nhất lại phát chậm, việc bỉ thái hiển hiện không rỏ ràng, thường trong năm sau mỗi chí mới thấy hiển hiện.
    Địa chi từ tý đến tỵ thuộc dương, từ ngọ đến hợi thuộc âm, do luận theo đông chí khí dương sinh, hạ chí khí âm sinh; địa chi từ dần đến mùi thuộc dương, thân đến sửu thuộc âm, do phép phân chia theo mộc hỏa thuộc dương, kim thủy thuộc âm vậy. Các mệnh gia lấy tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc dương, sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm. Như tý tàng quý, ngọ tàng đinh, như thế thể dương lấy âm làm dụng; tỵ tàng bính, hợi tàng nhâm, như thế âm lấy dương làm dụng. Việc phân biệt thủ dụng cũng giống như cái lý cương kiện nhu thuận cùng với thiên can thật không khác, các việc sinh khắc chế hóa, sự lý thật đa đoan, điều quan trọng là địa chi sở tàng hoặc hai can, hoặc ba can đó vậy. Tất nhiên lấy trong các can tàng đó lấy can bản khí làm chính, địa chi dần tất trước tiên lấy giáp sau đó mới tới bính, địa chi thân tất trước tiên lấy can canh sau đó mới tới nhâm, dư các địa chi tàng can điều luận như thế cả. Địa chi thuộc dương tính động mà cứng mạnh, cát hung hiển hiện rỏ ràng nhanh chóng; địa chi thuộc âm tính tĩnh mà mền yếu, họa phúc hiển hiện không rỏ ràng chậm chạp. Trong mệnh cục hay tại vận trình, cần sự quân bình ý cầu tiêu tức vậy.
    Sinh phương phạ động nghi khai, bại địa phùng xung tử tế suy.
    Địa chi dần, thân, tỵ, hợi thuộc phương trường sinh, kỵ xung động; thìn, tuất, sửu, mùi thuộc phương mộ địa, cần nên xung khai. Tý, ngọ, mão, dậu thuộc phương tứ bại, gặp hợp tối hỷ nên xung, cho nên phương trường sinh không thể gặp xung; nếu bị xung cần gặp hợp phù, cũng như thế phương mộ địa thì không thể không gặp xung [vì mộ không xung không phát]. Cần nên biện bạch cho rỏ ràng.
    Thuyết xưa nói: kim thủy có thể xung khắc mộc hỏa, mộc hỏa không có thể xung khắc kim thủy, ấy là có thể luận theo thiên can như thế thì được, chứ còn luận theo địa chi thì không thể được. Bởi vì cái địa chi trong mang nhiều hành khí sở tàng không đơn nhất như thiên can. Cần nên xem xét đến cả cái thừa khí đương quyền đắc dụng, như vậy mộc hỏa cũng không thể xung khắc kim thủy được hay sao? Còn như phương trường sinh gặp xung động, tức lưỡng bại câu thương. Ví như dần thân gặp xung, trong thân tàng chứa canh kim, khắc giáp mộc trong dần, trong địa chi dần tàng chứa bính hỏa, vị thường chẳng khắc canh kim trong thân; nhâm thủy tàng trong thân, khắc bính hỏa trong chi dần, mậu thổ trong dần vị thường chẳng khắc nhâm thủy trong thân. Cho nên gặp xung khắc thì không thể yên tĩnh được. Địa chi tứ khố thì cần nên xung khai, tuy nhiên cũng có khi cần nên xung khai cũng có lúc thì không nên gặp xung, rỏ là do tạp khí tàng chứa trong nó cả. Tứ bại địa gặp xung cần nên suy tường cẩn trọng, địa chi tý, ngọ, mão, dậu tàng chứa duy chỉ có nhất khí, cho nên dụng kim thủy có thể bị xung, dụng mộc hỏa không thể bị xung. Tuy nhiên cũng cần nên linh hoạt mà luận đoán, không nên cứng nhất. Thảng như sinh vào mùa xuân mùa hạ lấy kim thủy làm dụng thần, tức kim thủy thuộc khí hưu tù tử tuyệt, mộc hỏa khí thế vượng tướng, kim thủy không thể thươg khắc ngược trở lại hay sao? Cần nên tham cứu cho tường tận.

    Giáp dần nhâm thân quý tỵ quý hợi

    Đại vận: quý dậu giáp tuất kỷ hợi bính tý đinh sửu mậu dần kỷ mão canh thìn

    Quý thủy sinh vào mùa thu kim đương lịnh, nên kim thủy thông nguyên, thủy nhiều mà vượng, mộc gặp xung không thể dùng làm dụng thần. Hỏa tuy hưu tù nhưng đứng cạnh nhật nguyên, huống hồ mới bắt đầu vào thu hỏa khí còn đầy đủ, dụng thần tất là tại tỵ hỏa. Tỵ hợi phùng xung, quần kiếp phân tranh, cho nên ba lần khắc vợ không con. Lại còn hành vận liên tục bắc phương tý hợi thủy khắc thần vượng địa, nhân đó mà phá hoại hao tán khác thường; đến đại vận mậu dần kỷ mão vận chuyển đông phương, hỷ dụng thần hợp đắc cách tứ trụ trở nên ấm áp; canh vận chế thương quan sinh kiếp tài, lại còn gặp lưu niên dậu, hỷ dụng thần bị thương khắc liên tiếp nên thất lộc.

    Quý tỵ quý hợi giáp dần nhâm thân

    Đại vận: Nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ

    Nhật nguyên giáp dần mộc sinh vào mùa đông, hàn tất cần lấy hỏa làm dụng thần. Tứ trụ lại còn gặp hai can quý thủy thương khắc dụng thần, không có ngũ hành thổ chế thủy dưỡng mộc, tứ trụ tựa như không được đẹp, cái hay ở đây là địa chi dần hợi hợp hóa mộc, tị hỏa tuyệt xứ phùng sinh, ấy là động cơ làm hưng phát tứ trụ vậy. Tuy nhiên hành đại vận ban đầu tây phương kim vượng thương khắc dụng thần phù trợ khắc thần, là bại vận nên cuộc sống thấp hèn phong sương ngày đây mai đó; nhân tuổi ngoài 40 vận chuyển nam phương hỏa thổ vận vượng, phù trợ dùng thần, ấn tinh gặp tài phát tài hơn vạn, cưới vợ sinh con liên tiếp 4 đứa. Do đó mà thấy rằng:”ấn thụ tác dụng, phùng tài vi họa không ít, không như tựu tài tinh, phát phúc thật lớn”.

    Tân mão đinh dậu mậu tý mậu ngọ

    Đại vận: Bính thân ất mùi giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão.

    Thương quan dụng ấn cách, tất lấy quan tinh làm dụng thần, không như tục luận thổ kim thương quan kỵ quan tinh. Địa chi mão dậu gặp xung, tức ấn thụ là thần vô sinh trợ; địa chi tý ngọ gặp xung khiến thương quan được tứ sinh. Địa chi kim vượng sinh thủy, mộc hỏa xung khắc mà hết lực, thiên can hỏa thổ hư khí còn bị thoát khí, nhân thế mà đọc sách chưa toại chí, kinh doanh bình thường. Tuy nhiên mừng khắc thần thủy không thấu ra, nên là văn nhân văn chương phong lưu, tinh tường thư pháp. Canh kim trung vận thiên can kim thủy, dù có chí nhưng không thành thân. Phàm thương quan bội ấn hỷ dụng thần tại mộc hỏa, tối kỵ xuất hiện kim thủy vậy.

    Tân mùi tân sửu mậu thìn nhâm tuất

    Đại vận: Canh tý kỷ hợi mậu tuất đinh dậu bính thân ất mùi.

    Tứ trụ địa chi toàn tứ khố, mừng lấy tân kim tiết khí thồ mà làm cho thổ trở nên tú khí, địa chi nguyên thần sửu thổ trong trụ tinh anh, với lại cái hay là mộc hỏa phục mà không thấu xuất, thuần thanh mà không hổn tạp. đến đại vận dậu, tân kim đắc địa, đậu hương bảng; nhân vận hành nam phương mộc hỏa tịnh vựơng, dụng thần tân kim thụ thương, mặc dù được tiến cử nhưng không được tuyển dụng.

    Mậu thìn nhâm tuất tân mùi kỷ sửu

    Đại vận: Quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão mậu thìn.

    Tứ trụ toàn cục ấn thụ, thổ nhiều kim bị chôn lấp, nhâm thủy dụng thần bị thổ vượng khắc hết, nếu như địa chi mùi tàng can ất mộc không bị xung phá có thể lấy làm dụng thần, mà chờ vận đến mà dẫn xuất phò trợ nhật nguyên, tuy nhiên địa chi mùi bị sửu tuất xung phá, tuy tứ khố tất cần nên xung khai, nhưng chớ chấp nhất theo đó mà luận, mà còn cần nên xem xét cái được mất của thiên can nữa, dụng thần hữu lực, tuế vận phò trợ, kế đến là tứ trụ không được thiên khô vậy.
    Chi thần chích dĩ xung vi trọng, hình dữ xuyên hề động bất động
    Xung tức tương khắc, cùng tứ khố huynh đệ gặp xung, do đó mà động; đến như tương hình tương hại, là do có tương sinh tương hợp mà tồn tại, vì vậy mà nói xung động và xung bất động có cái lý lẽ khác nhau.
    Địa chi bị xung khắc là do thiên can tàng chứa trong chi xung khắc, tuy vậy cũng cần nên biết rỏ cường nhược hỷ kỵ mà luận cho tường. Đến như tứ khố bị xung cũng có cái nên và cái không nên, như tháng 3 thuộc thìn, ất mộc đương lệnh, gặp tuất xung tức tuất tàng chứa tân kim mà có thể xung khắc ất mộc vậy; như tháng 6 thuộc mùi , đinh hỏa đương lệnh, gặp sửu xung tức sửu tàng chứa quý thủy mà có thể thương khắc đinh hỏa. Cứ như tam nguyệt chứa ất, lục nguyệt chứa đinh tuy thuộc thối khí, bằng như đắc lệnh có thể trọn lấy làm dụng thần, bị xung tức thụ thương không thể lấy làm dụng thần được. Người sau làm ra ngụy thuyết cho rằng mộ khố phùng xung tức phát. Ý cho rằng mộ tức là phần mộ; khố thuộc tứ khố là nơi quy về của kim mộc thủy hỏa, thí như đắc khí cao vượng gặp xung khai mộ khố tất phát phúc lớn. Như thiên can thuộc hành mộc hỏa kim thủy, địa chi không có dần, mão, tỵ, ngọ, thân, dậu, hợi, tý lộc vượng, mà tứ trụ toàn địa chi thìn tuất sửu mùi gốc thuộc tứ khố nên thông căn, gặp xung tất gốc bị đánh bật, thế cho nên không khi nào có chuyện gặp xung động mà cường vượng được. Bằng như không dùng làm dụng thần, mà đi lấy hành thổ làm hỷ thần gặp xung động thìn hữu ích không có tổn hại, cái thổ xung động là nguyên thần đi sinh trợ dụng thần vậy. cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy chi làm nhất định, như hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, gọi là tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương hình? Tý hình mão mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp xung sao còn lại đi tương hình? Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc thổ khí thì không thể nào tương hình được. Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần thân tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao? Lại còn nói tý mão nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình, lại còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ. Xuyên tức là hại, lục hại là do lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu mà gặp mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại, chẳng không tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại tương hại? vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng, thật lầm lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương hình, lỗi lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy.


    Bính tý tân mão nhâm tý quý mão

    Nhâm thìn quý tỵ giáp ngọ ất mùi bính thân đinh dậu.

    Nhật nguyên nhâm tý, địa chi phùng lưỡng nhận, thiên can thấu xuất quý thủy tân kim, ngũ hành không có thổ, niên can bính hỏa lâm tuyệt địa, bính hợp tân hóa thủy, tối hỷ trụ tháng địa chi mão vượng, tiết cái khí nhật nguyên nhâm thủy, có thể hóa tỷ kiên dương nhận sinh vượng. Tú khì lưu hành, là người cung kính thủ lể, tính tình hòa ái mà trung nghĩa tiết tháo. Đến đại vận giáp mộc nguyên thần phát lộ, liên tiếp trúng cao khoa; ngọ vận đắc mão mộc tiết khí thủy sinh hỏa, cùng ất mùi bính bính vận, quan đến quận thú, đường sĩ hoạn thuận lợi. Theo lối tục luận, tý mão thuộc hình phạt vô lể, với lại thương quan và dương nhận gặp hình tất tính tình ngạo mạn vô lể, hung ác không nói hết.

    Tân mùi ất mùi canh thìn đinh hợi

    Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu.

    Nhật nguyên canh thìn, sinh vào tháng quý hạ, kim đang tiến khí thổ đương quyền, hỷ kỳ đinh hỏa ty lệnh, nguyên thần phát lộ mà làm dụng thần, có thể khắc chế tân kim tỷ kiếp trợ thân. Địa chi mùi tàng đinh hỏa thuộc dư khí, thìn tàng chứa mộc dư khí, tài quan thong căn mà có khí, cái hay là hợi thủy nhuận thổ dưỡng kim mà sinh mộc, tứ trụ đầy đủ không khuyết hãm. Vận đến đông nam, kim thủy hư nhược mộc hỏa thực vượng, nhất sinh không gặp hung gặp hiểm. Đại vận thìn lưu niên ngọ, tài ấn đều được sinh phù, trung niên đăng khoa bảng, quan thăng đến tư mã. Thọ đến đại vận sửu.

    Nhận xét của tác giả:

    Như nghiệm xét, cái kiền tạo trên xuất sinh thời thần khớp với năm tân mùi tiết tiểu thử, người xưa luận mệnh, phàm tứ trụ người sinh gặp lúc giao tiết, đại vận lấy 10 năm, tự ngàn xưa lịch thư lấy giờ khắc giao tiết có sai sót thiếu chuẩn xác, không có phương pháp nào xác định rỏ ràng sinh trước hoặc sau giao tiết. Thiên vân lịch pháp ngày nay phân chia thời khắc giao tiết sau trước thật chính xác rỏ ràng, vì thế mà biết được hành vận sớm muộn, phép tắc ngày nay so với phép người xưa có nhiều bất đồng. Như tạo mệnh trên, nếu luận sau tiết tiểu thử thì một tuổi đã bắt đầu hành đại vận, tức năm bính ngọ là năm 36 tuổi ứng vào đại vận mão. Thọ đến sửu vận, tức theo phương pháp xưa thì sau 66 tuổi, nhưng theo phương pháp ngày nay thì sửu vận thì chỉ gần sau 56 tuổi, tức không thể nói là thọ được. Còn sau năm 66 tuổi phải là đại vận tý thủy, địa chi tý thìn hợp thành thủy cục hóa thương quan, mới chung cuộc. Tuy như vậy, mệnh học lý rất tinh vi, nên phương pháp xưa cũng không nên coi thường mà nên tham tầm nghiên cứu cho tường tận chân cơ diệu lý vậy.
    Tân sửu ất mùi canh thìn đinh sửu

    Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu.

    So với tứ trụ trên đại đồng mà tiểu dị, tài quan cũng thong căn hữu khí, trên tức đinh hỏa tư lệnh đương quyền, còn tứ trụ dưới tức kỷ thổ đắc lệnh. Chỉ hiềm trụ giờ sửu thổ, đinh hỏa tức diệt, tất niên can tân kim gặp nhiều kim nên rất cường vượng, xung khử địa chi mùi thổ tàng thiên can mộc hỏa, tài quan tuy hư nhược. Sơ vận giáp ngọ, mộc hỏa tịnh vượng, ấm tí có thừa; nhất giao quý tỵ khắc thiên can đinh hỏa mà củng phò địa chi sửu thổ, thương quan tỷ kiếp tịnh vượng, hình thương hoa tán; nhâm thìn vận, thê tử cả hai đều bị thương tổn, gia nghiệp tiêu tán, xuống tóc mà làm tăng đạo. Theo tục thư mà luận, địa chi sửu mùi xung khai tài quan lưỡng khố, danh lợi lưỡng toàn vậy.

  4. #4

    Mặc định

    Ám xung ám hội vưu vi hỷ, bỉ xung ngã hề giai xung khởi
    Nguyên chú: Như tứ trụ cách cục không bị khuyết hãm, nhân đấy chọn ám xung ám hội, xung khởi ám thần mà lại hội hợp ám thần, người minh xung với ta minh hợp với ta đều như thế, như địa chi tý thủy đến xung khắc địa chi ngọ hỏa, địa chi dần mộc cùng với tuất thổ tam hợp hóa hỏa cục. Ấy thế nhật chủ là ta, lệnh tháng là người; đề cương là ta năm là người; tứ trụ là ta lưu niên đại vận là người; vận đồ là ta năm tháng là người. Như ta thuộc địa chi dần mộc người thuộc địa chi thân kim, thân kim có thể xung khắc dần mộc, tức là người đến xung ta; như ta thuộc địa chi tý thủy người thuộc địa chi ngọ, tý thủy có thể xung khắc địa chi ngọ hỏa, tức là ta đến xung người. Đó đều là xung khởi vậy
    Nhâm thị viết: Địa chi gặp xung vốn chẳng là điều tốt đẹp, điều đó tất nhiên dẫn đến bát tự khuyết hãm cùng cực, tứ trụ mất cân bằng. Mộc hỏa vượng, kim thủy tất không đủ; kim thủy vượng tất mộc hỏa không đủ. Bằng như nhật chủ vượng mà còn thừa lệnh thì cần nên xung mất đi bớt, nhật chủ suy nhược mà còn thiếu thì cần nên hội hợp mà sinh phù nhật chủ. Nếu như tứ trụ không gặp hợp xung, gặp tuế vận đến ám xung ám hợp lại càng hay. Tứ trụ có bệnh mà được cứu thì tốt. Tuy nhiên cần nên phân biệt cái ta xung và cái xung ta, cái lý của hội hợp cũng có đến có đi vậy. Người và ta bất tất phân chia năm tháng là người ngày giờ là ta , cũng chẳng nên phân chia tứ trụ là mình, tuế vận là người, tóm lại làkhi luận đoán cần nên biết hỷ thần thuộc về ta, kỵ thần thuộc về người. Như hỷ thần là địa chi ngọ hỏa, gặp tý xung tức là người đến xung ta, rất mừng cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục phù trợ dụng thần; lại như dụng thần là địa tý thủy, gặp ngọ xung tức là ta đến xung người, tối kỵ cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục khắc chế dụng thần. Như hỷ thần là địa chi tý thủy có địa chi thân cùng với địa chi thìn đến tam hợp hóa thủy cục trợ giúp dụng thần tất mệnh số gặp nhiều may mắn tốt đẹp; hỷ thần thuộc địa chi hợi có đại chi mão mùi đến tam hợp hóa mộc tiết khí dụng thần tất tứ trụ có nhiều thương tổn tất gặp nhiều hung hiểm. Khá nên ta đến xung người chớ nên người đến xung ta. Ta đến xung người tất xung khởi; người đến xung ta tất xung không khởi lên được. Thủy hỏa tương xung tương hợp đều như thế, dư các loại đều suy luận như thế cả.
    Canh tuất ất dậu giáp dần canh ngọ
    Bính tuất đinh hợi mậu tý kỷ sửu canh dần tân mão.
    Tứ trụ can thấu lưỡng canh, mùa thu kim đương lịnh, địa chi hội hỏa cục, tuy chế sát có công, mà khắc tiết nhật chủ không nên có. Với lại canh kim khí uy mãnh một phương, lấy hỏa khí khắc chế cái uy của nó, sao bằng tiết khí nó mà sinh phù nhật chủ. Hóa khí đó có cộng năng làm ích lợi cho nhật chủ; còn lấy hỏa chế khắc kim khí thì nhật chủ bị tiết khí sinh hỏa. Do đó mà suy luận, không nên hội hỏa cục, nếu hội hỏa cục trở lại làm kỵ thần. đại vận tý lưu niên thìn đại khôi thiên hạ. tý vận xung phá hỏa cục, xung khứ ngọ vượng thần dẫn thông canh kim, làm lợi ích nhật chủ; thìn niên thuộc thấp thổ có thể tiết khí hỏa, củng phò tý thủy đủ sức sinh bồi nhật chủ vậy.
    Đinh tỵ quý sửu đinh mão bính ngọ
    Nhâm tý tân hợi canh tuất kỷ dậu mậu thân đinh mùi.
    Nhật nguyên đinh hỏa tuy sinh vào quý động, tỷ kiếp trùng trùng, quý thủy thoái khí không đủ lực chế kiếp, do đó không thể lấy làm dụng thần. Cho nên lấy tân kim tàng trong địa chi sửu làm dụng thần, tiết khí tỷ kiên sinh tài, là hỷ thần phụ cho dụng thần. Ngại hiềm ở đây là địa chi mão mộc sinh kiếp đoạt thực, do đấy mà tuổi niên thiếu hình thê khắc tử. Sơ vận nhâm tý tân hợi, ám xung tỵ ngọ hỏa, ấm tí có thừa. Đại vận canh tuất trở lại ám hợp ngọ hỏa, dẫn đến hình thương tai kiếp; đến đại vận kỷ dậu hội kim cục xung khứ mão mộc khắc thần, phát tài thập vạn. Từ đó cho thấy, ám xung kỵ thần, ám hội kỵ thần, phát phúc không ít; ám xung hỷ thần, ám hội kỵ thần tai họa khôn lường. Cái lý ám xung ám hội, khá nên sao nhãng ư?
    Canh dần tân tỵ bính dần tân mão
    Nhâm ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi.
    Nhật nguyên bính hỏa sinh vào mạnh hạ, địa chi hai dần một mão, tỵ hỏa đương quyền, dẫn xuất bính hỏa trong dần, thiên can tuy gặp canh tân, nhưng canh tân hư nhược không căn gốc. Sơ vận nhâm ngọ quý mùi thủy không có nguồn, không thể tiết kim khí, địa chi ngọ mùi nam phương hỏa địa lại phù trợ vượng hỏa, tài tinh bị khắc tiết đến cạn kiệt, tuy tổ nghiệp sung túc, mà sớm tiêu tan. Đại vận giáp lâm địa chi thân vốn không có đại nạn, nhưng do lưu niên mộc hỏa tương sinh mà hình thê khắc tử gia kế tiêu điều. Giao vận thân ám xung dần mộc đang vượng, thiên can phù trợ tài tinh thông căn ví như cỏ cây lâu ngày bị hạn mà gặp mưa, đột nhiên hưng phát. Cặp đại vận ất dậu mười lăm năm phát tài gấp bội hơn trước, thân vận dịch mã gặp tài tinh, xuất ngoại đại lợi, kinh doanh phát tài hơn thập vạn. Đến đại vận bính tuất lưu niên bính tý, hung nhiều cát ít, bị bệnh phong mà không trỗi dậy được, đó là do tỷ kiên tranh tài, tài còn lâm tuyệt địa, tý thủy một mình đơn độc chẳng những không thể nào khắc chế bính hỏa vượng, mà ngược lại còn sinh dần mão mộc trợ hỏa vậy.
    Vượng giả xung suy suy giả bạt, suy thần xung vượng vượng thần phát
    Tý thủy vượng ngọ hỏa suy, vượng mà đi xung khắc suy tất suy càng suy cùng cực; tý thủy suy ngọ hỏa vượng, suy mà đi xung khắc vượng tất vượng càng vượng hóa thành phúc. Dư các chi còn lại đều suy như thế cả.
    Thập nhị chi tương xung tương khắc, nguyên là do các thiên can tàng trong địa chi tương xung tương khắc nhau vậy, tứ trụ năm, tháng, ngày, giờ tương xung tương khắc gọi là minh xung, tứ trụ bị lưu niên đại vận tương xung tương khắc gọi là ám xung. Địa chi đắc lệnh đương quyền mà đi xung khắc các địa chi thất lệnh bất đương quyền tất suy càng suy cùng cực bị thương tổn, ngược lại địa chi thất lệnh mất quyền mà lại đi xung khắc địa chi đắc lệnh đương quyền tất chi vượng càng vượng không bị thương tổn. Cái địa chi mà có lực thì có thể xung khử cái địa chi vô lực, tuy nhiên nếu hung thần bị xung khử thì tốt, còn nếu hỷ thần bị xung khởi tất mang họa; bằng ngược lại, cái địa chi vô lực mà đi xung khắc có lực chẳng những không thể xung khử được mà trái lại còn bị xung khắc ngược trở lại nữa, nếu như cái địa chi vô lực ấy mà đi xung khử hung thần tất mang họa, còn đi xung khử cát thần tuy không mang họa nhưng cũng không mang lại lợi ích to lớn gì. Ví như nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần là ngọ hỏa, trong trụ có dần, mão, tỵ, mùi, tuất các loại, gặp địa chi tý thủy xung tức suy thần xung vượng thần nhật chủ không bị thương tổn; ngược lại, nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần thuộc địa chi ngọ hỏa, trong tứ trụ có thân, dậu, hợi, tý, sửu, thìn các loại, gặp địa chi tý thủy vượng xung tất ngọ hỏa suy lại càng suy. Dư các chi còn lại đều suy như vậy. Tuy nhiên tý ngọ mão dậu, dần thân tỵ hợi tương xung nhau đáng nên xem trọng, còn thìn tuất sửu mùi tương xung nhau thì cũng không quan trọng lắm. như tý ngọ tương xung, địa chi tý thủy tàng chứa quý thủy đi xung khắc đinh hỏa tàng trong địa ngọ hỏa, nếu như ngọ lâm nguyệt lệnh hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ không có hành kim mà có hành mộc tất hỏa quá vượng tý thủy không những không thể xung khắc ngọ hỏa mà trái lại còn bị ngọ hỏa khắc ngược trở lại nữa; mão dậu tương xung, địa chi dậu kim tàng chứa tân kim, đi xung khắc ất mộc tàng chứa trong chi mão, nếu như mão mộc lâm nguyệt lệnh hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ có hành hỏa mà không có hành thổ tất mộc quá vượng dậu kim không những không thể xung khắc mão mộc mà trái lại còn bị mão mộc khắc ngược trở lại nữa; dần thân tương xung, địa chi dần tàng chứa giáp mộc bính hỏa, bị địa chi thân tàng chứa canh kim nhâm thủy tương khắc, tuy nhiên dần mộc vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có bính đinh tị ngọ hỏa, tắc chi dần cũng có thể xung khắc chi thân; tị hợi tương xung, địa chi tị tàng chứa bính hỏa mậu thổ, bị địa chi hợi tàng chứa giáp mộc nhâm thủy tương khắc, tuy nhiên tị hỏa vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có giáp ất dần mão mộc, tắc chi tị hỏa cũng có thể xung khắc chi hợi thủy. Bởi thế cho nên xét sự vượng suy của tứ trụ trước cần phải xem xét sự suy vượng, có hay không có giải cứu, hoặc ức xung, hoặc trợ tiết, xét cái đại thể, nghiệm cái hỷ kỵ, từ đó mà biết đựợc cát hung vậy. Đến như tứ khố huynh đệ tương xung, mộ khố tàng chứa nhiều thiên can, cần nên xem xét bốn thiên can trên năm tháng ngày giờ có dẫn xuất hay không có dẫn xuất. Nếu như tứ trụ can chi không có dẫn xuất, hay là nguyệt lệnh là đề cương, thì không cần phải lo sợ xung khắc, dẫu có bị xung khắc cũng không hại gì, gặp hợp lại càng hay. Nguyên cục cùng đại vận lưu niên đều luận như vậy.
    Mậu thìn tân dậu bính ngọ quý tỵ
    Nhâm tuất quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão.
    Tứ trụ tài tinh đang lệnh, mà lại còn được thực thần trên trụ năm sinh trợ tài tinh, nhật trụ gặp tỵ hỏa lộc ở trụ giờ tương trợ, cho nên nhật trụ hữu thông căn có khí, cho nên xuất thân từ nhà giáu có. Trụ giờ thấu xuất quý thủy, chi giờ tỵ hỏa thất thế, gặp dậu kim tất củng hợp dậu kim vậy. Ngũ hành thiếu mộc, toàn nhờ ngọ hỏa phò trợ nhật chủ, từ đó cho thấy quý thủy là kỵ thần vậy. Đại vận tý thủy, quý thủy đắc lộc vượng địa, chi tý thủy cùng chi thìn thổ bán hợp hóa thủy, địa chi dậu kim củng phò chi tý thủy mà xung khử địa chi ngọ hỏa, tứ trụ không có thần giải cứu, thế cho nên mới nói “vượng giả xung suy suy giả bạt”, vì vậy mà nhà cửa tan nát mạng vong. Nếu như đại vận đến đông nam mộc hỏa vượng địa, lý nào mà không đạt được danh lợi ư?
    Canh dần nhâm ngọ đinh mão quý mão
    Quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý.
    Tứ trụ tài quan hư nhược vô căn, kiêu tỷ đang quyền đắc thế, theo đấy mà luận tất là mệnh bần yểu. Tứ trụ trước thân tài đều vượng, trở lại phá bại chết yểu, nếu như tài quan hưu tù có lẻ mạng số trường thọ, mà không biết rằng hỏa không có mộc gặp thủy vượng xung khắc tắc tán, còn tứ trụ này có thủy, gặp hỏa tỉ kiên phò trợ tất có cứu thần. Đại vận giáp thân ất dậu, canh kim lộc vượng, nhâm quý thủy phùng sinh, trở lại xung khắc dần mão mộc, thế cho nên mới nói “suy thần xung vượng vượng thần phát”, đột nhiên phát tài cự vạn. cổ ca vân: “mệnh hảo bất như vận hảo”, câu nói ấy thật đáng nên tin vậy!
    Chương 9: can chi tổng luận
    Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất
    .
    Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý lẻ tất nhiên là như thế, nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.
    Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như trường sinh mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh suy hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đấu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là quan đới, lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tắc suy cho nên thời kỳ này gọi là suy, suy lâu thời tắc bệnh, bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là bệnh tử, tạo hóa ra muon loài cũng từ đất và cũng là nơi mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là mộ tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi thai dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.

    Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc trường sinh lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng tý, ngọ, mão, dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, thân là cung vị thiên quan, hợi là thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại hợi là thế. Cung vị ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.

    Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, tn6 gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. Từ đó cho thấy, âm dương đông sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.

    Bính tý kỷ hợi ất hợi bính tý
    Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ.

    Nhật nguyên ất hợi sinh vào tháng hợi, rất mừng lưỡng bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thồ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng ất mộc bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, tử ở trụ tháng hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy hợi tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.

    Mậu ngọ ất mão quý mão quý hợi
    Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.

    Tứ trụ quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào quý hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì hợi mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận mậu ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng quý thủy trường sinh ở trụ thán và trụ ngày, trụ giờ cư kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “thực thần hữu thọ đa thê tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.
    Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương, âm dương quai bội nhi hỗn loạn giả vong. (Thiên địa thuận toại cho cái tinh túy sáng sủa, âm dương trái nghịch để cái hỗn loạn diệt vong.)
    Nguyên chú: Bất luận hữu căn vô căn, câu yếu thiên phúc địa tái.
    Nguyên chú: Bất luận hữu căn hay vô căn, đều cần thiết xem xét kỹ cả Thiên can cùng Địa chi.

    Nhâm thị viết: phương pháp chọn dụng Can Chi, thấy Can cần phải xem thêm Chi, thấy Chi cũng phải xét kỹ Can. Như hỉ Giáp Ất, mà gặp thêm dần mão hợi tý, tắc sanh vượng, gặp phải thân dậu, tắc thời khắc bại; như kỵ Bính Đinh, thời lấy hợi tý chế phục, nếu lấy 4 chi tị ngọ dần mão thời phóng túng quá rồi. Như hỉ dần mão, mà xét lấy Giáp Ất Nhâm Quý thởi được sanh vượng, còn xét lấy Canh Tân thời khắc bại vậy; hay như kỵ tị ngọ, xét lấy Nhâm Quý là để chế phục, còn xét lấy Bính Đinh Giáp Ất, chỉ là lấy cho sướng mà thôi. Không những như vậy, Can thông căn cho chi, chi gặp sanh phù, tắc gốc Can Chi cùng kiên cường, chi gặp xung khắc, tắc gốc Can Chi như bị bật rể. Chi thụ ấm cho Can, Can gặp sanh phù, tắc Chi được ấm thịnh; Can gặp khắc chế, tắc Chi cũng suy vi. Phàm trong tứ trụ Can Chi của mệnh, thời hiển nhiên gặp cát thần mà không là cát, gặp phải hung thần mà chẳng thành hung, đều là vì lý do ấy cả, điều này chẳng phải chỉ luận khí chất của riêng Thiên can mà phải luận song hành cả khí chất Địa chi, tổng hợp lại chính là cái ý “Thiên phúc địa tái”.
    Kỷ Hợi , Đinh Mão , Canh Thân , Canh Thìn
    Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu
    Canh kim tuy sanh xuân lệnh, chi tọa lộc vượng, thì phùng ấn tỉ, túc dĩ dụng quan. Địa Chi tái dĩ mão mộc tài tinh, hựu đắc hợi thủy sanh phù hữu tình, Đinh hỏa chi căn dũ cố, sở vị "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" dã. Tuế vận phùng Nhâm Quý hợi tý, Can hữu Kỷ ấn vệ quan, chi đắc mão tài hóa thương, sanh bình lý hiểm như di, thiểu niên khoa giáp, sĩ chí phong cương. Kinh vân: "Nhật chủ tối nghi kiện vượng, dụng thần bất khả tổn thương", tín tư ngôn dã.
    Canh kim tuy sanh lệnh tháng mùa xuân, tọa chi Thân là lộc vượng, trụ giờ gặp Ấn Tỉ, đủ để dụng được Quan. Địa chi tái kiến mão mộc tài tinh, lại được hợi thủy sanh phù hữu tình, gốc Đinh hỏa càng bền chặt, nên gọi là "Thiên địa thuận toại nhi tinh túy giả xương" đấy thôi !. Tuế vận gặp Nhâm Quý hợi tý, Can có Kỷ là ấn vệ Quan, chi được mão tài hóa Thương, suốt đời không sợ nguy hiểm, thiếu niên đã khoa giáp, khi lớn cũng làm đến tướng soái. Kinh cho rằng: "Nhật chủ cần nhất kiện vượng, dụng thần không thể bị tổn thương", lời ấy chẳng sai chạy.

    Kỷ dậu , Đinh mão , Canh Thìn , Giáp thân
    Bính dần - Ất sửu - Giáp tý - Quý hợi - Nhâm tuất - Tân dậu

    Trụ này cũng lấy Đinh hỏa Quan tinh làm dụng, Địa chi cũng kiến mão mộc tài tinh nâng đỡ, so với tứ trụ trước nhiều điểm tương đồng nhưng có khác biệt nho nhỏ, đó là mão dậu xung nhau, khắc bại gốc Đinh hỏa, trong Chi ít thủy, Tài tinh hữu khắc vô sanh, tuy trụ giờ thấu Giáp mộc nhưng đóng ở chi Thân, thành ra Địa chi chẳng nâng đỡ được can Giáp, tuy có mà như không. Nên xuất thân cựu gia, chuyện đèn sách không tiếp tục được, lại phá hao hình thương; hạn vào Tuất vận, Chi thuộc phương tây, bần khốn không chịu nổi.

    Canh thân Nhâm ngọ Tân dậu Quý tị
    Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý

    Tứ trụ này Canh Tân Nhâm Quý, kim thủy đều trong sáng, rõ ràng minh bạch, Địa chi thân dậu tị ngọ, kim hỏa nung đúc thành công, nên khí tháng ngọ hỏa đắc dụng, lý ấy ứng với danh lợi đều sáng sủa tốt đẹp. Nhưng điều đáng tiếc là tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh mà không có phụ trợ; lại ngại Nhâm Quý thêm vào, buộc Canh Tân sanh trợ thêm, mà ở Thân lại đắc Trường sanh, thời Nhâm thủy càng thêm sướng (mạnh). Tuy có tị hỏa giúp ngọ nhưng tị dậu hợp kim, thời ngọ hỏa tất cô thế. Cho nên hai vận thân dậu, phá hao bất thường; trong vận Bính tuất, bắt đầu giúp trợ dụng thần, gặp gỡ vận hội lớn; vừa giao với vận hợi, Nhâm thủy được Lộc, Quý thủy lâm Đế vượng, hỏa khí bị khắc cùng cực, tan nhà nát cửa mạng vong.

    Canh thân , Nhâm ngọ , Tân dậu , Giáp ngọ
    Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất - Đinh hợi - Mậu Tý

    Tứ trụ này cũng dụng Đinh hỏa trong ngọ làm Sát, Nhâm thủy cũng tác động vào Chi ngọ, lại có Canh kim sanh phù. Mừng ở chổ giờ ngọ trợ giúp, càng hay có Thiên can phụ trợ Giáp mộc, thời hỏa được ấm thịnh. Vả lại Nhâm thủy thấy Giáp mộc thành ra tham sanh, không đến đối địch với hỏa, tứ trụ có cái thế tương sanh hữu nghị, không có phong thái tranh khắc lẫn nhau, trung niên tên đề Hương bảng, kẻ sĩ làm tới Giám sát quan (Ngự sử). So với tứ trụ trước chỉ đổi lại trước sau một giờ, đã thành cách cục thâm sâu (Thiên uyên chi cách), mới gọi là “sai một ly đi một dặm” là vậy.

    Thiên toàn nhất khí, bất khả sử địa đức mạc chi tái.
    (Khí chất Thiên can toàn vẹn [là một loại], chẳng lẽ không thể dùng tới khí vượng của Địa chi.)
    Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, nhi ngộ dần thân mão dậu, vi địa bất tái.
    Nguyên chú: Tứ Giáp tứ Ất, mà ngộ dần thân mão dậu, là Địa (chi) bất tái (không chuyên chở/phù trợ lẫn nhau).
    Thiên toàn nhất khí, chính là nói đến Thiên can tứ Giáp, tứ Ất, tứ Bính, tứ Đinh, tứ Mậu, tứ Kỷ, tứ Canh, tứ Tân, tứ Nhâm, tứ Quý. Địa Chi bất tái, chính là Địa chi và Thiên Can không sanh hóa nhau vậy. Không những tứ Giáp tứ Ất mà ngộ thân dậu dần mão là bất tái, tức bị Địa chi toàn khắc, hoặc khắc ngược Địa chi, hoặc Thiên Can không đoái hoài Địa Chi, hoặc Địa Chi không để ý Thiên Can, đều là bất tái cả. Như tứ Ất dậu, bị Địa chi khắc; hay tứ Tân mão, lại là khắc Địa chi vậy. Khí Địa chi nhất thiết phải bay (tác động) lên cao, khí Thiên can (tác động) giảm xuống, thời lưu thông sanh hóa, để không đến nổi thiên khô (mất cân bằng), lại đắc tuế vận ổn thỏa, hợp lý, không phú thì cũng quý. Ví như chẳng có cái tình lên xuống ấy, mà ngược lại chỉ có cái thế xung khắc nhau, đều là thiên khô mà bần tiện thôi. Nên xét đến cùng sự tinh tế là thế.

    Giáp thân , Giáp tuất , Giáp dần , Giáp tuất
    Ất hợi - Bính Tý - Đinh sửu - Mậu dần - Kỷ mão - Canh Thìn

    Chi năm thân kim, đến xung Nhật chủ dần mộc, hơn nữa thấy cả tuất thổ cường vượng thừa dịp sinh kim trợ Sát, nói Địa Chi không để ý đến Thiên Can, thử nói đến tứ Giáp cư dần, tựa hồ đều cường vượng, nhưng ở mùa thu thì mộc hưu tù, đến xung Lộc thần, cái gốc ấy tất phải bật rễ, không thể luận là vượng. Cho nên ở vận dần mão hợi tý, áo cơm có phần hậu hỹ thịnh vượng, giao vận Canh Thìn, nguyên thần Sát lộ ra. Tứ Giáp đều bị thương, tan nhà thất lộc (chết). Can nhiều chẳng bằng Chi trọng, cái lý ấy hiển nhiên rồi.

    Mậu Tý , Mậu ngọ , Mậu tuất , Mậu ngọ
    Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi Giáp Tý

    Tứ trụ này hỏa thổ đầy đủ, tý suy ngọ vượng, bị xung thời ngọ phát hỏa mãnh liệt rang khô Can như nung ngói, nên nói rằng Thiên Can chẳng được phúc. Bắt đầu vào vận Kỷ Mùi, cô khổ trăm điều; tới vận Canh thân Tân dậu, dẫn thông Mậu thổ, gặp được vận hội lớn, lấy vợ sanh con, lập nghiệp thành gia; vào vận Nhâm tuất, thủy không thông gốc, ngầm củng hỏa cục, gặp biến cố tan tác, một nhà 5 khẩu đều mất. Như Thiên Can thấu xuất một Canh Tân, hoặc Địa Chi tàng một thân dậu, thì sao có kết cục thảm thương như vậy được?

    Mậu thân , Mậu ngọ , Mậu tuất , Mậu ngọ
    Kỷ mùi - Canh thân - Tân dậu - Nhâm tuất - Quý hợi - Giáp tý

    Tứ trụ này và tứ trụ trước chỉ hoán đổi một chữ Thân, khí Thiên can tác động giảm xuống (Mậu thổ sinh thân kim), thủy trong Địa chi có nguồn (Nhâm tàng trong chi Thân), ngọ hỏa tuy mãnh liệt, xét cho cùng cũng không thể tổn thương thân kim, dụng kim sáng suốt vậy, huống hồ có con là thủy hỉ thần chữa bệnh. Vào vận thân, tháng 4 năm Mậu thìn nhập học, tháng 9 đăng khoa, chính do đắc một chữ Thìn là Thái tuế, khéo ở chổ ám hội thủy cục. Tiếc rằng ở vận tương lai Nhâm tuất, các Thiên can (Mậu) Tỉ đoạt Tài (Nhâm), Địa chi ám hội hỏa cục, chẳng thấy đâu điềm cát lành.

    Tân mão , Tân mão , Tân mão , Tân mão
    Canh Dần - Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Kỷ dậu

    Tứ trụ này tứ mão mộc đương quyền, tứ Tân kim lâm vị trí Tuyệt, tuy rằng phản khắc Địa chi, thật ra chẳng có lực để khắc, nếu mà có thể khắc, có thể dụng được Tài rồi, nếu có thể dụng tài, há chẳng trụ vững được ư? Được mẹ đùm bọc, được khoảng vài ba năm cha mẹ đều mất, rồi làm đồ đệ một đạo sĩ; vận Kỷ sửu Mậu Tý, Ấn thụ sanh phù, áo cơm chẳng thiếu; giao vận Đinh hợi, sanh hỏa khắc kim, thầy chết ngay, vì thế mới gây nghiệp chướng, cờ bạc đến khánh tận mà chết.

    Địa toàn tam vật, bất khả sử Thiên đạo mạc chi dung.
    (Địa chi cùng hội về một hành, chẳng lẽ không thể dung nạp cái đạo Thiên can.)

    + “toàn nhất khí” : 4 can tứ trụ cùng 1 chữ
    + “toàn tam vật” : 3 chi cùng hội/hóa thành một hành
    + “đề cương” : thường chỉ lệnh tháng hoặc hành nắm lệnh trong tứ trụ.
    Dần mão thìn, hợi mão mùi mà ngộ Giáp Canh Ất Tân, thời Thiên can chẳng được phúc. Vậy không chỉ “toàn nhất khí” mà cả “tam vật”, đều cần “Thiên phúc Địa tải”, bất luận có gốc hay không gốc, đều cần “noi theo thứ tự của thần khí đó”, cái khéo là Can Chi không phản bội nhau.
    Địa Chi tam vật, chính là các chi trong tứ trụ hội về một phương như dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tý sửu. Như dần mão thìn mà Nhật chủ là mộc, quan trọng Thiên can nhiều hỏa; Nhật chủ là hỏa, cần Thiên can kim vượng; Nhật chủ là kim, lại cần Thiên can thổ trọng. Địa chi “toàn tam vật”, hầu hết cái thế của nó thịnh vượng. Như ở đề cương , vượng thần khí nào thì Thiên can phải thuận theo cái khí thế ấy, thời như thế có thể tiết được; hay như thần khí vượng tại một Địa chi khác, Thiên can chế Chi mà hữu lực, thời có thể chế được vậy. Tại sao thần khí vượng ở đề cương, chỉ nên tiết mà không nên chế? Ấy bởi khi thần khí vượng tại đề cương, chế thần khí ắt hẳn chỉ dẫn đến tuyệt địa, như là cưỡng chế mà thôi, chẳng đắc dùng được cái thần khí vượng ấy, chỉ là dùng kích động để cho sướng mà thôi. Thần khí vượng, như đề cương phương mộc mà đắc dần mão cũng là thần khí vượng vậy; thì khi đó cái gọi là chế thần, chính là Canh Tân kim vậy, vì dần mão chính là tuyệt địa của Canh Tân. Hay như khí Địa chi Thìn tại đề cương, tứ trụ can chi lại có Canh Tân trợ giúp thì mới có thể chế được vậy. Gọi là “noi theo thứ tự của thần khí đó” (tuần kỳ khí tự), chính là điều hòa cái nào cần nên, cái nào cần đắc, được như thế thì toàn mỹ. Mộc phương luận như thế, các phương còn lại cũng luận tương tự.



    Tân mão Canh Dần Giáp Thìn Bính dần
    Kỷ sửu - Mậu Tý - Đinh hợi - Bính tuất - Ất dậu - Giáp thân

    Tứ trụ này dần mão thìn phương đông hội mộc, kiêm được giờ dần mộc, nên rất vượng. Trụ năm tháng lưỡng kim đều lâm vị trí Tuyệt, thần khí vượng ở đề cương thì kim yếu khó mà khắc được, hơn nữa Bính hỏa thấu lộ ở trụ giờ, nên mộc hỏa đều đồng lòng, gọi là lấy số đông-mạnh mà chống lại số ít, uy thế này đến áp chế Canh Tân chính là thiểu số. Hành vận sớm gặp thổ sanh kim, phá hao dị thường, đến kinh thành vào làm việc trong Bộ (một cơ quan hành chính thời xưa, như Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ Hộ,…); tới vận Bính tuất, được phái đi Quảng Đông, được quân công, thăng chức Tri huyện, vận hỉ chính là do gặp được Canh Tân bị khắc tận cùng; tới vận dậu, Canh Tân đắc địa, nên bất lộc (chết) vậy.

    Canh dần , Canh thìn , Giáp dần , Đinh mão
    Tân tị - Nhâm ngọ - Quý mùi - Giáp thân - Ất dậu - Bính tuất

    Tứ trụ này cũng là dần, mão, thìn phương đông; thần khí vượng không phải đề cương, thìn thổ quy viên, Canh kim được nâng đỡ, lực lượng đủ để khắc mộc, Đinh hỏa tuy thấu lộ, nhưng chẳng đối địch Canh kim, lấy Sát làm dụng là sáng suốt. Tới vận Giáp thân, Canh kim Lộc vượng ám xung dần mộc, khoa giáp liên tục tấn tới, làm quan đứng đầu một quận (Tri phủ); đến vận Bính chế Sát, bị giáng chức về hưu.

    Dương thừa dương vị dương khí xương , tối yếu hành trình an đốn.
    Dương can vì cư vị trí dương nên dương khí thịnh, rất cần được vận trình điều hòa. )
    Trong 6 vị trí dương , chỉ có tý , dần , thìn là phương dương, là vị trí thuần dương, 5 (can) dương đóng ở đó , nếu là vượng thần (thì) rất cần gặp vận đến đất âm thuận (để) điều hòa.

    6 chi dương đều dương, tý, dần, thìn chẳng phải thuần dương, mà cần phải phân ra làm dương lạnh, dương ấm để luận. Tây bắc lạnh, Đông nam ấm. Nếu thân, tuất, tý đầy đủ (trong trụ), là Tây bắc dương lạnh, rất cần đi gặp vận mùi, tị, mão Đông nam âm ấm vậy. Như dần, thìn, ngọ đầy đủ, là Đông nam dương ấm, lại rất cần đi vận dậu, hợi, sửu Tây bắc âm lạnh vậy

    Điều này cứ lấy đại cục mà luận, như gặp hỉ, dụng thần của nhật chủ: hoặc là mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ, thời là Đông nam dương ấm, tuế vận lại cũng nên phối hợp với Tây bắc âm thủy, âm mộc, âm hỏa, thì mới có thể sinh trợ dụng, hỉ thần, mà vui vẻ như chủ khách thân tình. Nếu tuế vận gặp Tây bắc dương thủy, dương mộc, dương hỏa, tất là dương cô độc không thể sinh trợ được. Dù muốn sinh trợ cho hỉ thần, cũng khó thiết tha gánh vác, bất quá chỉ như bỏ đường núi gập ghềnh mà theo đường bằng phẳng mà thôi. Cách cục dương ấm luận như thế, cách cục dương hàn cũng như thế mà luận. Đó gọi là “Gặp thế dương thịnh sáng sủa tốt đẹp khỏe mạnh, thì nên phối hợp với đất âm thịnh hàm chứa nhu thuận” !. Như chẳng bỏ thâm tâm minh xét đến cùng, thì sao tìm ra cái tinh vi, để mà đắc yếu quyết đây ?

    Quý tị Bính thìn Bính ngọ Canh dần
    Ất mão - Giáp dần - Quý sửu - Nhâm tý - Tân hợi



    Đây là tứ trụ dương ấm đông nam, Thiên can kim thủy tựa hồ như không có gốc (căn), mừng là nguyệt chi thìn thổ, tiết bớt hỏa, chứa đựng thủy (Thìn tàng Quý thủy) mà sinh kim. Canh kim như bị treo dồn vào góc mà nay được sinh trợ, tất Canh kim có thể làm dụng, Quý thủy tức hỷ thần của Canh kim. Hai vận đầu Ất mão, Giáp dần, kim bị tuyệt (Canh tuyệt ở dần), hỏa được sinh (hỏa sinh từ mộc: Giáp Ất, dần mão), mà thủy bị tiết khí, cô đơn, khổ cực không chịu được. Giao vận Quý sửu là nơi âm phương bắc ẩm ướt, kim thủy thông gốc, lại hay ở chổ 2 chi tị, sửu hợp củng kim, xuất ngoại gặp được vận hội lớn, bỗng nhiên phát tài hơn 10 vạn. Dương ấm gặp lạnh, phối hợp đẹp đẽ vậy.

    Mậu dần Ất sửu Bính dần Canh dần
    Bính dần - Đinh mão - ; Mậu thìn - Kỷ tị - Canh ngọ

    Nhật nguyên Bính dần, tuy gặp 3 dần, nhưng rất mừng là sửu thổ nắm quyền, Tài nhập mộ khố. Nếu như hành vận Tây bắc thổ kim, thì tiền tài sẽ giàu hơn tứ trụ trước. Tiếc rằng đi đường Đông nam hỏa mộc, phá sạch cơ nghiệp ông cha, lang thang khắp mấy tỉnh mà không gặp cơ hội. Đến vận ngọ hợp thành Tỉ Kiếp, chết ở Quảng Đông. Một việc cũng chẳng thành, chẳng nhẽ không phải do vận gây nên ư.

    Như trường hợp nhật chủ Giáp Ngọ tùy theo tứ trụ có thể mắc khuynh hướng đau đầu kinh niên hoặc bịnh nào đó thuộc về não bộ, nhưng trong chi ngày Ngọ có Kỷ âm thì bịnh thuyên giảm theo thời gian, tức là có khả năng hết hẳn. Nhưng ngược lại thì không tốt đẹp hơn (Kỷ Hợi).
    Chỗ này là nghiệm lý riêng để các bác tự suy ra, còn theo đoạn luận ám hợp ở trên thì Giáp Ngọ và Kỷ Hợi không ám tàng Tài Quan vì Kỉ và Giáp tàng không phải là bản khí.

    Còn như 2 thí dụ trên thì cho rằng trụ ngày được hay bị ám tàng và đợi tới ngoại nhập mới phát cũng giống như Vận hợp với Can trong trụ y chang không khác tí nào.

    Kỷ Sửu Bính Tý Đinh Hợi Canh Tý
    Ất Hợi, Giáp Tuất, Quý Dậu, Nhâm Thân, Tân Mùi, Canh Ngọ

    Bản khí của Hợi là Nhâm ám tàng can của mình là Đinh, hành thoát khí là Mộc Tài ém nhẹm mất Hỏa Thổ, nhưng Tài này còn e lệ không dám ra mặt . Phải tới vận Nhâm Thân thì mới phát tài này ra vì Nhâm xuất đầu lộ diện. Cũng có thể thời đó thì cưới thêm bà nhỏ chính thức, hihi, ai biết được.
    Bị cháy nhà mất 2 vạn tiền là vì Tân tài lại mon men tới, gặp trụ tháng Bính nổi giận thổi bay mất căn nhà. Cũng có thể cho rằng trời biểu giàu quá rồi mà không làm từ thiện thì lấy bớt lại một chút. Nhưng chỗ này thì ai cũng hiểu là Kiếp Tài phá Tài, mà trong trụ đã có sẵn Bính với Canh (trụ giờ), phải xem như là Kim mà thôi, không nên phân biệt Canh hay Tân nữa, thế mới phục các cụ!
    Nói chung là trong các thí dụ, họ Nhâm làm cho rõ ý chính của một đoạn, nhưng rất thận trọng xét vận hạn theo phương (như Tây phương Thân Dậu Tuất...), để ý thấy y chóc là khác hẳn lối mới.

  5. #5

    Mặc định

    MỆNH LÝ TRÂN BẢO GIẢNG NGHĨA
    Đoàn Kiến Nghiệp
    Mục lục.
    • Kỳ 1. Bí truyền sanh hài tử
    • Kỳ 2. Luận về địa chi lục xung
    • Kỳ 3. Lục hợp tại bát tự
    • Kỳ 4. Lấy lộc là tài
    • Kỳ 5. Thương quan khứ quan cách
    • Kỳ 6. Luận về “chủ, khách” trong bát tự
    • Kỳ 7. Mệnh lý chân giả
    • Kỳ 8. Dụng pháp về tương hại trong bát tự
    • Kỳ 9. “Có” cùng “không có” trong bát tự
    • Kỳ 10. Tam hình trong bát tự
    • Kỳ 11. Luận về thập can hỉ kỵ
    • Kỳ 12. Những nhầm lẫn trong tài liệu mệnh học
    • Kỳ 13. Điều hậu chánh giải
    • Kỳ 14. Ý hướng của thập thần
    • Kỳ 15. Thương quan làm tài
    • Kỳ 16. Ứng dụng phục ngâm
    • Kỳ 17. Hiểu rõ về bịp bợm lừa đảo
    • Kỳ 18. Dự đoán mệnh trong thực tiễn_phần 1
    • Kỳ 19. Dự đoán mệnh trong thực tiễn_phần 2.
    • Kỳ 20. Cách xem về tính dục
    • Kỳ 21. Tường giải quan hệ bát tự, đại vận cùng lưu niên
    • Kỳ 22. Phân biệt bát tự tòng cách như thế nào?
    • Kỳ 23. Địa chi phá dụng pháp
    • Kỳ 24. Tỉ kiếp khứ tài cách
    • Kỳ 25. Dụng pháp đặc biệt cho “Tuất”
    • Kỳ 26. Ý hướng can chi
    • Kỳ 27. Cách xem mệnh làm quan.
    • Kỳ 28. Giải thích mệnh cục Lương Khải Siêu
    • Kỳ 29. Thập thần đa ý hướng
    • Kỳ 30. Cách xem về tài mệnh
    • Kỳ 31. Cách xem về tai họa lao ngục
    • Kỳ 32. Ứng dụng hư thật can chi
    • Kỳ 33. Chú trọng bát tự tiên thiên
    • Kỳ 34. Mệnh Tích Thuyền Vương
    • Kỳ 35. Vài ví dụ thực tế
    • Kỳ 36. Bát tự dụng thần cùng mã xổ số
    • Kỳ 37. Mệnh học lục đại yếu huyền
    • Kỳ 38. Ba cách chế kỵ thần
    • Kỳ 39. Ký sự mệnh lý
    • Kỳ 40. Đoán hôn nhân tốt xấu như thế nào
    • Kỳ 41. Bán lộc đào hoa (lộc bị hợp trói thì đào hoa)
    • Kỳ 42. Quan tài môn
    • Kỳ 43. Hoạn thê tư phu
    • Kỳ 44. Hôn nhân mấy lần?
    • Kỳ 45. Từ bát tự con cái xem cha mẹ
    • Kỳ 46. “Thế, ứng” trong bát tự
    • Kỳ 47. Chu Nguyên Chương
    • Kỳ 48. Tầm quan trọng của thiên địa hợp
    • Kỳ 49. Khứ ấn đắc quyền
    • Kỳ 50. Xem “mất việc” cùng “nghỉ việc” trong mệnh lý như thế nào?
    Kỳ 1. Bí truyền sanh hài tử

    Càn tạo.
    Mậu tuất kỷ mùi ất tị đinh hợi
    Đại vận: Nhâm tuất. Lưu niên: Mậu thìn.
    Năm này không thể sanh con do hư thai, đồng thời năm này cũng lại mang thai. Đinh hỏa (thực thần) là con gái, lại lâm cung tử tức. Năm đinh mão mang thai, sao con gái là đinh hỏa phùng hợp, thê tinh tuất thổ phùng hợp, chứng tỏ vợ mang thai, nhưng đinh hỏa hợp nhâm thủy khá yếu, đến năm mậu thìn mậu khắc nhâm, nhâm không thể hợp đinh, nên hư thai. Mà năm mậu thìn lại mang thai, nguyên nhân do thìn tuất xung, thê tinh tuất là mộ khố của đinh hỏa, phùng lưu niên khai mộ khố là mang thai.

