NHÃ NHẠC CUNG ĐÌNH HUẾ
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam.

Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận vào là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003.

Theo đánh giá của UNESCO “ trong các thể loại nhạc cổ truyển ở Việt Nam, chỉ có nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia” . “ Nhã nhạc đã phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất.”

Cùng với không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, đây là di sản phi vật thể của Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận. Nhã nhạc cung đình Huế là một sự kế thừa, kể từ khi những dàn nhạc – trong đó có mặt nhiều nhạc khí cung đình. – xuất hiện dưới dạng tác phẩm chạm nổi trên các bệ đá kê cột chùa thời Lý, thế kỷ XI –XII, đến lúc ông vua cuối cùng triều Nguyễn thoái vị vào giữa thế kỷ XX

Nhã nhạc và múa cung đình
Nhã nhạc đồng nghĩa với nhạc lễ cung đình, nó bao hàm tất cả các tổ chức dàn nhạc lễ. Thuật ngữ nhã nhạc có liên quan đến âm nhạc cung đình có mặt tại 4 nước đồng văn: Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nhã nhạc xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc dưới thời nhà Chu (thế kỷ VI – tk III TCN). Về sau, nhã nhạc được lan toả sang các nước láng giềng như: Nhật Bản (tk VIII), Triều Tiên ( tk XII), Việt Nam (tk XV). Tuy được xem là tài sản chung nhưng nhã nhạc của mỗi nước đều có điểm riêng biệt. Ở Việt Nam, nhã nhạc bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XV, nhưng phải đến thời kỳ nhà Nguyễn mới phát triển rực rở và đạt đến trình độ uyên bác.
Ý nghĩa của thuật ngữ Nhã nhạc có khác nhau qua từng thời kỳ, nhưng nhìn chung nó vẫn giữ nguyên là loại âm nhạc chính thống của triều đình, đối lập với âm nhạc dân gian. Ngoài ra, Nhã nhạc còn mang một nghĩa hẹp, khi thì chỉ một tổ chức âm nhạc cung đình nhà Lê (thự nhã nhạc), khi thì chỉ một loại dàn nhạc trong cung đình triều Nguyễn. Nhưng những nghĩa hẹp này chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn và biến mất. Ngày nay, trong bối cảnh giao lưu quốc tế, Nhã nhạc được hiểu theo ý nghĩa nguyên thuỷ của nó, tức là nhạc chính thống mang tính lễ nghi, được sử dụng trong các triều đình quân chủ Việt Nam cũng như tại các nước đồng văn.
Tháng 11 năm 2003, Nhã nhạc Việt Nam chính thức được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hiệp quốc - Gọi tắt là Unesco, công nhận là “Kiệt tác di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”. Đây là di sản văn hoá phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được thế giới công nhận tính đến thời điểm hiện tại. Nhã nhạc hiện nay chỉ tồn tại dưới hai tổ chức dàn nhạc, đó là: Đại nhạc và Tiểu nhạc.
a/ Đại Nhạc: Là dàn nhạc hết sức quan trọng trong hệ thống nhạc lễ cung đình Huế. Nó là dàn nhạc diễn tấu với những trình thức quan trọng nhất trong các buổi lễ, thường được dùng trong các lễ tế như: Tế Nam giao, tế miếu, Đại triều …Đây là dàn nhạc có âm lượng lớn. Nhạc cụ chủ yếu vẫn là dàn trống và kèn. Cấu tạo của dàn Đại nhạc:- 2 bộ gõ và bộ hơi, gồm 4 chủng loại, với trên 40 nhạc cụ. Tuy nhiên, so với các dàn Đại nhạc được mô tả trong các dữ liệu thì dàn Đại nhạc hiện nay có biên chế gọn nhẹ hơn.
Cấu trúc nhạc cụ dàn Đại nhạc gồm:
Bộ gõ:
- Trống đại
: 01 cái
- Trống chiến
: 01 hoặc nhiều hơn phụ thuộc vào số lượng kèn, theo tỉ lệ 1:1
- Bồng
: 01 cái
- Não bạt ( xập xoã)
: 01 cái
- Mỏ sừng trâu
: 01 cái
- Trống cơm
: 01 cái

Bộ hơi: - Kèn bầu (kèn đại)
- Kèn lỡ ( kèn trung).

