Nghi án về sự mất tích của ngọc tỷ truyền quốc thời cổ đại Trung Hoa (P1)

Thứ Hai, 29/10/2012 --- cập nhật 03:01 GMT+7


Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, các bậc đế vương truyền nhau chiếc ngọc tỷ này, coi đó là bảo vật của quốc gia. Những người có được ngọc tỷ được coi là “thụ mệnh ở trời”, còn những người đánh mất ngọc tỷ được coi là biểu hiện của việc “khí số đã tận”.

Nếu như hoàng đế đăng cơ mà không có ngọc tỷ thì bị coi là không chính danh, bị người dân trăm họ coi thường. Điều này khiến ngọc tỷ trở thành vật bị các đế vương trong lịch sử tranh đoạt không ngừng. Tuy nhiên, sau hơn 1.000 năm tồn tại, ngọc tỷ truyền quốc quý giá này không biết tông tích nơi đâu. Hơn mt ngàn năm qua, những câu chuyện về chiếc ngọc tỷ truyền quốc lúc nào cũng nhuốm màu huyền thoại…

“Tỷ” trong ngọc tỷ ban đầu có nghĩa là ấn triện (con dấu). Trước khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, chữ “tỷ” vốn được khá thông dụng, không có sự phân biệt về đẳng cấp, dù là ấn của quan hay dân cũng đều gọi là “tỷ”. Sái Ung trong cuốn sách “Độc Đoán” có viết rằng: “Tỷ tức là ấn triện. Ấn triện tức là cái dùng để làm tin”. Như vậy, thời bấy giờ việc sử dụng ấn triện khá phổ biến, như một hình thức ký tên để đảm bảo độ tin cậy và tất cả những ấn triện này đều được gọi chung là “tỷ”. Tuy nhiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc đã đặt ra những quy định chặt chẽ về việc chế tạo, tên gọi cũng như cách thức sử dụng các con dấu. Theo đó, Tần Thủy Hoàng cho rằng, chỉ có ấn triện của hoàng đế mới được gọi là “tỷ”, tượng trưng cho thiên mệnh. “Tỷ” phải được chế và khắc trên ngọc, vì thế nên được gọi là “ngọc tỷ”. Ngoài ra, theo quy định của Tần Thủy Hoàng, ấn của quan lại (cả văn lẫn võ) đều được chế bằng đồng.

Sau khi thống nhất Trung Quốc, làm chủ một lãnh thổ rộng chưa từng có trong các triều đại trước đó, để chứng tỏ quyền uy tối cao của mình, Tần Thủy Hoàng ra lệnh cho người thợ ngọc là Tôn Thọ dùng một loại ngọc quý nổi danh đương thời là loại ngọc họ Hòa để tạo cho ông một “ngọc tỷ” làm bảo vật tượng trưng cho quyền lực của hoàng đế và triều đại mình. Ngọc tỷ lớn khoảng 4 tấc, bên trên có chạm khắc hình 5 con rồng, ở phía chính diện là 8 chữ “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương” (nghĩa là nhận mệnh của trời, tồn tại mãi mãi). Sau đó, ngọc tỷ này trở thành chiếc ấn ngọc được truyền qua rất nhiều các vị đế vương của các triều đại khác nhau trong lịch sử Trung Quốc, vì vậy mới gọi là “Ngọc tỷ truyền quốc”.





Về lai lịch của viên ngọc được sử dụng để làm nên chiếc ngọc tỷ truyền quốc này cũng là một câu chuyện thú vị. Chuyện kể rằng, vào thời Xuân Thu của Trung Quốc, có một người nước Sở tên là Biện Hòa đào được trong núi một khối đá ngọc, biết rằng, bên trong là một viên ngọc quý nên đem dâng vua Lệ vương của nước Sở. Lệ vương thấy trong tay Biện Hòa là một tảng đá, có ý xem thường nhưng vẫn sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc tới xem một lúc rồi nói đây chỉ là một cục đá. Lệ vương cho rằng Biện Hòa là nói láo, ra lệnh chặt chân trái ông ta. Khi Lệ vương mất, Võ vương nối ngôi, Biện Hòa lại dâng ngọc lên. Võ vương lại sai thợ ngọc xem, thợ ngọc lại bảo chỉ là đá.