    Bản mệnh mậu tuất ở trên tại năm mậu thìn phá tài rất rõ ràng, nguyên nhân là hỉ thần của bát tự là thủy mộc, thổ là kỵ thần, lưu niên đại vận gặp thổ vượng, nhất định phá tài.

    Người này gặp kiện tụng, nguyên nhân là 1 thìn xung 2 tuất, tuất là kỵ thần bên trong lại tàng thất sát chủ kiện tụng. Do thất sát không thấu lộ khắc thân, cho nên không phải là kiện tụng hình sự, mà đều là tranh chấp kiện tụng dân sự. Bởi do tuất là mộ khố là ẩn tàng, đến năm thìn dẫn động, không còn ẩn tàng nữa. Kiện tụng không liên quan đến anh ta mà là tài xế. Ấn là xe cộ, khắc ấn là tài xế. Đại vận nhâm tuất, chi tuất là tài xế. Đầu tiên lưu niên cùng đại vận phát sinh tác dụng, sau đó lại tác dụng đến bát tự. Cho nên người gây ra kiện tụng là tài xế. Ấn tinh nhập mộ biểu hiện giam xe.
    Càn tạo
    Ất dậu canh thìn đinh mùi quý mão
    Mùi là nguyên thần của tài lâm thê vị, có thể xem là vợ, trong mùi tàng ất mộc có thể xem là vợ mang thai nhi, phùng không vong, ta đoán là: “Ngươi có 1 đứa con chưa sanh đã chết trong bụng mẹ”, quả đúng vậy.
    Kỳ 2. Luận về địa chi lục xung

    Địa chi lục xung hết sức phức tạp, xung trong bát tự, đại vận cùng bát tự xung, xung thái tuế đều không giống nhau. Cụ thể có 7 loại xung: Xung hung, xung vượng, xung động, xung khai, xung xuất, xung khử, xung phá.

    Xung hung là gì?

    Kỵ thần trong mệnh cục xung đại vận hoặc kỵ thần tại đại vận thông căn đắc vượng xung mệnh. Tuế vận xung hung thì sẽ phát sinh hung sự.

    Như ví dụ trong Tích thiên tủy:

    Bính dần giáp ngọ bính ngọ quý tị

    Mệnh này tòng cường, mộc hỏa là dụng thần, đến vận kỷ hợi là kỵ thần quý thủy thông căn, phá gia nghiệp mất mạng. Nguyên văn giảng kích vượng liệt hỏa là không chính xác, nguyên nhân hỏa là hỉ thần, xung vượng hỉ thần là rất tốt, vậy sao mất mạng? Nguyên nhân chính là trong bát tự kỵ thần thủy xuất hiện tại đại vận xung mệnh cục nên hung.

    Lại như Nhạc Phi:
    Quý mùi ất mão giáp tý kỷ tị
    Đại vận: Giáp dần/ quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi

    Đến vận tân hợi, năm tân dậu bị hại. Trước nay có nhiều giải thích nhưng đều không đúng (kể cả ta). Thầy Vương Hồ Ứng nhận định mệnh này tòng cường, lấy mộc hỏa là dụng thần, ta hỏi tòng cường cách đến năm tân dậu xung mão mộc hỉ thần thì càng tốt, cớ sao đại hung? Sau này nghiên cứu mới biết mệnh này nguyên nhân đại vận gặp tân (quan) là kỵ thần không được chế hóa, đến vận kỵ thần sợ nhất kỵ thần đắc căn, nên năm tân dậu là lúc đại hung, tức hung thần xuất hiện tại lưu niên. Nếu ông ta không gặp vận tân hợi mà gặp vận nhâm tý, phùng lưu niên tân dậu thì gọi là xung vượng, rất tốt.

    Xung vượng là gì?

    Thái tuế xung thần cực vượng trong bát tự, như vượng hỏa xung nhược thủy, kích động vượng thần. Xung vượng hỉ thần thì tốt, xung vượng kỵ thần thì hung. Đại vận xung thần cực vượng trong bát tự không phải là xung vượng, tốt hay xấu cần xem tình huống: Hung thần trong bát tự không bị chế hóa, lại đắc căn tại đại vận thì hung; hung thần trong bát tự bị chế hóa, hung thần xuất hiện tại đại vận, là lúc hung thần bị khử mất nên cát.

    Ví dụ về xung vượng thần. Càn tạo

    Đinh mùi bính ngọ mậu ngọ đinh tị
    Bát tự tòng cường, hỉ gặp mộc hỏa thổ, không nên gặp kim thủy. Bát tự không có kỵ thần kim thủy, mệnh khá thuần. Đến vận quý mão, năm ất hợi_bính tý, gọi là xung vượng thần hỏa (là dụng thần), nên cát lành không hung. Tuy nói quý thủy là kỵ thần, nhưng phùng mậu hợp mất quý, không thể hung hiểm. Mệnh này cha mẹ song toàn, gia đình hoàn mỹ. Cho nên nói tỉ kiếp trùng trùng khắc cha, thật sai lầm vậy!

    Xung động là gì?

    Thái tuế xung vượng thần trong bát tự là động, xung vượng thần tại đại vận là động. Đại vận chỉ trạng thái tĩnh, một chữ bị xung mà phát động, ảnh hưởng đến mệnh cục hoặc phát sinh chuyện.
    Kỳ 3. Lục hợp tại bát tự

    Địa chi lục hợp là loại hợp nhiều nhất trong bát tự, là hiện tượng kết hôn. Dụng pháp về lục hợp chủ yếu là hợp lưu và hợp trói, đặc biệt đối với hung thì có hợp khứ.

    Trong mệnh ứng kỳ kết hôn là lúc có lục hợp, tức xu hướng hợp lưu, tức tại đại vận có phối ngẫu tinh vượng hoặc phùng xung-hình, phùng thái tuế hợp là năm sẽ kết hôn; hoặc phối ngẫu cung hợp lưu niên cũng biểu hiện kết hôn. Đặc biệt tình huống thái tuế hợp phối ngẫu tinh trong mệnh, đều là xu hướng hợp lưu.

    Nguyên lý cơ bản của hợp trói (bị buộc chặt không còn tác dụng) là: hợp trói hỉ thần thì hung, hợp trói kỵ thần thì cát. Đồng thời cần phối hợp xem khách chủ của bát tự. Tức khách hợp trói kỵ thần thì cát; chủ hợp trói kỵ thần thì hung; khách hợp trói hỉ thần không cát, chủ hợp trói hỉ thần thì cát. Đây là nguyên tắc căn bản.

    Ví dụ. Càn tạo

    Đinh mùi nhâm tý đinh tị tân hợi

    Bát tự lấy mộc hỏa làm dụng thần, mệnh này đến vận kỷ dậu, năm đinh sửu phát tài. Ngược lại tại năm mậu dần, kỷ mão phá tài, có người gặp tình huống này giải thích không thông sẽ tin rằng mệnh này tòng tài, thực tế không phải vậy!

    Năm đinh sửu: kỵ thần sửu, hỉ thần đinh, đinh nhược sửu vượng, sửu khởi tác dụng mạnh, vốn tị dậu sửu tam hợp kim cục, là kỵ thần hợp thành kỵ thần cục đại hung. Tuy nhiên phùng tý sửu hợp, lục hợp có thể hóa giải tam hợp, bởi vì lục hợp là kết thân (kết hôn), tam hợp là kết đảng, theo lẽ thường tình, một người đi xa trở về sẽ gặp thân nhân gia đình trước, mà sẽ không gặp tổ chức hội đảng trước. Tý sửu hợp, tý là khách, là kỵ thần, 2 kỵ thần tương hợp là kỵ thần hợp trói, không khắc hại dụng thần, cho nên đại cát.

    Năm mậu dần, vốn dần là hỉ thần sanh hỏa, phùng dần hợi tương hợp, hỉ thần bị hợp trói, cho nên không cát.

    Năm kỷ mão vì sao không cát, hãy tự xem xét.

    Mệnh này tại năm canh ngọ là năm phân công tốt nghiệp, nguyên nhân ngọ là hỉ thần, ngọ mùi hợp trói, hỉ thần hợp khách (mùi là khách) nên không tốt.

    Năm đinh mùi tỉ kiên là đồng bối, đương nhiên đinh mùi trong bát tự là hỉ dụng thần, nên chị anh ta thăng quan đối với bản thân anh ta cũng là chuyện tốt.

    Ví dụ. Càn tạo

    Giáp dần quý dậu đinh sửu canh tý

    Mệnh này tòng tài cách, thủy là kỵ thần, thổ kim là dụng thần. Đến vận bính tý, năm đinh sửu, sửu là hỉ thần, vốn đại cát, nhưng phùng tý sửu hợp trói. Năm này kiếm được rất nhiều tiền từ cổ phần góp vốn. Nhưng nguyên do bạn bè không đủ tiền nên không thể trả đúng hạn, chỉ được một ít tiền. Sở dĩ còn có thể được tiền, nguyên nhân trong mệnh có sửu là dụng thần, tại lưu niên lại xuất hiện nên xảy ra.

    Hợp hung là một loại khác. Như trong mệnh cục thiên tài (đại biểu cha) quá nhược, lại đến đại vận nào đó mà thiên tài lâm tử địa, lại gặp lưu niên hợp thì có thể là năm cha mất.

    Ví dụ. Càn tạo

    Mậu tý tân dậu nhâm tuất nhâm tý

    Đại vận: Nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý

    Mệnh này tân dậu chánh ấn là mẹ, tuất thổ không sanh kim lại toàn cục tiết khí kim, chỉ mậu thổ có thể sanh kim, đến đại vận giáp tý, giáp khắc mất mậu thổ, tân kim lâm tử địa, mẹ mất tại vận này. Xảy ra vào năm nào? Năm bính thìn hợp tân dậu (mẫu tinh) là hợp khứ, mất vào năm này.
    Kỳ 4. Lấy lộc là tài

    Lộc trong mệnh lý có nghĩa chính là địa vị. Theo nghĩa từ thì lộc là bổng lộc, ăn uống, hưởng thụ, có thể giải thích là tài phú. Trong “quan lộc cách” lấy lộc là quan, đó là lộc đã thành cách, lộc chưa thành cách ý nghĩa chủ yếu là tài phú.

    Như bát tự: Tân hợi tân sửu canh thân giáp thân

    Có thực thần phá hủy quan lộc cách. Nên xem lộc là tài. Đến vận kỷ hợi, năm bính tý phá tài. Nguyên nhân do tiết lộc thần.

    Lại ví dụ. Đinh mùi bính ngọ canh thân đinh sửu

    Mệnh này bát tự không có tài, nhưng là người rất tài giỏi, làm nghề lái xe kiếm tiền, thân kim là chuyên chở là xe. Vận quý mão, năm mậu dần, tài sanh sát xung khứ thân kim (lộc), lái xe đụng chết người phải bồi thường đến 6 vạn. Hác tiên sinh đoán: “Năm nay ngươi không phải bồi thường tức có người nữ bồi thường giúp, người nữ đó là vợ ngươi”. Đương nhiên vợ người này rất giàu, cuối cùng không có chuyện gì. Sanh cho anh ra 2 đứa con vào năm dần. Năm giáp tuất vợ con mất. Sửu chính là kim khố có thể dưỡng kim, phùng xung không phá, thê cung gặp hung.

    Ví dụ. Khôn tạo

    Đinh mùi kỷ dậu tân sửu tân mão

    Mệnh này rất nhiều người lấy tài làm dụng thần, mão mộc cực suy, không có nguyên thần sanh trợ, về lý không thể làm dụng thần. Lấy lộc làm dụng thần, tài sát là kỵ thần. Vận quý sửu, năm canh thìn, cùng với người khác hợp tác đầu tư sản xuất dụng cụ chữa bệnh, kiếm rất nhiều tiền. Sửu thổ sanh kim, thìn thổ sanh kim, canh kim cũng không phải là kỵ thần lắm, là hợp tác với nhiều người đa phần về tiền bạc mà thôi.

    Lộc thần sợ nhất gặp kiếp tài.

    Ví dụ. Khôn tạo

    Mậu ngọ bính thìn kỷ mùi kỷ tị

    Kỷ lộc tại ngọ, không tại mùi, ngọ lộc kề sát kiếp tài, cũng biết sản nghiệp tổ tiên chỉ phân cho anh em, cô ta thì không được. Nguyên nhân ngọ mùi hợp, có thể chồng cô ta được cha mẹ cho tài sản. Mệnh này nếu trụ giờ là đinh hoặc ngọ hỏa thì rất quý. Hiện tại chỉ có thể dựa vào tỉ kiên kỷ thổ. Vận giáp dần, giáp hợp kỷ tỉ kiên không cát. Dần mộc sanh hỏa thì cát. Năm canh thìn, thìn là kiếp tài nên hung, tự hình thìn thìn khai thủy khố, bị kiếp tài phá tài, nhưng canh giáp tương xung giải giáp kỷ hợp, cuối cùng được phá án thu hồi một phần tài sản.

    Lại ví dụ. Càn tạo

    Quý mão mậu ngọ kỷ dậu giáp tuất

    Đại vận: Đinh tị/ bính thìn/ ất mão

    Mệnh này khó xem nhất, đến đại vận ất mão anh ta bắt đầu phát tài, đến nay thu hơn mấy trăm vạn. Có người giải thích quý thủy tài tinh là dụng thần, bị mậu hợp, đến vận mộc khử đi mậu thổ cứu tài. Tài cực suy bị hợp mất, làm sao có thể cứu nổi? Sau này có người cho rằng tòng cường cách, nhưng tòng cường thì hỉ ấn, khi còn bé vận đinh tị cả nhà đều cơm áo không đủ. Ta cho rằng mệnh này thuộc lộc cách. Thực thần dậu là bệnh thần, nên khử đi. Kiếp tài là kỵ thần, cho nên anh ta từng bị người anh họ lừa gạt 2 lần. Năm canh thìn anh ta cho vay 30 vạn, bảo đảm sẽ không thu hồi được. Anh ta đổi tên công ty, tuyên bố đóng cửa công ty trước kia, nhưng có thể không thu hồi được khoản tiền.
    Kỳ 5. Thương quan khứ quan cách

    Ví dụ. Đại tham quan Hòa Thân.

    Canh ngọ ất dậu canh tý nhâm ngọ

    Đại vận: bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần

    Mệnh này thương quan kiến quan, tài tinh cực nhược lại bị hợp, vì sao lại làm quan chức cực cao, lại tham đắc tài nhiều nhất? Mệnh này kim thủy thương quan, chứng tỏ thông minh tuyệt đỉnh, tài hoa hơn người, có quan tinh, tài tinh hỗn cục là bệnh thần, phùng thương quan khứ quan, tỉ kiếp khử tài. Gọi là khử kỵ thần thì đắc kỵ thần, là hỉ, cho nên có thể được làm quan lại đắc tài. Đến vận hợi tý sửu phương bắc thủy địa, thương quan khử quan, thăng làm trung đường. Đến vận canh dần, kỵ thần ngọ hỏa phùng trường sanh, kỵ thần tài lâm vượng. Mùa xuân năm kỷ mùi bị xử tử.

    Kết cấu mệnh cục loại này nếu không thấy tài thì sẽ là quan thanh liêm, nếu không thấy quan tinh, sẽ có tài khí mà không làm quan, nếu tài thấu rõ ràng không hợp, lòng tham không đáy mà lại phung phí vô độ, nếu quan tinh cùng thương quan không kề sát, thì chức quan sẽ không lớn.

    Ví dụ. Càn tạo

    Ất tị canh thìn tân mão nhâm thìn

    Đại vận: kỷ mão/ mậu dần/ đinh sửu/ bính tý/ ất hợi

    Mệnh này trong “Bặc văn mệnh học”, nguyên văn nói lấy thủy làm dụng thần, không nói vì sao? Thật ra mệnh này tỉ kiên nhược, nhâm thủy không phải là bát tự tú khí, không thành cách thương quan tiết tú, thành cách thương quan khứ quan. Đương nhiên mệnh này kết cấu thương quan cùng quan không kề sát, cho nên quan chức không lớn. Đến đại vận bính tý, quan tinh hư nhược thấu lộ cùng thương quan gặp nhau, thương quan khử quan mà làm quan. Liền thăng chức quan. Có thể đoán nhâm ngọ lại thăng 1 bậc, năm nhâm ngọ thương quan kiến quan thiên khắc địa xung, theo lý luận của Thiệu Vỹ Hoa ắt đại hung, nhưng Hác tiên sinh đoán năm nhâm ngọ sẽ thăng chức. Đến vận ất hợi, năm đinh hợi thăng chức đứng đầu 1 sở. Bước đầu tiên anh ta thăng chức phó là vào năm ất hợi. Không hiểu mệnh lý, nói xằng bậy không biết sẽ hại bao nhiêu người.

    Lại ví dụ. Càn tạo

    Giáp ngọ nhâm thân canh tý mậu dần

    Đại vận: quý dậu/ giáp tuất/ ất hợi/ bính tý/ đinh sửu

    Ta đoán mệnh này năm quý hợi thăng chức; năm nhâm thân, quý dậu thăng chức, kết quả chính xác! Đây là mệnh cục trưởng cục công thương, nghe nói là đại tham quan. Năm mậu dần, vợ bị nhọt ở não phải giải phẫu, đến năm kỷ mão bản thân anh ta bị liệt phải điều trị ở bệnh viện. Nguyên nhân rất đơn giản là, tham đắc tài quá nhiều. Mệnh này vào vận mậu dần sẽ bị xét xử, hoặc mắc bệnh mà chết.
    Kỳ 6. Luận về “chủ, khách” trong bát tự.

    Chủ khách là điểm quan trọng nhất trong mệnh lý học.

    - Đầu tiên, lấy nhật can là chủ, can chi khác là khách. Lại lấy trụ ngày là chủ, các trụ khác là khách. Lại lấy ngày giờ là chủ, năm tháng là khách. Kề sát nhật chủ là chủ, cách xa nhật chủ là khách. Lại lấy mệnh cục là chủ, lưu niên đại vận là khách. Cuối cùng đại vận là chủ, thái tuế là khách.

    - Kế đến, xem lục thần. Lộc ấn tỉ kiên là chủ, các thần khác là khách; thực thần, tài tinh là chủ, sát nhận kiếp tài là khách.

    - Cuối cùng dụng thần hỉ thần là chủ; kỵ thần cừu thần là khách.

    Như vậy, cần phải biến thông quan hệ phức tạp chủ khách, không thể cứng nhắc. Tầng lớp chủ khách là có tính tương đối. Đối với cuộc sống chúng ta, ta là chủ, thân nhân của ta là khách. Cha mẹ ta đối với ta là người khác. Lại theo quan hệ thân tộc, thì quan hệ càng gần ta là chủ, quan hệ càng xa ta là khách. Như vậy trong bát tự, có thể phân biệt phát sinh sự kiện cát hoặc hung đối với bản thân, hay đối với thân nhân. Đồng thời cũng có thể phân biệt tính chất cát hung, mức độ nghiêm trọng ra sao. Vì sao thọ tinh (sao biểu thị thọ, yểu) là nhật chủ, lộc, ấn, thực thần cùng tài tinh, bởi vì chúng là “chủ”. Chỉ có “khách” tác dụng cùng ảnh hưởng đến “chủ”, mà không có chiều ngược lại

    Ví dụ. Càn tạo

    Giáp thìn kỷ tị mậu dần canh thân

    Đến vận quý dậu, năm đinh sửu sẽ có chuyện gì?

    Một người trả lời ngay năm này ấn tinh tị hỏa bị hợp, mẹ qua đời. Người khác nói bản thân mắc bệnh về mắt hoặc tim có vấn đề. Thực tế người thứ nhất sai lầm, người thứ hai tương đối chính xác, năm này người này bị mù mắt. Nguyên nhân là tị hỏa là lộc của nhật chủ, nguyên thần dần mộc bị khắc, dần mộc tại trụ ngày, lộc cùng trụ ngày đều là chủ, cho nên là việc xảy ra chính bản thân mình. Nếu dần mộc tại chi năm, có thể đoán là mẹ bị mất mạng.

    - Cuối cùng, thái tuế từ bên ngoài đến là khách, tác dụng bát tự đại vận “Thái tuế” hoặc “Chinh thái tuế” thiếu chính xác. Nhưng thái tuế phản khách làm chủ (tức can, chi thái tuế kiến lộc), tức có thể xác định 1 loại ứng kỳ của bát tự, tức năm này chủ yếu phát sinh sự việc cát hoặc hung.

    Ví dụ. Khôn tạo

    Đinh dậu giáp thìn mậu ngọ giáp tý

    Đại vận: Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân

    Bát tự thân nhược dụng hỏa, tý ngọ xung  hỏa bị thương khắc. Phu cung bị xung, hôn nhân ban đầu không thuận lợi. Đến vận mậu thân, thân tý thìn hợp vượng thủy cục xung ngọ, có thể đoán vận này ly hôn. Thời điểm ly hôn có thể xảy ra vào năm tý hoặc năm thìn. Bình thường không xảy ra vào năm thân, nguyên nhân thân không hiện trong bát tự mệnh cục. Xem kỹ phu tinh, năm bính tý cùng giáp không phát sinh tác dụng nặng, mà năm canh thìn, canh giáp tương xung, canh lại chính là kỵ thần; thân kim tại thái tuế thấu can (tức canh tàng trong thân thấu can tại năm canh thìn), đây là thái tuế phản khách làm chủ. Canh khử đi giáp mộc, nên năm này ly hôn.

    Ví dụ. Càn tạo

    Canh tý canh thìn canh ngọ ất dậu

    Mệnh này tỉ kiên trùng trùng, thiên tài là cha, nhưng mệnh cục không có thiên tài nên không khắc cha. Đến vận giáp thân, thiên tài hư nhược thấu xuất gặp khắc, có thể đoán cha mất. Năm mậu dần thái tuế thông lộc, phản khách làm chủ, bị thân kim bị xung phá, năm này cha mất. Giả sử không gặp vận giáp thân, đổi lại là vận mậu thân hoặc canh thân, thì năm mậu dần không dám đoán là cha mất, nguyên nhân thái tuế là khách, không có giáp xuất hiện, không đủ điều kiện phản khách làm chủ.

    Kỳ 7. Mệnh lý chân giả

    Thông thường người học mệnh lý hơn 10 năm, thậm chí vài chục năm, nhưng có thể càng học càng đoán hồ hồ. Nguyên nhân căn bản là người học không nhìn thấy được mệnh lý chân giả. Nguyên nhân nhiều thầy giảng không đồng nhất, chẳng biết ai đúng ai sai.

    Ví dụ. Càn tạo, tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton

    Bính tuất bính thân ất sửu mậu dần

    Đại vận: Đinh dậu/ mậu tuất/ kỷ hợi/ canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão

    Vận tân sửu, năm nhâm thân đắc cử tổng thống, năm bính tý lại tái đắc cử. Bát tự này dụng thần là gì?

    Nếu nói dụng thần là bính hỏa, tại sao tại đại vận kim thủy vượng lại cát? Nếu nói dụng thần là kim thủy, bát tự không có thủy, làm sao dụng thủy; dụng kim cũng không trọn vẹn. Trên thực tế, mệnh này dụng thần chính là bính hỏa, thành thương quan khứ quan cách, nên đến vận quan có thể làm quan, đây là đại vận ứng kỳ. Ta ví dụ cho dễ hiểu, chỉ khi có tội phạm xuất hiện thì cảnh sát mới có ích lợi vì bắt tội phạm. Nếu không có tội phạm, thì cảnh sát thành vô dụng dư thừa. Tại vận nhâm dần không thấy quan sát, thương quan thành vô dụng, nên không làm quan nữa.

    1. Bình thường người dụng thần là thương quan thì lật đổ người khác để mình nắm quyền.

    2. Thương quan thấu can thì tính cách cũng rất đường hoàng. Thương quan cũng biểu tượng cho trưng cầu dân ý cùng tự do, nếu thương quan thấu rõ ràng chế quan cách là được dân bầu lên làm lãnh đạo nhân dân.

    Rất nhiều sách viết, phùng thiên khắc địa xung, tuế vận cũng thiên khắc địa xung, chinh thái tuế, thương quan kiến quan, tam hình đều là năm hung họa. Chỗ này là những người không hiểu mệnh lý dụng tâm hù dọa người. Đa số không nghiệm. Mệnh lý căn bản là ngũ hành sanh khắc cùng hình xung hóa hợp, mà không phân biệt thần sát. Cho nên ta chủ trương đệ tử cần chăm chỉ nghiên cứu đọc Tích thiên tủy, tận lực nghiên cứu tư liệu mệnh học.
    Kỳ 8. Dụng pháp về tương hại trong bát tự

    Nhớ kỹ Hác tiên sanh giảng cho ta, trong bát tự: Hại có khi còn nguy hiểm hơn xung. Tý mùi tương hại, mão thìn tương hại, dần tị tương hại, sửu ngọ tương hại, thân hợi tương hại, dậu tuất tương hại. Nếu vừa tương khắc lại tương hại thì nguy hiểm nhất.

    Ví dụ. Càn tạo

    Canh tý canh thìn canh thìn mậu dần

    Đến vận quý mùi, năm đinh mão, mão hại thìn (ấn tinh), mẹ mất. Vì sao phát sinh tại vận quý mùi, do tý mùi tương hại, hại nên mẹ gặp sự cố. Đương nhiên còn có một nguyên nhân là vận “Hoạn mẫu” (vận mẹ bị tai họa).

    Lại ví dụ. Càn tạo

    Nhâm dần mậu thân ất dậu mậu dần

    Đại vận: kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi

    Xem hôn nhân của mệnh này, mậu thổ thê tinh tại can tháng lại đến vận tuất thổ tài vận, nên luận kết hôn sớm. Thực tế người này ở vận tuất vẫn không tìm được đối tượng thích hợp để kết hôn. Nguyên nhân là dậu tuất tương hại, cho nên thê cung bị hại. Năm mậu thìn, thìn tuất tương xung, thìn dậu hợp giải dậu tuất tương hại, gặp được đối tượng. Đến vận tân hợi, năm kỷ tị kết hôn.

    Ta có đồng nghiệp cha cô ta đột nhiên qua đời, trước đây thầy Vương Hổ Ứng đã nhắc nhở cô ta phải chú ý đến bệnh tim của cha vào sau lập thu, Không ngoài tiên liệu, sau lập thu cha cô ta bị bệnh tim không biết mà mất, bát tự như sau, Khôn tạo:

    Mậu thân tân dậu đinh mùi quý mão

    Đại vận: Canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ/ đinh tị

    Đến vận mậu ngọ, năm canh thìn, tháng thân, ngày dậu, cha qua đời.

