NHÂN LOẠI GIÁC NGỘ TÌNH THƯƠNG
KHOA HỌC TÂM LINH NHÂN ĐIỆN

Mê Kông

Sử dụng năng lượng vũ trụ phục vụ đời sống là nền tảng căn bản mà khoa học tâm linh nhân điện đang thực hiện và bài viết này xin được coi là kinh nghiêm cá nhân và những giả thiết khoa học về thực hành nhân điện trong dưỡng sinh và học tập để bạn đọc gần xa cùng suy ngẫm và ứng dụng.

Tĩnh tâm nhân điện refreshing body by meditation hay thiền là kỹ thuật dưỡng sinh huyền diệu. Thiền có nhiều trường phái khác nhau đã được các thiền sư và các môn phái dưỡng sinh Đông Tây Kim Cổ áp dụng và kết quả thì tuỳ vào công phu luyện tâp để lấy nguyên khí ngoài vũ trụ hay năng lượng vũ trụ vào cơ thể mình. Sách vở báo chí viết về thiền rất nhiều và thú vị, đó chính là thành tựu mà loài người đã đạt được về ứng dụng năng lượng vũ trụ trong dưỡng sinh. Thiền nhân điện dựa trên căn bản khoa học tâm tinh nhân điện do Gs. ts Lương Minh Đáng sáng lập, mang tính hiện đại thể hiện ở các khía cạnh được trình bày ngắn gọn bằng sự hiểu biết khoa học sau đây.

Điều kiện cần và đủ để thiền hiệu quả condition for entrance
Dung nạp năng lượng vũ trụ chỉ đạt kết quả cao khi các trung tâm tiếp nhận năng lượng vũ trụ (gọi là luân xa charka) được mở hay nói cách khác được kích chấn. Các thiền sư trong mọi thời đại đều tập luyện và khi độ tập luyện chín muồi thì luân xa tự mở, nhưng rất khó khăn, vì vậy có người cả nửa đời người theo nghiệp tu hành, thiền định nơi cửa Phật mà luân xa vẫn chưa được khai mở. Chính vì vậy con người khi nói đến thiền định thì đều rất ngại vì mất quá nhiều quỹ thời gian cho luyện tập sẽ ảnh hưởng đến thời gian kiếm kế sinh nhai.

Thiền nhân điện thì bạn không phải tốn thời gian công phu luyện tập mở luân xa vì có người Thầy nhân điện giúp cho thông qua năng lực tâm linh siêu việt từ xa, Thầy Đáng sẽ khai mở luân xa cho anh chị em. Theo như sự hiểu biết của tôi người Thầy nhân điện, Gs. Ts Lương Minh Đáng là người duy nhất của nhân loại có khả năng mở luân xa cho người khác và nhiều nhà sư nổi danh ở nước Thái Lan đã nhờ Thầy mở luân xa cho.

Luân xa mở thì năng lực tĩnh tâm rất cao và do vậy thiền nhân điện chỉ cần 5 phút tối thiểu đến 30 phút tối đa là đủ xoá các stress đọng lại của một ngày làm việc. Nhân điện cho rằng thời gian thiền nhiều ít không quan trọng mà chất lượng thiền mới quan trọng. Chất lượng thiền chính là thời gian tâm bạn cắt tạm thời với ngoại giới hay nói rõ hơn là cửa đón nhận năng lượng vũ trụ là luân xa mà mở rộng thì nguyên khí vũ trụ vào cơ thể nhiều. Do vậy thiền ít thời gian nhưng chất lượng lại cao, hợp với cách sống của người hiện đại.

Thực tế cho thấy bạn không thể dùng ý chí (năng lực ức chế) của não bộ để bắt tâm bạn yên lặng vì sự loạn động của trí não có cơ chế rõ ràng là: khi bị stress chất nội tiết cortisol ở tuyến Thượng Thận tiết nhiều để huy động năng lượng chống stress và đặc biệt làm cho huyết áp tăng cao. Huyết áp cao tức thời khi phân tâm là nguyên nhân chính gây cho tâm bạn không tĩnh tâm được.

Tư thế thiền meditated porture

Tư thế thiền nhân điện rất linh động có thể ngồi, nằm, thậm chí đứng ở nơi yên tĩnh cũng được, miễn là tư thế thoải mái, xương sống thẳng. Vì vậy bạn có thể thiền nhân điện trong giờ giải lao hay ngồi trên tàu xe cũng được. Khác với các môn phái thiền khác thiền nhân điện không quá coi trọng tư thế thiền meditated porture (các môn phái khác phải nhờ tư thế thiền để hy vọng mở luân xa). Vì vậy các tình trạng sức khoẻ, tuổi tác, hoàn cảnh công việc nào cũng có thể thực hành tĩnh tâm nhân điện được.

Thời gian thiền dài ngắn, thời điểm thiền sáng trưa chiều tối và số lần thiền ít nhiều, phụ thuộc vào nhu cầu cũng như kế hoạch các nhân của từng người. Nhân điện không có quy định cứng nhắc về tư thế và thời gian thiền. Có thể nói rằng nhân điện đã đưa thiền vào đời sống hiện đại một cách vi tế phục vụ cho dưỡng sinh của con người.

Một số giả thiết về cơ chế thiền nhân điện meditation mechanism

Giả thiết 1: Thiền xoá stress và lập lại cân bằng thần kinh - nội tiết

Thiền là phương pháp xoá đi những stress có hại (negative stress) đọng lại trong đời sống xét theo quan điểm khoa học hiện đại. Stress có nguồn gốc rất đa dạng như sự thay đổi khí hậu thời tiết, bệnh tật, nhiễm hoá chất, đặc biệt là những bế tắc, nỗi buồn, sự lo lắng thái quá, nghen ghét, đố kỵ, thù hằn v.v. Stress có lợi possitive stress thì khác và nó là nguồn hứng khởi, hoài bão ước mơ, là sự rung động của con tim với cái đẹp chẳng hạn và dạng này được xem là có lợi, song cái gì cũng có ngưỡng của nó, thái quá thì bất cập.

Trong điều kiện người không sử dụng thiền để xoá stress, đặc biệt là các stress tâm lý psychological stress thì rất cực nhọc và đau khổ thân xác. Thí dụ người đã hãm hại cha mình, thì liệu bạn có thể tha thứ cho người đó được không? Vì vậy stress về việc cha bị hãm hại cứ còn đó, khi bạn nghĩ về sự kiện này.

Bản chất thiền là dung nạp năng lượng vũ trụ (nguyên khí vũ trụ) vào cơ thể con người và năng lượng vũ trụ kích chấn tuyến tùng (tiết nội tiết tố hormone làm dịu thần kinh bạn) và tuyến yên (tiết nhiều hormones đa tác dụng khác) làm điều hoà trao đổi chất tự nhiên của bạn. Nhịp tim, huyết áp và nhịp thở lắng xuống là một khía cạnh biểu hiện tác dụng của thiền.

Năng lượng vũ trụ là năng lượng mang cấu hình và sức mạnh tình thương form and force of love (hiểu theo quan niệm khoa học tâm linh nhân điện) sẽ kích chấn làm cho sóng não bộ mang tên sóng  loạn động sang sóng  hay các sóng thấp khác êm dịu hơn. Các nghiên cứu ảnh hưởng của thiền đến các sóng thần kinh đã được khoa học nghiên cứu và thừa nhận ưu điểm vượt trội của thiền trong dưỡng sinh.

Nếu anh chị em có tôn giáo, sùng kính các Đấng giáo chủ, thì có thể hiểu cơ chế thiền theo kiểu riêng của mình đó là: thiền là giống như ta mời Đức Phật hay Đức Chúa ngự trong lòng ta và tình thương nội phát trong ta bừng sáng. Xin nhắc lại rằng điều kiện cần và đủ để thiền đạt hiệu quả là luân xa được mở. Nên chăng chúng ta nghĩ về người Thầy đã mở luân xa cho ta, thì tình thương của các Đấng ta hằng tôn kính sẽ thông qua đó mà toả sáng trong ta. Người Thầy nhân điện không phải là Đấng nào cả, vì Thầy là con người bằng da bằng thịt và Thầy chỉ là người trợ lực cho ta tiếp nhận năng lượng vũ trụ. Năng lượng này mang cấu hình tình thương, chính là đặc tính của các vị giáo chủ. Thầy đang dắt tay anh chị em hành động tình thương để bạn thực hiện được lời dạy của Đức Phật, Đức Chúa vốn vô cùng cao siêu và khó thực hiện trong đời sống hiện đại thường nhật.

Trong sinh lý học thần kinh người ta cho rằng các thông tin cảm nhận bản thể và các thông tin do 5 giác giác quan ngoài đưa vào bộ máy cao cấp của não bộ là bán cầu đại não là não trung gian thalamus (một bộ phận của não dưới). Cơ quan này ví như một kẻ đưa thư trung thành, thông tin gì cũng gửi lên não trên mà không phải là người thư ký biết chọn lọc, biết trình cấp trên thông tin hợp với hoàn cảnh. Vì vậy não trên rất bận rộn với hàng hà xa số thông tin của cả nội và ngoại môi trường. Làm nhiều thì quá sức và dễ mệt mỏi, thậm chí bị kiệt sức. Đó là lý do giải thích vì sao nhịp sinh học của con người thời hiện đại công nghiệp này thay đổi nhịp sống gấp gáp hơn so với nhịp sinh học tự nhiên vốn có.

Người biết thiền nhân điện đều đặn thì năng lượng vũ trụ kích chấn não trên hoạt động hiệu quả, sáng suốt, mà trạng thái sáng suốt đặc biệt gọi là minh tuệ (trên cả thông minh) để tự xác định ý nghĩa của các thông tin đưa lên, mà gạn lọc lấy những thông tin quan trọng cho đời sống tiến hoá để sử lý và "phớt lờ" không sử lý những thông tin có hại cho cơ thể. Đây là điều kỳ diệu mang niềm vui và sức khoẻ cho người ứng dụng năng lượng vũ trụ trong dưỡng sinh nhân điện. Có lần Thầy nói vui với anh chị em rằng: "anh chị em đã trót học nhân điện rồi và bỏ không được".

Giả thiết 2: Thiền là trạng thái sinh học tiềm sinh

Khi thiền sâu, gọi là nhập định super meditation, năng lượng vũ trụ thông qua các luân xa, đặc biệt là luân xa 7, lan toả khắp tế bào sống trong cơ thể và đưa trạng thái trao đổi năng lượng của cơ thể con người xuống mức thấp nhất (mức trao đổi cơ bản). Thật vậy con rắn trừ khi đi kiếm mồi, còn phần lớn sống trong hang dưới dạng tiềm sinh, mức trao đổi năng lượng rất thấp nên tuổi thọ con rắn dài lắm. Thí dụ này cũng đáng để chúng ta suy ngẫm về cơ chế trao đổi năng lượng của cơ thể khi được nguyên khí vũ trụ trợ giúp. Tuy nhiên người hiện đại ngày nay đâu cần phải sống tiềm sinh như con vật này, mà chỉ cần xoá được stress trong đời sống nhanh bằng thiền nhân điện là chúng ta đã đưa mức trao đổi năng lượng của cơ thể xuống rất thấp. Đối với nhiều anh chị em nhân điện nhịp tim khi thiền có khi xuống rất thấp chỉ là 10 nhịp/phút, còn phần đa là 60 nhịp/ phút. Còn khi làm việc những người nhân điện cũng có nhịp tim thấp hơn người thường khoảng 5 đến 10 nhịp/ phút.