Võ vương lại cho là Biện Hòa nói láo, ra lệnh chặt chân phải ông ta. Võ vương chết, Văn vương lên nối ngôi, Biện Hòa ôm khối ngọc mà khóc ở chân núi Sở ba ngày ba đêm, hết nước mắt thì khóc ra máu. Văn vương hay tin, sai người hỏi nguyên do: “Trong thiên hạ có nhiều người bị chặt chân, sao mà riêng ông khóc lóc bi thảm đến vậy?” Biện Hòa đáp: “Tôi không đau xót vì bị chặt chân mà vì nỗi ngọc thật mà lại bảo là đá, kẻ sĩ ngay thẳng mà lại bảo là nói láo, tôi đau xót vì lẽ đó”. Văn Vương nghe vậy liền sai người bổ tảng đá ngọc ra xem, quả nhiên bên trong là một viên ngọc quý, bèn đặt tên là Ngọc họ Hòa. Tới thời Sở Uy Vương, tướng quốc là Thiệu Dương có công tiêu diệt nước Việt, Uy Vương bèn đem viên ngọc thưởng cho ông ta. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Thiệu Dương đánh mất viên ngọc quý này. Nhiều người nghi ngờ rằng chính người khách có tên là Trương Nghi mà Thiệu Dương nuôi trong nhà mình đã đánh cắp viên ngọc vì thế đã bắt Trương Nghi tới thẩm vấn. Trương Nghi bị nghi ngờ, giận dữ bỏ nước Sở sang nước Ngụy cuối cùng tới nước Tần và được bái làm tướng.

Tới thời Chiến Quốc, Huệ Văn Vương của nước Triệu lấy được viên ngọc Hòa thị ở chỗ của thái giám Anh Hiền. Tần Chiêu Vương sau khi biết được, định cướp nhưng nhờ Lan Tương Như tài trí mang ngọc quý đi sứ nước Tần song vẫn mang viên ngọc trở về. Tới năm Tần Vương Chính thứ 19, tức năm 228 trước Công nguyên, Tần Vương Doanh Chính phá nước Triệu, cướp được ngọc Hòa thị. Sau khi Doanh Chính thống nhất thiên hạ, xưng làm Thủy Hoàng Đế đã lệnh Tôn Thọ một thợ ngọc nổi tiếng ở thành Hàm Dương cắt ngọc và khắc chạm thành một chiếc ấn. Tiếp đó, lại lệnh cho quan tể tướng nước Tần lúc đó là Lý Tư khắc 8 chữ “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh xương” bằng chữ triện lên trên. Viên ngọc Hòa thị nổi tiếng trước nay chính thức “thoát thai hoán cốt” trở thành chiếc ngọc tỷ truyền quốc.

Sau khi Tần Thủy Hoàng chết, các bậc đế vương truyền nhau chiếc ngọc tỷ này, coi đó là bảo vật của quốc gia. Những người có được ngọc tỷ được coi là “thụ mệnh ở trời” còn những người đánh mất ngọc tỷ được coi là biểu hiện của việc “khí số đã tận”. Nếu như hoàng đế đăng cơ mà không có ngọc tỷ thì bị coi là không chính danh, bị người dân trăm họ coi thường. Điều này khiến ngọc tỷ trở thành vật bị các bậc đế trong lịch sử tranh đoạt không ngừng. Tuy nhiên, sau hơn 1.000 năm tồn tại, ngọc tỷ truyền quốc quý giá này không biết tông tích nơi đâu. Hơn một ngàn năm qua, những câu chuyện về chiếc ngọc tỷ truyền quốc lúc nào cũng nhuốm màu huyền thoại.