    Một người cho rằng: Mệnh này dậu kim tài là cha, vận mậu ngọ hỏa khắc kim, cha bị khắc nên mất mạng. Lập tức có người đưa ra ý kiến trái ngược, nói là bát tự tài rất vượng, vận mậu ngọ hỏa sanh mậu thổ, lại sanh kim, kim khá vượng, năm canh thìn lại trợ kim, cha quá vượng mà mất mạng. Ta nói: Thời niên thiếu cô ta gặp vận canh thân, canh kim vượng, vì sao cha chưa chết vẫn còn sống? tất cả lý giải đều không chính xác. Chỉ có tìm được chánh lý, mới có thể giải thích xác đáng.

    Ta nói: Quan sát tại trụ năm trụ tháng, tài tinh tại trụ giờ hư thấu cùng tài tinh tại trụ năm trụ tháng, quan sát tại trụ giờ hư thấu đều là kết cấu bát tự trung niên sẽ bị tang cha (tức trong khoảng từ 30-40 tuổi). Mệnh này, tài là cha là theo cách xem thông thường, do thấu sát cho nên lấy sát làm cha, sát tọa ấn, ấn tinh mão mộc cũng là cha không phải mẹ, “quý mão” một trụ coi như là cha. Nguyên nhân sát tại trụ giờ, cho nên sẽ không có tang cha sớm. Vận mậu ngọ hợp mất quý thủy không thể sanh mão mộc, mão mộc phùng ngọ là lâm tử địa, cho nên vận này cha mất. Năm canh thìn tương hại mão mộc, tháng thân mộc lâm tuyệt địa, phùng ngày dậu xung phá mà mất mạng. Có thể thấy được tương hại đáng sợ đến mức nào.
    Kỳ 9. “Có” cùng “không có” trong bát tự

    Ta cho rằng học mệnh lý quan trọng nhất là nhận thức đúng về mệnh lý. Từ kỳ thứ 1 đến thứ 8 cũng không có dạy nhiều về dụng pháp, mà là dạy về mệnh lý cùng lý luận nhận thức. Kỳ này cũng như vậy. Ta trước tiên học mệnh thì có 1 loại sai lầm về nhận thức, hay bát tự khuyết kim thì cho rằng phải bổ kim, bát tự nhiều kim thì phải tiết kim hoặc khắc kim. Tất cả đều là nhận thức sai lầm. Đọc “Tích Thiên Tủy” cùng “Mệnh lý chỉ yếu” đều có thể hiểu được mệnh lý chánh lý.

    Ví dụ. Càn tạo

    Nhâm tý quý mão nhâm tý bính ngọ

    Đại vận: giáp thìn/ ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi

    Hác tiên sinh từng hỏi ta bát tự người này làm gì? Ta không trả lời được. Thực tế người này là 1 tên ăn mày. Đến vận bính ngọ đang hành nghề ăn xin. Bát tự có tài đến tài vận là lúc nghèo nhất. Nếu như bát tự này thay đổi trụ giờ, can chi không thấy tài tinh, dám chắc không phải là tên ăn mày. Mệnh này thân cực vượng, lệnh tháng mão mộc bị hình, bị hại không thể tiết thủy sanh hỏa, tài tinh là kỵ thần, thấy tài là hại, huống hồ tài tại môn hộ (trụ giờ là môn hộ), môn hộ chỉ thấy tài, nhất định là tên ăn mày.

    Quý mão đinh tị đinh tị nhâm dần

    Bát tự này tòng cường, sẽ không là tên ăn mày, mà sanh vào giờ thân dậu thì nhất định là tên ăn mày.

    Cho nên, xem bát tự có một nguyên tắc, trong bát tự cái gì là kỵ thần hoặc bệnh thần, thần này vượng trong bát tự hoặc vượng xuất hiện tại đại vận, tức thần này đại biểu sẽ gặp việc không tốt. Nếu thần này tại bát tự, đại vận nhược hoặc bị khử mất, biểu thị sẽ đắc thần này, là thần này bị hao tổn mà có thu hoạch lớn. Nếu bệnh thần cùng kỵ thần tại bát tự đại vận không xuất hiện, có thể nói thần này đại biểu sự vật không cần theo đuổi mà tự nhiên sẵn có. Còn có đạo lý trái ngược: Nếu trong bát tự hỉ thần cùng dụng thần bị hư hoại hoặc phùng đại vận bị hư hoại, tức thần này đại biểu gặp sự việc hung. Nếu như thần đó đại biểu chồng hoặc vợ, không bị hư hoại, tức có thể chồng hoặc vợ vô sự mà luận cát. (chú thích cho rõ: Ông Nghiệp viết chỗ này hơi khó hiểu. Tôi viết lại cho rõ để mọi ngừoi dễ hiểu là: Ví dụ nếu trong mệnh tài quan là kỵ thần thì đến vận kỵ thần vượng ắt hung. Nhưng nếu kỵ thần tài quan trong mệnh bị chế, thì đến vận gặp kỵ thần lại cát, đắc tài, đắc quan).

    Ví dụ. Khôn tạo

    Giáp thân bính tý ất sửu kỷ mão

    Đại vận: Ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ

    Mệnh này lấy thương quan bính làm dụng thần, kim thủy là kỵ thần. Chồng là kim. Phu cung sửu cũng là kỵ thần, chồng đối với cô ta không tốt. Đến vận canh ngọ, thương quan lâm vượng mà quan tinh hư thấu, thương quan cùng quan tương hội mà khắc, năm canh thìn phu tinh thái tuế xuất hiện là ứng kỳ. Chồng mắc bệnh tim qua đời. Có người nói kỵ thần kim bị khử đi là cát, vì sao hung? Thực tế cát hung chỉ là tương đối. Vận nhâm thân, chồng đánh cô ta rất nặng. Đến vận tân mùi, cô ta có ý định buôn bán kiếm tiền, chồng không hỗ trợ mà còn gây trở ngại việc buôn bán của cô ta. Vận canh ngọ chồng qua đời khiến nàng không có liên lụy, cuộc sống rất tốt.

    Đồng thời ta phản đối lấy dụng thần làm tuyệt đối hóa. Bát tự cũng giống lục hào, xem về chồng thì lấy quan quỷ là dụng thần, quan quỷ bị khắc thì chồng mất mạng, lại chủ hung. Dụng thần chỉ quản hành vận tốt xấu, việc sống chết đã có cách xem khác. Hác tiên sinh xem mệnh cho tới bây giờ không nói đến dụng thần, có đạo lý khác.

    Xung khai là gì?

    Chỉ có 2 trường hợp: Hợp phùng thái tuế xung là xung khai; mộ khố trong bát tự bị thái tuế xung là xung khai. Như sao phối ngẫu hoặc cung phối ngẫu phùng hợp, thường khi xung giải hợp là năm kết hôn. Dụng thần tàng trong mộ khố, thường khi bị xung là năm bắt đầu chuyển hướng.

    Ví dụ. Càn tạo

    Quý mão bính thìn kỷ sửu ất sửu

    Đến vận quý sửu, lưu niên tân mùi; năm này bắt đầu buôn bán kiếm tiền, trước kia vẫn là kẻ nghèo hèn. Đến năm bính tý hợp mộ, ngưng buôn bán kinh doanh.

    Xung xuất là gì?

    Chỉ có 2 loại:

    1. Lưu niên xung chi năm, xung chi giờ gọi là xung xuất, thông thưởng biểu hiện đi xa. Nguyên nhân năm là tổ tiên, biểu hiện rời xa tổ tiên. Giờ là môn hộ (gia đình), chứng tỏ xuất ngoại. Đương nhiên đây chỉ là 1 thông tin đi xa, không phải tất cả mọi người đều như vậy.

    2. Dụng thần hoặc kỵ thần nhập mộ, phùng lưu niên xung dụng thần hoặc kỵ thần thì gọi là xung khai, thần bị xung khai sẽ ảnh hưởng đến mệnh cục hoặc phát sinh chuyện liên quan đến thần đó.

    Ví dụ:

    Bính tuất ất mùi tân sửu đinh dậu

    Mệnh này năm 19 tuổi năm giáp thìn, vận đinh dậu đi xa làm việc, nguyên nhân thìn xung chi năm tuất, chủ ly hương, thìn dậu hợp chủ có việc làm.

    Ví dụ:

    Đinh mùi nhâm tý đinh tị tân hợi

    Đến vận canh tuất, dụng thần tị hỏa nhập mộ tuất; năm quý hợi xung xuất tị hỏa, thi đậu cao trung, mà năm nhâm tuất thi rớt.

    Xung khử là gì?

    Bình thường thái tuế xung suy thần trong bát tự gọi là xung khử, xung khử chỉ là thần này rời khỏi mệnh chủ, mà không chết đi. Như vợ chồng ly dị, anh em bỏ nhà đi, cha mẹ ly dị.

    Xung phá là gì?

    Thái tuế xung thần cực suy trong bát tự gọi là xung phá, bị xung phá thì thần đó không còn sanh cơ, hoặc không có nguyên thần hoặc nguyên thần bị phá tan, hoặc phùng đại vận mà bát tự khắc hại, hoặc cô nhược không chỗ dựa. Thần nào bị xung phá thì thần đó gặp đại hung, có thể mất mạng.

    Ví dụ. Khôn tạo

    Ất tị bính tuất bính thân bính thân

    Đến vận canh dần, phụ tinh thân kim bị xung phá, chủ mất mạng, nguyên nhân thân kim không có nguyên thần (táo thổ tuất không sanh kim) toàn cục khắc thân kim, phùng xung nhất định bị phá. Mùa xuân năm kỷ mão cha bị ung thư.

    Tổng quát mà nói, trong mệnh phùng xung chỉ có 2 trường hợp hung là:

    1. Xung hung.
    2. Xung phá.

    Những loại xung còn lại chỉ ứng nghiệm sự việc xảy ra, không hung.

  6. #6

    Mặc định

    Ví dụ 1. Đào động chi tiên
    Khôn tạo (Lâm tiểu thư). Dân quốc năm 46 (năm 1957), sanh vào ngày 4/10 giờ thìn.
    Đinh dậu nhâm tý tân dậu nhâm thìn
    Đại vận: Quý sửu (9)/ giáp dần (19)/ ất mão (29)/ bính thìn (39)/ đinh tị (49)/ mậu ngọ (59)
    Được biết Lâm tiểu thư chưa lập gia đình, trước đây đã từng làm nghề may trang phục. Hỏi về sự nghiệp, hôn nhân.
    -Lâm tiểu thư, trong mệnh có 2 đào hoa, thích hợp làm về may trang phục, kể cả về trang điểm cũng tốt. Nếu kết hôn sớm, sợ rằng năm 31 tuổi thì bị ly hôn. Sau năm 40 tuổi, vận trình khá tốt. Chỗ này là nhật chủ tân kim sanh vào trọng đông tháng tý, thủy vượng tiết khí rất mạnh, cần bính hỏa trừ hàn điều hậu.
    Nhật nguyên tân kim hồng diễm tại dậu, trụ tháng nhâm tý cũng đào hoa tại dậu, chi giờ thìn cũng đào hoa tại dậu. toàn là hồng diễm đào hoa.
    May trang phục cùng trang điểm đều là nghề nghiệp làm về hóa trang, mà ngũ hành thuộc mộc, thuộc hỏa, trong mệnh lại có đới đào hoa nên là người khéo tay. Hơn nữa, Lâm tiểu thư sanh vào tháng tý, kim hàn thủy lạnh, cần có mộc hỏa tài quan điều hậu.

    Nếu bàn về hôn nhân, bản mệnh thương quan nhâm thủy thấu đắc lệnh tháng, tý thìn bán hợp. Trụ năm, trụ ngày 2 dậu kim, kim sanh thủy vượng, thương quan tinh cực vượng. Cổ vân về nữ mệnh “thương quan thái vượng nếu vô tài, nhất đối uyên ương lưỡng sách khai”, bởi vậy cũng biết bát tự của Lâm tiểu thư có triệu chứng bất lợi hôn nhân. Tốt nhất nên kết hôn muộn, nếu kết hôn sớm sẽ có chia ly, đến năm 31 tuổi lưu niên đinh mão, vừa lúc trụ ngày tân dậu xung khắc, phu tinh phu cung bị tổn hại, năm này vợ chồng sẽ chia ly.
    Năm 39 tuổi trọng xuân nhập vận bính hỏa, tuy nói “Thủy lãnh kim hàn hỉ viêm nhiệt”, bính hỏa có thể trừ hàn, nhưng bính hỏa tọa thìn khố hư phù vô căn, như phù vân ế nhật khó thể hiệu dụng. Chủ yếu nói vận bính hỏa có thể bắt đầu chuyển vận,
    -Năm 42 tuổi lưu niên mậu dần, vận tài không tệ.
    Lúc này đang ở đại vận bính thìn, bính hỏa trường sanh tại dần, can mậu thổ có thể chế thủy, mà giáp mộc tài tinh lâm quan tại dần, tài quan đều tốt.
    -Nguyên nhân là mệnh cục thủy đa, thực thương vượng, phải có mậu thổ, có tài, mới luận thủy tốt.
    Hiện nay năm bính tý, sang năm đinh sửu, chỉ là điều hậu mà thôi; hiện hành đại vận bính thìn không thấy tài tinh, không thể nói lợi về tiền bạc. Nếu cần lợi về tài, phải đợi năm 49 tuổi tại đại vận đinh tị.
    Bát tự Lâm tiểu thư mệnh cục thủy thế cực vượng, hoành lưu phiếm lạm, nhưng không có mậu thổ nên rất hại. Nếu không có tài tinh, nhất định quan tinh sẽ bị khắc tuyệt, đối với nữ mệnh có thể nói khó bảo hộ phu tinh.
    Mà năm bính tý, đinh sửu, tuy thấu thiên can hỏa điều hậu, nhưng hỏa tại nguyên cục cùng đại vận đều vô căn, mà chi năm tý, sửu cũng là phương bắc thủy địa. nên lực bính đinh hỏa không đủ.
    Đến đại vận bính thìn, bính hỏa chánh quan cho nên có thể điều hậu, nhưng mệnh cục tài tinh không hiện, nên phản lại thành thương quan khắc quan, nếu Lâm tiểu thư kết hôn sớm, dám chắc đối với chồng bất lợi, không có lợi về tiền bạc.
    Mà cuối năm 49 tuổi nhập vận đinh tị, chính là vận thất sát, nếu luận về điều hậu, tân kim hỉ bính hỏa hơn đinh hỏa, nhưng đinh hỏa không có giáp mộc sanh phù thì cũng không lợi.
    Cổ vân “Thất lợi khó dụng”, huống hồ đinh hỏa bị nhâm thủy hợp. làm sao có thể luận là lợi về tiền bạc đây?
    -Người mệnh cục thực thương cường vượng, hôn nhân bất lợi, nếu kết hôn, có thể luận năm 39 tuổi đến 48 tuổi hôn nhân không thuận.
    Bích uyên phú vân: “Nam mệnh thương quan sẽ khắc con trai, nữ mệnh thương quan nhất định khắc chồng”
    Bát tự Lâm tiểu thư thương quan song thấu lại đắc lệnh, tất nhiên khắc chồng. Mà năm 39 tuổi đến năm 48 tuổi ở vận bính thìn, chánh quan thấu lộ trên can, mà thương quan vượng thấu can, lại không có tài tinh lộ trên can để thông quan, nhất định thương quan sẽ không bỏ qua bính hỏa chánh quan. Chi đại vận thìn thổ chính là thương quan chi khố, ngộ khố càng hung, lại cùng chi giờ thìn tự hình, làm sao có hôn nhân đẹp được.
    -Lâm tiểu thư, dựa vào mệnh cục, cũng biết là người rất xinh đẹp, nói năng lương thiện, nhân duyên tương đối không tệ, có rất nhiều đàn ông theo đuổi, nhưng cá tính hơi kiêu ngạo một chút.
    Vị kính luận văn: “Kim năng tú lệ, đào động chi tiên”. Nữ mệnh nhật nguyên tân kim, đắc phương tây tú khí, cần lấy hỏa để thành chất, nếu có hỏa sẽ không có khiếm khuyết, tất nhiên đắc tượng mỹ nữ dung mạo mỹ lệ. Bát tự mặc dù đinh hỏa hiện không vượng, nhưng đắc 2 vận giáp dần, ất mão sanh phù, cho dù không cường cũng tính là nhu hòa.

    Huống hồ bát tự toàn hồng diễm, đào hoa, ứng lý dung mạo sẽ tu hoa bế nguyệt. Thực thương đắc lệnh tất nhiên sẽ biết ăn nói, giao tế cũng không kém, chỉ là ấn tinh bạc nhược, chẳng những kiêu ngạo mà còn có thể nói là phụ nữ không đáng tin tưởng.

    -Về tiền vận, năm 31 tuổi lưu niên vận đều tốt, phải biết sẽ có lợi tiền bạc. Năm 38 tuổi cũng là 1 năm không tệ. Nhưng năm 39 tuổi vận trình kém tốt. Từ năm 39 tuổi đến năm 48 tuổi tuy vận chánh quan nhưng không có tài tinh, cho nên vẫn có khuyết hãm.

    Đường lão sư chỉ nói năm nào, tuyệt nhiên có giảng về can chi lưu niên. Năm 30 tuổi lưu niên bính dần, năm 31 tuổi lưu niên đinh mão, năm 38 tuổi lưu niên giáp tuất đều thuộc mộc, hỏa tài quan tức hỉ dụng thần, có nhiều ích lợi. Năm 39 tuổi lưu niên ất hợi chính là luận về tài, do mộc phù thủy phiếm, không thể sanh hỏa. Mà năm này vào mùa xuân nhập vận bính hỏa, phùng năm hợi là tuyệt địa, chỉ tăng thêm sự phiền não mà thôi.

    -Năm nay bính tý, về phương diện tình cảm sẽ có 2 người nam theo đuổi, nhưng cũng thất bại mà thôi.
    Tuế vận 2 bính hợp 1 tân, nhưng nguyên do đố hợp vô tình phản lại là cừu, cũng biết tình cảm trắc trở, phập phồng bất định.
    -Sau năm 44 tuổi, về hôn nhân có thể làm vợ kế hoặc vợ bé. Đối với phương diện thân thể, tân kim sanh tháng tý tiết khí nhiều, cẩn thận bệnh phổi.
    Bản mệnh kim sanh thủy vượng, dung mạo mỹ lệ, đoán chắc nhiều đàn ông theo đuổi. Theo mệnh lý, nguyên nhân chính là thương quan thái vượng tối kỵ, nguyên cục năm thấu đinh hỏa thất sát, bị can tháng nhâm thủy thương quan hợp mất, không có tài tinh chuyển hóa sanh sát, dễ biết đối với đàn ông theo đuổi không màn đến. Mặc dù năm 19 tuổi, nhập vận giáp dần, ất mão tài tinh, trợ giúp quan sát. Chỉ hiềm mệnh cục cuồn cuộn thủy, hỏa khiếm khuyết, chung quy thủy đa mộc phiêu, không thể sanh hỏa.

    Hoặc nguyên do quá kiêu ngạo, hoặc nguyên nhân tình cảm dao động bất định mà phí hoài duyên phận. Có thật sau năm 44 tuổi kết hôn, đúng như Đường lão sư nói làm vợ kế hoặc vợ nhỏ? Thật không dám vậy. Nguyên nhân là tử bình bát tự chỉ là dự đoán, có thể đoán 1 chút về vận mệnh, mà chủ vận mệnh vẫn do mình nắm giữ. Không người nào dám nói là chắc chắn.
    Ở ví dụ 1. Đường lão sư đoán về Lâm tiểu thư, ông ta không nói đến cách cục của cô này. Đây là cách "Bán lộc đào hoa" rất xấu đối với phụ nữ. Phụ nữ mà có cách này thì chắc chắn sẽ ăn ở, ngủ với rất nhiều đàn ông (có thể nói gọn là làm vợ bé nhiều người). Bán lộc có bán nội, bán ngoại. Bán nội thì quan hệ với nhiều người, nhưng là những người ít nhiều có quan hệ tình cảm sâu đậm. Còn bán ngoại thì khỏi phải nói, chỉ ngủ với đàn ông vì tiền thôi!

    Cô Lâm tiểu thư này thuộc cách bán ngoại, nên biết chắc cô này nhân cách không tử tế gì Tôi tự hỏi Đường lão sư có biết cách cục này hay biết nhưng vì lịch sự không nói ra.

    Ví dụ 2. Tầm quan trọng của “Nguyên lưu”
    Khôn tạo. Dân quốc năm 83 (năm 1994), sanh vào ngày 14/4 giờ ngọ.
    Giáp tuất kỷ tị canh tuất nhâm ngọ
    Đại vận: Mậu thìn (7)/ đinh mão (17)/ bính dần (27)/ ất sửu (37)/ giáp tý (47)/ quý hợi (57)
    Khẩu ứng giữa Đường lão sư và Vương thái thái về con gái Vương thái thái. Hỏi về sức khỏe cùng vận trình tương lai.
    -Con gái sanh vào ngày canh tuất chính là đới khôi cương, theo kinh nghiệm luận mệnh thì sanh ngày khôi cương nhất định dung mạo con gái rất đẹp. Bát tự mệnh cục lộ nhâm thủy thực thần, thực thần là văn xương tinh, tài hoa không tệ, tương lai nhất định là cao thủ về kinh doanh buôn bán, cô gái này tương lai sẽ là phúc ấm của cha mẹ, bản thân từ năm 37 tuổi đến 57 tuổi sự nghiệp rất phát triển. Nhưng trước năm 36 tuổi nguyên nhân hành đại vận không hợp bản mệnh, cho nên rất khó đột phá. (Đường lão sư thuyết)
    Chúng ta thân là cha mẹ, không dám cầu con cái là phúc ấm, chỉ hy vọng con gái bình an, kiện khang, không biết sức khỏe con gái như thế nào? (Vương thái thái hỏi).
    -Luận về sức khỏe, bát tự quan sát hỗn tạp, mệnh lý quan sát công kích nhật nguyên, lực sát thương rất mạnh, hơn nữa con gái trước năm 16 tuổi nhập đại vận thìn, thìn là lưu hà mà thiên la địa võng, cho nên dễ phát sinh việc bất ngờ, máu huyết, đặc biệt cần chú ý đến việc té ngã tổn thương. Bình thường sức khỏe không tốt, ban đêm ngủ không yên, dễ bị viêm đường ruột, loãng xương. (Đường lão sư thuyết)
    Con gái không tốt lắm về sức khỏe, không biết có phương pháp gì để cải thiện. (Vương thái thái hỏi liền).
    -Có thể dùng dương trạch phong thủy từ tính bổ trợ, giường ngủ tốt nhất đặt ở phương đoài hoặc phương càn bổ trợ nguyên thần, sức khỏe sẽ có cải thiện. Nguyên nhân lệnh ái năm nay mới 4 tuổi, đối với mệnh của con gái, chúng ta luận mệnh đặc biệt quan tâm đến sức khỏe, kế đến mới là hôn nhân. (Đường lão sư thuyết)
    Sách cổ viết: “Khôi cương có 4 ngày chính là nhâm thìn, canh tuất, mậu tuất, canh thìn, chủ tính cách thông minh, văn chương chấn phát, lâm sự quá quyết, duy chỉ háo sát”.
    Trụ ngày là nhâm thìn, canh tuất, mậu tuất, canh thìn là mệnh khôi cương, nếu là trụ giờ cũng là khôi cương, gọi là “Đạp tinh khôi cương”.
    Nếu sanh vào ngày khôi cương mà luận là tính cách thông minh, văn chương chấn phát tựa hồ khiên cưỡng, phải dựa vào mệnh cục phối hợp luận đoán.
    Nhưng mệnh cục nếu thật sự là đạp tinh khôi cương nhất định là người cương liệt chính trực, ghét ác như cừu, ăn nói mạnh miệng, giọng nói rất to, không chịu nhịn nhục.
    Tục ngữ viết: “Người đới khôi cương, hát ủy mạ diêm vương”, chính là hình dung khôi
    cương tính rất cương liệt.
    Vương tiểu muội sanh ngày canh tuất, trụ giờ nhâm ngọ không phải là đạp tinh khôi cương, nên cho gọi khôi cương không đúng, cho nên không thể lấy đặc tính của đạp tinh khôi cương mà luận đoán.
    Đường lão sư dựa vào kinh nghiệm luận sanh ngày khôi cương, dung mạo cô gái nhất định mỹ lệ, độ chuẩn xác như thế nào đây?
    Mệnh cục Vương tiểu muội trụ giờ phùng mộc dục đào hoa, tự tọa hồng diễm, chi năm cũng là hồng diễm, nên là “mỹ nhân bại hoại”.
    Nhật nguyên bát tự Vương tiểu muội là canh ki, canh kim sanh sau tiết tiểu mãn 3 ngày, “Tiểu mãn viêm minh bính hỏa thịnh”, đúng vậy bính hỏa nắm lệnh đương quyền, canh kim tuy trường sanh tại tị, nhưng kim bị hỏa khắc. Chi giờ ngọ hỏa, trụ năm trụ giờ có địa chi tuất thổ không nhuận kim sanh kim; phản lại càng tăng táo nhiệt.
    Phú vân ngũ hành sanh khắc: “Thành tường bất sản chân kim, kiếm kích thành công ngộ hỏa hương mà phản hoại”. Canh kim trong trường hợp này phùng hỏa viêm thổ táo, cấp có thủy dưỡng điều hậu, may mắn can giờ lộ nhâm thủy, đáng tiếc nhâm thủy lại hư phù vô căn, nhâm thủy lâm tuyệt địa tại tháng tị. Can năm giáp mộc tiết khí nhâm thủy, kỷ thổ trọc thủy, nhâm thủy vô lực, vô công.
    Phú Bích Uyên viết: “Canh tân sanh tại mùa hè, diệu hồ nhâm quý đắc cục”. Tức là sanh vào mùa hã điều hậu rất quan trọng.
    Tích thiên tủy luận nguyên lưu viết: “Hà xử khởi căn nguyên, lưu đáo hà phương trụ, ki quát thử trung cầu, tri lai diệc tri khứ”. Nguyên lưu chính là tứ trụ sanh hóa không ngừng, ngũ hành chu lưu không nghẽn. Trong mệnh cục ngũ hành, tổ tông là nguyên đầu, thuận tự tương sanh, chỗ này nguyên đầu chảy đến phương nào thì dừng lại, nếu dừng lại tại dụng thần thì mệnh cục ngũ hành thuận sướng, thủy kỳ sở thủy, chung kỳ sở chung, tình hòa khí hiệp, bảo hộ cho nhau, “Can chi thuận toại mà xương”. Nếu chưa lưu chuyển đến nơi chỗ dụng thần, mà tại trung gian có cách trở, chỗ cách trở là bệnh; nếu không bị cách trở, mà là đạo tiết dụng thần, thì chỗ đạo tiết dụng thần cũng là hung thần.
    Vương tiểu muội mệnh cục rất cần thủy điều hậu, trong mệnh cục về ngũ hành thì hỏa cực vượng, lấy hỏa là nguyên lưu. Khởi điểm có hỏa sanh thổ, theo lý thuyết về nguyên lưu thì ngũ hành kế tiếp phải là kim mới thuận sanh hỏa_thổ_kim đến chỗ dụng thần thủy, đáng tiếc trong cục kim hư nhược vô khí lại ẩn tàng không hiện, kim tàng trong tuất thổ dòn dễ gãy, thiếu kim sanh thủy tức là mệnh cục có bệnh, nguyên nhân tại hỏa thổ là hung thần. Ngũ hành mộc lại đạo tiết dụng thần, là 1 hung thần khác. Mệnh cục dụng thần thiếu nguyên đầu (dụng thần thủy không có kim sanh), lại bị đạo tiết, chính là “thiên địa quai bội hỗn loạn”. Cho nên, mệnh cục Vương tiểu mục, cách cục không đẹp, nhưng bát tự cùng vận cục có ảnh hưởng, đặc biệt là lưu niên, bởi vậy cần gặp tuế vận hành kim thủy, thì có thể xương cát thuận toại (mới hanh thông cát lành).
    Sơ vận mậu thìn, chi vận thìn chính là lưu hà của nhật chủ (thìn là thủy khố), nam phạm lưu hà dễ bất ngờ chết tại đất khách quê người, nữ phạm lưu hà dễ bị tai nạn băng huyết. Thìn là thiên la, tuất là địa vòng, nam sợ thiên la, nữ sợ địa võng.
    Thư vân: “Long xà (rồng rắn) hỗn tạp, đương phòng phụ nữ ưu nguy; trư khuyển (heo chó) xâm lăng, mỗi lự trượng phu ách nan”. Đại ý thiên la, địa võng nhập mệnh, vận mệnh tuế vận hình thành thìn tị hội tuất hợi tức phạm thiên la địa võng, là vận trì trệ nhiều bệnh tật, tai họa lao ngục, trong đó đặc biệt sanh vào năm mà nạp âm là hỏa (năm giáp thìn, giáp tuất) hoặc thuộc thổ (năm bính thìn, bính tuất), nam nữ sanh vào những năm này dễ gặp tai họa phát sinh.
    Vương tiểu muội sanh năm giáp tuất, nạp âm của năm sanh thuộc hỏa, sanh vào tháng tị, trong vận thìn có năm đinh hợi, tức hình thành thìn tị tuất hợi thiên la địa võng, dễ dàng bị gặp tai họa huyết quang (đổ máu) bất ngờ.
    Chỗ này chính là Đường lão sư căn cứ vào thần sát mà đoán, nếu chúng ta không dựa vào thần sát, liệu chúng ta có thể luận được hiện tượng này không? Chúng ta căn cứ vào ngũ hành sanh khắc mà luận, rõ ràng có thể luận được vậy. Như phân tích mệnh lý ở trên, vận mậu thìn cùng trụ năm giáp tuất là can chi thiên khắc địa xung, trụ năm đại biểu thời đoạn trước 16 tuổi, thìn tuất xung thì thổ vượng, quá tàng trong thìn sẽ bị tổn thương, thổ dày thì thì cần mộc khắc, ngược lại còn bị giáp mộc khắc nặng, can vận mậu thổ khắc chế can giờ nhâm thủy, hỉ dụng thần bị khắc thương đến tận cùng. Năm đinh hợi thì tị hợi tương xung, suy thần xung vượng thần làm vượng thần phát, hợi thủy ngược lại bị khắc, đương nhiên gặp tai họa huyết quang.
    Vận đinh mão, đinh nhâm hợp, mão tuất hợp hóa hỏa, nhâm thủy bị đạo tiết. Vận bính dần, địa chi dần ngọ tuất tam hợp hỏa cục, thiên can hình thành giáp mộc sanh bính hỏa, bính hỏa lại sanh kỷ thổ, vượng thổ khắc nhâm thủy.
    Nên vận đinh mão, bính dần cường sát công thân, triệu chứng nhiều bệnh tật, việc này không có cách tránh được tai họa, bệnh tật; nguyên nhân không ngoài hỉ dụng thần nhâm thủy thiếu nguyên đầu, khiến cho nhâm thủy không thể chu lưu, bị tắc nghẽn, khiến cho bát tự bất đi điều hậu. Sau năm 36 tuổi nhập vận phương bắc thủy địa, phối hợp lưu niên sẽ ứng với phát công danh sự nghiệp.
    Đường lão sư luận Vương tiểu muội có thể là “Phúc ấm của cha mẹ về tiền bạc” quả thật là lời “thiện ý hoang ngôn”. Con cái được cha mẹ nuôi dường, về lý thì cha mẹ là phúc ấm của con cái không thể nói ngược được.
    Giáp mộc thiên tài là phụ tinh (thiên can đắc lệnh thì cần lộ, thiên can thất lệnh rất mừng ám tàng). Tại mệnh cục thì hỏa nhiều mộc cháy khô, lại phùng vận mộc hỏa táo khô, hình thành tượng “Nam mộc phi hôi nhi thoát thể”, làm sao có thể nói là cát lành?
    Kỷ thổ chánh ấn là mẫn thân, mùa hạ thổ tiêu, phùng vận hỏa vượng, càng khô tái, cũng khó nói cát lành. Cho nên tựu chung về mệnh lý mà nói, Vương tiểu muội tuyệt nhiền không phải là mệnh “phúc ấm của cha mẹ”.
    Nhưng luận mệnh lý chỗ này cũng không thể nói thật cho cha mẹ đứa trẻ biết, nguyên nhân là “thiết khẩu trực đoạn (ăn ngay nói thẳng)” có thể làm hại đến đứa bé, khiến cho đứa bé vĩnh viễn bị “Cha bất đông, mẹ bất ái (cha mẹ không yêu thương)”.
    Tác giả từng gặp qua trường hợp: Người cha bị tai nạn xe lửa, không rõ nguyên nhân, hỏi thầy thì thầy nói rằng đứa con có bát tự khắc cha, nên cần giao cho người khác nuôi dưỡng. Tang chồng làm đau thương người mẹ, lại phải giao con cho người khác nuôi dưỡng, làm sao chịu nổi đau này? Luận kiểu đó quả thật “tạo nghiệt”, dù luận có đúng thì có ích lợi gì?
    Về mệnh cục vận trình tài tinh bị tổn hại, tình cảm với cha thiển bạc (kém tốt), nhưng tổn hại thiển bạc cũng có nghĩa là “chết”, có thể là “tụ thiểu ly đa” hay nói rõ hơn là khắc cha, làm sao có thể tàn nhẫn nói ra đây!
    Cho nên tác giả có thể giải thích Đường lão sư: “thiện ý hoang ngôn” là như vậy. Cho nên Vương tiểu muội vận trình trở ngại đình trệ, nhiều bệnh tật, nhưng vẫn có thể an hưởng cha mẹ, gia đình yêu thương.
    Luận mệnh có thể quý ở chỗ, không những ở chỗ “chính xác” cùng “không chính xác”, vận dụng mệnh lý pháp tắc khai đại nhân sinh, giải ưu, trừ nghi, tùy theo thời mà xem tâm lý, lòng người.