Thiền là cách con người giao hoà với trời đất vũ trụ. Khi ngồi thiền, các cơ quan duy trì sự sống tối cấn thiết như tim phổi v.v hoạt động, còn đại bộ phận cơ bắp và các cơ quan khác tạm nghỉ ngơi, sinh lực của con người được toả sáng do không bị phân tán năng lượng. Hay nói cách khác phần não dưới, trung tâm phát sinh những sóng điện ẩn chứa mật mã "danh lợi tình" tạm ngưng hoạt động, "giải phóng" năng lực của não bộ để phần võ não yên tĩnh trống trơn để quán tưởng về những điều thiêng liêng của đời sống. Đó chính là sự giao hoà của cơ thể con người với tự nhiên, với trời đất và vũ trụ. Không nghĩ gì khi thiền là giây phút bừng tỉnh của tâm hồn ta, là trạng thái giao hoà hợp nhất ta với đất trời bao la, mà ở một khía cạnh nào nó có thể gọi là bước đầu lập lại tính tự nhiên trong đời sống.

Cảm nhận sự dung nạp năng lượng vũ trụ vào cơ thể khi thiền là cảm thấy điều thiêng liêng, bâng khuân, thanh nhẹ, thậm chí mất trọng lượng, hay cảm giác tan biến thể xác vào vũ trụ. Cái cảm giác ấy mang đặc tính khi ẩn khi hiện của ngoại giới "sắc sắc không không". Đó chính là trạng thái giao hoà của con người với vũ trụ bao la cao xa vời vợi "có mà không, không mà có" của cái chân ngã đó chăng.

Phút cuối cùng trước khi lâm trung, ranh giới giữa sự sống và cái chế, trao đổi năng lượng xuống thấp nhất gọi là trạng thái siêu tiềm sinh. Nhiều người may mắn thoát chết kể lại rằng họ thấy những cảnh giới vô hình với những điều chưa từng biết tới trong đời sống ở không gian ba chiều. Cuốn phim về những dấu ấn từng trải trong cuộc đời được tái hiện lần cuối để hoá thân sang đời sống "sóng điện" hay "thông tin" mới là những bí mật của sinh học cần được nghiên cứu. Phải chăng ở trạng thái siêu tiềm sinh người ta tìm được điều mới lạ của bản chất sự sống.

Giả thiết 3: Tế bào siêu điên ảnh super nerve-cell giác quan đăc biệt được kích chấn khi thiền

Trạng thái thiền định và đặc biệt trạng thái nhập định, nhờ năng lượng vũ trụ kích chấn siêu tế bào điện ảnh ẩn chứa trong não bộ sẽ chuyển từ trạng thái ngủ, sang trạng thái hoạt động tích cực và người thiền có cảm nhận rất đặc biệt về không gian (các cảnh giới), như cảm nhận thấy hiện tượng bị mất trọng lượng, hay thấy những ánh sáng lạ kỳ có màu xanh hoặc màu vàng xuất hiện trong đầu. Đặc biệt hơn là nhận cảm được những thông điệp vũ trụ, mà ta thường gọi là linh cảm, dưới nhiều dạng như: (a) bâng khuâng nhận ra điều triết lý gì đó khó tả liên quan đến định hướng hành động của bạn. (b) giải toả được điều mà lâu nay trăn trở. (c) phần đa trường hợp thấy não bộ trống trơn không còn băn khăn lo lắng điều gì. (d) kỳ diệu hơn là sau đó thấy yêu thương mình và mọi người và tự nhiên khôn tả.
Thường thì sau khi nhận được thông điệp, anh chị em thường suy ngẫm, dùng lý luận để xem xét ý nghĩa của thông điệp, dịch nó ra nghĩa đời thường, rồi xác định việc mình cần làm sau khi nhận thông điệp. Cũng có anh chị em thì cứ hành động bình thường các công việc hàng ngày, nhưng lại tìm thấy công việc thường nhật ấy, hàm chứa những ý nghĩa đặc biệt. Tóm lại sau khi thiền sâu ta học trong vô thức được nhiều điều mới lạ và đặc biệt ta lãnh nhận được những ý nghĩa triết lý thiêng liêng hàm chứa trong những việc thường nhật. Đó chính là kết quả hoạt động của giác quan đặc biệt, tế bào siêu điện ảnh để phát huy khả năng tiềm ẩn của não bộ giúp con người thông minh sáng xuốt trong đời sống.

Giả thiết 4: Thiền nhân điện thiết lập bộ nhớ mới hiệu năng

Trí nhớ là các dạng thông điệp thần kinh có ý nghĩa được hình thành trong đời sống và lưu giữ ở các nơ ron đặc biệt của vỏ não. Thông điệp này ví như các file nén của máy tính để giảm tải dung lượng lưu giữ cho não bộ, khi cần lục lại, nhớ lại. Thường thì khi già bộ phận chuyển file nén thành phai thông thường bị trục trặc, do sự lão hoá của các nơ ron thần kinh đảm nhận việc này, nên người ta hay quên. Đây là một hiện tượng sinh lý bình thường trong lão khoa. Khi dung nạp năng lượng vũ trụ vào cơ thể, các nơ ron thần kinh nằm ở trung khu lưu tồn trí nhớ được kích hoạt và bồi hoàn chức năng sinh lý bình thường, nên thiền nhân điện có khả năng khôi phục trí nhớ. Những người do di chứng xuất huyết não bị mất trí nhớ có thể ứng dụng thiền nhân điện để khôi phục trí nhớ nhờ công năng này. Trong lão khoa, thiền nhân điện nên được coi trọng vì khả năng làm tươi hoá/trẻ hoá tế bào và khôi phục trí nhớ nhanh.

Thiền nhân điện có khả năng xác lập nhanh trí nhớ khi học tập trên căn bản sau: học thì nhiều nhưng nhớ cái gì lại là câu chuyện của các tế bào nhớ chứa trong bán cầu đại não. Trước khi học điều gì ta thiền nhanh, thậm chí trong giây lát bằng cách nghĩ đến người Thầy nhân điện. Tất cả các thông điệp "rác" tạm thời tiêu biến nhanh chóng và nhường khoảng không gian trống rỗng của não bộ cho học tập, bạn sẽ không bị phân tâm và tiếp thu kiến thức nhanh và đặc biệt dễ thiết lập trí nhớ về những điều học hỏi.

Người biết thiền nhân điện thường xuyên do năng lượng vũ trụ luôn luân lưu trong cơ thể nên tế bào thiết lập trí nhớ luôn ở trạng thái hưng phấn và hiệu quả ghi nhớ thông điệp gia tăng và còn bền nữa. Xưa các cụ ta có câu "người ta tâm viên ý mã" có nghĩa là não bộ của con nười luôn loạn động do các thông điệp "rác" quá nhiều nên con người khó tĩnh tâm được, mà đưa các thông điệp rác vào bộ não thì chỉ làm cho não bộ bệnh hoạn, vì rác thì giữ làm gì. Nhớ cái gì chính là nhớ cái hồn của kiến thức chứ chưa hẳn là nhớ kiến thức đâu bạn ạ.

Một số anh chị em nhân điện còn trẻ có phàn nàn rằng dường như anh chị em hay "lú". Đừng nhầm giữa mất trí nhớ và trạng thái trống rỗng của não bộ khi thiền nhân điện. Những điều không cần cho đời sống hiện thời của anh chị em đã được lưu giữ cẩn thận ngăn nắp trong bộ nhớ. Nên nhớ rằng file nén của anh chị em nhân điên được cập nhật nên nó "nén" được gấp nhiều lần người bình thường trong cơ chế trình bày ở trên.


Nhận ra tính không tuyệt đối khi thiền, đồng nghĩa với nhận ra chân lý của đời sống, ở khia cạnh vĩ mô là quan điểm: muôn loài vạn vật đều là những tế bào sống của thể xác thiên nhiên vĩ đại mà linh hồn của thể xác có bản chất từ năng lượng vũ trụ naturally super power. Thượng Đế là danh từ mà con người đặt ra để chỉ cái năng lực siêu nhiên sinh ra vũ trụ và muôn loài và Thượng Đế là khối sáng toàn thiện có ở mọi nơi trong vũ trụ này chứ Ngài không chỉ ở trong chùa hay nhà thờ đâu. Đích thực Ngài có trong từng hơi thở để ta sống và Ngài không cần con người phải thờ phượng Ngài hoành tráng linh đình. Ở một khía cạnh nào đó có thể hình dung Ngài là năng lượng vũ trụ mà nhân điện đang tiếp cận. Ngài dường như không có mục đích vì Ngài là khối năng lượng toàn năng và chỉ con người là có mục đích và mục đích của nhân điện là nghiên cứu sử dụng năng lượng vũ trụ để dưỡng sinh và phục vụ đời sống nhân sinh.
(Còn nữa)

NHÂN LOẠI GIÁC NGỘ TÌNH THƯƠNG

KHOA HỌC TÂM LINH NHÂN ĐIỆN (tiếp lần 1)

Mê Kông

NHỮNG SỰ KIỆN ĐÁNG NHỚ

Cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện chưa từng thấy về những khám phá mới trong khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực y - sinh học như công nghệ nhân bản vô tính và con cừu Dolly đã ra đời ở nước Anh với tuổi thọ ngắn ngủi 4 năm. Sau đó ít năm bản đồ Gen người được giải mã và đặc biệt là sự khám phá ra tế bào gốc stem cell đã mở ra cho các khoa học về sự sống một chân trời phát triển rực rỡ chưa từng có trong lịch sử loài người. Thành tựu nghiên cứu vi mô cấu trúc sống thật đáng khâm phục và những dự đoán rằng: thế kỷ 21 là thế kỷ của sự phát triển công nghệ sinh học cũng đã có chỗ đứng trong đời sống của xã hội loài người. Những sự kiện trên không chỉ đánh dấu một thời kỳ phát triển rực rỡ đỉnh cao của khoa học mà còn làm lung lay những lý thuyết sinh học truyền thống cũng như làm cho con người lãnh đạm hơn với những quan niệm giáo điều của một số tôn giáo.

Cũng vào thời kỳ này thế giới cũng chứng kiến những biến đổi dồn dập của khí hậu toàn cầu như nhiệt độ trái đất tăng, băng đang tan nhanh ở hai đầu bắc cực và nam cực, mà giới khoa học cho là do hiệu ứng nhà kính green house effect mang lại, mà nguyên nhân trực tiếp do khí thải công nghiệp gây ra.

Sự ô nhiễm trầm trọng sinh quyển biophere cả khí quyển, môi trường nước và chuỗi thức ăn trong hệ thống sinh thái (cây cỏ, động vật) do chất thải, cả dạng lỏng, khí và rắn của công nghiệp gây ra.

Động đất, sóng thần tsunami, hạn hán và bão lụt cũng sảy ra liên miên và với tần xuất và cường độ hiếm thấy và cướp đi biết bao sinh mạng một cách thương tâm. Khoa học thì cho rằng do chính hoạt động khai khẩn tài nguyên hoá thạch tự nhiên quá mức và tốc độ phát triển công nghiệp quá nhanh gây ra.