2. Ngay từ thời nhà Tần, ngọc tỷ truyền quốc cũng đã một lần mất tích. Vào năm Tần Doanh Chính thứ 28, tức năm 219 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng ra Động Đình Hồ chơi gặp gió bão quá to khiến thuyền bị lật, ngọc tỷ truyền quốc đã bị chìm vào đáy hò. Tuy nhiên, 8 năm sau đó, có một người dân sống ở vùng Hoa Âm lại mang ngọc tỷ dâng lên. Từ đó cho tới nay, ngọc tỷ truyền quốc trải qua rất nhiều thăng trầm lưu ly do sự thay triều đổi chủ hàng chục, thậm chí hàng trăm lần trong lịch sử Trung Quốc.

Mùa đông năm Tần Tử Anh thứ nhất, tức năm 206 trước Công nguyên, Lưu Bang dẫn quân tấn công vào thành Hàm Dương Tử Anh dùng dây đeo ấn của mình buộc vào cổ, niêm phong ngọc tỷ và phù tiết, đứng ở quỹ đạo chờ dâng cho Lưu Bang để xin hàng. Ngọc tỷ truyền quốc từ nhà Tần chuyển sang nhà Hán. Tới cuối thời Tây Hán, khoảng năm thứ 8 sau Công nguyên, quyền thần Vương Mãng chuyên quyền. Lúc bấy giờ, Hoàng đế Nhũ tử chỉ mới 2 tuổi, ngọc tỷ truyền quốc được để ở Trường Lạc Cung do Vương thái hậu, vợ của Nguyên Đế và là cô của Vương Mãng cất giữ. Vương Mãng soán ngôi, lập nên vương triều mới, phái em trai của mình là An Dương Hầu Vương Thuấn tới đòi ngọc tỷ ở chỗ của Vương thái hậu. Vương thái hậu vừa nghe thấy đã tức giận mắng Thuấn rồi cầm ngọc tỷ ném xuống đất. Ngọc tỷ vì thế bị sứt mất một góc. Sau đó, Vương Mãng đã sai người dùng vàng để trám lại chỗ bị sứt đó.

Tháng 10 năm 23 sau Công nguyên, Vương Mãng bị giết bởi quân khởi nghĩa Lục Lâm. Trước khi chết, Vương Mãng đeo ngọc tỷ trên cổ. Một viên tướng của quân Lục Lâm giết Vương Mãng, đem dâng ngọc tỷ cho chủ tướng của quân Lục Lâm là Lý Tùng. Sau đó, Lý Tùng lại mang ngọc tỷ tới dâng cho Canh Thủy Đế Lưu Vân. Lưu Vân bị quân Xích My bắt, ngọc tỷ truyền quốc trở về tay Lưu Bồn Tử, vị hoàng đế do quân Xích My lập nên. Sau đó, Lưu Bồn Tử cùng quân Xích My bị đánh bại ở Nghi Dương, ngọc tỷ truyền quốc rơi vào tay Hán Quang Vũ Đế Lưu Tú, quay trở lại với nhà Hán. Cuối thời Đông Hán, hoạn quan chuyên quyền, ngoại thích là Hà Tiến lập mưu giết bọn hoạn quan nhưng không thành, ngược lại bị bọn hoạn quan giết hại. Viên Thiệu dẫn quân vào cung đuổi giết bọn hoạn quan, trong cung đại loạn, Hán Thiếu Đế phải chạy ra ngoài tránh nạn. Trong lúc vội vã chạy trốn Hán Thiếu Đế không kịp mang theo ngọc tỷ, tới khi trở lại cung thì ngọc tỷ không biết ở nơi nào.

(Còn nữa)

Theo Hôn Nhân & Pháp Luật