    Ví dụ 3. Vợ chồng nhân duyên túc thế lai.Càn tạo. Dân quốc năm 57 (năm 1968), sanh vào ngày 9/8 giờ sửu.

    Mậu thân nhâm tuất quý hợi quý sửu

    Đại vận: Quý hợi (7)/ giáp tý (17)/ ất sửu (27)/ bính dần (37)/ đinh mão (47)/ mậu thìn (57)
    Khẩu ứng xảy ra tại Đài Bắc. Nguyên con trai Vương thái thái đã lớn tuổi hãy còn chưa lập gia đình, hỏi về hôn nhân? Người vợ tương lai có phải là người hiền thục thông minh? Có phải là người vượng phu? Vương thái thái có 3 người con trai. Lão đại, lão nhị đều đã lập gia đình sanh con.
    -Bát tự con trai Vương thái thái nhật chủ thuộc thủy. Mệnh cục tài tinh quá nhược, cho nên hôn nhân khá không thuận lợi. sau này sẽ gặp người vợ là phúc ấm, có thể vào năm mậu dần kết hôn, năm 31 tuổi năm mậu dần có thể kết hôn, vợ là người khá chịu khó cần mẫn. (Đường lão sư đoán)
    Đường lão sư trực tiếp chỉ ra Vương tiên sinh sẽ kết hôn năm 31 tuổi.
    Vương thái thái: “Nếu năm 19 tuổi kết hôn có tốt không? Có phải nam mệnh vào năm 19 tuổi đều không nên kết hôn?
    -Đường lão sư: “Truyền thuyết nam mệnh không nên kết hôn năm 19 tuổi là không có căn cứ”. Nam nữ có duyên nợ đều có thể kết hôn, về mệnh lý mà nói, ngũ hành nên tương hợp, cung phu thê không hình xung đều là thích hợp kết hôn. Nếu thuyết nói vào năm 19 tuổi không nên kết hôn, toàn thể nam nhân trên thế giới đều phải tránh chuyện này sao? Đó là truyền thuyết không hợp lý. (Đường lão sư trả lời).
    Tích thiên tủy viết: “Phu thê nhân duyên túc thế lai, hỉ thần hữu ý bảng thiên tài”. Phương pháp tử bình:
    Nam mệnh lấy tài tinh là vợ, nữ mệnh lấy quan sát tinh làm chồng. Vợ chồng có thể kết hợp lập gia đình, sanh sống chung 1 nhà, chính là nghiệp lực kiếp trước chú định, hôn nhân có đẹp hay không cần xem tài tinh cùng hỉ dụng thần trong bát tự. Về nam mệnh mà nói, tài là hỉ thần, đại khi sẽ có vợ hiền. Nhưng cũng không được quên thê cung, chi ngày là hỉ hay kỵ thần, nếu tài tinh cùng thê cung đều là hỉ dụng thần thì sẽ cưới được vợ hiền tài. Nhật chi là hỉ dụng thần, thì tố chất người vợ khá tốt; kế đến xem vợ chồng tình cảm đối xử có hòa hợp hay không, cần phối hợp xem thê tinh cùng thê cung có bị hình xung khác hại mà luận đoán. Nữ mệnh, hôn nhân có hạnh phúc hay không thì lấy quan sát tinh cùng phu cung mà luận tương tự nam mệnh.

    Lúc kết hôn đại khái theo phương pháp sau:
    1-Mệnh đố hợp dễ kết hôn sớm, mà tình cảm cũng tốt.
    2-Nguyên mệnh cục vốn có tam hội cục hoặc tam hợp cục sẽ có khuynh hướng kết hôn sớm.
    3-Nam mệnh thân cường tài vượng, không có tỉ kiếp lộ ra trên can, đến vận tài dễ kết hôn.
    4-Nam mệnh nhiều tỉ kiếp, thiếu tài tinh (hoặc tài tinh nhược), kế đến đại vận gặp vận tỉ kiếp kỵ thần, dễ kết hôn muộn.
    5-Nữ mệnh nhiều thực thương, thiếu quan sát tinh (hoặc quan sát nhược), kế đến đại vận gặp vận thực thương kỵ thần, dễ kết hôn muộn.
    6- Can chi tuế vận cùng can chi trụ ngày, lục hợp hoặc tam hợp, tại đại vận hoặc lưu niên này xác suất dễ kết hôn nhất.
    Vương tiên sinh, bát tự có nhật nguyên thuộc thủy, sanh sau tiết hàn lộ 12 ngày, mậu thổ nắm lệnh, đinh hỏa đương quyền. Nhật nguyên quý thủy tuy không nắm lệnh nhưng nhật nguyên tọa hợi thủy, chi năm thân kim sanh phù, lại có can tháng nhâm thủy kề sát + can giờ quý thủy bang phù.
    Túy tỉnh tử viết: “Quý thủy ứng phi vũ lộ lâm, căn thông hợi tý tức giang hà”(tức quý thủy có hợi tý thông căn thì thành vượng). Mệnh cục Vương tiên sinh thuộc cách cục này. Ở đây dụng thần như thế nào? Tuy nói “cường thủy đắc mộc phương tiết kỳ thế”, nhưng thủy đa mộc phiếm, có thấy mộc cũng vô ích; cần lấy hỏa làm dụng thần, mệnh cục không có mộc thông quan, nên phạm vào cách “suy thần xung vượng thần, tất vượng thần phát” là tối kỵ. Thủy hỏa giao chiến, hỏa bại là chắc chắn. Bởi vậy chỉ có trước hết dụng táo thổ ngăn thủy thế, kế đến dụng hỏa làm hỉ thần, sanh phù táo thổ, mới có thể nói cát lành.
    Nguyên do những nội dung đã phân tích ở trên, chúng ta có thể đoán được tình trạng hôn nhân của Vương tiên sinh. Tài tinh là hỉ thần, nên vợ trợ giúp rất tốt cho sự nghiệp (quan tinh), nhất định cần dựa vào người vợ mưu đồ (tài sanh quan sát); thê tinh là kỵ thần (hợi thủy là kỵ thần), “chất” của bà vợ không được tốt lắm. Vậy có thể tổng hợp rằng năng lực bà vợ không giỏi, trình độ không cao nên trợ giúp cho chồng cũng có hạn. Vương tiên sinh có thật sự cưới được “người vợ vượng phu”, sẽ cần xem xét thêm hành vận.
    Mệnh cục đinh hỏa (tàng trong tuất) mặc dù nắm lệnh, nhưng hỏa không có mộc sanh thì cuối cùng cũng không sáng; ngược lại nếu đinh hỏa tài tinh lộ ra khí nhược không yên, cần phải đợi đến vận bính dần thì đinh hỏa mới được sanh phù, sẽ cháy sáng rực, vận này mới chính thức cưới được “bà vợ vượng phu (thê phúc ấm)”. Về thời điểm kết hôn, mệnh cục tỉ kiếp cường vượng, tài tinh nhược, kế đến đại vận tỉ kiếp giáp tý, ất sửu là vận kỵ thần, theo thứ tự sắp xếp ở trên vào trường hợp 4, nên đoán Vương tiên sinh dễ kết hôn muộn.
    Vương tiên sinh năm nay 19 tuổi, chưa kết hôn, tất cần chờ đợi lưu niên tài tinh cường vượng, mới có thể kết hôn. Đường lão sư luận vào năm mậu dần năm 31 tuổi sẽ kết hôn, là hết sức hợp lý. Năm mậu dần thái tuế can chi cùng trụ ngày thiên hợp địa hợp, dần cung tài, quan kết tàng, quan tinh lộ ra chế tỉ kiếp; tranh khắc tình địch giảm đi, đương nhiên khả năng kết hôn rất cao. Nếu vào năm mậu dần kết hôn, tài tinh phùng dần mộc trường sanh. Kim sưu tủy luận viết: “tài tinh tọa tứ mã, thê hiền vô xử bất hân hân (tức sẽ cưới vợ hiền)”. Đợi đến năm này có thể cưới được vợ hiền.
    Đối với truyền thuyết nam mệnh vào năm 19 tuổi không thể kết hôn, tác giả tán đồng với luận giải của Đường lão sư. Hôn nhân tốt xấu quyết định tại bát tự mệnh cục cùng vận hành có phù hợp hay không, tuyệt đối không quyết định bởi ma lực của truyền thuyết linh tinh.
    Vương thái thái hỏi: Về sự nghiệp, sức khỏe cần phải chú ý những điểm nào?
    -Đường lão sư: “Bát tự tài tinh quá nhược, tỉ kiếp phá tài lại vượng, tốt nhất theo lương bổng ở trên ban cho, thì sẽ khá yên ổn. Nếu theo thương quan hoặc thiên tài mà đầu tư nhất định sẽ thất bại. Nếu thật sự cần theo thương quan (tức đầu tư kinh doanh buôn bán), cũng phải đợi đến sau năm 37 tuổi, sẽ gặp thành công lớn. Về phương diện sức khỏe, cần chú ý đến đường ruột, cùng với bệnh thận.

    Đường lão sư đoán Vương tiên sinh cần đợi đến sau năm 37 tuổi mới có thể lập nghiệp. Cũng đã nhắc nhở Vương thái thái cần đặc biệt quan tâm đến sức khỏe đứa nhỏ. Có sức khỏe mới có thể có tiền, cần phải cần kiệm, tuy không đại phú nhưng cũng có thể biết sẽ giàu. Mệnh vận tuy đã có chủ định trước, nhưng cũng cần phải thuận mệnh mà sống.

    Mặc dù tác giả hết sức bội phục Đường lão sư. Nhưng Đường lão sư có đoạn luận như sau “Lệnh lang năm nay (năm bính tý) tài tinh hiển lộ rõ, có thể thu được tài lợi”. Chỗ này tác giả không đồng ý, Nguyên nhân vận ất sửu, năm bính tý; ta thấy mệnh vận lưu niên thành tam hội thủy cục hợi tý sửu, bính hỏa tài tinh phùng quý thủy, mậu thổ phùng thủy đa, không có lực chế kiếp, là năm rất dễ gặp phá tài, làm sao có thể đắc tài lợi đây?
    Ví dụ 4. Thoát thai yếu hỏa
    Càn tạo. Dân quốc năm 56 (năm 1967), ngày 4 tháng 9 giờ dậu. Bát tự
    Đinh mùi kỷ dậu giáp thìn quý dậu
    Đại vận: Mậu thân (11)/ đinh mùi (21)/ bính ngọ (31)/ ất tị (41)/ giáp thìn (51)/ quý mão (61)
    Khẩu ứng diễn ra tại gia trang của Trang tiên sinh. Hỏi về sự nghiệp cùng sức khỏe.
    -Trước tiên Đường lão sư từ bát tự ngũ hành, phân tích hỉ dụng thần, mệnh cách: “Giáp mộc sanh tháng tám kim thần đắc lệnh, phải biết dụng hỏa khắc kim. Mệnh cục giáp kỷ hợp tài tinh. Theo ta mệnh cách không kém, thương quan sanh tài” (Đường lão sư thuyết)
    Tích thiên tủy luận về giáp mộc: “Giáp mộc tham thiên, thoát thai yếu hỏa”. Thoát thai yếu hỏa là nói sơ xuân mộc cần hỏa mới phát phú vinh. Nhưng giáp mộc trường sanh tại hợi, thuận hành đến tháng dậu là thai vị, cho nên thoát thai yếu hỏa cũng có thể nói “Thu thiên túc sát chi khí thậm cường, phản hỉ hỏa lai chế kim noãn mộc” (ý là giáp mộc mùa thu kim vượng sát khí nặng, mừng có hỏa chế kim).
    Ngoài ra theo tam mệnh thông hội: Mộc có thể chia ra là sanh mộc, tử mộc. Sanh mộc kiến kim tự thương, tử mộc kiến hỏa tự thiêu, sanh mộc đắc hỏa mà tú khí, tử mộc đắc kim là thành.
    Mệnh này nhật nguyên “Giáp thìn” là sanh mộc, sanh vào mù thu tối kỵ kim trọng. Cho nên Đường lão sư nói thu mộc “dụng hỏa chế kim”. Tác giả cũng có cảm tưởng như vậy.
    Vậy phân biệt sanh mộc, tử mộc như thế nào?
    Căn cứ “Tam mệnh thông hội”: Giáp tuất, ất hợi là mộc chi nguyên. Giáp dần, ất mão là mộc chi hương. Giáp thìn, ất tị là mộc chi sanh. Chỗ này đều thuộc hoạt mộc (sanh mộc).
    Giáp thân, ất dậu là mộc bị khắc. Giáp ngọ, ất mùi là mộc bị chết. Giáp tý, ất sửu là kim khắc mộc, chỗ này đều thuộc tử mộc.
    Theo sự phân chia sanh mộc, tử mộc tại “Tam mệnh thông hội”, tác giả nhận thấy có điểm không hợp lý, như “Ất tị” ất mộc tọa mộc dục, hỏa lâm quan, hỏa vượng chiếm ưu thế, làm sao có thể nói là “Mộc chi sanh”?
    -“Từ 31 tuổi đến đến 34 tuổi đại vận bính ngọ, kiếm tiền cầu tài ở bên ngoài, sẽ bị tai họa bất ngờ, cũng sẽ thường bị mất ngủ” (Đường lão sư thuyết).
    Bính ngọ là vận thực thương, thực thương sanh tài. Về lý dục vọng kiếm tiền rất mạnh, thậm chí vận này bản thân muốn lập nghiệp. Bản mệnh nhật nguyên sanh vào cuối thu phân, kim trọng là kỵ thần, dụng hỏa chế kim không tệ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn là thân nhược, không chịu nổi khắc tiết, huống hồ chi vận ngọ hỏa thương quan phá trụ tháng chánh quan, tổng hợp lại không có cách nào khởi được. Đề cương vừa bị khắc vừa bị tổn, đối với cách cục cực kỳ bất lợi. Thậm chí do thân nhược không chịu nổi tiết mà mắc chứng bệnh mất ngủ.
    -“Sau 41 tuổi khởi vận ất tị mới khá thuận lợi” (Đường lão sư thuyết).
    Bản mệnh đến vận tỉ kiếp trợ thân nên không tệ, chỉ tiếc đại vận quan trọng ở chi hơn can. Hơn nữa, tị là đất trường sinh của kim, cùng nguyên cục tị dậu bán hợp kim cục, tăng khí thế kim, làm sao gặp thuận lợi đây? Tác giả có điểm hoài nghi chỗ này.
    -“Gặp lưu niên đinh mão có tai họa bất ngờ, đến năm 33 tuổi lưu niên kỷ mão cũng phải cẩn thận” (Đường lão sư thuyết).
    Lưu niên đinh mão cùng đề cương dậu trong mệnh cục tương xung, đương nhiên sẽ có bất lợi, sẽ có 2 trường hợp bất lợi:
    Thứ nhất: Nguyên nhân xung đề cương tháng là cung phụ mẫu. Sách cổ viết: “Xung phá đề cương, đa khuy phụ mẫu”. Bậc trưởng bối dễ gặp bệnh, tai họa.
    Thứ hai: Mão xung dậu, kim mộc tương chiến, bản thân cơ thể dễ bị thương hại. Nội tạng mộc thuộc về bệnh gan.
    Căn cứ lưu niên đinh mão có tai họa bất ngờ, lại đoán lưu niên kỷ mão cũng phát sinh ta họa là dự đoán phù hợp mệnh lý. Lưu niên kỷ mão cùng trụ giờ quý dậu thiên khắc địa xung, quý thủy chánh ấn kề sát nhật nguyên bị kỷ thổ khắc chế, mất đi bảo hộ tất nhiên tai họa bệnh tật sẽ trực tiếp công thân. Cũng may Trang tiên sinh hiện nay chỉ mới 31 tuổi, vẫn còn đang ở trụ tháng (chỗ này đại ý là: thanh niên là trụ tháng, trung niên là trụ ngày, tuổi già là trụ giờ). Tác giả nhận định khó mà ảnh hưởng đến tánh mạng. Đáng tiếc không trực tiếp được Trang tiên sinh hồi đáp.
    -“Gặp lưu niên tân mùi, cũng bị tiểu nhân hại” (Đường lão sư thuyết).
    Ngày xưa thông thường thất sát là tiểu nhân, nhưng không thể câu nệ. Ví như thân vượng phùng tỉ kiếp ắt tỉ kiếp cũng là tiểu nhân. Mà bản mệnh giáp mộc sanh mùa thu kỵ kim trọng. Lưu niên tân mùi, tân kim là chánh quan cũng là thất sát, do thân nhược quan nhiều biến thành sát, mà tân kim đắc lộc tại hai dậu, lực công nhật chủ càng mạnh. Huống hồ lưu niên mùi thổ cùng mùi trong mệnh cục, vận mùi, 3 mùi phục ngâm. Có chuyện xấu. Theo Kim sưu tủy viết: “Tam khâu ngũ hành, thìn tuất sửu mùi, nếu trọng kiến, cốt nhục hình bi, phụ mẫu bất túc, huynh đệ di nghi, thân thích tình sơ, canh khuy thê tử” (chỗ này đại ý nếu niên, vận gặp phục ngâm thìn tuất sửu mùi, thân thân sẽ hình tang hao táng).
    Theo tác giả năm này không những bị tiểu nhân hại, mà thân nhân cũng gặp chuyện. Ứng xảy ra cho người nào? Mời đọc giả từ cung vị của bát tự mà tìm ra.
    -“Về phương diện sức khỏe thân thể, gân cốt, tim không tốt, bị khí suyễn” (Đường lão sư thuyết).
    Phương pháp luận về sức khỏe thân thể, tại Uyên hải tử bình có viết: “Về bệnh tật, chủ yếu ở chỗ tinh thần khí huyết. Bát tự can chi, ngũ hành sanh khắc, ngũ hành can chi thái vượng không cân bằng đều bị bệnh”.
    Bản mệnh kim vượng là kỵ thần, kim thương khắc mộc, tiết thổ, sanh thủy, cho nên gân cốt, tim khá kém, mà tân kim nạp giáp tại tốn quái, là tốn vi phong, chủ cơ quan hô hấp, nếu ngũ hành can chi quá vượng cũng không tốt, đều bị bệnh. Dậu kim thái vượng, đương nhiên hô hấp sẽ có vấn đề. Bị bệnh suyễn là không nghi ngờ gì.
    -“Chánh quan tọa lưu hà cũng là người sức khỏe kém, nhiều bệnh” (Đường lão sư thuyết).
    Nhật nguyên giáp mộc lưu hà tại dậu, nên trụ tháng, trụ giờ đều có lưu hà. Theo sách: Lưu hà nam chủ chết nơi đất khách quê người, nữ chết hậu sản.
    Thật ra, không thể cứ thấy mệnh có lưu hà là đoán sẽ gặp những chuyện xấu như vậy. Còn cần phải xem có “huyết nhận”, “Huyết chi”, hoặc “Thiên ấn” hay không mới định được. Do tác giả đối với mệnh lý quan tro5nh ở ngũ hành, sanh khắc lục thần, đối với thần sát vẫn còn nghi ngờ, cho nên dụng pháp về thần sát của Đường lão sư không dám bàn.
    -“Nguyên nhân mất ngủ chính là giáp mộc sanh tháng tám dụng hỏa khắc kim, hiện đang vận thương quan không chịu nổi bị tiết quá mức” (Đường lão sư thuyết).

    Ví dụ 5. Hỏa sí thừa long
    Khôn tạo. Dân quốc năm thứ 55 (1966) ngày 8/7 giờ dần. Bát tự
    Bính ngọ đinh dậu giáp tuất bính dần
    Đại vận: Bính thân (2)/ ất mùi (12)/ giáp ngọ (22)/ quý tị (32)/ nhâm thìn (42)/ tân mão (52)
    Mệnh này là Lâm tiểu thư ở tại miền Nam Đài Loan, hiện nay năm bính tý 31 tuổi đang làm tại cơ quan nhà nước, hỏi về hôn nhân, tài vận, nhờ Đường lão sư xem mệnh. Cô ta cung cấp thông tin: Đã kết hôn hơn 1 năm, không có con, từng hư thai, chồng làm về buôn bán. Đường lão sư sau khi xem bát tự, giải như sau:
    -“Bát tự Lâm tiểu thư xem qua dễ dàng nhận thấy cô tài hoa không kém. Nhưng cá tính quật cường, có điểm kiêu ngạo, thường tạo áp lực cực lớn lên ông chồng.
    Bát tự nhật chủ giáp mộc, mặc dù sanh tháng bảy, nhưng luận theo tiết khí đã nhập tháng tám, hỏa khí đang thối, mộc khí suy bại, giáp mộc mặc dù có giờ dần là lộc, nhưng phu cung thiên tài, vẫn thuộc thân nhược, cho nên cũng cần có thủy sanh mộc, dụng ấn hóa quan quỷ trợ thân mới tốt.