Thêm nữa các bệnh dịch hiểm nghèo như hội chứng suy giảm hệ thống miễn dịch, gọi tắt là bệnh AIDS xuất phát từ châu Phi làm hàng chục triệu người đang sống trong trạng thái vô vọng chờ chết, bệnh bò điên mad cow dissease lây truyền từ những bò sang người làm xốp não người bệnh có nguồn gốc từ nước Anh đang làm cho các nước xuất khẩu thịt bò điêu đứng, hay bệnh cúm gà bird flue lây từ gà sang người, xuất phát từ Châu á vô cùng nguy hiểm và có thể gây ra đại dịch cho loài người bất cứ lúc nào trong năm nay 2006 và những năm sau đó.

Chiến tranh, bạo động, khủng bố ngày càng lan tràn, nhất là ở các quốc gia hồi giáo Trung Đông, giàu trữ lượng dầu mỏ và cả ở các quốc gia giàu trữ lượng mỏ quặng quý Châu phi.

Mối quan hệ quốc tế hiện nay đều nằm trong căn bản lợi ích kinh tế với những khẩu hiệu bùi tai như "đôi bên cùng có lợi". Xu thế toàn cầu hoá globlisation về kinh tế như là một sợi giây vô hình buộc chặt các quốc gia lại với nhau và trong cái "bó" liên kết đó, kẻ mạnh về tiềm lực kinh tế sẽ có nhiều lợi nhuận hơn kẻ yếu.

Do trao đổi kinh tế mà các nền văn hoá có xu thế hội nhập theo mô hình "đa văn hoá" hấp dẫn nhưng lại tạo ra một nguy cơ cho các thế hệ trẻ ở các quốc gia là yêu văn hoá quốc tế, văn hoá của kẻ mạnh và lãnh đạm với văn hoá truyền thống bản địa của mình. Cũng do toàn cầu hoá mà sự nhậy cảm của con người với các sự kiện đủ kiểu sảy ra trên thế giới ngày càng cao. Mới có một bức tranh biếm hoạ về một giáo chủ được đăng mà cả thế giới này phải náo động. Tóm lại mô hình tương lai của thế giới này là con người phụ thuộc ngày càng chặt chẽ với vật chất và kinh tế hơn là tình thương với nhau trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội.

Chính do sự nhậy cảm về sự biến đổi của tự nhiên, cũng như đời sống xã hội loài người, cùng với sự phát triển và cập nhận thông tin siêu nhanh của các phương tiện truyền thông đại chúng chủ yếu từ các nước lớn, mà cảm giác con người mang tính máy móc thay thế cảm giác tự nhiên là giao hoà an bình với thế giới bên ngoài. Hậu quả là con người luôn thường trực cảm giác bị mất an ninh trong thời đại chúng ta.

Thật vậy, do máy móc quá tinh vi, vì vậy không đi khám bệnh thì yên lành, còn đến bệnh viện là có ngay bệnh án mang về, rồi lo âu sầu não cả năm. Mở TV hay đọc báo là trong lòng nặng trữu với những lo âu về những thảm hoạ có thể sảy ra bất cứ lúc nào đối với con người, từ tai nạn giao thông đến cái thiên thạch đang lao nhanh về phía trái đất và nghe đâu đến năm 2026 nó sẽ va vào trái đất.

Hỏi rằng con người có thể sống hạnh phúc, an nhiên tự tại trong một thế giới hiện đại nhưng đầy biến động và hàm chứa biết bao điều rủi ro? Là một con người, tôi cũng như các bạn biết làm sao đây để có thể giải quyết những bế tắc trong đời sống thường nhật?

Sự kiện đời tôi: một cơ duyên đã đến với tôi thật giản dị là vào tháng 4 năm 2003, nhờ một người bạn giới thiệu, tôi đi học nhân điện. Buổi học diễn ra ngắn ngọn đơn giản và sau khi người hướng dẫn nói: "Thầy Lương Minh Đáng sẽ mở luân xa cho anh chị em", thì tôi thấy một cảm giác ấm cúng, tự tin và phấn chấn thiên liêng lạ thường xuất hiện trong lòng mình và từ đó tôi dành thời gian để nghiên cứu học hỏi môn khoa học dưỡng sinh kỳ lạ này. Tôi bắt đầu tập luyện theo phương pháp nhân điện rất đơn giản dễ làm và hiệu quả chữa bệnh cho mình và cho người khác, cũng như các ứng dụng khác thì thật kỳ diệu. Bài viết này là những cảm nhận tâm tình của tôi về nhân điện và về người Thầy yêu quý của tôi đã truyền cho chúng tôi những công thức nhân điện vi diệu. Bài viết này, được viết với giác độ khoa học ngõ hầu giới thiệu với bạn đọc, những người anh em gần xa, một môn khoa học tâm linh có rất nhiều ứng dụng trong dưỡng sinh và đời sống nhân sinh.

SỰ TƯƠNG ĐỒNG GIỮA KHOA HỌC VÀ NHÂN ĐIỆN

Trong lich sử phát triển khoa học, những phát minh khoa học vĩ đại của mọi thời đại đều xuất phát từ những ngoại lệ, hay những khám phá trái ngược với kiến thức khoa học đương thời. Câu chuyện khám phá thế giới của nhà bác học Gallie hay Enstain là những thí dụ điển hình. Nếu bất cứ khám phá nào mà trái với nền tảng khoa học hiện thời bị coi là lẩm cẩm hay hoang tưởng thì có lẽ ngày nay quả đất này vẫn còn là hình vuông. Điều quan trọng, thay cho thông điệp đầu năm của chúng tôi đến các nhà khoa học là nhân loại tiến bộ ngày nay cần có những trái tim dũng cảm Gallie để đóng góp cho văn minh tiến bộ và để loài người không bỏ phí những cơ hội phát triển nền văn minh năng lượng vũ trụ gọi tắt là nhân điện.

Nếu tiếp tục khám phá thế giới bằng phương pháp nghiên cứu vi mô, theo kiểu cắt nhỏ sự vật để nghiên cứu thì khoa học sẽ phải tiếp cận đến khái niệm "vât thể không trọng lượng". Vì rằng: cho là vật thể siêu nhẹ như phần tử Thượng Đế the god element mà mới đây các khoa học gia vật lý lượng tử công bố, thì nó vẫn còn trọng lượng, chứ còn phân tử Thượng Đế thực thì phải là không có trọng lượng, mới được coi là nhỏ nhất chứ. Đây là điểm mấu chốt để thay đổi tư duy khoa học mới.

Về lĩnh vực của các khoa học sự sống xin đưa ra 3 ngoại lệ sinh học cần được nghiên cứu và thành công sẽ mở ra cho loài người những tương lại sáng tươi rực rỡ đó là con rắn, mà câu đồng dao của người Việt Nam truyền lại cho con cháu từ thuở nào là "người già người chết, rắn già rắn lột" mà hiện nay nó là con vật linh biểu tượng của Tổ chức Y học Thế giới World Health Organisation gọi tắt là WHO để con người có cơ hội vượt qua quy luật đè nặng lên xã hội loài người là "sinh lão bệnh tử". Hai ngoại lệ khác ít biết đến về dinh dưỡng gần gũi với con người hơn là đó là con gấu trúc Trung hoa Chinese bear chỉ ăn lá trúc và con Koala biểu tượng cho nước Úc, chỉ ăn lá bạch đàn xuốt cả cuộc đời mà vẫn béo tốt khoẻ mạnh, thì liệu các kiến thức hiện đại nhất về y-sinh học có thể giải thích được không? hay cho đó là những hiện tượng khác thường hay ngoại lệ sinh học rồi lãng quên. Cách đây 17 năm một hiện tượng chữa bệnh kỳ diệu xuất hiện đó là chữa bệnh bằng năng lượng vũ trụ gọi tắt là chữa bệnh bằng nhân điện là một hiện tượng như vậy đang bị khoa học lãng quên.

Thực ra nhân điện đang thực hiện một chương trình nghiên cứu vĩ mô chưa từng có trong lịch sử nhân loại là khai thác khả năng tiềm ẩn của con người bằng năng lượng vũ trụ, để mang lại những giá trị mới cho nền văn minh của loài người ở ngay những năm đầu của thế kỷ 21 này. Trường Đại học Mở của Liên Hiệp Quốc đặt tại nước Sarilanka hiện đã có phân khoa y khoa bổ sung nhân điện. Nhưng mục tiêu chữa bệnh chỉ là một phân ngành nhỏ bé so với những giá trị ứng dụng khác của môn khoa học này mang lại và sẽ được trình bày chi tiết ở các phần dưới đây.

NHÂN ĐIỆN PHỤC VỤ NHÂN SINH

Là một nhà khoa học tôi luôn nhậy cảm với những điều học hỏi khám phá bằng góc độ khoa học và trong chặng đường học hỏi nghiên cứu nhân điện, tôi có thể vững tin khẳng định rằng đây chính là môn khoa học tâm linh vi diệu nhưng bị thất truyền do những lý do của lịch sử tiến hoá loài người.

Học nhân điện có nhiều cấp lớp khác nhau và được tổ chức rất đơn giản gọn nhẹ, ít tốn thời gian, kinh phí, nhưng mang lại hiệu quả nhanh, thiết thực với đời sống nhân sinh và bền vững. Đây là điểm lý thú và hợp với hoàn cảnh của con người ở thế giới hiện đại ngày nay là luôn bận rộn với công việc và hình thức đào tạo ngắn của nhân điện đã tạo cơ hội cho tất cả mọi người ở những trình độ văn hoá khác nhau trong xã hội có thể cùng ngồi học với nhau. Bởi lẽ những nội dung mà nhân điện đề cập đều là những vấn đề mới mang tầm khoa học hiện đại nhưng chưa từng biết đến trong khoa học.

Sau khi nhập môn nhân điện, tôi được nghiên cứu nhiều công thức dưỡng sinh nhân điện và đọc cũng như nghe các bài giảng của người Thầy sáng lập môn nhân điện dạy cho các học viên trong từng cấp lớp với nhiều khía cạnh lý thú mang tính ứng dụng rất giá trị. Cho đến nay môn khoa học này có tới lớp 17 và từng cấp lớp mỗi học viên được Thầy nâng cao năng lực học tập bằng cách truyền năng lượng thần giao cách cảm. Đây là điểm lý thú thứ hai khiến tôi ngỡ ngàng và khâm phục.

Vào giữa thế kỷ 20, các nhà khoa học xác nhận rằng trong không gian có tồn tại một khối trí tuệ vũ trụ universal mind, nhưng làm thế nào để có thể tiếp cận và khai thác nó phục vụ đời sống tư duy của con người thì không có câu trả lời.

Phải chăng việc Thầy truyền điện từ xa để nâng cao năng lực cho các học viên nhân điện chính là cách Thầy nối não bộ của các học viên với khối trí tuệ vũ trụ, hay với trường thông tin vũ trụ mà bấy lâu nay các nhà khoa học mơ ước.

Phải chăng nhờ Thầy kết nối với hệ thống này, mà học viên nhân điện ở Việt Nam học 3 buổi nhập môn nhân điện ngắn ngủi, đã có thể chữa bệnh mà lẽ ra học ngoài đời phải mất nhiều năm.
Còn nhiều những hiện tượng kỳ lạ nữa mà chính tôi đã được từng trải và thực hành như phương pháp học trong vô thức hay đối thoại tư tưởng với người Thầy. Bằng phương pháp học này hầu hết các câu hỏi các thắc mắc của tôi về các khía cạnh khoa học và đời sống đều được giải đáp một cách thoả đáng. Phương pháp học mới lạ "học bằng thần giao cách cảm" để nhận thông điệp vũ trụ thông qua người Thầy thì chưa từng có trong lịch sử loài người. Tôi đã thử nghiệm phương pháp này để bình luận và góp ý cho những nhà khoa học không thuộc lĩnh vực sinh học của tôi và đều nhận được sự đồng cảm như chính tôi là người có chuyên môn đó. Phương pháp vi diệu này đang được nhân điện thử nghiệm và trong tương lại sẽ mở ra cho nhân loại cách học hỏi hữu ích dựa trên căn bản trường thông tin vũ trụ đã được khoa học bình luận trong tạp chí nổi danh thế giới tờ Tự Nhiên Nature Journal.

Nhân điện là môn khoa học đề cập thiết thực đến các nội dung phục vụ đời sống nhân sinh bao gồm các nội dung chính yếu sau:
(i) dưỡng sinh bằng năng lượng vũ trụ (thiền trị refreshing body by universal energy )
(ii) chữa bệnh bằng năng lượng cho người và súc vật universal energy healing
(iii) năng lượng vũ trụ kích chấn GEN điều hành stimulating operated gene để kích hoạt trao đổi chất của vật nuôi cây trồng và thuỷ sản nhằm giảm thiểu nông dược mà vẫn đảm bảo năng suất cần thiết để nhà nông có được sản phẩm sạch.
(iv) giảm thiểu ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh và chiến tranh khi nó sảy ra hay đang có nguy cơ sảy ra.

Ngoài ra ở những lớp cao cấp, thì tuỳ vào năng lực sự sáng tạo và cơ duyên của học viên, mà họ có thể tiếp tục nghiên cứu học tập và áp dụng nhân điện vào sản suất kinh doanh hay khoa học, cũng như bất kỳ ngành nghề gì của riêng họ, thậm chí cả về địa lý tâm linh học và vũ trụ tâm linh học.

Địa lý tâm linh thì nhân loại đã từng biết như khoa học phong thuỷ và xin tiết lộ rằng Nhà Trắng ở Hoa Kỳ là ngôi nhà được thiết kế kỳ diệu mang đậm dấu ấn của khoa học địa lý tâm linh phong thuỷ. Phải chăng các quốc gia hùng mạnh của thế giới này như Mỹ, Nga, Trung Hoa là những quốc gia có những khoa học gia tâm linh đang làm việc âm thầm đằng sau khoa học công nghệ phục vụ cho lợi ích của các quốc gia đó.

Tuy nhiên khoa học tâm linh rất đa dạng và tuỳ vào mục đích khác nhau mà con người ở mỗi quốc gia có những cách ứng dụng khác nhau. Khoa học tâm linh nhân điện không xác định biên giới lãnh thổ để phục vụ mà phục vụ tất cả nhân loại gần xa và nhân điện không cần bất cứ sự trả thù lao nào (kể cả danh tiếng) cho hoạt động phục vụ của mình nếu có yêu cầu. Còn các quốc gia không yêu cầu thì khi nào có hoạn nạn chúng tôi vẫn âm thầm giúp.

Vũ trụ tâm linh học là một khái niệm ít được biết đến và khoa học kinh dịch của Trung Hoa là một phân ngành, nhưng thuở ra đời của kinh dịch con người mới biết đến ít chòm sao quanh trái đất, chứ ngày nay ta biết có hàng tỷ tỷ ngôi sao trên bầu trời, hay nói một cách khác trái đất này còn có hằng hà xa số các mối tương tác với vũ trụ thì kinh dịch chưa giải đáp được.

Nói về vũ trụ và sự tương tác giữa con người với vũ trụ là một chủ đề thú vị. Tư tưởng và sự minh tuệ của con người vươn tới đâu thì vũ trụ rộng tới đó. Chỉ khi nào bạn tưởng tượng được trái đất nhỏ đến mức là một điểm không có kích thước thì bạn mới có cơ duyên cảm nhận được vũ trụ rộng đến nhường nào. Khi đó bạn sẽ có cơ duyên cảm nhận trạng thái "không có không gian và thời gian" như những học viên lớp 16 ngành nhân điện đang thực tập.

Lớp 16 nhân điện các học viên nhân điện được học kỹ thuật đưa thể xác ra ngoài không gian chính là bước khởi đầu nhập môn vũ trụ tâm linh học. Ai được học lớp này là một đại cơ duyên và bạn không còn là một người bình thường nữa đâu mà là khoa học gia vũ trụ tâm linh học thực hành rồi đó. Nếu ra được không gian dù một lần bạn sẽ thấy tiềm năng não bộ của bạn được kích chấn mãnh liệt như thế nào và cơ duyên tiếp cận với khối trí tuệ vũ trụ trong tầm tay bạn rồi. Đừng quá dựa vào người Thầy của mình mà hãy tự cảm nhận và thực thi nhiệm vụ giúp nhân loại âm thầm. Âm thầm phục vụ là đặc tính của năng lượng vũ trụ, mà người đời gọi là Đấng Thượng Thiên. Khi phục vụ mà xưng danh tách thì hiệu năng sử năng lượng vũ trụ bị hạn chế và trói bạn ở không gian ba chiều, ức chế sự sáng tạo của não bộ.

Các nội dung tiếp theo của các lớp cao cấp khác đang được Thầy chuẩn bị để những nhà khoa học và các anh chi em khác có cơ duyên sẽ được nghiên cứu sâu hơn về thế giới kỳ bí đầy quyền năng của khối trí tuệ vũ trụ nhằm phục vụ thiết thực cho nhân loại trong những năm đầy thử thách của thập niên này.

Trong tương lai khi có những biến đổi bất thường của vụ trụ sảy ra thì có thể nòi giống loài người sẽ được bảo tồn hay nhân rộng ra những hành tinh khác nhờ tiềm năng con người được khai mở theo lộ trình phát triển của nhân điện.

Nhân ngày đầu xuân mới, xin mạo muội tiết lộ rằng nhân điện đang âm thầm "làm như không làm" để bảo tồn trái đất và sự sống của loài người trên trái đất trước cuộc đại tạo của vũ trụ đã diễn ra từ những năm 70 của thế kỷ 20 và có thể kết thúc vào cuối thập niên đầu này của thế kỷ 21. Cái thiên thạch dự báo va vào trái đất vào năm 2026 mà giới khoa học cảnh báo hay 10 hố đen vũ trụ, "tử thần" đang hoạt động ngoài không gian, mà nếu nó cập nhật tới hành tinh nào thì hành tinh đó sẽ bị tan biến trong giây lát và tạo ra sự chấn động của trường lực khủng khiếp trong không gian, gấp hàng ngàn lần sức mạnh mặt trời liệu có ảnh hưởng đến trái đất không? Nhân điên đã đang làm những gì có thể vì sự tồn vong của mẹ trái đất.

Chương trình giúp anh chị em nhân điện lớp 16 ra ngoài không gian là anh chị em đang tham gia vào nhiệm vụ này đó. Vũ trụ tâm linh học và chương trình nghiên cứu vũ trụ của NASA tuy hai mà một, vì chúng ta có cùng một mục đích vì sự sinh tồn của mẹ trái đất và loài người. Hy vọng chúng ta sớm có những hợp tác vì mục tiêu chung này.


CẤU TRÚC NỘI DUNG VÀ LỘ TRÌNH KHAI THÁC TIỀM NĂNG CON NGƯỜI

Học nhân điện được cấu trúc theo mô hình kim tự tháp, đó là từ thấp lên cao, thấp là tiếp nhận và sử dụng năng lượng vũ trụ với băng tầm thấp, cao là với băng tần cao hơn cho từng bước thích nghi của người học với năng lượng vũ trụ, chứ dù cao hay thấp đều không ngoài mục tiêu khai thác năng lượng vũ trụ phục vụ cho đời sống nhân sinh.

(a) Mở luân xa (lớp 3): kích chấn các trung tâm tiếp nhận và phân tải năng lực tự nhiên gọi là năng lượng vũ trụ của cơ thể người học viên hoạt động, để dòng năng lượng này từ vũ trụ truyền tới các cơ quan bộ phận của cơ thể, mà kích chấn và điều hoà các hoạt động thần kinh nội tiết hoạt động một cách tự nhiên.

Một điều lý thú đó là 7 luân xa nhân điện trùng với 7 tuyến nội tiết chính của cơ thể con người mà khoa học khám phá ra. Trong đó luân xa 7 tương ứng với tuyến yên (tuyến điều hành hoạt động của các tuyến nội tiết khác) là luân xa hay trung tâm tiếp nhận năng lượng vũ trụ quan trọng nhất.

Mở luân xa được coi là nội dung quan trọng nhất để khởi đầu cho một đời sống sinh học mới của cơ thể học viên với sự có mặt của năng lượng vũ trụ, năng lượng siêu tự nhiên dưỡng sinh cho cơ thể họ.

(b) Nối tuyến tùng và tuyến yên (lớp 5.1 và 5.2): là kỹ thuật đồng kích chấn luân hai luân xa quan trọng nhất là luân xa 6 tương ứng với tuyến tùng và luân xa 7 tương ứng với tuyến yên, làm cho tuyến tùng ở trạng thái trạng thái tiềm sinh ít hoạt động sang trạng thái hoạt động tích cực và nó sẽ lập cầu nối nội tiết với tuyến yên trong việc điều hoà cân bằng nội tiết trong cơ thể.

Thật vậy đối với con người sau khi sinh thì tuyến tùng hoạt động mờ nhạt và theo những hiểu biết về sinh lý học thì chính tuyến tùng là tuyến có năng lực chế tiết các chất nội tiết hoá giải đau đớn, bế tắc của người bệnh và tạo ra những cảm giác bình an cho họ. Vì vậy các khoa học gia cho rằng tuyến này có liên quan đến những hoạt động tâm linh của con người. Cùng với những lý do tế nhị khác nữa, khoa học lãng quên nghiên cứu chức năng tuyến tùng.

Nhân điện quan niệm rằng tất cả các công thức tập luyện đều nhờ công năng siêu tự nhiên của năng lượng vũ trụ để kích chấn và điều hoà sự hoạt động của các tế bào sống đặc biệt là khai thác kho thuốc sẵn có trong cơ thể con người như là các chất nội tiết tố hormone hay các tiểu phần protein đặc biệt như kháng thể -globulin trong dòng máu và các chất sinh học đặc biệt khác trong dịch tế bào sống để nâng cao nội lực kháng bệnh của cơ thể.

Về mặt thần kinh thì năng lượng vũ giống như chiếc máy vạn năng xoá các stress trong đời sống, nhất là các stress tâm lý psycholgical stress giúp cho năng lực hoạt động của các tế bào thần kinh được khôi phục do sự che phủ của cái bức màn stress "vô minh" do những sung đột thường nhật trong cuộc sống gây ra.

(c) Tập kim tự tháp (lớp 6): tiếp tục kích chấn tuyến tùng và tuyến yên hoạt động điều hoà bằng những băng tần cao hơn của năng lượng vũ trụ ở quả địa cầu. Kim tự tháp là cấu trúc vật thể quen thuộc với nhân loại và nó ẩn chứa khả năng thu nhận năng lực siêu nhiên rất mạnh và nó đã được các nhà khoa học thế giới quan tâm. Tập kim tự tháp là bạn đang từng bước tiếp cận với con số 13 nhân điện (kim tự tháp nhân điện có 13 vạch). Loài người đã biết đến con số 13 là con số liên quan đến năng lực siêu nhiên ngoài không gian.

Nhân điện quan niệm rằng trong não bộ của con người cũng tồn tại một kim tự tháp, mà đỉnh của nó là luân xa số 7 và đáy là đường nối giữa luân xa 6 với tuyến tùng và tuyến yên. Đây là một bí mật sinh học chưa từng biết đến và nếu ai có cơ duyên học lớp 6 và 7 nhân điện sẽ có khả năng tự kích chấn tuyến tùng và tuyến yên của mình hoạt động điều hoà và sinh lực tự nhiên sẵn có trong cơ thể bạn sẽ được khôi phục nhờ năng lượng vũ trụ thông qua kim tự tháp vi diệu.

Theo quan niệm của khoa học thông tin hiện đại thì cấu trúc vật thể hữu hình đều mang những dấu vết thông tin hay nói đơn giản dễ hiểu hơn "cấu trúc gắn liền với thông tin". Vì vậy mà khoa xem tướng đã gặt hái được những thành công một thời và cũng làm nức lòng người đấy chứ. Cấu trúc kim tự tháp meca mà học viên luyện tập đồng dạng phối cảnh với mô hình kim tự tháp trong đầu bạn. Tập kim tự tháp là để bạn làm quen với bí mật sinh học trong đầu bạn và giúp bạn dưỡng sinh, chữa bệnh cũng như các ứng dụng khác.

(d) Tập mô hình ăng ten nhân điện (lớp 7 và 7 đặc biệt): là sự khởi đầu vô cùng quan trọng để kích chấn các giác quan đặc biệt (siêu tế bào điện ảnh super neve-cell) ẩn chứa trong bán cầu đại não của bạn hoạt động để nó bước đầu có thể kết nối và tiếp nhận các băng tần năng lượng cao ngoài vũ trụ. Mô hình ăngten có 3 vòng tròn có kích thước từ nhỏ đến to, tượng trưng cho ba dạng năng lực đó là: năng lực não bộ con người - năng lực "não bộ" vũ trụ - năng lực "não bộ" ngoài vũ trụ (năng lực siêu nhiên sinh thành ra vũ trụ). Nếu là khoa học gia thì bạn có thể hiểu năng lực siêu nhiên đã kích chấn vụ nổ big bang trong lý thuyết khoa học hình thành vũ trụ đó.

Mô hình ăng ten nhân điện đã sáng nhờ công năng luyện tập của một học viên nhân điện ở Úc châu, là sự kiện chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại và đó là năng lượng vũ trụ đã chuyển thành điện năng thắp sáng bóng đèn. Đây là tín hiệu mở ra nền văn minh mới cho loài người sử dụng năng lượng vũ trụ vô cùng vô hạn thay thế năng lượng hoá thạch đang ngày một khan hiếm của loài người. Chiến tranh hay hoà bình ngày nay, phần nhiều liên quan đến tranh chấp dầu hoả là năng lượng hoá thạch chủ yếu chạy máy móc. Nhân điện và hoà bình đã có cơ sở khoa học trong đời sống.

(đ) Các lớp học cao cấp sau này thì học viên tiếp cận với các băng tần năng lượng vũ trụ cao hơn như năng lượng mặt trời, các vì sao và băng tần nguyên uỷ nhất là năng lượng siêu tự nhiên sinh thành ra vũ trụ hiểu theo ngôn ngữ khoa học, còn theo ngôn ngữ đời thường thì gọi là hào quang Thượng Đế. Tên gọi thì phải dựa vào ngôn ngữ truyền thống của loài người cho dễ hình dung. Con người gọi Thượng Đế là năng lượng vũ trụ với băng tần cao cấp nhất hay năng lượng siêu tự nhiên thì cũng là những cách gọi khác nhau cho một khái niệm.

Tất cả các nội dung ứng dụng kể trên đều dựa vào nền tảng sử dụng năng lượng vũ trụ sẵn có trong trời đất để đạt kết quả mà người học viên mong đợi. Với những nội dung đào tạo này, xét về mục đích thì nhân điện và khoa học đều có chung mục đích là tạo ra những phương tiện sống phục vụ cho đời sống con người. Nếu có khác thì chỉ là: khoa học tâm linh nhân điện dựa vào nền tảng năng lượng vũ trụ để phục vụ nhân sinh, còn khoa học công nghệ thì dựa vào năng lượng hoá thạch là dầu mỏ và khoáng chất để sáng chế ra các sản phẩm công nghệ phục vụ cho nhu cầu và kích thích những nhu cầu mới của con người về tiêu thụ mà thôi.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nhân điện nghiên cứu vĩ mô vì nguồn năng lượng vũ trụ vốn có trong tự nhiên vô cùng vô tận và nói một cách khác nhân điện khai thác cái vô hạn để giải quyết những vấn đề nhân sinh vốn hữu hạn ở quả địa cầu. Còn khoa học sự sống và các khoa học phục vụ sự sống hiện nay thì nghiên cứu cấu trúc vi mô của sự sống và sự vật để sáng chế ra các sản phẩm tiêu dùng hiện đại từ nguồn năng lượng hoá thạch vốn hữu hạn. Chính vì vậy tư duy nghiên cứu nhân điện là tư duy vĩ mô, cũng đơn giản vì vũ trụ thì bao la vô tận nên không thể cân đo đong đếm như các khoa học nghiên cứu vi mô.

Nhân điện không dựa vào sự hỗ trợ của máy móc với sự cảm nhận của 5 giác quan thông thường để làm phương tiện nghiên cứu, mà dựa vào các giác quan đặc biệt (tế bào siêu điện ảnh ẩn chứa trong não bộ) để cảm nhận và điều khiển các hoạt động. Nhân điện sử dụng ngay cơ thể con người làm phương tiện thay máy móc để nghiên cứu và thực hành.

Vì vậy kết quả của sản phẩm nhân điện là hiệu quả đạt được trong đời sống nhân sinh như chữa khỏi bệnh không cần thuốc hay gieo trồng hoa màu không cần bón phân, mà cây trồng vẫn trỗ bông cho hạt nhờ năng lượng vũ trụ. Phương pháp nghiên cứu của các khoa học công nghệ là bằng máy móc tạo ra sản phẩm, rồi cân đo đong đếm cụ thể, sau đó mô phỏng thành cơ chế hay mô hình và cuối cùng nhờ sự hỗ trợ của máy móc mà sản xuất ra hàng loạt các sản phẩm công nghệ mong muốn từ năng lượng hoá thạch.

Nhân điện quan niệm năng lượng hoá thạch thực ra cũng là một dạng lắng đọng hữu hình của năng lượng vũ trụ ở không gian ba chiều với các băng tần thấp nên có ảnh hưởng phụ side effect có hại cho môi sinh. Vì là các băng tần thấp nên nó phải biến đổi chuyển hoá thành các băng tần cao hơn để tồn tại bền vững trong tự nhiên. Do vậy trong quá trình biến đổi đó năng lượng hoá thạch "vô tình" gây hại cho môi sinh.

Cũng quan niệm tương tự như trên, ngày nay có nhiều loại vi trùng vi rút với những chủng mới type xuất hiện, thực ra vi trùng đang biến đổi để thích nghi với sự tiến hoá chung của vũ trụ và nó "vô tình" gây hại cho con người. Trách nó hay trách mình đây? Nhân điện quan niệm rằng nếu con người lấy được năng lực tự nhiên là năng lượng vũ trụ để kích chấn tuyến tùng và tuyến yên cũng như các cơ quan miễn dịch khác hoạt động tự nhiên, con người có cùng nhịp tiến hoá với muôn loài thì các bệnh tật mới đâu còn có ý nghĩa nữa. Nếu các nhà y khoa đòi hỏi phải có một cơ chế rõ ràng trong chữa bệnh bằng nhân điện thì xin được tóm tắt cơ chế đó như sau:

Vi trùng vi rút và con người đều là các sinh thể tự nhiên tồn tại trong vũ trụ và tương tác với nhau trong quá trình chuyển hoá từ băng tần năng lượng thấp đến cao để tồn tại vĩnh hằng trong tự nhiên. Khi ta đưa năng lượng vũ trụ vào cơ thể người bệnh thì vi trùng sẽ được kích chấn và thúc đẩy tiến hoá nhanh thành các chủng vô hại đối với người bệnh.

Hay có thể nói hình ảnh hơn là người bệnh "mở tiệc" đãi vi trùng bằng năng lượng vũ trụ, tên kẻ cướp thấy ông chủ chụi chơi và còn mời ở với ông chủ để ăn tiệc hàng ngày thì vi trùng "cải tà quy chính" vô hại với con người. Xin tiết lộ thêm trong dịch cúm gà H5N1 năm 2005 ở Việt Nam, FAO và WHO cảnh báo sẽ có đại dịch ở Việt Nam, tuy phương tiện và phương pháp dẹp dịch của bà con quê tôi đơn giản thô sơ lắm, nhưng dịch đã tạm lắng. Dường như các học viên nhân điện Việt Nam và cả các học viên ở ngoại quốc yêu quê hương Thầy Lương Minh Đáng đã mời những con vi rút cúm gà này về "ăn Tết" với họ rồi.

Nghiên cứu học hỏi khoa học tâm linh nhân điện là quá trình nâng cao nội lực để thích nghi với sự tiến hoá của muôn loài cũng như vũ trụ, để nhịp sinh học của con người đồng nhịp với những biến đổi tiến hoá của vũ trụ và muôn loài. Đích thực nhân điện là một môn khoa học mới lạ cần được nghiên cứu và ứng dụng.

NHỊP SINH HỌC CỦA NGƯỜI HIỆN ĐẠI ĐANG THAY ĐỔI

Nguy cơ nhịp sinh học của người hiện đại ngày nay là đang mất dần tính tự nhiên trong đời sống đã rõ và khoa học đã cảnh báo. Hay nói đúng hơn là nhịp sinh học tự nhiên của con người đang chuyển dần sang nhịp sống công nghiệp vội vã. Nền văn minh hiện đại ngày nay có thể gọi là nền văn minh công nghệ nhằm biến năng lượng hoá thạch thành các sản phẩm tiêu dùng cao cấp phục vụ con người và nó tiềm ẩn những nguy cơ làm mất tính tự nhiên của con người. Thật vậy:

(i) Mặt tiến bộ của khoa học công nghệ: về căn bản con người đã thay đổi từ "ăn lông ở lỗ" sang hình thức sinh hoạt sành điệu "nhà lầu xe hơi" cũng như các phương tiện sống tiện nghi hiện đại khác. Trên đường về nhà ông chủ điều khiển từ xa để máy pha cà phê tự động pha cà phê, về tới nhà, từ cửa xe hơi, đến cửa nhà đều mở tự động và ông chủ chỉ còn việc hưởng thụ vi thơm nồng của thứ đồ uống than quen này. Từ các lục địa xa xôi, chỉ trong giây lát con người đã có thể nói chuyện và thấy nhau trong cuộc đàm thoại nhờ công nghệ viễn thông tân kỳ. Hay trên bầu trời có hành lang thông tin chứa tới hàng triệu các webside để con người học hỏi và tiếp nhận thông tin.

(ii) Mặt trái của khoa học công nghệ: do sử dụng năng lượng hoá thạch thái quá, nên đã gây phương hại tới sinh quyển làm các độc chất hàm chứa trong năng lượng hoá thạch trước đây tập trung dưới mỏ quặng nay phân tán và tiếp xúc với người tiêu dùng thường xuyên và gây hại cho đời sống sinh học của con người. Điều này khoa học đã cảnh báo từ giữa thế kỷ 20.

Do kỹ nghệ ngày càng phát triển với tốc độ rất cao và để bắt nhịp với nhịp sống công nghiệp thì con người phải thay đổi nhịp sống sinh lý sang nhịp sống công nghiệp để theo kịp với máy móc cũng như các phương tiện hiện đại khác. Kết quả làm đổi nhịp sống sinh học tự nhiên sang nhịp sống nhanh hơn gọi là nhịp sống công nghiệp. Do vậy các tư duy tự nhiên của con người về tình thương hay giao hoà với tự nhiên không còn đủ thời gian để giao hoà. Nhịp sinh học trong cơ thể đã thay đổi và dẫn tới sự lãnh đạm của con người với nhau hay nếu có thì chỉ là mối quan hệ làm ăn, mang màu sắc vật chất và kinh tế đơn thuần.

Mọi hoạt động của thế giới hiện đại theo mô hình Âu Mỹ hiện nay cần đến lao động của não bộ nhiều hơn là cơ bắp và thật vậy kể cả người già xem TV hay đọc báo hàng ngày cũng buộc não bộ phải hoạt động đồng nhịp với nhịp độ khẩn trương của hình ảnh trên truyền hình. Hơn nữa người hiện đại cần ăn nhanh và như vậy buộc phải ăn thực phẩm giàu năng lượng ít chất xơ, nên dễ mập. Gánh nặng về thể xác lại làm cho người ta chậm chạm đi. Do béo phì mà cấu trúc con người thay đổi về thành phần, tỷ lệ mỡ và nước trong cơ thể tăng so với tỷ lệ chất sống là chất protein. Người to béo nhưng ít có cơ hội vận đông do phương tiện sống quá đầy đủ, là một biểu hiện trái với tự nhiên của một sinh thể bình thường. Vì mọi sinh thể sống trong tự nhiên như động vật rừng luôn giao hoà với tự nhiên nên cơ thể thanh, rắn chắc, khỏe mạnh và nhịp sinh học của chúng hài hoà với tự nhiên. Chính vì vậy trước những biến động của tự nhiên chúng có thể cảm nhận được bằng những giác quan của loài và trong trận sóng thần tsunami sảy ra ở các nước châu Á vào ngày 26 tháng 12 năm 2004 các loài động vật hoang dã đều thoát chết (thống kê cho thấy ít thấy động vật bị chết).

Do phương tiện máy móc trợ giúp cho hoạt động của con người quá đầy đủ, nên nhu cầu được hưởng thụ tăng lên, con người sống phụ thuộc vào vật chất và tiện nghi, nên tính ích kỷ và lãnh đạm với cuộc sống cộng đồng có cơ phát triển và con người chỉ nhậy cảm với các thông tin liên quan đến vật chất.

Dược chất hiện đại trong tây y để trị bệnh như kháng sinh antibiotic hay hormone, cũng như các hoá dược đặc biệt khác với độ nhạy đặc biệt trong điều trị xuất hiện ngày càng nhiều nên đã làm cho hệ thống miễn dịch của con người lười biếng. Vì vậy người to béo nhưng dễ đau bệnh.

Nguy cơ phi sinh học tiềm ẩn của người hiện đại đó là: não bộ hoạt động với nhịp công nghiệp và phần còn lại của cơ thể thì lười biếng nặng nề. Dòng năng lượng lấy từ lương thực thực phẩm vào cơ thể bị ư bế, chủ yếu là ở dạng tích mỡ do không được sử dụng nhiều vì lao động thần kinh không cần nhiều năng lượng như lao động cơ bắp. Các bệnh dinh dưỡng như ung thư cancer, tiểu đường deabet, cao huyết áp, suy tim v.v đang có nguy cơ gia tăng trong xã hội hiện đại.

Năng lực sáng tạo của não bộ phụ thuộc vào hoạt động của bán cầu đại não và nó chỉ phát triển trong điều kiện nhịp sinh học vận hành tự nhiên. Nhu cầu hưởng thụ được phát sinh ở phần não dưới và chính phần não này là thủ phạm gây rối loạn nhịp sinh học tự nhiên của con người. Con người bận rộn bởi nhu cầu hưởng thụ do não dưới kích thích và sự ham muốn tích luỹ thái quá vật chất được phát sinh. Xa hơn, những sóng thần kinh của não dưới đã gây náo động tư tưởng con người và làm mất những định hướng tiến hoá của sinh thể.

Nhân điện chủ trương sử dụng năng lượng trong dưỡng sinh và chữa bệnh trên căn bản kích chấn tuyến tùng và tuyến yên hoạt động điều hoà tự nhiên để khai thác dược chất trong cơ thể (năng lực kháng bệnh nội sinh) để hoá giải bệnh tật một cách tức thời khi yếu tố gây bệnh vừa mới xuất hiện trong cơ thể. Thật vậy học viên nhân điện, do áp dụng công thức dưỡng sinh thiền định đều đặt hàng ngày nên hệ thống miễn dịch của cơ thể thường xuyên được kích chấn và ở trạng thái thức, nên bất cứ nguy cơ gây bệnh nào đến với cơ thể cũng được sử lý rất sớm bằng chính kho dược chất tự nhiên có sẵn trong cơ thể.

Luyện tập nhân điện còn giúp cơ thể thanh săn vì dòng năng lượng từ lương thực và thực phẩm có băng tần thấp sẽ chuyển hoá nhanh sang các băng tần năng lượng cao để bền vững hơn trong cơ thể (gọi là kiểu hình cơ thể thanh săn). Luyện tập nhân điện còn giúp cho nhịp chi phối của não dưới đối với tư tưởng của con người bị hạn chế và nhường chỗ cho các rung động sáng tạo của phần não trên. Đó chính là cơ sở sinh học của nhân điện để phát triển khả năng tiềm ẩn con người.

Nói một cách khác nhân điện quan niệm rằng: con người sáng chế ra máy móc để phục vụ đời sống, nhưng con người hãy tìm cách để không phụ thuộc vào nhịp công nghiệp của máy móc chi phối. Có vậy, con người mới sống an nhiên tự tại hài hoà với tự nhiên trong xã hội hiện đại ngày nay và tiếp tục sáng tạo ra đời sống văn minh hậu công nghệ, mà theo dự đoán của chúng tôi đó là nền văn minh năng lượng vũ trụ.

CẤU HÌNH TƯ TƯỞNG TỰ NHIÊN

Khoa học tâm linh nhân điện quan niệm linh hồn là cấu hình tư tưởng của tự nhiên, hay nói một cách khác đó là khối năng lượng đặc biệt của trời đất gieo vào tâm thức của con người khi đứa trẻ mới ra đời. Đối với các cơ thể sống khác cũng vậy đều hàm chứa linh hồn riêng mang tính đặc thù về năng lượng của nó, nhưng linh hồn của các sinh vật khác đều nhỏ bé hơn linh hồn của con người rất nhiều.

Còn đối với các đồ vật nhân tạo như cái kim sợi chỉ thì cũng ẩn chứa tư tưởng của người sản xuất ra nó. Quan niệm này đơn giản nhưng mang tính khoa học thông tin hiện đại vì mọi cấu trúc hữu hình đều ẩn chứa thông tin về chiều dài lịch sử của cấu trúc đó. Thật vậy cái kim khâu làm bằng thép tuổi thọ của nó trong tự nhiên là cả triệu năm có từ khi mà các dòng khoáng chất tụ lại thành quặng sắt. Vì vậy trong đời sống thường nhật, bất cứ cái gì, việc gì, phong cách gì mà tự nhiên thì đều quyến rũ lòng người và gây ra cảm giác thoải mái nhẹ nhàng dễ chụi. Hay nói dễ hiểu hơn lúc nào bạn thấy cảm giác này xuất hiện là đích thực bạn đang sống với cấu hình tư tưởng tự nhiên.

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người ghi lại được bằng sử sách, chúng ta dễ nhận thấy đó là lich sử của chiến tranh trinh phạt lẫn nhau nhằm thống nhất tư tưởng của con người theo tư tưởng của một cá nhân nào đó, nhân danh con người hay Thượng Đế. Nhưng thế giới này chưa có một giờ phút hoà bình thực sự nào. Có chăng chỉ là những từ ngữ mang cấu hình tư tưởng tự nhiên của con người như: bình đẳng, bác ái, hoà bình, dân chủ và tự do.

Cấu hình tư tưởng tự nhiên hay sau này được các triết gia gọi là tư tưởng nhất nguyên quan niệm con người là thành tố của tự nhiên và cũng như muôn loài vạn vật trên thế gian này đều có nguồn gốc chung từ tự nhiên. Vì vậy sống hài hoà tôn trọng và nương tựa lẫn nhau giữa con người với con người và con ngưòi với muôn loài là đặc tính tự nhiên mang cấu hình tư tưởng tự nhiên, mà sau này nhà Phật gọi là "vạn vật đồng nhất thể".

Người mang cấu hình tư tưởng tự nhiên coi cái chết là sự hoá thân hay nói cách khác cấu hình tư tưởng tự nhiên của con người sẽ đổi thể xác khác mà sống trở lại để tiếp tục tiến hoá hay siêu thoát thành các băng tần cao cấp hơn để tồn tại vĩnh hằng trong tự nhiên. Vì ngộ ra cấu hình tư tưởng tự nhiên có trong con người, nên người trọng tư tưởng nhất nguyên hết nỗi lo sợ về số phận của mình là phải chết.

Tự do tư tưởng chỉ có thể đạt được khi con người khôi phục lại được cấu hình tư tưởng tự nhiên mà trời đất đã ban tặng cho họ khi họ chào đời. Chỉ có tự do tư tưởng (không lo lắng bất cứ điều gì ngay cả nó đang có nguy cơ) thì tiềm năng não bộ con người mới thực sự dấy lên sự sáng tạo siêu năng để phục vụ nhân sinh và sống an bình.

Cấu hình tư tưởng phi tự nhiên là cấu hình tư tưởng tách con người thành một thế lực độc lập với tự nhiên và chỉ coi tự nhiên là môi trường sống cho con người. Vì vậy nhu cầu sở hữu và xu thế tích luỹ vật chất, khai phá tự nhiên ồ ạt phục vụ con người xuất hiện. Sau này các triết gia gọi nó là tư tưởng coi trọng vật chất.

Đặc tính của tư tưởng phi tự nhiên này là đầu óc con người luôn phân biệt và thường lấy cái mình có, mình cần để thẩm định giá trị và phân biệt với cái khác. Biểu hiện cụ thể là coi mình và nhu cầu của mình là quan trọng và tìm mọi cách thoả mãn v.v. Cơ sở của đầu óc phân biệt là khung giá trị danh-lợi-tình và con người dồn hếp sức lực phấn đấu để đạt được càng nhiều càng tốt danh lợi cho mình và tư tưởng chiếm hữu ra đời. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ là khởi đầu cho sự chuyển cấu hình tư tưởng tự nhiên của xã hội nguyên thuỷ sang tư tưởng coi trọng vật chất.

Người đề cao tư tưởng “có tiền mua tiên cũng được”: do ảnh hưởng của các sung động thần kinh điều khiển của não dưới nên họ đề cao các giá trị vật chất hơn tinh thần. Còn người thiên về tư tưởng nhất nguyên thường coi vật chất đơn giản là là phương tiện để sống và coi trọng những giá trị tinh thần và tránh xa tư tưởng sở hữu dưới mọi hình thức. Nếu có thặng dư vật chất cũng do chính mồ hôi sức lao động của họ bỏ ra và họ biết sử dụng sự thặng dư tài chính vào các mục đích có ý nghĩa trong đời sống (xét theo trào lưu sống hiện đại ngày nay).

Khoa học tâm linh nhân điện cho rằng cấu hình tư tưởng tự nhiên tiềm ẩn sức mạnh nếu con người biết khôi phục nó bằng các công thức sử dụng năng lượng vũ trụ trong đời sống hàng ngày. Trường năng lượng vũ trụ hàm chứa khối trí tuệ vũ trụ và thực hành nhân điện là phương pháp nối trường tư duy não bộ với trường trí tuệ tự nhiên này. Khi trường tư duy não bộ giao thoa với trường năng lượng vũ trụ thì con người trở nên minh tuệ và có những quyền năng đặc biệt. Vì vậy minh triết và giác ngộ là thước đo sự tiến bộ của người học viên nhân điện.

Càng nhiều người học nhân điện thì thế giới càng thay đổi càng nhanh, theo chiều hướng tốt đẹp vì trái đất được giao thoa nhiều hơn với những băng tần cao cấp phát ra từ trường năng lượng vũ trụ. Nói một cách khác mẹ trái đất sẽ đón nhận năng lực trẻ hoá của vũ trụ và đồng nhịp tiến hoá với sự thay đổi của sự vũ trụ. Từ lực phát ra từ người có cấu hình tư tưởng tự nhiên sẽ làm thay đổi thế giới hay nói đúng hơn là khôi phục lại sự cân bằng của thế giới trong mọi lĩnh vực. Nhân đây xin nêu ra ý kiến của một nhà khoa học đáng trân trọng ở Việt Nam rằng: "nếu thế giới này đều hướng về một điểm, thì khắc sẽ hết chiến tranh thù hận và động đất sóng thần".

Một số người quan niệm rằng có cuộc chiến tranh tâm linh, hay nói một cách khác là ở cảnh giới vô hình cũng có chiến tranh như trên trần gian. Nhân điện cho rằng đó là ảo ảnh của những sung đột của các luồng tư tưởng phi tự nhiên mà thôi. Vì vậy sau khi được khai mở luân xa, học viên nhân điện hoàn toàn yên tâm không bị ảnh hưởng xấu của các khối năng lượng dở negative energy (linh hồn chưa siêu thoát tồn tại trong tự nhiên) xâm nhập vào cơ thể mà họ còn giúp cho nó siêu thoát.

Xin nhắc lại rằng linh hồn là cấu hình tư tưởng tự nhiên, sau khi người ta chết khối năng lượng này cần được siêu thoát hay chuyển hoá trở lại bản chất nguyên uỷ là năng lượng vũ trụ với băng tần siêu cao. Nhưng vì cấu hình tư tưởng tự nhiên của người chết bị biến dạng do sự tương tác lấn át của các sóng phát ra từ não dưới của con người mang nó khi còn sống. Dịch sang ngôn ngữ nhân loại thì khi sống mà các sóng "hám danh, hám lợi, hám tình" của não dưới chiếm ưu thế thì nó nặng nề bám vứu linh hồn làm cho khi chết linh hồn khó siêu thoát.

Nhờ sóng điện của các học viên nhân điện kích chấn nên các khối năng lượng nặng nề với băng tần thấp này biến đổi thành các băng tần năng lượng thanh nhẹ và dễ siêu thoát hơn. Nếu có cuộc chiến tranh tâm linh thật thì nhân điện đang làm nhiệm vụ hoà giải chiến tranh bằng cách giúp các linh hồn bất diệt bất tử siêu thoát. Theo lôgíc nếu "âm suy thì dương thịnh", nếu môi truờng sạch các cô hồn, thì thế gian cũng sẽ hoà bình.

Mùa xuân mới 2006 đã đến với quê hương nhân điện, mùa xuân đang tải về xứ sở này những nguyên khí tinh nguyên, quyền năng và đượm tình thương của Đấng sinh thành ra trời đất và muôn loài. Những "con rồng cháu tiên" nhịp theo trống đồng ngàn năm văn hiến đang âm thầm xây dựng lâu đài tình thương vĩnh hằng "châu thứ 6" ngay trên mảnh đất mang biết bao dấu ấn đau thương của chiến tranh và thù hận. Xin hiến tặng bài biết này cho tất cả những dòng sông trên đất Lạc Hồng, đang mang những nguyên khí vũ trụ ẩn chứa nơi đầu nguồn tâm linh thế giới về biển Đông biếc xanh huyền thoại.
(còn nữa)


KHOA HỌC TÂM LINH NHÂN ĐIỆN (tiếp lần 2)
Mê Kông

Đây là những cảm nhận tâm linh của người học trò nhân điện vô danh hiến tặng cho những dòng sông đang chảy về biển cả biếc xanh. Xin Thầy Đáng lượng thứ cho chúng con về những cảm nhận mạo muội và non nớt trong cách diễn tả bài viết này và xin bạn đọc hãy coi nó như những giọt sương buổi ban mai đọng trên bông hoa đồng nội, rồi tan biến đi khi gặp ánh sáng mặt trời, ánh sáng hào quang Thượng Đế.

Triết học Đông Phương, Nhân loại-Giác ngộ-Tình thương (MEL) vừa là tên gọi, vừa là phương châm hành động của con người mới, mang đầy đủ ý nghĩa triết lý thật giản dị, giàu chất tình thương của thời đại, mà Thầy và chúng ta đang sống và hướng tới. Những anh chị em nhân điện trên toàn thế giới đã có nhân duyên được học hỏi MEL-Thầy Lương Minh Đáng sẽ cảm nhận được không chỉ tính thực tế dung dị như hạt thóc củ khoai đượm chất tình quê của vùng sông nước Cửu Long (nơi Thầy sinh thành), mà còn thấm nhuần được triết lý bác học thâm sâu chưa từng biết đến trong kho tàng kiến thức của loài người (Triết học Đông Phương) hàm chứa trong từng lời dạy, trong từng cấu trúc nội dung ở các lớp nhân điện và trong từng công thức nhân điện, đặng từ hành động nhỏ đến những việc lớn người nhân điện có thể quán xuyến trong đời sống của mình và cống hiến cho văn minh và tiến bộ.

Nhân loại đói tình thương

Thật vậy, nhân loại bế tắc đau khổ bao ngàn đời nay từ khi có khái niệm sung đột, chiến tranh và thù hận. Hỏi có cuộc chiến tranh nào lại không nhân danh con người để con người phương hại lẫn nhau. Hơn thế nữa con người còn nhân danh Đấng mà mình tin yêu nhất để “thánh chiến” để “tử vì đạo” để rồi ôm bom với “trái tim yêu nước” gây ra những cái chết đau thương cho người vô tội, thì thật sót xa thay cho thân phận con người.

Ích kỷ, mộng danh thái quá, thêm vào đó sự kiêu ngạo với những thành quả vật chất khổng lồ làm ra từ công nghệ hiện đại và từ đó mẫu hình sống hoàn toàn lấy vật chất từ bên ngoài để thẩm định giá trị đời sống của từng kiếp người, đó là nguồn gốc của khổ đau và vô vọng. Hay nói dễ hiểu hơn thì sự mâu thuẫn giữa năng lực con người vốn có hạn với tham vọng khôn cùng, ham danh, ham lợi và ham tình cá nhân, đã làm mất an ninh cho xã hội và chính bản thân chủ thể của tham vọng. Quan niệm mới về khung giá trị này được Thầy chỉ dẫn đó là: danh cho nhân loại, quốc gia dân tộc, lợi cho nhân dân và tình cho tất cả để mỗi con người chúng ta yêu thương mọi người và mọi người yêu thương chúng ta.

Ẩn chứa vô hình trong đời sống con người ở thời đại chúng ta là đói khát tình thương, mà tình thương này không phải là thứ tình thương đơn nguyên của con người như sự cảm nhận tình thương hiện nay của loài người, mà là tình thương vô lượng của Đấng Tạo Hoá sinh thành ra đại càn khôn vũ trụ, ở đâu đó ngay trong ta, mà con người không cắt nghĩa nổi. Phần lớn nhân loại chỉ chấp nhận và tôn vinh cái ta bản ngã mà chưa chụi chấp nhận cái rộng lớn vô cùng vô tận sinh ra cái ta.

Sự nhầm lẫn cảm nhận tình thương (love) đã xuất hiện từ khi con người xa ngã, si cuồng vật chất, nên con người cứ xa lánh dần tình thương vô lượng của Đấng Thượng Thiên và để nó “hoá thạch” trong mỗi con người. Một điều mà con người thời nay đều biết là càng chú trọng đề cao vật chất thì con người càng lãnh đạm với con người. Để rồi bảo vật này rơi vào tay quỷ dữ. Có câu chuyện vui về quỷ giấu tình thương dưới đây ngõ hầu chia sẻ với quý vị.

“Vào buổi bình minh của nhân loại trên quả địa cầu, Đấng Sáng Tạo sinh ra hai loài động vật có trí khôn là người (mang đặc tính thánh nhân, từ bi và quyền năng) và quỷ (cũng có hình hài hữu hình như con người). Trước khi rời trái đất Ngài đưa ra một thứ gọi là tình thương và nói rằng: Ta trao cho các con bảo bối tình thương này để các con được an lạc ở cõi trần gian.
Quỷ vốn láu cá và tinh quoái nên nhanh tay đỡ lấy vật báu và mang về hang ngay. Người vì thương nhớ Đấng Từ Phụ và dành trọn thời gian chia tay Ngài nên cũng không để ý đến chi tiết chiếm hữu vật báu kia của quỷ.
Sau khi chỉ còn lại người và quỷ trên thế gian này, người tìm lại quỷ và xin được chia sẻ bảo bối tình thương của Thượng Đế dành cho. Người phân trần rằng Cha trên trời đã trao cho bảo bối tình thương, thì nên chia đều hai phần quỷ một nửa và người một nửa.
Quỷ cái già từ trong hang sâu đáp ra: chúng ta đâu cần tình thương mà vẫn sống trong sự khoái lạc, nhưng ta biết nếu con người sở hữu được bảo bối tình thương của Ngài, thì chúng ta phải rời bỏ trái đất đầy hoa thơm cỏ lạ này. Nhưng nếu loài người cần thì chúng ta đâu có tiếc, nhưng ta sẽ giấu nó và loài người phải tự đi tìm lấy và nếu tìm được thì loài người được quyền sở hữu toàn bộ tình thương của Thượng Đế và chúng ta đành phải rời khỏi thế gian này.
Quỷ bèn họp nhau lại để bàn cách giấu bảo bối tình thương.
Một chú quỷ trẻ láu cá thưa với quỷ cái già rằng: giấu tình thương dưới đáy biển là chắc ăn nhất. Chú liền bị một quỷ trung niên phản bác lại rằng: bây giờ loài người tài giỏi lắm! đến tàu hạt nhân của Nga đắm dưới đáy biển mà còn trục vớt lên được thì giấu dưới đáy biển có ý nghĩa gì. Tốt nhất mang lên sao Hoả giấu là an toàn nhất.
Quỷ trẻ láu cá kia cãi lại rằng: thì đành rằng con người chưa đặt chân được lên sao Hoả, nhưng rô-bốt của NASA thì thông minh lắm! bất cứ chỗ nào trên sao hoả nó cũng mò ra.
Quỷ cái già than rằng: ta không ngờ bao nhiêu năm nay ta dạy cho các ngươi những quỷ kế mà cái việc cỏn con này các ngươi cũng không làm được.
Lũ quỷ cau màu.
Quỷ cái lạnh lùng nói tiếp: các con không biết à! Loài người hiện nay đang đi tìm hạnh phúc mang cấu hình vật chất ở bên ngoài và vì vậy họ đang phụ thuộc vào chính vật chất, cái mà chúng ta có thừa, tốt nhất là giấu tình thương của Thượng Đế vào ngay trong tim của con người là loài người chụi thua.
Cả lũ quỷ cười đắc trí.”