Bộ dây: - Đàn nhị (nhạc cụ phụ, chỉ dùng duy nhất khi tấu bài nam bình

Các bài bản của đại nhạc gồm: Tam luân cửu chuyển (ba hồi chín chuyển), Đăng đàn cung, đăng đàn đơn, đăng đàn kép, đăng đàn chạy, xàng xê, nam bằng, nam ai, cung ai, cung bằng, man, mã vũ, tẩu mã, bài kèn thoét, thái bình cổ nhạc, bài kèn bóp, phú lục, bài bông, nam trĩ, kèn chiến, phần hoá, phát, hiệp, khai trường.

b/ Tiểu nhạc: So với Đại nhạc, thì các bài bản âm nhạc của hệ thống Tiểu nhạc tương đối ổn định hơn. Bài bản âm nhạc mang màu sắc trang nhã, vui tươi, thường được dùng trong các buổi yến tiệc của triều đình, trong các lễ đại khánh, dịp tết nguyên đán. Chất liệu dễ đi vào lòng người, không quá trang nghiêm hoặc quá sầu bi như các bài bản của đại nhạc. về âm lượng nó không quá lớn như đại nhạc. Nhiều bài bản tiểu nhạc còn có lời ca.
Cấu trúc nhạc cụ dàn tiểu nhạc:
Bộ gõ:
- Trống bản.
- Phách tiền.
- Não bạt.
- Tam âm la.
- Mõ sừng trâu.
- Trống chiến (sử dụng hạn chế)
Bộ hơi: - Sáo.
Bộ dây:
- Đàn tam
- Đàn nhị
- Đàn tỳ
- Đàn nguyệt
Các bài bản chính thống của tiểu nhạc hiện nay đang được biểu diễn:
Hệ thống 10 bài liên hoàn ( hay thập thủ liên hoàn) gồm: Phẩm tuyết, nguyên tiêu, hồ quảng, liên hoàn, bình bán, tây mai, kim tiền, xuân phong, long hổ, tẩu mã. Các bài bản khác: - Ngũ đối thượng, ngũ đối hạ, long ngâm, long đăng, tiểu khúc, phú lục địch, phụng vũ, bài thiều.
II.2. Múa cung đình
Múa cung đình đi đôi với nhạc cung đình và có nguồn gốc lâu đời ở nước ta. Vào thời nhà Lý, nhà Trần đều đã có các điệu múa cung đình. Múa cung đình bắt nguồn từ các điệu múa truyền thống trong dân gian, được chọn lọc và nâng cao theo những qui phạm nghệ thuật chặt chẻ, nghiêm trang. Múa cung đình mang tính chất khoẻ khoắn, ca ngợi cảnh thái bình, thịnh trị.
Múa cung đình triều Nguyễn cũng tiếp thu các điều múa từ cung đình và dân gian của các triều đại trước, nâng cao và sáng tạo thành những điệu múa mới, mang đặc trưng của nghệ thuật biểu diễn thời Nguyễn. Múa cung đình nhà Nguyễn chủ yếu là múa tập thể, tư tưởng, chủ đề thường biểu hiện ở các đội hình di chuyển và kết thúc bằng một đội hình ngưng đọng. Trong khi trình diễn, các vũ sinh miệng ca, tay múa theo điệu nhạc hoà tấu. Nội dung bài hát trong điệu múa hoàn toàn bằng chữ Hán. Trong số 11 điệu múa của thời nhà Nguyễn đã và đang được nhà hát Truyền Thống Cung Đình thuộc TTBTDT cố đô Huế sưu tầm, khai thác và phục hồi gồm:


1. Bát dật
(Đang biểu diễn)
2. Lục cúng hoa đăng
(Đang biểu diễn)
3. Tam Tinh chúc thọ
(Đang nghiên cứu phục hồi)
4. Bát tiên hiến thọ
(Đang nghiên cứu phục hồi)
5. Trình tường tập khánh
(Đang biểu diễn)
6. Tứ Linh
(Đã phục hồi và đưa vào biểu diễn một số trích đoạn như:Lân mẫu xuất lân nhi, song phụng, Long hổ hội)
7. Nữ tướng xuất quân
(Đang biểu diễn)
8. Vũ phiến
(Đang biểu diễn)
9. Tam quốc tây du
(Đang biểu diễn)
10. Lục triệt hoa mã đăng
(Đang biểu diễn)
11. Đấu-chiến-thắng-phật
(Đang nghiên cứu phục hồi)
Các điệu múa này thường được dùng để biểu diễn trong các ngày lễ: Thánh thọ (sinh nhật Hoàng Thái Hậu), Tiên thọ (sinh nhật Hoàng Thái Phi), Vạn thọ (sinh nhật vua), Thiên xuân (sinh nhật Hoàng Thái Tử), Thiên thu (sinh nhật Thái Hậu). Ngoài các lễ trên, múa cung đình còn được diễn trong các lễ: Hưng quốc khánh niệm, tết Nguyên đán, Lễ kết hôn Hoàng Tử, công chúa và các dịp tiếp đãi sứ thần ngoại quốc. Khi diễn dùng ban nhạc Thiều.