    Nguyên nhân bát tự không có thủy, cho nên thân thể dễ có bệnh về thận. Buổi tối thường mộng mị, ngủ không ngon. Nếu có hiện tượng hư thai, phải biết là ở năm quý dậu, nguyên do năm đó cường thủy khắc hỏa, tử tức tinh bị tổn thương, mới hư thai” (Đường lão sư thuyết).
    -Lâm tiểu thư đáp: Không phải. Tôi mới kết hôn hơn một năm, năm ngoái ất hợi hư thai. Không biết làm sao mới có thai lại?
    -“Nếu là năm ất hợi hư thai, nhất định là ở tháng 8. Nguyên nhân năm ất hợi tại đại vận quý tị, quý thủy cường khắc đinh hỏa, thương quan bị khắc, về phương diện con cái không thuận lợi. Dựa vào bát tự luận có thể có 2 con trai, 2 con gái. Sau tháng 9 năm bính tý này rất dễ có thai. Năm đinh sửu, con cái sẽ tốt, không gặp vấn đề gì. Chậm nhất năm mậu dần nhất định sẽ có 1 đứa con, phải kiên nhẫn.
    Cơ bản chính là từ vận quý tị, nguyên nhân là tử tức cung dần tị tương hình, hình thì bị ngoại lực tổn thương hại, động đến dao kéo, năm ất hợi lại có tị hợi xung, cho nên bị hư thai là hợp mệnh lý. Có hình lại có xung, dễ dàng có mổ xẻ, nếu là hư thai, xem như việc lớn hóa nhỏ” (Đường lão sư thuyết).
    -Lâm tiểu thư hỏi: Tài vận cùng hôn nhân, tương lai sẽ như thế nào?
    -“Chủ yếu bát tự cần gặp vận thủy mộc sẽ khá tốt. Nguyên nhân là thân thể nhược cần bang trợ nhật nguyên. Hiện tại đang ở quý vận, lưu niên ất hợi, bính tý thủy rất vưỡng, phải biết không tệ. Về tình cảm vợ chồng, nguyên nhân bát tự thực thương hỗn tạp, cá tính không chịu nhường nhịn, cho nên tình cảm vợ chồng không tốt, theo vận mà luận sau 41 tuổi xung phu cung, tình cảm sóng gió, phong ba lắm, phải cẩn thận đề phòng. Ta chỉ nói đến đó thôi”. (Đường lão sư thuyết).
    -Lâm tiểu thư đáp: Cám ơn! Cám ơn!
    Sau khi xem đoạn đối thoại trên, không biết độc giả có cảm tưởng gì? Tin tưởng đọc giả không khó phát hiện nội dung đối thoại có nhiều uẩn khúc, ngộ nhận. Ta (Thẩm Triều Hợp) tuyệt đối không bơi móc, tấm lòng thuần túy tham khảo cầu học mệnh lý. Biết rõ trong luận mệnh khó tránh khỏi có ngộ nhận, nhưng về quan điểm phải triệt để tìm ra chân lý để tránh dẫm vào sai lầm ngộ nhận.
    Lâm tiểu tư, bát tự nhật nguyên thuộc giáp mộc, sanh sau tiết bạch lộ 4 ngày, chính là tân kim nắm lệnh đương quyền. Sát tinh đương quyền thì dụng thực thần chế sát hoặc lấy ấn hóa sát, nhưng nhìn toàn cục, địa chi dần ngọ tuất tam hợp hỏa cục, dẫn thấu can năm, tháng, giờ thiên can bính đinh hỏa. Trong cơ sở lý luận bát tự, địa chi tam hợp thành lập thì bất luận thứ tự cùng vị trí, chỉ cần ba chữ có đủ thì có thể hợp thành cục. Nếu thêm một chữ nào đó thì sẽ gia tăng lực lượng. Nếu hợp cục lại có thiên can dẫn thấu, thế sẽ rất vượng, thành tượng mộc bị hỏa phần (hỏa thiêu đốt sạch mộc). Bát tự Lâm tiểu thư, rõ ràng thành tượng mộc bị hỏa phần. Mộc tiết hết tinh anh, hỏa thế hùng hùng, không thể hưởng. Kim đắc lệnh phản lại sợ rằng bị hỏa tiêu diệt. Tình huống này quan trọng nhất cần điều hậu. Lấy thìn sửu hối hỏa sanh kim là tốt nhất. Trong khi đó Đường lão sư nói thân nhược lấy thủy mộc trợ thân là dụng thần, quả thật không ổn. Dụng mộc, mộc tòng hỏa thế, hỏa thế càng vượng, dụng thủy nhuận thì lại sợ “Suy thần xung vượng thần, vượng thần phát”, nước nhỏ giọt làm sao có thể ngăn được khát, chỉ sợ rằng lợi bất cập hại. Trong Tích Thiên Tủy luận giáp mộc rằng: “Giáp mộc tham thiên … hỏa sí thừa long …”, Long tức thìn thổ, sửu thấp thổ. Không nói nhâm, quý, hợi, tý thủy, không ngoài sợ “phạm vượng”.
    Luận về cá tính, chỉ cần lấy thập thần vượng suy mà thôi, chú ý thiên can là ngoại, địa chi là nội, đó là nguyên tắc. Mệnh cục Lâm tiểu thư, thực thương tinh cường vượng, thực nhiều biến thành thương, nên có thể lấy đặc tính thương quan mà luận. Uyên Hải tử bình viết: “Thương quan thương tận, đa nghệ đa năng, khiến tâm cao khí ngạo, xảo trá, làm về võ chức quyền cao, quyền cao cốt thuận, mắt to mi thô”. Tinh minh tài năng, tâm tính háo cường, làm người rất thực tế, công lợi chủ nghĩa, thích nắm quyền, tâm cơ rất giỏi.
    Thái độ đối với chồng, tại Kim Sưu Tủy miêu tả càng thấu triệt như sau: “Nữ mệnh nếu có thương quan tọa quan sẽ thóa mạ chồng, sớm tối cằn nhằn không dứt”. Cho nên tạo áp lực lên chồng rất lớn.
    Nữ mệnh thực thương tinh cường vượng, có phải nhất định có cá tính như miêu tả ở trên không? Trong quá trình dạy học mệnh lý, ta từng có một nữ học viên tại Đài Bắc tên Phan Tính, học khóa nâng cao, cô này là một thực chứng. Trong mệnh cô ta tuy thương quan tinh cường vưỡng, nhưng không có cá tính như Kim Sưu Tủy miêu tả. Cô ta hỏi có liên quan đến hành vận ấn hay không? Chính xác là hành vận có tác động đến cá tính nguyên cục, hành vận cường mà hữu lực thì ấn tinh có thể chế hóa tính càn rỡ của thương quan, nên mất cương cường mà biến thành ôn nhu. Lâm tiểu thư gặp vận giáp ngọ, quý tị nơi chỗ thương quan cường vượng, thái độ đối với chồng có thể tưởng tượng như thế nào rồi.
    Luận về con cái. Vị Kính Luận viết: “Kim thanh thủy lãnh, nhật tỏa loan đài; thổ táo hỏa viêm, dạ hàn khâm trướng”

    Kim thanh thủy lãnh hoặc thổ táo hảo viêm đều chỉ bát tự nữ mệnh điều hậu không tốt, mất đi trung hòa. Mà bị liệt vào tượng hàn thấp hoặc táo nhiệt nghiêm trọng, gọi là thiên khô chi tượng, là “trọc” mệnh. Ắt dễ gặp cốt nhục vô tình, cô đơn không nơi nương tựa. Không những hôn nhân không tốt, thậm chí con cái cũng duyên bạc. Mệnh cục Lâm tiểu thư, không thấy thủy, mà còn tượng hỏa hư không thật, dễ dàng có bệnh về đường tiết niệu, bệnh về phụ khoa, ảnh hưởng quan hệ vợ chồng, thậm chí ảnh hưởng đến sanh sản.
    Năm ất hợi 31 tuổi, đang vận giáp ngọ, Đường lão sư luận quý tị vận là không đúng.
    Vận giáp ngọ, năm ất hợi, mệnh vận địa chi dần ngọ tuất tam hợp hỏa cục. Chi vận hỏa gia tăng lực thương quan, dần hợi hợp mộc, dẫn hóa can vận giáp mộc cùng can lưu niên ất mộc, hợi thủy sanh tiết mộc, bị thương tổn nghiêm trọng. Thủy có thể là bệnh phụ nữ, dần mộc chính là tử tức cung, chúng ta có thể luận là: “Nguyên do chuyện con cái, dẫn phát bệnh phụ nữ”. Năm bính tý vẫn đang hành vận giáp ngọ, tý ngọ xung, không giải được khát, ngược lại dễ dàng dẫn đến tai họa. Mùa đông năm đinh sửu, chính thức vận quý tị, kim vượng sanh thủy, mệnh cục đắc điều hậu, mới chính là thời cơ tốt nhất. Nếu quả thật năm đinh sửu có thai, năm mậu dần sẽ phải hết sức cẩn thận, nguyên nhân mễnh vận lưu niên địa chi không phải tị dậu sửu kim cục mà là dần ngọ tuất hỏa cục. Tử tức cung phục ngâm, thiên can mậu hợp quý, quý thủy lưu niên bị tổn thương nghiêm trọng, có thể không cẩn thận sao!
    Luận về tình cảm vợ chồng, ta nhận định không cần đến vận nhâm thìn địa chi xung phu cung tuất thổ, mới luận nhân duyên vợ chồng gặp phong ba. Sự thật vận quý tị đã tàng hung cơ, nguyên nhân là mệnh cục bản thân có cường hỏa khắc kim, tượng thương quan kiến quan, đại vận tị hỏa cùng dậu quan tinh bán hợp, quan tinh bị dẫn động, lúc bị xung khắc thì nguy tai. Kết cục nghiêm trọng như vậy chủ yếu do bản thân mệnh cục can chi ngũ hành phối hợp quá xấu.

    Ví dụ 6. Đặc tính tòng tài cách
    Càn tạo. Dân quốc năm thứ 56 (năm 1967) ngày 10/6 giờ dần. Bát tự:
    Đinh mùi đinh mùi nhâm ngọ nhâm dần
    Đại vận : Bính ngọ (4)/ ất tị (14)/ giáp thìn (24)/ quý mão (34)/ nhâm dần (44)/ tân sửu (54)
    Khẩu ứng diễn ra tại phía nam tỉnh Quảng Đông, Ngô tiểu thư quan tâm đến ca ca của cô ta, hỏi về sự nghiệp, sức khỏe, hôn nhân của ca ca. Lúc này Ngô tiên sinh 31 tuổi (năm đinh sửu) đã kết hôn.
    - “Mệnh cục lệnh huynh nguyên thần cực nhược, nguyên mệnh thuộc nhâm thủy, sanh vào tháng mùi nhâm thủy đã quá khô, năm tháng tài tinh lộ ra, thuộc bát tự “Chánh tài cách” tài đa thân nhược, thân nhược ắt không thể đảm nhận tài, thái độ đối với mọi sự lười biếng, không tích cực.
    Xét vận đã qua, năm nhâm thân 26 tuổi, năm quý dậu 27 tuổi, năm ất hợi 29 tuổi đều là những năm không kém, sự nghiệp phát triển khá thuận lợi, năm giáp tuất 28 tuổi do địa chi lưu niên tuất cùng chi năm, chi tháng mùi tương hình, sanh ra nhiều trở ngại, thất bại, thân thể gặp nhiều thương tích, bệnh tật. Năm đinh sửu 31 tuổi, sửu mùi xung, ngũ hành cách cục phùng xung, dễ bị té ngã, có đổ máu” (Đường lão sư thuyết mệnh cục là tài đa thân nhược).
    - Ngô tiểu thư hỏi: Những năm sắp tới sự nghiệp có tiến triển, gia huynh theo nghề nghiệp gì thích hợp? Về sau tài vận có chuyển biến tốt không?
    - “Bát tự mệnh cục của lệnh huynh, có thể không luận chánh cách mà có thể luận tòng tài cách, nguyên thần cực nhược. Lệnh tháng chánh quan đại biểu đám đông nhiều người, nhật nguyên nhâm thủy vô căn, gần như tòng tài cách, tòng cách chính là đi theo người khác, cho nên tốt nhất làm nghề phục vụ, làm công ăn lương đếu rất thích hợp, không nên tự mình làm chủ, không thể tự mình lập nghiệp. Nếu làm chủ dễ dàng phá sản. Về phương diện hành vận, nguyên nhân đại vận nhâm quý thủy hỉ thần thiên can hư phù (vận quý mão, nhâm dần), cho nên hành vận không như ý, muốn gặp vận tốt, có thể phải đợi thật lâu” (Đường lão sư thuyết).
    - Ngô tiểu thư: Gia huynh cùng tẩu tẩu tình cảm vợ chồng có bách niên giai lão không?
    - “Thê cung tọa chánh tài, phải biết vợ rất đẹp, tình cảm rất tốt. Nhưng sự nghiệp người vợ không nổi bật. Tình cảm vợ chồng tại năm bính tý không tốt, hay cãi nhau, nguyên nhân là trụ ngày cùng lưu niên can chi bính tý thiên khắc địa xung” (Đường lão sư thuyết).
    - Ngô tiểu thư hỏi: Cuối cùng xin hỏi lão sư, huynh đệ tỉ muội tôi có trợ giúp cho ca ca hay không? Gia huynh nên bố trí nhà cửa như thế nào để tốt hơn?
    - “Nhật nguyên cực nhược, tỉ kiếp là hỉ dụng thần, huynh đệ tỉ muội trợ giúp nhiều, nhưng ngược lại bạn bè không trợ giúp gì, thậm chí còn tốn tiền. Về phương hướng phong thủy nhà cửa cũng không quan trọng. Mệnh vận tuy là cố định, nhưng chúng ta không nên bị vận mệnh bó buộc, phải biết ứng dụng thành thạo dương trạch bổ túc, về phương diện tâm lý, nhất định cần bồi dưỡng tri mệnh, thuận theo thiên mệnh, nếu không sẽ bị kích động nghiêm trọng, tinh thần rất dễ dàng bị sụp đỗ” (Đường lão sư thuyết).
    Xem phần Đường lão sư luận, khiến chúng ta phải xem lại mệnh cục Ngô tiên sinh.
    Nhật nguyên nhâm thủy sanh tháng mùi, sau tiết tiểu thử 10 ngày, kỷ thổ nắm lệnh, ất mộc đương quyền, nhật nguyên tọa ngọ hỏa tài tinh. Giờ phùng dần mộc, thủy lâm tuyệt địa, chi năm mùi thổ cùng lệnh tháng đồng khí. Năm tháng hai tụ tài tinh song thấu, chỉ có trụ giờ thiên can nhâm thuỷ trợ nhật nguyên, nhưng nhâm thủy vô khí tại địa chi là “Thiên phúc địa không tái”, tượng nhật nguyên nhâm thủy cực khô kiệt.
    Nhật nguyên nhâm thủy khô kiệt, cực nhược. Nhật nguyên sanh vào lúc ất mộc đương quyền thì đinh nhâm hợp có hóa mộc hay không? Theo Tích Thiên Tủy viết: Luận hóa khí cách nhất định cần hóa thần thừa vượng nắm lệnh hoặc hóa thần thành phương thành cục. Nhật can khí thế suy kiệt, Mệnh cục thiên can đinh nhâm hợp hóa mộc, sanh vào tháng mùi cũng không phải xuân lệnh, địa chi cũng không có hợi mão mùi tam hợp mộc cục hoặc dần mão thìn tam hội mộc phương. Thiên can 2 đinh tranh hợp 2 nhâm. Cho nên tuy nhật can khí thế suy kiệt cũng không có khả năng thành “Hóa khí cách”.

    Vậy thì luận theo cách cục phổ thông “Chánh tài cách” tài đa thân nhược hay là cách cục đặc biệt “Tòng tài cách”?

    Theo Tích Thiên Tủy: “Tòng đắc chân giả chích luận tòng. Tòng thần lại có cát cùng hung”. Về tòng, cần phân biệt can dương can âm. Can dương tòng khí không tòng thế, can âm tòng thế vô nghĩa tình.
    Nhật nguyên can dương lâm tuyệt địa, cô lập vô khí, không có ấn sanh phù, lại có khắc tiết, mà có thần lâm trường sanh lộc vượng, ắt can dương dễ dàng luận tòng theo thần đó. Can âm nếu không có ấn thụ sanh phù, tuy không có thần nắm lệnh, chỉ thành phương thành cục, kỳ thế cực lớn, ắt can âm dễ dàng luận tòng.

    Mệnh cục Ngô tiên sinh, địa chi ngọ mùi hợp hóa hỏa, dần ngọ bán hợp hỏa, can năm can tháng đinh hỏa dẫn thấu, đinh hỏa thông căn lệnh tháng mùi thổ. Tứ ngôn độc bộ viết: “Nhân nguyên tam dụng, thấu vượng vi quý”. Đinh hỏa chánh tài tinh thâm căn cố đế. Tứ trụ không thấy ấn tinh kim sanh phù nhật nguyên, cho nên mệnh cục Ngô tiên sinh thật phù hợp luận “Tòng tài cách”.
    Luận “Tòng tài cách” cùng với “Chánh tài cách” tài đa thân nhược làm sao luận giống nhau, khác nhau như thế nào đây? Theo lý tòng tài cách kỵ gặp vận tỉ kiếp ấn thụ sanh phù; mừng gặp vận thực thương, tài vận. Tài đa thân nhược lại mừng gặp vận ti kiếp ấn thụ sanh phù; kỵ gặp vận thực thương tài sát. Đặc biệt thích gặp vận tỉ, kiếp. Vì vậy dụng thần sẽ có nhiều khác biệt.
    Ta (Thẩm Triều Hợp) nhận định bát tự này thuộc “Tòng cách”, bất luận tòng cường hay tòng nhược đều thuộc loại mệnh thiên khô, cũng chính là trong mệnh cục ngũ hành mộc, hỏa, thổ, kim, thủy trong đó có 1 hành đặc biệt cường vượng mới thành tòng cách. Nếu trong mệnh cục có 1 hành đặc biệt vượng thì các hành khác tất nhiên sẽ có khuyết tổn, như vậy nhất định là trái với đạo lý “Bát tự lấy trung hóa là quý”, mà thành tượng thiên khô.
    Theo Tích Thiên Tủy: “Đạo có thể dụng, không thể luận phiến diện, quan trọng cần phù cần ức. Nhân sinh có tinh thần, không thể thiên lệch, cần tổn đắc tổn cần ích đắc ích”. Chính là nhấn mạnh tầm quan trọng của trung hòa trong bát tự. Cho nên về lý “tòng cách” cũng cần phải cân bằng trung hòa ngũ hành mệnh cục. Ví như về lý tòng tài cách cũng mừng được tỉ kiếp ấn thụ bang phù, vậy thì vì sao gặp vận tỉ kiếp, ấn thụ tại sao lại hung?
    Đáp án không ngoài mệnh cục bị phạm điều cấm kỵ “Vượng thần xung suy, suy thần xung vượng, vượng thần phát”. Can chi gàn dỡ, hỗn loạn. Mà bát tự tài đa thân nhược, nhật chủ vốn đã có căn cơ, đến tỉ kiếp ấn địa, can chi dễ dàng thuận toại mà tinh túy cô đọng, cho nên phùng tỉ kiếp ấn thụ mà phát phúc.
    Vậy thật sự trong luận mệnh, tòng cách rốt cục có đặc thù gì? Chính là đặc tính “Tòng thần” được phát huy đến mức tột đỉnh. Ví như tòng tài cách, đặc tính tài tinh biểu hiện đặc biệt xuất sắc nổi bật, nhưng tài tinh xuất sắc nổi bật không có nghĩa là những việc khác đều đẹp, tốt như ý. Trong quá trình nghiên cứu mệnh lý, những ví dụ cổ về tòng tài cách đến vận thực thương, tài địa, tức “Thành vi cự phú, an phú tôn vinh” mà không đề cập đến chuyện hung họa. Cho nên chúng ta nghiên cứu mệnh lý không được để sách cổ làm ngộ nhận.
    Căn cứ vào những điểm phân tích cách cục (sự thật chỉ là thiển kiến của bút giả, không biết các đọc giả có đồng cảm hay không?) Ngô tiên sinh thì luận là tòng tài cách, ắt đặc tính tài tinh đặc biệt xuất sắc nổi bậc. Cá tính Ngô tiên sinh hướng ngoại mạnh, quan hệ bên ngoài rất tốt, khảng khái hào sảng, tiêu tiền hào phóng, giao tế rất tốt, thích kiếm tiền để du hí, thường là bôn ba vì sự nghiệp mà quên cuộc sống gia đình. Tình cảm với nữ nhân rất tốt, khó tránh dễ bị dính vào sắc dục, thái độ làm việc tích cực, sẽ không làm biếng, nhưng dễ thay đổi, đầu hổ đuôi rắn.

    Uyên Hải tử bình viết: “Tài đa phục hành tài vượng chi hương, tất thứ xuất minh linh, khắc phụ mẫu” lại viết: “Khí mệnh tòng tài, chủ kỳ nhân bình sanh cụ nội, vi điền phòng chuế chi nhân, tài đa thê dã, thân vô sở thác, ỷ thê thành lập”. Phụ thân tài vận không tốt, mệnh bạch thủ thành gia, mẫu thân nhiều bệnh. Vợ cá tính quật cường, trong nhà nắm quyền, giao tế không tốt, cùng Ngô tiên sinh cá tính trái ngược, cho nên tình cảm vợ chồng khó hòa hợp, đối với vợ đặc biệt ”tôn trọng”, nhưng bản tính ở bên ngoài “Chỉ thích không yêu vợ”. Huynh đệ tỉ muội tuy có ý giúp đỡ Ngô tiên sinh, nhưng lực bất tòng tâm, bên ngoài càng ít bạn bè.

    Năm nhâm thân, quý dậu nghề nghiệp dễ có biến động, làm việc bảo thủ, nên trưởng bối hoặc bạn bè tương trợ, nhưng dễ có tài bất nghĩa. Năm giáp tuất nhiều bệnh tật không nghi ngờ. Năm ất hợi có khác, bên ngoài tốt bên trong xấu. Năm bính tý vợ chồng bất hòa. Đinh sửu dễ có họa đào hoa. Sức khỏe dễ có bệnh thận, bí hệ thống tiết niệu. Về ứng dụng dương trạch bổ trợ bát tự mệnh cục không đủ, ta tán đồng Đường lão sư, bát tự tòng tài cách (hoặc tài đa thân nhược), bí quyết cải biến mệnh vận tốt nhất là “tu thân dưỡng tính”.
    Ví dụ 7. Thương quan nhập mộ
    Càn tạo: Dân quốc năm 39 (năm 1955), ngày 4/4 giờ mão. Bát tự:
    Canh dần tân tị ất sửu kỷ mão
    Đại vận: Nhâm ngọ (3)/ quý mùi (13)/ giáp thân (23)/ ất dậu (33)/ bính tuất (43)/ đinh hợi (53)
    Mệnh này là Du tiên sinh ở Đài Trung, hiện nay đang sống rất giàu có nhàn nhã. Du phu nhân điện thoại hỏi về sức khỏe, tài vận của chồng.
    - “Về phương diện sức khỏe thì thường bệnh đau đầu, răng không tốt, về sau răng bị rụng nhiều, xương cốt cũng không tốt, thường đau nhức phần lưng eo, không nên tiếp sông nước, sợ sẽ có tai họa hung đến tánh mạng” (Đường lão sư thuyết).
    Sách viết: “Về bệnh tật, chủ yếu chính là tinh thần khí huyết. Nội nói về tạng phủ, ngoại nói về thân thể. Bát tự can chi, ngũ hành sanh khắc, dụng thương trọng mà đoán”. Từ lời trên chúng ta biết để đoán sức khỏe bệnh tật, chủ yếu dựa vào ngũ hành sanh khắc. Mệnh này sanh tháng 4, sau tiết tiểu mãn, nên hỏa vượng kim tử, đại biểu xương cốt là canh, tân không có thủy làm nhuận, tất nhiên răng không tốt. Hơn nữa, trong mệnh cục hình thành kim mộc đối kháng. Sách viết: “Gân cốt đau nhức, nguyên nhân mộc bị kim khắc”. Đường lão sư luận như vậy là phù hợp với lý ngũ hành sanh khắc củng mệnh cục. Ở chỗ “đầu thường bị đau nhức” nguyên nhân chủ yếu tại kỵ thần hỏa.
    - “Gan cũng không tốt. Về phương diện sự nghiệp, nguyên nhân mệnh cục có 1 sự nghiệp tinh, tương ứng là dựa vào làm công cho người khác lãnh lương sẽ khá tốt” (Đường lão sư nói tiếp).
    Ta không rõ Đường lão sư xác định sự nghiệp tinh là thập thần nào, cứ dự đoán ứng là hỉ dụng thần vậy. Mệnh này nhật nguyên ất mộc sanh vào mùa hạ bính hỏa chói chan, tối kỵ hỏa vượng là bệnh, rất nguy hại, mộc cháy khô, mừng thủy làm nhuận mộc. Bát tự thuộc cách thương quan dụng ấn, chúng ta xem xét chi tiết mệnh cục, chỉ có quý thủy trong nhật chi sửu thổ có thể làm dụng thần. 1 điểm quý thủy, không phải vượng thủy nên khó mà cứu được toàn cục toàn hỏa. Nói cách khác, dụng thần vô lực, huống hồ hiện hành vận bính tuất chính là vận kỵ thần, nhưng nếu bản thân tự lập nghiệp nhất định thất, nhưng đề nghị Du tiên sinh làm công ăn lương thì rất hợp lý. Chỉ là Du tiên sinh hiện nay đang tại vận thương quan sanh tài, tâm cao khí ngạo, rất muốn tự lập, nên việc có nghe theo lời khuyên của Đường lão sư thật khó vậy.
    - “Du phu nhân ắt rất khổ cực, phải chăm sóc chồng cùng gia đình” (Đường lão sư thuyết).
    Đường lão sư đoán Du phu nhân tựa hồ lấy “Ân” đáp phúc. Chúng ta đều biết, mộc sanh tháng hạ, nếu không có mưa ắt sẽ khô héo, thê cung sửu tàng quý thủy, không chỉ là mưa lành đúng lúc. Chẳng những nhật nguyên ất mộc dựa vào sửu mà sanh trưởng, mà thậm chí tài quan, tỉ kiếp, thực thương cũng nhờ được nhuận trạch mới không bị hại. Đáng tiếc! quý trong sửu phùng mùa hạ thất lệnh, lại bị mộc hỏa kề cận tiết đến tận cùng.
    - “Chính là ông chồng tỳ khí quá táo, không chịu trông coi việc trong nhà, chỉ thích lo chuyện bên ngoài, việc trong nhà hoàn toàn dựa vào Du phu nhân chăm sóc” (Đường lão sư thuyết).
    Mệnh này nguyên cục tiết khí quá nặng, quan sát thấu can, hiện đang vận bính tuất hỏa thổ, sửu tuất hình, thê cung cùng ấn tinh đều bị hình hại, tỳ khí hỏa bạo, hơn nữa thường tranh cãi với Du phu nhân.
    - “Từ 38 tuổi đến 43 tuổi, chân phải của Du tiên sinh nhất định từng bị thương. Từ năm 43 tuổi đến 53 tuổi vận trình không tốt, dễ dàng phạm tại họa pháp luật, hơn nữa về thần kinh cũng thường bị bệnh đau đầu” (Đường lão sư thuyết).
    Hiện nay đang ở vận bính tuất, “thương quan kiến quan là họa trăm bề”. Mệnh này vốn mộc sanh mùa hạ, viêm hỏa, tiết hết sạch khí ất mộc, là chân thương quan, vốn tiết mộc là tiết kỳ tinh anh. Hơn nữa canh kim quan sát chế nhật chủ, chỗ này chính là mộc hỏa thương quan sợ kiến quan, dễ dàng bị họa pháp luật. Chân thương quan, phần lớn sợ gặp vận mộ khố.

    Sách cổ có viết thương quan kiến quan, ắt gặp tai họa, vậy rốt cục phát sinh tai họa gì đây? Theo Uyên Hải tử bình: “Thương quan kiến quan, tai họa trăm bề, nếu không có tai họa về pháp luật tù tội, thì cũng bệnh tật triền miên, nữ mệnh thì khắc chồng, nam mệnh thì khắc con”.

    Thương quan chính là thương tổn chánh quan, nến vận mộ khố, giống như phạm tội, không tuân thủ luật pháp mà bị bắt ngồi tù, nhất định rất khổ. Dựa vào ngũ hành lục thần phân tích, nguyên cục thương quan đắc lệnh, tiết khí quá mức, nếu gặp vận thương quan, ắt càng tiết tinh thần càng kém, mộ khố tuất chính là tài khố của mộc, vốn là mộc khô tiêu, nếu gặp hành vận táo thổ, càng tiết mộc khí, tất nhiên khó tránh được tai họa.

    - “Cũng phải cẩn thận về gan, đề phòng sẽ bị bệnh” (Đường lão sư thuyết).
    Mộc thuộc về gan, mộc bị canh tân, thân dậu kim khắc, dễ có bệnh về gan. Hiện đang vận bính tuất, bị khắc tiết quá mức, nếu lại rượu chè hoặc bệnh lao, ắt rất dễ dàng nhiễm bệnh về gan.

    “Năm 41 tuổi, 42 tuổi, lưu niên bất lợi, sự nghiệp thất bại” (Đường lão sư thuyết).