Tình thương con người với con người thật ra chỉ là một khía cạnh nhỏ biểu hiện tình thương của Đấng Thượng Thiên dành cho con người trong không gian ba chiều, mang đặc tính vật chất để tồn tại cuộc sống mà thôi.
Tình thương con người chưa đủ mạnh để hoá giải đau khổ và bế tắc trong đời sống, nên hàng ngàn năm nay đã có ai gây dựng được cơ sở tình thương bền vững cho đời sống của nhân loại đâu. Các mô hình tôn giáo trong mọi thời đại mới chỉ dừng lại với cái nghĩa “bảo tồn tình thương” mà chưa đơm hoa kết trái thành “lâu đài tình thương bền vững” cho sự sống đời đời của nhân loại. Vì thiếu vắng chất nguyên uỷ của sự sống, là tình thương của Đấng Vô Hình tự nhiên, nên con người vô vọng và rồi than vãn kiếp “bể dâu” của mình và còn lại trách Ông Trời đã bắt họ phải sống trong cái “bể khổ trầm luân”.

Bể khổ trầm luân là gì nhỉ? Phải chăng đó là sự cảm nhận nhầm lẫn của con người về bản chất thật của đời sống. Cái giả là cái gì vậy? phải chăng đó là “bức màn vô minh” hàm chứa trong phong tục tập quán (tập quán tôn giáo, tập quán khoa học v.v.).
Sao lại vô minh? Vì nó ẩn chứa sự phân biệt trong theo kiểu “cái này phải là A chứ không thể là B được”. Đức Phật và các vị minh sư trong mọi thời đại răn dạy con người bằng tầm nhìn nhất nguyên siêu việt “nó là nó” và khi nó ngộ ra nó thì nó là Ta, là tư tưởng của Đức Phật và các giáo chủ ẩn chứa trong ta.
Kinh Phật, kinh Thánh v.v do hậu duệ của các Ngài là các Thánh nhân sau các Ngài viết ra, thì lại dùng công cụ phân biệt để viết điều mình cảm nhận từ các Ngài, và diễn giải với mục đích cho nó phù hợp với nhận thức theo kiểu phân biệt của số đa nhân loại. Chương đầu của tiểu thuyết “khổ đau và vô vọng” cũng bắt đầu từ tư duy phân biệt và sự giáo điều mà ra.

Chân lý chỉ có một (ông Trời), mà người đi tìm chân lý thì nhiều, phải chăng đó là nguyên nhân của sự phân chia tôn giáo đang làm loài người bất an với tín ngưỡng. Nhân danh tự do tín ngưỡng để thực hiện những mục đích phi tín ngưỡng thì nhân loại giỏi lắm rồi và đây là chương hai của tiểu thuyết “khổ đau và vô vọng”. Người ta có thể kiểm soát được hành động đang làm, nhưng hệ luỵ của nó đến đời sống thì không. Mới có một trùm khủng bố Bill Laden ra đời được đào tạo theo cái kiểu dùng tự do tín ngưỡng vào mục đích phi tôn giáo. Lúc đầu tác giả của mô hình này kiểm soát được tình hình, nhưng ai ngờ hệ luỵ của nó thì có biết bao nhiêu những phân tử đồng tính như vậy xuất hiện, đe doạ đến giấc ngủ thường nhật của công dân ở các nước mà họ cho là thù địch. Các chương tiếp theo xin nhường lại cho bạn đọc tự cảm nhận và đặt tên cho nó. Cũng xin lưu ý rằng tiểu thuyết này dài dài và dường như không có hồi kết khi mà nhân loại chưa có tâm lực đủ mạnh trong đời sống để hoá giải khổ đau và bế tắc.
Vì hiểu ông Phật, ông Chúa và các giáo chủ là khác nhau và ông này là chính, ông kia là tà, đây là lầm lỗi của nhân loại suốt hơn hai ngàn năm qua. Các vị giáo chủ yêu quý của chúng ta đều có mẫu số chung là người nhận thông điệp của Thượng Đế để rao giảng minh triết giác ngộ cho loài người vào những thời đại và khu vực khác nhau, tuỳ theo căn cơ của nhân loại ở các thời kỳ đó. Hiểu như vậy thì đâu còn khổ đau, mất an ninh tín ngưỡng nữa. Việc sau này loài người đặt ra các thứ bậc trong tôn giáo cũng là biểu hiện của tư duy phân biệt. Có lần Thầy ẩn ý nói rằng: Đức Phật, Đức Chúa của anh chị em đang bên anh chị em mà anh chị em cứ chối Ngài hoài, phải chăng đó là vô minh. Nếu ai đó đưa ra tiên đoán thế kỷ 21 là thế kỷ của phát triển tâm linh, xin hãy cân nhắc điều đơn giản nói trên.
Thế giới trong thế kỷ này phải đối mặt với nhiều vấn đề như: an ninh lương thực, an toàn thực phẩm, an ninh sinh mạng do chiến tranh và khủng bố, an toàn sức khoẻ do bệnh dịch và an ninh thiên tai do động đất sóng thần v.v. Một vấn đề mà ít người nhắc đến đó là an ninh tín ngưỡng đang diễn ra ra âm thầm và chờ lời giải và nếu giải được thì tất cả các dạng an ninh kể trên sẽ tự động hết ý nghĩa và đó dường như là sứ mạng của con người mới trong thời kỳ tiến hoá cuối cùng này.
Bức màn vô minh khoa học cũng giống như một ông thầy dạy học trò về đời sống sinh học của con cá, thì phải bắt cá lên cạn để dạy cho học trò. Ở dưới nước con cá là con cá, lên cạn chẳng được bao lâu con cá đâu còn là nó nữa mà học. Học trò phải học cái thể xác chết hay thậm chí tranh vẽ con cá mà thôi. Giới khoa học dùng phương pháp nghiên cứu vi mô, cắt nhỏ sự vật để nghiên cứu rồi suy diễn thành quy luật.
Quy luật nào đây? Khoa học có thể cắt nhỏ một con cá thành hàng triệu lát cắt và dùng kính hiển vi soi thấy từng tế bào nhỏ xiu trong từng lát cắt và suy diễn con cá là tập hợp của hàng tỷ tế bào. Kết luận không sai nhưng liệu từ hàng triệu lát cắt kia nhà khoa học có thể sắp xếp lại thành một con cá, để nó có thể sống trở lại được không.
Nghiên cứu hiện tượng sống thuộc về khoa học, còn nghiên cứu bản chất của sự sống thuộc về tâm linh. Tuy hai mà một và tuy một là hai đó. Tầm nhìn 2050, các nhà khoa học dự đoán không còn khoảng cách giữa khoa học và tâm linh, như là một tin vui cho nhân loại để cái hố ngăn cách giữa hai bộ phận cấu thành của sự sáng tạo mà Đấng Tự Nhiên dành cho loài người được loại bỏ và tiềm năng con người được khơi dậy.
Thầy Đáng nhiều lần nhắc tới vai trò của các nhà khoa học trong đời sống của nhân loại và Thầy đã đang và sẽ giúp các nhà khoa học chìa khoá để phát triển khoa học công nghệ phục vụ cho hạnh phúc và an bình của con người ở thời đại ngày nay.
Cuộc khủng khoảng năng lượng hoá thạch (dầu mỏ, khoáng chất) của thế giới đã bắt đầu. Năng lượng thay thế nào đây? Năng lượng vũ trụ mà ngành nhân điện đang ứng dụng rộng rãi trong chăm sóc sức khoẻ con người, tăng sản hoa màu vật nuôi, giảm nhẹ thiên tai và dùng trong các lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ khác, dường như là chìa khoá mở ra một cơ hội chưa từng có cho nhân loại và phục vụ nhân loại cho hôm nay và cho những thế kỷ tới và mãi mãi sau này.
Không có Đấng Sáng Tạo nào lại sáng tạo ra sản phẩm tinh tuý nhất của Ngài là con người mang đầy đau khổ cả, mà chỉ do loài người không nhận ra sự hiện hữu của Đấng Sáng Tạo trong đời sống, nên họ tự làm khó cho chính mình thôi. Nhân loại đau khổ thiếu tình thương của Thượng Đế và ngành nhân điện ra đời cũng chính là Thiên ý, đặng giúp nhân loại có công cụ tình thương, năng lượng vũ trụ, tầm nhìn minh triết, mà vượt qua được thử thách hiện nay để hướng tới đời sống an bình và hạnh phúc.

Giác ngộ
Giác ngộ là thuật ngữ khó có định nghĩa chung và tuỳ cảm nhận của mỗi người trên đường tu mà có định nghĩa riêng cho mình. Giác ngộ cũng là thuật ngữ, mà phần lớn con người cảm nhận nó đồng nghĩa với hiểu biết thì chưa đủ. Hiểu biết là sản phẩm của cái trí, mà cái trí thì luôn loạn động. Một người đang chạy chắc không thể quan sát tinh tường được đối vật ở phía truớc, so với người này ở trạng thái tĩnh, không chạy. Giác ngộ gần hơn với nghĩa là nhận ra mình là ai và vai trò của từng con người trong sự tiến hoá của chính họ và muôn loài. Hiểu theo một khia cạnh nào đó thì giác ngộ là nhận ra mình là công cụ của Đấng Sáng Tạo để hành động theo Thiên ý (tâm mình).

Làm thế nào để biết được đâu là Thiên ý và đâu là nhân ý? Thiên ý là những chỉ dẫn hành động xuất phát từ cõi lòng (vị Lương Thần trong ta), đượm chất tình thương và hành động vì con người chứ không phải chỉ riêng cho cá nhân mình. Thí dụ đến chùa hay vào nhà thờ, ta cầu cho mọi người an vui làm theo ý Phật, ý Chúa. Xa hơn, cầu cho mùa màng bội thu hay “quốc thái dân an” và hoà bình thế giới v.v. là chúng ta đang làm theo Thiên ý và ngược lại chỉ cầu cho ta giàu có hơn người là nhân ý. Ngày nay nhiều ngôi chùa mất thiêng cũng chính do cái nhân ý hẹp hòi gây ra và các Ngài phải đi nơi khác ngự.

(CÒN TIẾP)