    41 tuổi năm canh ngọ, 42 tuổi năm tân mùi, đều là lưu niên khắc tiết. Đặc biệt năm tân mùi, xung khắc trụ ngày, sự nghiệp thất bại mà thôi. Đáng tiếc! Du phu nhân không hồi âm về việc này có chính xác hay không.
    - “43 tuổi, 44 tuổi 2 năm này khá bình yên, nhưng vẫn có tiểu nhân ám hại” (Đường lão sư thuyết).
    43 tuổi, 44 tuổi lưu niên nhâm thân, quý dậu, đều là kim thủy liên hoàn. Can nhâm, quý đều thuộc thủy, giống như nắng hạn gặp mưa rào, chỉ là dậu kim cùng tị sửu trong nguyên cục tam hợp tị dậu sửu kim cục. Chỗ này không tốt chẳng phải là ngũ hành sanh khắc mà phú có nói: “Hoạt mộc sợ kim phá căn” đó sao?
    2 năm này cũng không sáng sủa lắm. Không biết Du phu nhân hồi âm như thế nào. Thật sự lưu niên nhâm thân, quý dậu cùng nguyên cục xung khắc, nhất là năm 44 tuổi lưu niên quý dậu, chẳng những chi vận phục ngâm lại thêm tự hình. Mà sự nghiệp cung phạm tuế quân, công việc có thể yên ổn, không gặp tai họa cũng là may mắn lắm rồi.
    - “Năm bính tý 47 tuổi, có làm việc gì cũng rất dễ gặp thất bại. Du tiên sinh cả đời mặc dù rất chuyên tâm, cần mẫn, nhưng bản thân gặp nhiều tiểu nhân” (Đường lão sư thuyết).
    Đường lão sư luận đến đây, coi như là tổng luận, một kết luận về vận mệnh của Du tiên sinh, thật sự dường như Đường lão sư nói về vận mệnh có sai nhiều? Nếu tham khảo từ góc độ mệnh lý, bản mệnh kết cấu khắc tiết quá mức, ất mộc sanh vào mùa hạ hỏa đương lệnh, chính là bát tự chân thương quan dụng ấn. Nguyên cục dụng thần vô lực, vận trình lại gặp hỏa địa, không thể tương trợ hỉ dụng thần thủy mộc, dễ biết thời vận cả đời không cát, hiện hành đang ở vận thương quan nhập khố, khó tránh bị liên lụy đến tai họa về tài. Đến khi nào khô mộc mới phùng xuân, Đường lão sư cũng không nói. Bút giả (Thẩm Triều Hợp) dự đoán đến vận 53 tuổi đinh hợi mới có thể an thân lập nghiệp, song đó là vận thứ 6 của cuộc đời, thật sự là cuối đời mới thấy ánh mặt trời, nhưng chỉ là hoàng hôn, khiến cho kẻ khác không khỏi thương cảm.
    __________________
    8.Bình đầu sát nam mệnh
    Càn tạo: Dân quốc năm thứ 32 (1943), AL ngày 25/9 giờ dần. Bát tự:
    Quý mùi nhâm tuất giáp dần bính dần

    Đại vận: Tân dậu (6)/ canh thân (16)/ kỷ mùi (26)/ mậu ngọ (36)/ đinh tị (46)/ bính thìn (56)/ ất mão (66)
    Khẩu ứng diễn ra giữa Tăng tiên sinh, công chức chính phủ với Đường lão sư. Khẩu ứng diễn ra tại Tăng gia trang ở Đài Bắc, hỏi về gia đạo.
    - “Tăng tiên sinh, ông rất tài hoa, 46 tuổi nhập vận đinh tị, tiền đồ bắt đầu chuyển biến tốt. Trong mệnh có quý nhân, kiếm tiền khá dễ dàng, cả đời đều có quý nhân giúp đỡ. Nhưng nguyên nhân nhật can tọa bình đầu sát, sức khỏe bà vợ hơi kém 1 chút. Năm 55 tuổi (năm đinh sửu) phải chú ý về bao tử, đường ruột, nguy cơ bị bệnh ung thư rất nguy hiểm. Cho nên ăn uống phải chừng mực, cẩn thận” (Đường lão sư thuyết).
    Trụ giờ thấu bính hỏa thực thần, nếu mệnh cục lấy thực thương là hỉ dụng thần, thì người này chẳng những khả năng lĩnh ngộ cực cao, mà còn rất tài hoa. Mệnh này vốn sanh vào quý thu, mậu thổ đương quyền, tài tinh đắc lệnh, cần phải thân vượng mới để thể đắc tài. Bản mệnh giáp mộc tọa dần là tọa lộc, lại phùng giờ dần là quy lộc, lại đắc chi năm mùi khố. Tử bình chân thuyên viết: “Nhật can bất luận lệnh tháng hưu tù, chỉ cần tứ trụ hữu căn, liền có thể đảm nhận tài quan thực thần thương quan thất sát. Trường sanh, lộc nhận thì căn vượng. Mộ khí dư khí thì căn khinh. Đắc 01 can tỉ kiếp sanh trợ không bằng đắc 01 chi mộ khố. Đắc 03 can tỉ kiếp sanh trợ cũng không bằng đắc 01 chi trường sanh lộc nhận”. Bởi vậy dễ biết mệnh này địa chi đắc song lộc cùng một mộ khố, nên nhật can có thể tính là cường vượng.
    Nếu thân vượng thì nên tiết nên khắc, vậy cuối cùng dụng quan sát khắc chế hay dụng thực thương tiết tú? Đầu tiên chúng cần xét “Tiết khí thâm thiển”. Bản mệnh sanh sau khí sương giáng, chính là thủy vượng tiến khí, kỵ thủy trọng mộc phiêu, mà nguyên cục có nhâm, quý thủy thấu tại can năm, can tháng. Nếu dụng kim tăng khí thủy, mộc vô ích. Hỉ dụng thần hỏa, thổ tiết vượng mộc, thực thương sanh tài về lý là phù hợp với ngũ hành sanh khắc. Cho nên ta đồng tình với Đường lão sư nói vận đinh tị là vận cát. Nhưng không phải mới bắt đầu, phải biết vận kỷ mùi ắt vận mệnh Tăng tiên sinh đã bắt đầu chuyển biến tốt.
    “Bình đầu sát” có 06 trụ: Tức giáp tý, giáp thìn, giáp dần, bính thìn, bính tuất, bính dần. Theo truyền thống thì đây thuộc mệnh tăng đạo. Vậy có phải do mệnh này trụ ngày là bình đầu sát mà sức khỏe bà vợ khá kém hay không? Đối với dụng pháp thần sát, ta không dám bình luận. Song! Có thể khẳng định Tăng tiên sinh lúc mới kết hôn thì sức khỏe bà vợ cũng đúng là rất kém. Nguyên nhân theo tứ ngôn độc bộ viết: “Can chi đồng khí, tổn tài thương thê”. Nhưng đến năm 36 tuổi vận mậu ngọ, là vận sanh tài, thì sức khỏe bà vợ không đến nỗi kém.
    Đến năm 55 tuổi năm đinh sửu, Tăng tiên sinh sẽ có nguy cơ ung thư về dạ dày, đường ruột. Theo Đường lão sư nhận định thì mệnh cục cùng lưu niên sửu, tuất, mùi tam hình phùng xung, có nguy cơ bị ung thư.
    -“Trước 26 tuổi vận trình không tốt, sau 26 tuổi thì có chuyển biến tốt. Nguyên nhân thê cung đới cô loan sát, sức khỏe bà vợ từ 39 tuổi bắt đầu đi xuống. Dân quốc năm thứ 85 năm bính tý, năm thứ 86 năm đinh sửu, năm thứ 87 năm mậu dần, năm thứ 88 năm kỷ mão, tuế vận đều không tệ, nguyên nhân là mệnh cục gặp tuế vận hỏa thổ” (Đường lão sư thuyết).
    Mệnh này sau 26 tuổi tuổi nhập vận kỷ mùi, giống như đã nói ở trên, là cát vận. Mà trụ ngày giáp dần chính là ngày mộc hổ, là cô loan sát, theo lời xưa: “Mộc hỏa phùng xà đại bất tường, kim trư hà tất cường sương cuồng, thổ hầu mộc hổ phu hà tại, thời đối cô loan vũ nhất tràng” biểu hiện nam khắc vợ, nữ khắc chồng. Vốn trụ ngày can chi đồng khí là tổn tài thương thê, hiện tại lại thêm cô loan sát, cùng vốn là bình đầu sát thì có thể khẳng định Đường lão sư luận đúng. Nhưng là sau 36 tuổi bắt đầu nhập vận vượng tài, thì nguyên nhân tại 1 cô loan sát mà có thể nói sức khỏe bà vợ kém được sao? Đáng tiếc ta không thể liên lạc với Tăng tiên sinh đề xác nhận Đường lão sư đoán có chính xác, không cách nào kiểm chứng được.
    -“Mệnh cục trụ ngày đới cô loan sát cùng bình đầu sát, đồng thời trụ giờ bính dần cũng là bình đầu sát, bát tự kết cấu như vậy, thì phối ngẫu sẽ nguy cơ phát sinh bệnh tật, cho nên khắc vợ rất nặng. Về sau thì thần kinh bà vợ sẽ bất thường. Từ năm 46 tuổi đến năm 56 tuổi dần tị hình, hình đến phu thê cung, bất lợi cho bà vợ”. (Đường lão sư thuyết).
    Mệnh cục vừa có bình đầu sát lại có cô loan sát, dụng pháp thần sát thì phối ngẫu đều có nguy cơ bệnh nặng. Ta đối với điểm này không dám bình luận. Riêng điểm dần tị hình, hình đến sức khỏe bà vợ, điểm này chưa hẳn đã đúng. Nguyên nhân tị là đất lộc nhận của tài tinh; dần tị hình hoặc có tổn hại đến gia đình lục thân mẹ vợ, hoặc tình cảm vợ chồng dễ có va chạm.
    -“Bát tự tọa bình đầu sát đới cô loan, sức khỏe thê tử kém. Tháng tuất kim thủy tiến khí, trong tứ trụ năm tháng đới thủy, đến vận hỏa còn có thể, chỉ tiếc Tăng tiên sinh là công chức nhà nước, nếu không tại những vận này nhất định có thể phát triển sự nghiệp rực rỡ. Từ năm 56 tuổi nhập vận bính thìn, chẳng những xung đề cương tháng mà còn phạm thiên la địa võng, về sức khỏe phải hết sức cẩn thận”. (Đường lão sư kết luận dặn dò).
    Từ những phân tích trên chúng ta có thể biết, Đường lão sư luận mệnh này dựa vào mấu chốt cô loan sát cùng bình đầu sát, chỉ nói về sức khỏe bà vợ, mà quên nói về “Tài, lộc, con cái”. Đặc biệt Tăng tiên sinh đã hơn 50 tuổi, lời xưa: “Tích cốc phòng cơ, dưỡng nhi phòng lão”. Đối với người già thì con cái, tiền bạc là quan trọng nhất nên họ muốn hiểu rõ. Trong khi Đường lão sư chỉ luận những việc không vào trọng tâm, e rằng khó tránh làm cho kẻ khác thất vọng.
    Tục ngữ viết: “Nhất mệnh, nhị vận, tam phong thủy, tứ tích đức, ngũ độc thư”. Sức khỏe của 1 người, hoàn cảnh gia đình tuy nói là tiền vận đã định trước, nhưng bản thân biết cố gắng tu thân tích đức, thì vẫn có thể cải biến được 1 phần hậu vận.
    Có thể Đường lão sư căn cứ “bình đầu sát”, “cô loan sát” để luận đoán sức khỏe Tăng phu nhân có bao nhiêu bệnh, nặng như thế nào, là kinh nghiệm để học hỏi. Nhưng đối với an bài của tạo hóa mà nói thì có cần phải nói ra những điều này. Nếu Tăng tiên sinh xem mệnh mục đích chính là “tri mệnh”, hiện tại để nói đến tình trạng sức khỏe của Tăng phu nhân thì Đường lão sư chỉ cần nói “so ra khá kém” là đủ, sau đó chỉ cần khuyên chú trọng dưỡng sanh chi đạo, giữ gìn đức hạnh, như vậy tự có thể giảm thiểu được những khốn ách cùng trở ngại. Kinh dịch có viết: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”. Thiên thể vận hành không ngừng, theo đó mà mệnh vận của con người cũng biến hóa từng ngày vậy.

    9.Nữ mệnh tài vượng sanh quan, phu quyền tất đoạt
    Khôn tạo: Dân quốc năm thứ 54 (năm 1965), AL ngày 21/10 giờ dần. Bát tự
    Ất tị đinh hợi tân mùi canh dần
    Đại vận: Mậu tý (9)/ kỷ sửu (19)/ canh dần (29)/ tân mão (39)/ nhâm thìn (49)/ quý tị (59)
    Mệnh này là Ngô tiểu thư sống tại Đài Bắc, từ người giúp việc của tiểu thư biết được cô ta lấy chồng năm 24 tuổi năm mậu thìn, đã có 3 đứa con. Hỏi về sức khỏe, sự ngiệp.
    -“Ngô tiểu thư, do bổn mạng thuộc tân kim, sanh vào tháng hợi, chính là kim thủy thương quan cách, nhất định khả năng ca hát, ăn nói nhất định rất giỏi, tài hoa không tệ, nhưng do bát tự mệnh cục thủy rất vượng, cho nên chân cẳng dễ bị chuột rút, phổi không tốt. Cần gặp vận mộc hỏa, đại vận hoặc lưu niên mộc hỏa khá thuận lợi. Gặp lưu niên kim thủy không tốt, nguyên nhân là kim hàn thủy lãnh, sức khỏe không tốt. Đặc biệt năm nhâm thân, quý dậu quá kém, sức khỏe càng kém” (Đường lão sư thuyết).

    Đường lão sư định mệnh cục Ngô tiểu thư là “Kim hàn thủy lãnh” để từ đó luận tình trạng sức khỏe Ngô tiểu thư, Đáng tiếc đọc giả không được Ngô tiểu thư hồi âm xác nhận, chẳng biết Ngô tiểu thư có thống nhất với luận đoán của Đường lão sư.

    Từ cách cục mà nói, Ngô tiểu thư có nhật nguyên thuộc kim, sanh vào mạnh đông tháng hợi, trong hợi tàng bản khí nhâm thủy cùng giáp mộc dư khí; nhâm thủy cùng giáp mộc đều không lộ trên can cho nên định cách cục là nhâm thủy thương quan cách. Nhưng Ngô tiểu thư sanh sau lập đông 6 ngày, dựa theo khí ngũ hành để dụng cường nhược thì tuy là nhâm thủy nắm lệnh, đương quyền nhưng lực lượng giáp mộc cũng không hề kém so với nhâm thủy. Can năm ất mộc thiên tài đắc lệnh tháng đề cương giáp mộc, lại chi giờ dần mộc nên ất mộc cường mà hữu lực, thâm căn cố đế, tài khí hùng hậu. Can tháng đinh hỏa sát tinh thông căn tại nhật chi mùi thổ, đế vượng tại chi năm tị hỏa, chi giờ dần mộc sanh phò, tài vượng sanh sát, lực lượng đinh hỏa sát tinh không kém. Ngược lại nhâm thủy thương quan trong hợi cũng không lộ trên can, tứ ngôn độc bộ viết: “Nhân nguyên tam dụng, thấu vượng là chân”, lực lượng nhâm thủy thương quan tổn hao do tài cùng sát tinh. Mà nhật nguyên tân kim duy chỉ có canh kim trong tị cùng thiên can canh kim trụ giờ bang phù, tuy không phải là thân vượng, nhưng cũng không tính là quá nhược đến nỗi không thể trợ; nguyên nhân là trong mệnh cục có 3 hỏa có thể trừ hàn trợ noãn, vậy có thể luận là “Kim hàn thủy lãnh” được sao? Ta có điểm này bất đồng với nhận định của Đường lão sư.

    Tân kim sanh vào mùa đông, hỉ hỏa điều hậu, bởi vậy có thuyết “Kim thủy thương quan nên kiến quan” là vậy. Tân kim tại mùa xuân, hạ, thu, quý tiết. bất luận nhật nguyên cường hoặc nhược đều mừng gặp nhâm thủy gột rửa mà lộ kim. Nhưng trường hợp nhật nguyên thân nhược vào mùa hạ, ắt mừng gặp tỉ kiếp bang phù, hoặc thấp thổ ấn tinh tại địa chi sanh phù, không thích mậu thổ, kỷ thổ thấu can, vì thổ dày sẽ lấp kim vậy.

    Cho nên mệnh cục Ngô tiểu thư, giáp trong hợi trường sanh, tài tinh hữu khí, nên dụng tỉ kiếp bang phù, thấp thổ ấn tinh sanh phù cùng nhâm thủy gột rửa. Nhật nguyên hữu khí có thể đảm nhận tài, mới có thể giàu, mà tối kỵ quan sát chế tỉ kiếp cùng táo thổ lấp kim.

    Đường lão sư nhận định Ngô tiểu thư nên gặp vận mộc, hỏa. Ta không đồng tình, gặp vận mộc hỏa càng tăng lực sát tinh công thân, nhất định sẽ nhiều tai họa bệnh tật. Kim suy bị hỏa khắc, thì các bộ phận cơ thể như eo chân gân cốt sẽ có bệnh đau nhức hoặc răng dễ hư hoại. Năm nhâm thân, quý dậu ắt địa chi dần mộc bị khắc, chân dễ bị thương tổn, mà không phải nguyên nhân “Kim hành thủy lãnh” khiến cho bị tật bệnh.

    -“Cô không nên hợp tác với người khác kinh doanh” (Đường lão sư thuyết).
    -“Vậy có thể hợp tác với thân nhân được không?” (Ngô tiểu thư hỏi).
    -“Quan trọng phải tham khảo bát tự người hợp tác. Dựa vào bát tự, chồng cô có trợ giúp cho sự nghiệp của cô rất lớn, nhất định cần dựa vào chồng” (Đường lão sư thuyết).
    -“Tài vận có tốt không?” (Ngô tiểu thư hỏi).
    -“Năm nhâm thân, quý dậu nguyên nhân kim thủy lan tràn, cực kém. Từ năm bính tý 32 tuổi đến năm kỷ mão 35 tuổi, đều không tệ, nguyên nhân lưu niên mộc hỏa thích hợp với mệnh cục của cô” (Đường lão sư thuyết).
    Theo lý luận bát tự mệnh học, thân nhược mừng gặp tỉ kiếp trợ thân, thích hợp cùng người hợp tác, dễ dàng được bạn bè, anh chị em bang trợ, nhưng nếu có thể trước tiên cần tham khảo bát tự người hợp tác, là xem gặp vận cát hay hung. Sự nghiệp Ngô tiểu thư, không thể không dựa vào chồng? Ta nhận định là “chưa chắc”. Xét vận canh dần, bản thân sự nghiệp của ông chồng gặp thất bại không ít, dễ gặp tổn tài, hao tài. Vậy có thể trợ giúp Ngô tiểu thư được sao. Nói không chừng bản thân Ngô tiểu thư tại vận kỷ sửu tích lũy mua nhà riêng, cũng đều bị đoạt hết. Nguyên nhân mệnh cục tài vượng sanh sát, gặp vận tài sát vượng địa thì dễ biết. Uyên hải tử bình viết: “Nữ mệnh phùng tài vượng sanh quan, phu quyền tất đoạt”. Nữ mệnh tài vượng sanh quan, mọi việc trong nhà đều nắm quyền, làm chủ. Bản ý là cam tâm tình nguyện vì chồng mà hết sức nổ lực, hỗ trợ giúp đỡ cho chồng. Nói một cách dễ nghe chính là mệnh “Vượng phu”. Sự thật là “Muốn nhờ vào chồng, ngược lại phải gánh thêm việc của chồng”.
    -“Hôn nhân cần phải lưu tâm chuyện gì?” (Ngô tiểu thư hỏi).
    “Chính do mệnh cục thương quan cách, bản thân cá tính kiêu ngạo, dễ ảnh hướng đến tình cảm vợ chồng. Địa chi trụ năm trụ tháng thương quan kiến quan, trụ tháng lại có thất sát, tỳ khí không tốt, tính tình cần nhẫn nại, nếu không tình cảm vợ chồng dễ tan vỡ. Nếu trước năm 28 tuổi kết hôn, hành vận kỷ sửu, phu thê cung phùng xung, hôn nhân càng dễ gặp tan vỡ. Vận canh dần sau 29 tuổi, dịch mã phùng tài mà đới quý nhân, nữ mệnh bát tự tốt nhất không nên đới quý nhân, đới quý nhân hôn nhân dể gặp chuyện, không thuận lợi. Năm đinh sửu 33 tuổi, vợ chồng dễ xảy ra xung độ, cần phải nhường nhịn nhau. Tổng luận thì tình cảm vợ chồng cần hai người đều phải nhân nhượng, mới có thể hạnh phúc mỹ mãn” (Đường lão sư thuyết).

    Hôn nhân là sự nghiệp lâu dài. Đích xác, mệnh vận do bản thân mình nắm giữ. Nếu vợ chồng song phương không thể kính trọng lẫn nhau, yêu thương lẫn nhau, cùng hoài cảm tích phúc đức, thì cho dù bát tự có tốt, cũng khó bảo toàn hôn nhân, khó tránh phải tan vỡ. Nhưng đơn thuần mệnh cục Ngô tiểu thư, hôn nhân sẽ không đến nỗi như Đường lão sư luận. Ngô tiểu thư vào năm 24 tuổi năm mậu thìn kết hôn, sanh 3 đứa con trai, cũng không có ly hôn. Địa chi trụ năm trụ tháng tị hợi xung, là trước khi kết hôn đã từng có 1 thời yêu đương khắc cốt ghi tâm, gọi là luyến khúc không thành. Đoán theo vận mệnh ứng vào năm bính dần 22 tuổi, bính hỏa hợp nhật nguyên tân kim, dần hợi hợp, giải khai tị hợi xung, tị hỏa có thể hợp địa chi vận sửu thổ, chi lưu niên dần mộc cùng chi giờ dần mộc âm thầm tranh hợp sửu thổ, nam nữ 2 bên đều tìm được đối tượng mới, di tình biệt luyến. Kỷ sửu vận, phu thê cung phùng mà luận là hôn nhân sẽ tan vỡ, lý do tựa hồ quá khiên cưỡng.

    Tương tự, năm đinh sửu 33 tuổi, mặc dù trụ ngày phản ngâm, vợ chồng hoặc có ý kiến bất đồng, địa chi sửu mùi xung, thổ càng xung càng vượng, ấn vượng ngược lại có thể ức chế thực thương tinh, đối với chồng sẽ không có hành vi trái đạo. Vận canh dần, dần mộc tuy là thiên ất quý nhân của nhật nguyên tân kim, nhưng cũng không thể cố chấp mà luận là hôn nhân dễ tan vỡ. Mệnh thư có viết “quý nhân” cũng không là thiên ất quý nhân, mà là quan sát tinh. Sách xưa viết: “Dịch mã phùng quý nhân, chung cứu lạc phong trần” tức là nói nữ mệnh dịch mã tinh lại là quan sát tinh, nếu tuế vận phùng xung ắt hôn nhân dễ gặp chuyện. Nhất định không có liên quan đến thiên ất quý nhân. Vận can dần, canh kim lâm tuyệt địa, trụ giờ phục ngâm, tài vượng sanh sát, công việc, sự nghiệp nhiều biến đổi, không ổn định. Chồng gặp tổn tài, đầu tư sai lầm, tiền bạc thiếu thốn, đặc biệt năm mậu dần, kỷ mão càng nghiêm trọng, không phải hôn nhân gặp vấn đề.

    Ví dụ 10. Xem tiết khí trước rồi mới định suy vượng tài quanKhôn tạo: Dân quốc năm thứ 52 (1963), ngày 23/3 giờ hợi:
    Bát tự:
    Quý mão bính thìn kỷ sửu ất hợi
    Đại vận: Đinh tị (7)/ mậu ngọ (17)/ kỷ mùi (27)/ canh thân (37)/ tân dậu (47)/ nhâm tuất (57)

    Mệnh này là Trần nữ sĩ tại Cao Hùng gọi điện thoại nhờ Đường lão sư xem mệnh, nhờ xem về học vấn, thi cử, gia đình, hôn nhân.

    "Trần nữ sĩ rất tốt, dựa vào bát tự này mà luận, cô có cá tính cố chấp, cô độc, tâm tính nhỏ mọn tiểu tiết, thích quản chồng, hay cằn nhằn những việc nhỏ nhặt. Nguyên nhân phu cung đới tài khố, lại sanh giờ hợi, giờ hợi cũng là tài, cho nên lao tâm khổ tứ vì chồng" (Trần lão sư thuyết).

    Nhưng Trần nữ sĩ không đồng tình lắm, chỉ trả lời uh, ah.

    Đường lão sư luận tiếp: "Luận sự nghiệp tài vận, nguyên nhân mệnh cục thân vượng, tài có tiết, đến vận kim thủy hoặc vận thủy mộc đều là vận tốt, có thể nói mệnh cục cực tốt, mệnh cục có tài tinh lại tự tọa tài khố; năm ất hợi 33 tuổi, nguyên nhân có tài tinh, mệnh cục có ấn có quan, cho nên muốn tự lập nghiệp, tại năm ất hợi thủy mộc là lưu niên hỉ dụng thần, tài vận cực tốt. Từ bát tự cũng có thể thấy được, khi cô còn trẻ cùng chồng khó mà hòa hợp, dễ tranh cãi nhau".

    Ở trên Đường lão sư xác định mệnh chủ kỷ thổ là "Thân vượng đủ sức đảm nhận tài quan", rồi từ đó mà luận. Sự thật mệnh này nhật nguyên cũng không vượng, chỉ là tài tinh cực vượng, thuộc cách cục "Tài vượng sanh sát", cách cục này cần nhất sanh phù nhật nguyên, đồng thời phải điều hậu mới tốt.

    Tại sao nói như vậy? Nguyên nhân mệnh này sanh tháng thìn, sau tiết thanh minh 11 ngày, dựa vào tứ thời bát tiết dụng ca quyết là: "Thanh minh thất nhật ất mộc năng, bát nhật quý thủy quy thìn khố". Ý tứ là: Mệnh chủ kỷ thổ sanh vào tháng thìn, tuy là mậu thổ nắm lệnh, nhưng sau tiết thanh minh 11 ngày thì mậu thổ cũng không nắm lệnh, mà là quý thủy. Chỗ này điểm quan trọng của tiết khí. Cho nên luận mệnh trước tiên cần xem tiết khí thiển thâm, sau đó mới định suy vượng tài quan.

    Nếu quý thủy đương quyền, trong cục quý thủy dẫn thấu thiên can tại trụ năm, lại phùng giờ hợi thủy, lực tài tinh vượng; ất mộc sát tinh dư khí tại thìn, thông căn tại chi năm mão mộc, có thìn, sửu, lại đắc cường thủy sanh, sát tinh có thể nói là thâm căn cố đế. Mà kỷ thổ là thấp thổ, sợ nhất ất mộc, mộc vượng ắt kỷ thổ hư, lại phùng cường thủy khiến thổ dễ bị trôi. Nhật nguyên kỷ thổ tuy đắc thìn, sửu bang trợ, nhưng thìn, sửu thổ đều là thấp thổ, cũng không cách nào sanh trợ, nhật nguyên kỷ thổ tượng hư thấp. Bởi vậy, cần dụng can tháng bính hỏa là hỉ dụng thần, bính hỏa còn có thể điều hậu, sanh phù nhật nguyên. Mệnh cục đắc bính hỏa này, tưởng rằng quý, nhưng quý thủy kề cận bính hỏa, mệnh cục từ thanh chuyển thành trọc, dụng thần tổn thương ắt tổn thất quý khí.

    Tài sát cường vượng, ắt mệnh chủ là 1 người rất biết điều, theo đó nếu là nữ mệnh thì đối với chồng sẽ không lãi nhãi, không tạo áp lực cho chồng, mà là khẳng khái tình cảm, bản thân hy sinh cho gia đình, cho chồng, nổ lực tâm lực. Cho dù chồng có làm điều gì oán hận, cũng cam tâm, tuyệt đối không có chuyện vô lý mà gây sự với chồng. Điểm này cũng không phải do mệnh chủ tự tọa tài khố hoặc phu cung đới tài khố (sửu thổ không phải là tài khố của nhật nguyên kỷ thổ, thìn thổ mới đúng tài khố), mà là hiển hiện tự nhiên của cách tài vượng sanh sát.

    Năm ất hợi muốn lập nghiệp, ứng là tình thế bức bách, phải luận là sự nghiệp của chồng gặp nạn, có tổn hại phá háo liên miên, không thể luận là tài vận rất tốt.

    Về phần luận Trần nữ sĩ cùng chồng tình cảm không tốt, nếu hiểu mệnh lý 1 chút có thể thấy rằng, nếu Trần nữ sĩ là 1 người vợ y đức hiền thục, hiền thê lương mẫu; chồng của Trần nữ sĩ hẳn là 1 người cố chấp, quật cường, theo chủ nghĩa cá nhân lợi ích, quan niệm giữa 2 vợ chồng bất đồng.

    Trần nữ sĩ thẳng thắn thừa nhận tình cảm vợ chồng không tốt, nhưng điều quan tâm chính của cô là về thân thể sức khỏe, hỏi tiếp Đường lão sư: "Con có bị phá tương (tàn tật) không?"

    "Nếu bị tàn tật, ứng là năm 13 tuổi, rất dễ bị tàn tật. Nguyên nhân kỷ thổ sanh tháng 3 ấn tinh lộ ra, nhật nguyên thân vượng nên dễ bị tàn tật" (Đường lão sư thuyết).

    Trần nữ sĩ đáp: "Không phải vậy. Tôi từ nhỏ đi đứng đã có vấn đề, hiện tại việc đi lại không thuận lợi, đều phải nhờ vào cây nạn chống đỡ".

    Đường lão sư: "Ta căn cứ vào mệnh cục có đới lưu hà mà luận. Về lý, mệnh cô thuộc kim thần cách, kim thần cách sẽ không tàn tật. Người mệnh thân vượng dễ bị chân tay không được hoàn chỉnh, sau khi nhập vận 23 tuổi gặp lộc, tương ứng không tệ, sẽ không tàn tật. Quả thật từ mệnh cục chúng ta không nhìn được đại khuyết hãm như thế”.

    Đoạn này Đường lão sư luận có sai sót. Mệnh này cũng không phải là đới lưu hà thần sát, nhật can kỷ thổ, địa chi thấy ngọ mới là đới lưu hà. Cũng không phải là kim thần cách, mệnh nhật can giáp hoặc nhật can kỷ, nếu sanh vào giờ ất sửu, kỷ tị, quý dậu mới thuộc kim thần cách. Mệnh đới lưu hà, nam hẳn chết tại đất khách quê người, nữ hẳn sanh con khó. Người mệnh kim thần cách đa phần tính tình uy mãnh cường liệt, can đảm, háo thắng, thường khiến người khác kính sợ mà xa cách. Nếu mệnh đới lưu hà thì bị tàn tật có thật sự đúng? Kim thần cách thì không tàn tật? Chỗ này thuộc phần luận về thần sát, độ chính xác như thế nào? Lấy câu nói của Dã Hạc lão nhân về bốc dịch để minh chứng: Đoán về cát hung dụng thần sát rất đa đoan, không bằng dụng về ngũ hành sanh khắc chế hóa.

    "Thân vượng dễ bị chân tay không được hoàn chỉnh", ta nhận định chưa hẳn. Mệnh thiên khô mới dễ bị tàn tật, hoặc mệnh cục mà xảy ra tình trạng xung chiến cũng dễ bị tàn tật. Thiên khô là gì? Khô giả, vô căn mà mục nát. Nhật chủ khô, không nghèo cũng chết yểu; dụng thần khô, không nghèo cũng mồ côi. Cho nên Tích thiên tủy luận chương tật bệnh: "ngũ hành hòa giả, một đời vô tai", mệnh cục quý ở chỗ sanh tiết hữu tình chế hóa đắc nghi.

    Theo mệnh cục Trần nữ sĩ, ứng cách tài vượng sanh sát, lấy lệnh tháng bính hỏa ấn tinh làm dụng thần, mà bính hỏa ấn tinh lại bị quý thủy tài tinh nắm quyền khắc phá, mệnh cục từ "Thanh" chuyển thành "Trọc", cũng tức là từ cách cục "Thành" chuyển thành "Bại". Nhưng mà là "Trọc" mệnh, không phải thiên khô, cho nên không hình thành điều kiện cách cục tàn tật. Bởi vậy, ta tán đồng câu nói của Đường lão sư: "Từ mệnh cục chúng ta không nhìn được đại khuyết hãm như thế."

    Trần nữ sĩ tiếp theo đưa ra vấn đề: "Vợ chồng con có thể sống đến răng long đầu bạc?"

    Ta tin tưởng đây là điểm then chốt mà Trần nữ sĩ muốn hỏi, nguyên nhân là từ phân tích mệnh lý ở trên chúng ta có thể xác định được kết luận: "Từ năm nhâm thân, quý dậu, ất hợi, đến hiện nay năm bính tý, chồng cô ta đã bị hao phá, khổ ải liên miên".

    "Năm giáp tuất 32 tuổi, vợ chồng bất hòa. Nguyên nhân là phu cung cùng thái tuế phạm hình. Mà phu cung của cô đới tài khố, hơn nữa thân vượng sau này nhập vận canh thân, tân dậu tiết thân, hết sức tốt, chuyện sống với chồng đến răng long đầu bạc là không có vấn đề" (Đường lão sư luận tiếp theo).

    Câu trả lời này có thể làm cho Trần nữ sĩ yên tâm, nhưng nhập vận canh thân, tân dậu cùng mệnh cục sẽ hình thành "Thương quan kiến quan, là họa trăm điều". Bản thân mình bị tàn tật bẩm sinh, sự nghiệp của chồng càng ngày càng thảm hại thì thật đáng ngại thay! Ta tin tưởng cô này lúc nhỏ mặc dù đi đứng có vấn đề, nhưng tại vận đinh tị, mậu ngọ, sự nghiệp của cha cô ta thịnh vượng, ắt có thể vẫn được chồng cô ta yêu thương, hạnh phúc mỹ mãn. Về phần hôn nhân sau này có còn ấm áp ngọt ngào, quả thật khó nói được.

    Cuối cùng Đường lão sư lại nói "Kỷ thổ sanh vào tháng 3, thổ vượng, cho nên lúc nhỏ gặp vận hỏa vượng, vận kỵ thần nên dễ bị tàn tật, nhưng mệnh cục nhìn không ra bị nghiêm trọng đến vậy, hoặc do phong thủy dương trạch phạm sát gây ra"

    Nguyên nhân dương trạch phạm sát mà khiến cho bị tàn tật, ta qua nhiều trường hợp thực tế chứng nghiệm thấy rằng cũng rất ứng nghiệm. Đối với mệnh kỷ thổ này, Đường lão sư phán đoán cường nhược mệnh cục, ta nhận định là Đường lão sư đã quên phần tầm quan trọng của tiết khí. Nhưng tình huống xem mệnh qua điện thoại như thế, ta tin tưởng 1 cao thủ xem mệnh cũng khó tránh được.

  7. #7

    Mặc định

    Luận đại vận.

    `
    Vận tức nói đến sự truyền xả thám mệnh của đời người . Trước tiên dùng tam nguyên tứ trụ , ngũ hành sanh tử , cách cuộc trí hợp để định căn cơ . Sau đó khảo hạch vận khí hiệp theo để định sự cát hung vậy .
    Về căn cơ thì như Mộc vận khí mùa Xuân , Xuân mà không Mộc thì bất trược , Mộc không Xuân thì bất vinh . Căn cơ mà thiển bạc thì như loài cỏ nhỏ gặp gió Xuân ngầm phát mà tốt nhưng không thể lâu dài ; còn căn cơ mà hậu tráng thì như loài tùng bách không biến đổi theo thời gian .Trên là luận căn cơ , sau nói về vận khí .
    Người xưa dùng đại vận thì cứ 1 thời 10 năm làm một , lấy 3 ngày làm 1 năm là vì sao ? : bởi 1 tháng tối sáng xoay 1 vòng có 30 ngày , đêm ngày 1 vòng có 12 thời , cọng làm vận khí 10 năm . Phàm 3 ngày thì có 36 thời và 360 ngày là 1 năm , trong 1 tháng có 360 giờ , triết trừ tiết khí tổng cộng thì 3600 ngày là một thần tức 10 năm vậy . Người lấy 120 năm là chu thiên , luận phép triết trừ thì dùng sanh tức thật lịch quá số nhựt thời là số tiết khí vậy.
    Dương nam âm nữ đại vận thì lấy tiết khí nhựt thời của sau ngày sanh mà làm số rồi thuận hành .
    Âm nam dương nữ đại vận thì lấy tiết khí nhựt thời của trước ngày sanh mà làm số rồi nghịnh hành .
    Ví dụ Giáp tí dương nam , sanh giờ tỵ ngày 24 tháng 12 . Lập xuân ngày 29 giờ Thân . Lấy ngày vị lai từ giờ Tỵ ngày 24 đến giờ Tỵ ngày 25 tức 1 ngày là thật số , đến giờ Thân ngày 29 tức được 5 ngày 3 giờ ,....( bản gốc thiếu 1 đoạn – nhờ Khoitinh hiệu đính - anhngoc ...).
    Lại nói : đại vận là sự biểu lý của Bát tự vậy , dùng thì phải tính sự thiển thâm , thành tuê thì phải so sánh ít nhiều , nhưng 3 ngày mà thành 1 năm , gặp người dư thì là linh , gặp người không đủ thì là tá , chỉ biết linh tá mà không biết sở dỉ linh tá .
    Ví như dương mệnh sanh chánh nguyệt mồng 1 giờ sửu chánh 1 khắc , thì đến tiết lập xuân mồng 4 giờ sửu chánh 1 khắc là 1 năm đủ , nếu giờ dần mới tiết lập xuân thì nhiều 1 thời là linh 1 tuần , nếu thiếu 1 thời là tá 1 tuần ; lại lấy hành vận mà luận pháp ; ví như sanh năm Giáp tí tháng giêng mồng 1 giờ tí chánh 1 khắc thì hành vận kể năm Ất sửu tháng giêng mồng 1 giờ tí chánh 1 khắc làm 1 năm , trong lục cá nguyệt thì tiến 6 ngày , vậy mồng 7 giờ tí chánh 1 khắc thì làm 1 năm , chỉ cần kể đủ 12 tháng , lại là bổn niên có vận 4 tháng tức nhiều hơn 1 tháng vậy , phải thối hoàn bổn niên tháng 12 mồng 7 giờ tí chánh 1 khắc là giao vận , sau đây mà toán sau 10 năm thì chuyển 1 vận . Nếu học giả không hiểu khắc sanh mà chỉ biết giờ sanh tức dùng giờ sanh mà trừ giờ trong 6 tiết thì sai vậy .
    - Thường thì hành vận tại Can và kiêm dùng thần của Địa chi , tại chi thì bỏ thiên can , bởi đại vận chỉ trọng địa chi nên mới có hành Đông Tây Nam Bắc biện các phương vậy , gặp tổn thì dụng thần phải chế vận cho , ích thì dụng thần phải sanh vận cho ; thân mà nhược thì vận muốn dẫn đến nơi tấn vượng , muốn vận được sanh mà không muốn vận bị thương sát , muốn vận chế mà không muốn vận trợ tài , muốn vận phò mà không muốn vận kiếp ấn , muốn vận vượng mà không muốn vận suy thực , muốn vận sanh mà không muốn vận kiêu tuyệt .
    __________________
    Lại xem Tứ Trụ mạnh yếu thế nào , nguyên có nguyên không , nguyên khinh nguyên trọng . Như ngời Mộc dùng kim là Quan , dương nam vận xuất ở Mùi nhập ở Thân , âm nam vận xuất ở Hợi nhập ở Tuất . Người Kim dùng Mộc là Tài , duong nam xuất ở Sửu nhập ở Dần , âm nam xuất ở Tỵ nhập ở Thìn , đều hướng dến Lâm quan Mã , nguyên mà có Quan hành Quan vận thì phát Quan , nguyên mà có Tài hành Tài vận thì phát Tài . Lại xem đương sanh niên thời có khí sâu cạn thế nào . Tứ trụ mà được khí sâu dày nghinh vận thì phát , nếu khí ít thì cần giao quá vận mới phát được nơi trung khí , khi vận đến trung thì được phát tốt . Tử nói : khí là vậy , với tương lai thì tấn đã thành công thì thối . Oanh hòa thượng nói : Nghinh thì lấy Lâm quan đế 2 vị , tương lai thì tấn , sau lung thì hưu tù tử tuyệt , công thành thì thối .
    LẠi nói : sanh mà gặp nơi hưu bại thì tuổi ít mà đã cô hàn , lão mà quá nơi vượng kiện thì cũng yểu triết . Oanh hòa thượng nói : Thân lấy trục vận tất giả vận mà cho thân , thế cần cập thời , cũng là giả thời mà thành thế .
    - Lại nói: Sanh gặp năm vượng thì cần vận đến nơi vượng hương , sau gặp năm suy thì vận lại hợp nơi khốn địa . Hồ trung Tử nói: lớn nhỏ đều cẩn thận chớ tọa ở nơi cường tráng thật thì chỉ nên xu vượng , sanh vượng tuy tốt mà chưa hẵn tốt , suy tuy là xấu mà chưa hẵn đã xấu , biết được vậy thì đầu tiên có thể luận vận , bởi ngừơi từ sanh đến già tức từ nhỏ mà đến nơi thiếu tráng niên 10 năm , đang là thiếu niên thì chỉ có thể hành nơi Thai ,Dưỡng ,Sanh, Mộc dục ; 30 , 40 tuổi thì dương cường tráng nên có thể hành nơi vượng xứ ; 50, 60 tuổi thì chỉ hành nơi Suy Bại Tử Tuyệt ; nếu trái kai45 thì cải vận một đời bị phản bối , tam hạn nhanh chóng đến , như vào vượng hương muộn thì chẳng phù hợp.
    Lại nói : trong Mệnh có ngũ hành suy thì Vận phải nên thạnh , ngũ hành thạnh thì vận phải nên suy . Bởi suy mà hành vận lại suy thì là bất cập chủ bị trầm trệ , còn thạnh mà hành vận cũng thịnh thì là thái quá chủ kích tác mà thành bại vậy . Cẩn phải quy ở giữa thì càng hay .
    Lạc lộc Tử nói: Niên tuy gặp nơi quan đới mà có dư tai, , sơ vận lại nhập ở suy hương.
    Vương thị chú rằng: Niên vận mà ban đầu ở nơi mộc dục bạo bại mà thuận hành đến gặp quan đới thì chưa gọi là phước mà có khi lại bị suy bại của dư tai vậy ; hoặc từ vượng địa mà hành sơ nhập suy hương cũng không thể gọi là họa bởi tích được phước nơi vượng hương vậy. Sở dỉ nói hành vận có trước sau 5 năm vậy .
    Hồ trung TỬ nói : Đặt nơi triệt mà không triệt thì yên mà lâu cũng bị ương ác , muốn giao mà không giao thì cũng bị họa tàn .Bởi nói vận hành tại nơi suy tuyệt , nếu tượng đặt nơi cát địa thì tất phải bị lâm ly , còn nếu tương đặt nơi suy tuyệt thì vào thời đầu lại có phước . Có câu : cát vận vị đáo tiên tất phước , hung thần quá khứ thỉ vi ương ; tức như lửa chưa sáng mà đã có khói trước , nước đã qua mà vẫn còn ướt , cái nghĩa như vậy cần phải rõ tường .
    Lại nói :âm nam dương nữ thì xét năm xuất nhập , âm nữ dương nam thì nguyên thần năm . Bởi âm nam dương nữ thì bẩm khí không thuận nên thời đại vận phải xét năm xuất vận nhập vận mới biết cái biến tốt xấu . Còn dương nam âm nữ bẩm khí tuy thuận nếu không ứng dụng năm xuất nhập thì cũng không thấy được cái ách nguyên thần .
    Hồ trung Tử nói: Nguyên thần phạm vận thì nhưTrọng vi bị khổn , Trần Thái bị đói vậy .
    Lại nói: thường hành đại vận mà gặp nơi ích thì vận được cát khánh nhưng cũng không phải tốt mãi mà cần phải hành niên thái tuế ở nơi sanh vượng hòa hợp thì mới gọi là phát phước . Nếu đại vận đến nơi tốt mà lại gặp trực niên thái tuế tiểu vận đáo nơi hình hại thì cũng chủ tế lủy phù tai vậy , chỉ không hại nặng thôi . Còn nếu đại vận hành đến nơi nghịch cảnh hung họa và trực niên thái tuế lại gặp hình xung , tiểu vận lại bất hòa xung kích tử tuyệt thì nhất định phát họa , nếu tiểu vận và thái tuề đáo nơi sanh vượng lộc mã quý nhân tất cả hỷ thần , thì có tiểu khánh .
    Kinh nói:
    Phàm muốn quyền họa phước của mệnh thì trước hết phải phân tích cơ địa dày mỏng thế nào , sau đó mới định được tai hay phước .
    Như mệnh nếu được mười phần phước khí mà hành vận có 3,4 phần xấu thì phước lực vẫn mạnh vậy , còn nếu có 5,6 phần vận xấu thì đã có sự tai ương phần nào , nếu có 7,8 phần vận xấu thì tai ương phải nặng nề .
    Như mệnh có 5 phần phước khí mà hành vận có 3,4 phần xấu thì rất hung ; nếu đến 4,5 phần vận xấu thì tất tử , đấy là cơ địa không bền vậy .
    Nếu đại vận đã qua khỏi nơi Trường sanh của bổn mạng tức là có vận thanh khí , dù tuế vận đến xung khắc thì họa cũng không nhiều bởi vận khí nhiều vậy ; còn nếu chưa qua Trường sanh mà tuế vận bị hình xung khắc phá thì là tai , bởi khí chưa đủ nên vận yếu vậy . Còn nếu qua khỏi vượng tướng mà gặp tử tuyệt tức mệnh tai ương không tốt . Đó là cái đạo lý thay đổi trong âm dương ngũ hành vậy . Nếu đã qua trường sanh và bại địa , trong đó lại gặp hình khắc ác sát cùng diện kiến tương phù với mệnh tức là khí ngũ hành phản chiến nên bị hung ác vậy .
    Lại nói: thường khi hành vận có Trường sanh thì khi làm việc có sáng kiến đổi mới , đáo Lâm quan , Đế vượng thì chủ hưng thạnh khoái lạc phát phước tấn tài , sanh con cháu cát khánh ; còn nếu đáo đến nơi Suy Bệnh thì chủ thối bại phá tài , các loại tật bệnh ; còn như đến nơi Tử Tuyệt thì chủ cốt nhục tử táng , tự thân suy họa phiền não trăm việc bế tắc ; nếu đến bại vận lạc phách thì chủ tửu sắc hôn mê ; nếu đến nơi thai khố thành hình Quan đới thì chủ trăm việc trung bình an khang bình dị. Phàm hành vận đến nơi giáp với hoa cái quý nhân lục hợp với thừa được sanh khí vượng khí thì đều được khánh hỷ , phải xét nơi căn cơ đương sanh thì mười phần ứng được năm phần ; còn xét nơi sanh thời thì năm phần ứng được mười phần , phước với tai đồng nhau ứng vậy .Phàm hành vận đến nơi lâm quan đế vượng và thái tuế cầm nơi quan quý thì chủ thăng quan tiến chức , cũng như nơi mã vượng quý nhân thì vào nơi hàn lâm các hạng vậy , bởi quý là quân đạo mã chủ thiên động nên vậy.
    __________________
    Lại nói :
    Phàm tí sửu dần thìn tỵ trong tứ trụ nhiều dương , người hành vận đến ngọ mùi thân dậu tuất hợi thừa âm khí mà phát ; ngọ mùi thân dậu tuất họi tứ trụ nhiều âm thì người hành vận đến tí sửu dần mão thìn tỵ vận thừa dương khí mà phát ,thứ 2 thì âm dương quân hiệp , nhưng âm nhân mà dương phát thì nhanh còn dương nhân mà âm phát thì chậm.
    Lại nói:
    Thủy mệnh mà tứ trụ có thổ , đến hỏa vận vốn là tài vận lại trở thành quỷ , bởi hỏa sanh thổ khắc thủy nên tài hóa thành quỷ vậy là chuyển phước thành họa. Nếu thủy mệnh mà tứ trụ có kim , đến thổ vận là quỷ vận lại trở thành tốt bởi thổ sanh kim và kim sanh thủy tức hóa quỷ thành trợ khí , chuyển họa thành phước vậy .
    Lại như người thủy mệnh tứ trụ có dần ngọ tuất hoặc nạp âm hỏa mà hành dần ngọ tuất đều là hảo vận , nếu tứ trụ có kim có hỏa thì tức là phước , nếu hành thủy vận tức phước bị phân nên không phải vận tốt ; tứ trụ nhiều thổ lại hành mộc vận gọi là tổn khí chủ bác tạp tuy có cứu cũng nhiều khổ , các loại khác cũng theo vậy mà suy.
    Lại nói :
    Người Đinh Sửu hành vận Đinh Mùi thì gọi là “Đem phàm nhập thánh” ,lấy giả làm thật , không nên lấy thồi thần mà luận , Tứ trụ có Đinh Sửu Đinh Mùi không phải là hạn , nếu người Mậu Dần hành vận Đinh Sửu tuy là thối thần lại có tề hóa tức phước ; nếu người sanh Canh Thìn hoặc ngày Canh Thìn mà hành vận Ất Dậu , Ất Dậu sanh nhân hoặc Ất Dậu nguyệt hành vận Canh Thìn thì chủ phát tích , nếu chỉ trùng điệp thì không tốt .Người Ất Mùi mà niên nguyệt nhựt thời Dậu là đại hung . Người Giáp Thân hành vận Bính Dần gọi là lực đình tương xung chủ phá tài cạnh tranh . Người Bính Tuất hành vận Tân Mão chủ độn trệ , chỉ tốt cho người võ . Người Bính Tí hành vận Nhâm Dần , Nhâm nhập Bính thì phá tài không tốt . Mọi trường hợp khác cứ theo đấy mà luận .
    Lại nói:
    Phàm mệnh có khí tượng thì thủ sanh thời can thần là chủ , tứ trụ can thần là tượng . Như Giáp thời Kỷ thời thì có thổ khí , Ất Canh thì có kim khí , Bính Tân thì có thủy khí ...v...v...là bổn tượng , hành vận đến khí tượng phải đắc địa xứ tốt , không nên có địa xứ xấu , Ất Canh ,Bính Tân, Nhâm Quý là kim thủy tượng , vận đến Thân Dậu Sửu là đắc địa ; Canh Tân Mậu Kỷ , Giáp Kỷ , Ất Canh là kim thổ tượng , vận đến Thân Dậu Thìn là đắc địa ; Canh Tân Bính Đinh , Ất Canh , Mậu Quý là kim hỏa tượng , vận được Tỵ Ngọ Tuất là đắc địa ; Canh Tân Giáp Ất , Ất Canh, Đinh Nhâm là kim mộc tượng vận đến Sửu Dần Mão là đắc địa ; Giáp Ất Nhâm Quý Đinh Nhâm Bính Tân là thủy mộc tượng , Vận đến HỢi Tí Thìn là đắc địa ; Bính Tân Giáp Ất Mậu Quý Đinh Nhâm là hỏa mộc tượng , vận đến Dần Mão Mùi là đắc địa ; Mậu Kỷ Nhâm Quý Giáp ẤT Bính Tân là thủy thổ tượng ,vận đến Thìn là đắc địa ; Mậu Kỷ Bính Đinh Mậu Quý Giáp Kỷ là hỏa thổ tượng , vận đến Tuất là đắc địa ;Mậu Kỷ Giáp Ất Giáp Kỷ Đinh Nhâm là thổ mộc tượng , vận đến Mùi là đắc địa ; Mậu Kỷ Canh Tân Ất Canh Giáp Kỷ là kim thổ tượng , vận đến Sửu là đắc địa .
    Xem Tứ Trụ can thần đắc tượng gì , như thuần kim mộc thủy hỏa thổ cũng là 5 tượng , nếu tạp mà không nhập thì không phát, dù có phát cũng không lâu ; như ngũ thuần tượng cũng có thái quá tượng , vẫn phải xem đương niên nguyệt lịnh đắc địa , sau đó khán xem hành vận đắc địa hay không mà nói không có thể lấy lộc mã quý nhân là đắc vận , gặp không vong dương nhận kiếp sát là thất vận vậy .
    Lại nói :
    Phàm hành vận thì khán nạp âm , mệnh nhân thuộc ngũ hành gì , như mệnh thổ mà hành Tây Nam phương là gặp bạn thì tốt , mộc mệnh mà hành Đông phương , Hỏa mệnh mà hành Nam phương , Kim mệnh mà hành Tây phương , Thủy mệnh mà hành Bắc phương đều là đắc địa . Lại khán sở hành vận nạp âm tương phù với mệnh , nếu đồng loại là thượng cát , tài quan thì thứ , nếu tiết khí hoặc bị khắc nặng thì không tốt .
    Lại nói:
    Cổ nhân dùng Giáp Tí Ất Sửu các can chi lục thập Giáp tí dụng hoa tự đều lấy mộc mà dụ nghĩa , nếu thiên can địa chi đắc thời thì tự nhiên khai hoa kết trái tươi tốt vậy . Nguyệt lệnh là thiên nguyên vậy , vận đến nguyệt thượng khởi thì giống như mầm cây , cây có thấy mầm thì biết được tên , nguyệt dụng thần thì biết được cách , nên gọi là giao vận , như đồng tiếp mộc mệnh có mầm rể hoa thật là đúng ý nầy vậy . Nếu xuất Quý nhập Giáp thì chủ không tốt .
    Lời xưa nói: Thương hàn thì hoán dương , hành vận thì hoán giáp, hoán qua là người , hoán không qua là quỷ. Ví dụ : Giáp Tuất tiếp Quí Hợi tức là hỏa thượng tiếp thủy , Sửu giao Dần , Thìn giao Tỵ ,Mùi giao Thân , Tuất giao Hợi , Đông Tây Nam Bắc 4 phương đổi góc gọi là di căn , tiếp mộc lại gặp hoán giáp nếu cách xấu thì tử , dù cách thiện cũng tai ương , người già thì đại kỵ , kẻ hậu sanh thì khinh lười , nếu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi Tí Sửu nhứt khí đều chẳng nói là tiếp mộc , nếu tất cả mà gặp tiếp giáp thì không đại họa . Ví dụ : Giáp Ất mà truyền Dần Mão vận thì gọi là Kiếp tài , bại tài chủ khắc cha mẹ và khắc bại tài sản gây sự đấu tranh ; Bính đinh mà vận Tỵ Ngọ thì gọi là Thương quan vận chủ khắc con gái , tụng sự tù tội ; Canh Tân mà hành Thân Dậu vận là can sát nơi quan , chủ đắc danh lợi nhưng phát thái quá nên thành tai bệnh ác tật ; Nhâm Quý mà hành Hợi Tí vận là Sanh khí Ấn thụ vận chủ cát khánh tăng điền sản ; Thìn Tuất Sửu Mùi Mậu Kỷ là Tài vận chủ danh lợi đều thông suốt .
    Đây là Tử Pháp khi dùng thì phải tùy theo cách cuộc nên hoặc kỵ mà quyền biến vậy. Can mà vượng thì phải cần vận suy , can mà nhược ( yếu) thì phải cầu khí vượng để nhờ , có dư thừa thì cần đến nơi không đủ , cần phải thông biến và kiêm luận lưu niên thần sát mà quyền thì ứng nghiệm như thần vậy.

  8. #8
    Đai Xanh Avatar của phamducanh
    Gia nhập
    Feb 2012
    Nơi cư ngụ
    Vô định
    Bài gởi
    185

    Mặc định

    dài qá trời ơi
    người qua đường

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 31
    Bài mới gởi: 19-08-2017, 01:00 AM
  2. Trích Thiên Tủy (nguồn từ tuvilyso.net)
    By mars_mars in forum Tử Bình, Tướng, Số, Khác...
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 12-05-2011, 02:42 PM
  3. Thiên Thần Bản Mệnh
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 18-04-2011, 11:43 PM
  4. SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH (BẢN I * MAI LĨNH 1939)
    By maphuong in forum Dịch học ( Dịch số, Thái Ất, Kỳ Môn Ðộn Giáp, Hoa Mai, Bát tự hà lạc,…)
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 04-04-2011, 01:01 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •