kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: khai thị về BA MƯƠI BẢY PHÁP HÀNH BỒ TÁT ĐẠO

  1. #1
    Moderator Avatar của phúc minh
    Gia nhập
    Dec 2010
    Nơi cư ngụ
    thế giới Ta Bà
    Bài gởi
    1,646

    Mặc định khai thị về BA MƯƠI BẢY PHÁP HÀNH BỒ TÁT ĐẠO

    Khai Thị Về
    BA MƯƠI BẢY PHÁP HÀNH BỒ TÁT ĐẠO
    __________________________________________________ ____
    Garchen Rinpoche

    Có thể nói rằng trong vòng 10 năm qua, thầy đã đi hoằng Pháp ở khắp nơi
    trên thế giới,và Pháp bảo mà thầy đã quảng bá trong suốt khoảng thời gian
    thầy đi hoằng Pháp, tựu chung chỉ có tuyển tập Ba Mươi Bảy Pháp Hành
    Bồ Tát Đạo này mà thôi. Thầy đã thọ nhận giáo lý về Ba Mươi Bảy Pháp
    Hành Bồ Tát Đạo từ Bổn Sư của thầy, và đây là tất cả những gì mà thầy đã
    nương vào để [làm cái gốc cho việc] tu học. Ngoài những giáo lý này ra thì
    thật ra, thầy đã chẳng học được gì nhiều cho lắm.
    Trong Phật Giáo, có những truyền thống tu tập khác nhau, những pháp môn
    hành trì khác nhau. Nhưng tựu chung thì tinh tuý của tất cả các giáo lý của
    Đức Phật chỉ đơn thuần có một mà thôi. Tất cả tinh túy của các Giáo Pháp
    mà Đức Phật đã giảng dạy cho chúng ta [mà chúng ta nhận được] từ các
    dòng truyền thừa khác nhau, thực sự chỉ tóm gọn trong hai chân lý. Hai
    chân lý ấy là [tinh tuý của] tất cả những gì mà Đức Phật đã tuyên thuyết.
    Đức Phật đã thuyết tất cả 130 pho Kinh, nhưng thực sự những gì được
    thuyết trong toàn bộ kinh điển cũng không nằm ngoài hai chân lý ấy [chân
    đế và tục đế].
    2
    Đạo Phật cho chúng ta cơ hội được tu tập theo những dòng truyền thừa và
    những pháp môn khác nhau. Tất cả những truyền thống tu tập này đã được
    phát triển là bởi vì chúng ta có những nhu cầu khác nhau. Ở trong thế giới
    này cũng thế, chẳng hạn khi chúng ta nói về thức ăn, thì chúng ta có cơm
    gạo, có rau trái. Cơm gạo hay rau trái ở đất nước nào cũng giống nhau
    nhưng chúng ta lại có những phương thức khác nhau để chuNn bị hay nấu
    nướng. Cũng giống như khi chúng ta nói đến những phương pháp tiếp cận
    khác nhau trong Phật giáo, ai thích hợp [với pháp tu nào thì] tu theo pháp
    nấy.
    Trong Kim Cang Thừa, chúng ta có tất cả bốn dòng truyền thừa chính, gồm
    có: Sakya, N yingma, Gelug và Kagyu. Bốn dòng truyền thừa này đều có
    những pháp tu khác nhau, những phương thức tiếp cận khác nhau. Trên thực
    tế, cho dù chúng ta thọ nhận giáo Pháp từ một bậc đạo sư, một lama hay một
    guru nào đi chăng nữa, thì tựu chung, tất cả chỉ có một con đường, một cái
    đích tối hậu, và chỉ có một điều duy nhất mà chúng ta cần phải đạt được.
    Con đường đó, cái đích đó, điều cần đạt đến đó chính là trí tuệ, là một trong
    sáu pháp toàn thiện siêu việt [lục độ ba la mật] của con đường tu.
    Vậy làm sao để có thể đạt được tuệ giác hay trí tuệ bát nhã ấy? Có những
    người hành trì theo pháp Đại Thủ Ấn Mahamudra, có những người tu tập
    theo pháp Đại Viên Mãn Dzogchen, lại có nhũng người tu tập theo pháp
    biện chứng hay Trung Quán Madhyamika. N hưng cuối cùng, cho dù theo
    pháp tu nào đi chăng nữa thì điều quan trọng nhất vẫn là làm sao để trực
    nhận ra được bản tâm! Giống như Đức Phật đã giảng dạy cho chúng ta,
    chúng ta cần phải hoàn toàn nhiếp phục được tâm của mình!
    3
    Bây giờ, thầy sẽ chia sẻ đôi lời khai thị về những giai đoạn tu tập [để nhiếp
    phục tâm], là những giai đoạn tu tập đã được đề ra trong Ba Mươi Bảy Pháp
    Hành Bồ Tát Đạo.
    Trong phần đầu của tuyển tập Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo, chúng
    ta tụng câu “ Con xin chí tâm đảnh lễ vị Đạo sư vô thượng và Thủ hộ chủ
    Quán Tự Tại (Quán Thế Âm), trong khi quán chiếu sự bất lai, bất khứ
    (không đến, không đi) của vạn Pháp...” thì ở đây, câu này đang nói đến chân
    lý tuyệt đối. Khi Đức Phật trực chứng bản tâm thì ngay đó, ngài đã thấu tột
    được tất cả mọi hiện tượng trong cả hai cõi ta bà cũng như niết bàn. Khi an
    trú trong chân tánh, ta sẽ nhận thức ra được rằng không có gì đến mà cũng
    chẳng có gì đi.
    Tánh thật của các hiện tượng, tánh ấy hoàn toàn không trụ vào đâu cả, tựa
    như hư không. Khi ta trực chứng được điều này, như Đức Phật đã chứng
    ngộ, thì chính điều ấy sẽ che chở được cho chúng ta, giống như đức
    Chenrezig có thể che chở cho ta vậy. N hưng cũng có vô lượng vô số chúng
    sinh chưa trực chứng được bản tâm. Và bất kỳ chúng sinh nào chưa trực
    nhận ra được bản tâm thì chúng sinh ấy sẽ phải trải qua những đau khổ rất
    lớn lao.
    Tiếp theo, trong chánh văn có nói rằng, vì muốn đem lại lợi lạc cho chúng
    sinh mà các giáo lý [sau đây] đã được giảng dạy. Đầu tiên, chúng ta cần
    phải khNn nguyện Đức Phật toàn giác, khNn nguyện Tam Bảo. Từ sự chứng
    ngộ con đường tối thượng, Đức Phật đã truyền bá giáo pháp. Và cuối cùng,
    noi theo những pháp tu [mà Đức Phật giảng dạy], tăng đoàn đã phát triển.
    Tóm lại, ở đoạn đầu có ý nói rằng, sự thành tựu đến từ chính sự thấu hiểu
    4
    các pháp hành đạo, và bây giờ, ngài [N gulchu Thogme Zangpo] sẽ giảng
    dạy về các pháp tu ấy cho chúng ta nghe. Ở đây, những giáo lý được giảng
    dạy là để dành cho những chúng sinh nào chưa trực chứng được bản tâm.
    Còn đối với những ai đã kiến tánh, đã trực chứng được chân tâm thì họ
    không còn đau khổ [do họ nhận ra được bản chất huyễn ảo của các đau khổ
    mà họ trải nghiệm].
    Giáo Pháp mà Đức Phật giảng dạy cho chúng ta chính là cội nguồn đem đến
    lợi lạc và hạnh phúc cho chúng ta trong đời này cũng như đời sau. Ở đây,
    chúng ta đang nói đến những lợi lạc và hạnh phúc tạm thời. Điều này có
    nghĩa là, nhờ chúng ta hiểu được giáo lý, chúng ta sẽ tích lũy được nhiều lợi
    lạc nhất thời, chẳng hạn như là chúng ta sẽ được sinh vào những cõi cao.
    Chúng ta gặt hái được điều này là bởi vì chúng ta đã thấu hiểu về sự vận
    hành của nhân quả. Khi hiểu được về sự vận hành của nhân quả thì chúng ta
    cũng hiểu được đâu là nguyên nhân đưa đến đau khổ, chúng ta sẽ thực tập
    buông bỏ những nguyên nhân đó, và nhờ vậy mà chúng ta sẽ không phải trả
    quả báo đau khổ trong tương lai. Không những thế, [khi hiểu được về sự
    vận hành của nhân quả], chúng ta sẽ có thể chấp nhận được đau khổ trong
    khi chúng ta đang phải trả nghiệp. Đây chính là chân lý tương đối, gọi là
    tục đế, là sự thấu hiểu về nhân quả.
    Cuối cùng, nương vào hiểu biết đó mà ta biết làm cách nào để rời xa những
    nguyên nhân đưa đến đau khổ. N hững nguyên nhân đó, thật ra, chính là các
    xúc cảm ô nhiễm trong chúng ta. Khi có thể buông bỏ được tâm ô nhiễm thì
    chúng ta sẽ không còn phải bị đọa vào trong ba cõi thấp và sẽ không còn
    phải khổ đau. Chúng ta sẽ tiếp tục tiến tu trên con đường đạo. Con đường ấy
    5
    chính là con đường phát khởi lòng từ bi và tâm Bồ Đề. Đó chính là Giáo
    Pháp.
    N ếu chúng ta không tu tập theo Giáo Pháp một cách đúng đắn, hoặc giả nếu
    chúng ta làm bộ tu tập mà thật ra là chúng ta lại đang tạo ra nhiều phiền
    não, tạo ra nhiều vấn đề, lại phát khởi nhiều sân hận, thì phải hiểu rằng chính
    việc tu tập đó sẽ trở thành nguyên nhân để đọa chúng ta vào ba cõi thấp. Tại
    sao? Bởi vì con đường tu tập đích thực, Giáo Pháp đích thực, là lòng từ, là
    tâm bi, là tình yêu thương, cùng là sự buông bỏ tất cả những xúc cảm ô
    nhiễm. Và do đó mà Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo đã chỉ ra cho ta
    phương thức để đạt được giải thoát, để buông bỏ tất cả những xúc cảm đắm
    nhiễm tiêu cực.
    Khởi đầu, trong tuyển tập Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo đã giảng
    dạy cho chúng ta về những pháp tu sơ khởi. N hững pháp tu sơ khởi này bao
    gồm bốn tư tưởng chuyển tâm hướng về Pháp, gồm có: (1) thân người hiếm
    quý, (2) cuộc đời vô thường, (3) nhân quả, và (4) những khổ đau trong luân
    hồi. Chúng ta cần phải hiểu một cách rốt ráo rằng bốn tư tưởng chuyển tâm
    này chính là nguyên tắc, là nền tảng cho việc tu tập của chúng ta. N ếu
    chúng ta không thấu hiểu bốn tư tưởng chuyển tâm hướng về Pháp, không
    hiểu về sự khó khăn để có được thân người, không hiểu về cái chết, không
    hiểu về vô thường, không hiểu về luật nhân quả và không hiểu về sự đau khổ
    của cõi luân hồi, thì chúng ta sẽ không có thể nào hiểu được đâu là nền tảng
    để có thể trưởng dưỡng tâm Bồ Đề. Bốn tư tưởng chuyển tâm này chính là
    phương tiện thiện xảo để cho tâm Bồ Đề có thể phát khởi nơi nào chưa phát
    khởi.
    6
    Bây giờ, nhờ có được thân người hiếm quý mà chúng ta có cơ hội để thực
    hành Phật Pháp, có cơ hội để phát khởi Bồ Đề tâm, có cơ hội để nương tựa
    vào Phật, Pháp, Tăng. Đây là tất cả những nhân tố có thể giúp chúng ta đạt
    đến được giác ngộ, cho dù là đạt được trong kiếp này hay đạt được trong
    những kiếp vị lai. Đây chính là căn nguyên đưa ta đến giác ngộ.
    Do đó, trước nhất, chúng ta cần phải hiểu rõ rằng, thật khó khăn xiết bao để
    có được thân người, được làm người trong kiếp này [và vì thế, phải nỗ lực
    chuyên tâm sử dụng cơ hội hiếm quý này để tu tập]. N ếu chúng ta không
    thấu hiểu được điều này thì chúng ta [sẽ đánh mất cơ hội tu tập], sẽ khó lòng
    từ bỏ được sự tham luyến đối với cuộc đời này.
    Ở đây có liên quan đến câu kệ thứ nhì trong Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ
    Tát Đạo. Câu ấy dạy cho chúng ta biết buông bỏ tham luyến và bám chấp,
    buông bỏ oán ghét và sân hận. N ếu chúng ta chỉ biết quan tâm đến cuộc đời
    này thôi thì chúng ta làm sao còn có thể để tâm ngó ngàng gì được đến kiếp
    sau và những kiếp sau đó nữa. Do đó, câu kệ thứ nhất và thứ nhì dạy cho
    chúng ta hiểu về sự khó khăn vô cùng để có được kiếp người, và chính vì
    vậy mà ta buộc phải buông bỏ hết tất cả những vọng niệm liên quan đến
    tham ái và oán ghét. Trong khi chúng ta tư duy, quán chiếu về mười tám
    điều kiện tự do và hoàn cảnh phú bNm (là những thuận duyên giúp chúng ta
    tu tập), chúng ta sẽ thấu hiểu rằng thân người hiếm quý chính là phương tiện
    thiện xảo để giúp ta phát khởi được tâm Bồ Đề nơi nào chưa tâm ấy chưa
    phát khởi.
    Đức Phật đã tuyên thuyết rằng, trong dòng tâm thức của mỗi một chúng sinh
    đều có một vị Phật. N hưng hiện nay trong tâm của chúng sinh, mọi thứ đều
    7
    ô nhiễm. Lý do là bởi vì chúng ta chấp ngã, nghĩ rằng chúng ta có một cái
    “ta” và chúng ta bám chấp vào cái “ta” này. Chúng ta bám chấp vào sự hiện
    hữu của cái “ta”, chúng ta phát khởi lòng tham luyến đối với cái “ta” và
    chúng ta phát sinh lòng đố kị đối với lại những người khác. Tâm của chúng
    ta giống như là nước đã bị khuấy đục. Từ nước vNn đục này, chúng ta giúp
    cho đủ mọi loại tâm ô nhiễm phát sinh. Các tâm ô nhiễm này thực sự đến từ
    tham, sân, si. Và vô minh lại là nguyên tố nặng nề nhất, tệ hại nhất. Tại sao
    lại là vô minh. Vô minh là bởi vì chúng ta không nhìn ra được rằng, thực sự,
    không có một cái ngã, không có một cái tôi. Rồi bắt nguồn từ sự vô minh
    và thiếu tỉnh giác này mà luân hồi đã sinh khởi và tiếp tục hiện hữu. Khi
    sống trong luân hồi, trong cõi ta bà, như đã có cắt nghĩa trong câu kệ thứ ba
    và thứ tư, chúng ta phải trải nghiệm đủ loại quan hệ giữa bạn và thù. Chúng
    ta sanh lòng luyến ái gia đình và bạn bè. Chúng ta không ưa thích hoặc oán
    ghét kẻ thù. Thật sự, đâu có gì chắc chắn để chúng ta biết được ai là bạn, ai
    là thù? N hững người xuất hiện trong đời này như là người thân trong gia
    đình chúng ta cũng có thể là những oan gia đến từ đời trước. Thật chẳng có
    gì bảo đảm được điều này. Hoặc giả trong đời trước, chúng ta đã không đền
    đáp công ơn dưỡng dục và lòng tử tế của cha mẹ, cho nên trong kiếp này, họ
    đã trở lại và xuất hiện như là kẻ thù của chúng ta. Thật rất khó lường để có
    thể quả quyết được ai là bạn và ai là thù.
    Trên thực tế, trong vô lượng kiếp đã qua, tất cả chúng sinh đều đã từng là
    cha mẹ của chúng ta. Và nhất là những kẻ thù của ta trong kiếp này, những
    kẻ ghét ta hay những người mà ta oán ghét, chắc chắn rằng họ đã từng rất tử
    tế với ta trong những đời quá khứ. Chắc chắn rằng họ đã từng yêu thương ta
    rất nhiều trong tiền kiếp xa xưa, và đổi lại, ta đã đối xử vô cùng tệ mạt với
    họ [trong kiếp đó] và ta đã không hoàn trả lại lòng tử tế của họ bằng sự tử tế
    8
    của ta. Và cũng bởi vì như vậy mà họ trở nên sân hận, và giờ đây [trong
    kiếp này], họ xuất hiện như là kẻ thù của ta, là những người hết sức oán ghét
    ta. Điều này thực sự chúng ta chẳng thể nào biết được.
    Trong Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo có dạy, khi chúng ta hiểu được
    ra rằng tất cả mọi chúng sinh đã từng là cha mẹ của mình trong đời này hay
    những đời trước, thì thật sự đâu có lý do gì để ta lại sanh lòng luyến ái một
    người nào đó quá mực, hoặc sanh tâm ghét bỏ một người nào khác quá mực.
    Chẳng có ai để ta phải sanh tâm ô nhiễm cả [vì chúng sinh nào cũng đã từng
    là cha mẹ và đều tử tế với ta].
    Tiếp theo, nếu chúng ta hiểu được về cái chết và hiểu được rằng bản chất
    của cuộc đời là vô thường [thì chúng ta sẽ không bám chấp vào cuộc đời này
    nữa]. Còn nếu chúng ta tham luyến, bám chấp vào cuộc đời này thì tất cả
    những hành nghiệp của chúng ta đều sẽ phải nằm dưới sự sai sử của tham,
    sân, si. Trên thực tế, cuộc đời này không kéo dài vĩnh viễn. Cuộc đời này
    thực sự chỉ giống như là giấc mơ của một đêm đã qua. Tối hôm qua, có thể
    chúng ta đã nằm mơ, nhưng ngày hôm nay khi mà chúng ta thức dậy, giấc
    mơ không còn hiện hữu nữa. Cuộc đời này của chúng ta cũng y hệt như thế.
    Mai sau, khi chúng ta chết đi, chẳng có gì của cuộc đời này sẽ còn tồn tại, và
    chúng ta buộc phải thức dậy, phải ra khỏi giấc mộng. Cuộc đời vừa trôi qua
    ấy sẽ chỉ giống như là hồi ức của giấc mộng mà thôi.
    Sau khi chúng ta chết, chúng ta sẽ đem theo với mình những hành nghiệp mà
    chúng ta đã tích lũy, cũng như đem theo những nghiệp báo đã được tạo ra
    bởi những cảm xúc ô nhiễm trong ta. Chúng ta không có sự chọn lựa sẽ đi
    về đâu. N ghiệp lực sẽ lôi kéo ta và ta hoàn toàn không có được sự lựa chọn!
    9
    Và như thế cho nên, nếu những tâm ô nhiễm như sân hận hay tham ái nổi lên
    một cách hết sức mạnh mẽ, thì đây sẽ là những nguyên nhân đNy chúng ta
    rơi xuống những cõi thấp như súc sinh, địa ngục hay ngạ quỹ.
    Cuộc đời này như là một giấc mơ, giấc mơ của một đêm đã qua. Đó chính là
    bản chất đích thực của cuộc đời này, đó là [vô thường]. Do đó, chúng ta cần
    phải ghi nhớ rõ điều này và phải biết hướng đến việc chuNn bị cho kiếp kế
    tới bằng cách tịnh hoá tâm của mình trước nhất. Bởi vì khi chúng ta ra đi
    khỏi cuộc đời này, thân xác này của chúng ta sẽ ra đi nhưng tâm của chúng
    ta sẽ không mất đi, tâm của chúng ta sẽ không bao giờ chết, tâm của chúng
    ta sẽ tiếp tục tồn tại. Và điều quan trọng là làm sao chúng ta có thể tịnh hóa
    được cái tâm đang và sẽ tiếp tục tồn tại đó!
    Để thanh lọc được tâm, chúng cần phải nương tựa vào Đạo Sư của chúng ta,
    là người đã khai thị cho chúng ta, giúp cho chúng ta hiểu được về sự vận
    hành của nhân quả. Bởi vì thế mà Đạo Sư của chúng ta thật vô cùng kỳ diệu
    và vô cùng đặc biệt. N gài đã chỉ ra cho chúng ta con đường tu để có thể
    thành tựu giác ngộ.
    Trong Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo cũng có nói rằng, ta cần phải
    lánh xa những ác tri thức (bạn xấu), và phải dùng óc phán xét để biết được là
    qua [sự liên hệ với] những người bạn này, những xúc cảm ô nhiễm của ta có
    phát sinh hay không. Ví dụ như, khi chúng ta có những bằng hữu mà qua
    [sự liên hệ với những người này], ta phát khởi được tình yêu thương, sự tử tế
    và lòng từ bi, thì đấy chính là những người bạn lành của ta, là những thiện tri
    thức. Đây cũng ám chỉ đến những vị đạo sư tâm linh, đến những bậc thầy
    của chúng ta. Khi chúng ta tu học với các vị đạo sư tâm linh, nếu chúng ta
    10
    phát khởi được tâm Bồ Đề, thì đây chính là những người bạn lành, những
    thiện tri thức chân chính đích thực, là những người mà chúng ta cần nương
    tựa vào. N hưng ví dụ ngay cả nếu chúng ta có những vị thầy tâm linh [mà
    qua việc học hỏi với các vị ấy], chúng ta lại trở nên tham đắm hơn, oán ghét
    hơn và tâm ta lại tràn đầy các xúc cảm ô nhiễm, tiêu cực, v.v. thì phải hiểu
    rằng đây không thể là những người bạn lành, những thiện tri thức chân
    chính. N ếu thầy của chúng ta dạy cho chúng ta những giáo pháp dựa trên
    các biên kiến cực đoan, dựa trên sự ghét bỏ thì [giáo pháp ấy và vị thầy ấy]
    không phải là chân chính.
    Một vị minh sư phải là một người giúp cho chúng ta trưởng dưỡng được
    những đức tánh tốt lành trong dòng tâm thức của ta. Và vị minh sư ấy phải là
    người hiểu được về luật vận hành của nhân quả. Ví dụ như bây giờ, nếu có
    một người bạn nào đó, anh ta ta ban cho chúng ta cả trăm ngàn đô la chẳng
    hạn, chúng ta sẽ rất thích người bạn đó bởi vì anh ta cho chúng ta rất nhiều
    tiền để tiêu xài! N hưng một ngày kia, số tiền ấy cũng phải cạn kiệt, sẽ bay
    đi mất hết. N hưng còn đối với một bậc đạo sư tâm linh thì [chúng ta không
    nhận tiền của từ ngài], thật ra là chúng ta còn nhận nhiều, nhiều hơn như thế
    nữa . N gài đã ban cho chúng ta đôi mắt. N gài đã chỉ cho chúng ta con đường
    tu và [giúp chúng ta hiểu về] sự vận hành của nhân quả mà chúng ta mang
    theo mình từ kiếp này qua kiếp nọ. Và nhờ có cặp mắt mở to đó mà trải qua
    nhiều kiếp, chúng ta sẽ không phải thọ quả báo đau khổ, sẽ không phải bị
    đoạ vào những cõi thấp, sẽ được sinh vào các cõi cao hơn, và đến một ngày
    kia, sẽ đạt được giác ngộ. Và cũng bởi vì thế mà các vị thiện tri thức và
    những bậc đạo sư còn trân quý hơn bất cứ điều gì khác mà chúng ta có được
    trong cuộc đời này!
    11
    N goài ra, tự lúc khởi đầu, chúng ta còn phải biết trân quý và biết ơn lòng từ
    và sự tử tế mà chúng ta đã nhận được từ cha mẹ chúng ta nữa bởi vì chính
    cha mẹ chúng ta đã cho chúng ta thân người hiếm quý này. Thứ đến, chúng
    ta phải biết trân quý và biết ơn lòng từ của các vị thầy cô [trong thế gian
    này], là những người đã hướng dẫn chúng ta và dạy dỗ chúng ta về mọi mặt,
    về tất cả những gì chúng ta cần phải hiểu biết về cuộc đời này.
    N hưng đặc biệt hơn, chúng ta cần phải nhớ nghĩ đến tấm lòng từ của những
    bậc Đạo Sư đã dạy cho chúng ta về nhân quả, và hơn thế nữa, đến tấm lòng
    từ của những bậc Đạo Sư đã dạy cho chúng ta phương cách để phát khởi và
    trưởng dưỡng Bồ Đề tâm.
    Sau đó, chúng ta cần phải thọ quy y, phải nương tựa vào những đối tượng
    quy y để có thể tu hành trên con đường chánh pháp cực kỳ quý giá. Khi đi
    tìm đối tượng để quy y, chúng ta phải tìm nương tựa nơi những đối tượng
    chân chính, đấy chính là Tam Bảo, gồm có Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
    N hư trong Ba Mươi Bảy Pháp Hành Bồ Tát Đạo có dạy, chúng ta không thể
    nương tựa vào bất kỳ ai đang còn bị trói buộc trong vòng luân hồi. Điều này
    có nghĩa là bất kỳ ai chưa trưởng dưỡng được Bồ Đề tâm rốt ráo, bất kỳ ai
    vẫn còn tâm chấp ngã, bất kỳ ai chưa giải thoát được khỏi vòng tròn sinh tử.
    N ếu vị ấy chưa [tự mình] giải thoát được khỏi luân hồi thì sẽ không thể nào
    giúp được cho người khác. Cũng có thể thân của những vị này không còn bị
    kẹt trong cõi trần [cõi người] nhưng tâm của những vị ấy vẫn chưa được
    hoàn toàn giải thoát. Đó có thể là những vị Trời, hay là những vị thần linh.
    Khi chúng ta nói đến những vị Trời hay chư Thiên thì có các vị Trời phàm
    tục, khác với chư Thiên trí tuệ. Và những vị Trời là những vị vẫn còn tâm
    12
    chấp ngã, [vẫn còn bị chi phối bởi sinh tử luân hồi]. Bởi vì thế, họ chẳng thể
    nào giúp được chúng sinh một cách rốt ráo.
    Trong khi đó, Phật, Pháp và Tăng đều phát xuất từ tuệ giác, và bởi thế, [là
    nguồn nương tựa] đáng tin cậy nhất, [có khả năng giúp ta] hoàn toàn thoát
    khỏi màng lưới sinh tử. Và bởi thế mà Tam Bảo là nguồn [gia trì] chân
    chính nhất. Khi chúng ta gọi Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo “ngoại tại,” tức
    là quy y bên ngoài [nương tựa vào những đối tượng bên ngoài]. Đức Phật
    bên ngoài chính là chư Phật của ba thời. Có thể có hằng triệu triệu ức muôn
    chư Phật trong suốt ba thời. N hưng tâm của các vị ấy chỉ thuần là một. Và
    đó chính là sự kết hợp giữa tánh không và từ bi.
    Chúng ta cũng có được tiềm năng này trong ta. Đây chính là Phật tánh, Phật
    tâm mà chúng ta sở hữu trong dòng tâm thức của chính mình. Là trí tuệ
    phân biệt, biết đâu là việc [tốt] nên làm, đâu là việc [xấu] không nên làm.
    Đấy chính là Phật đấy! Còn Pháp? Pháp bao gồm 84 ngàn giáo lý mà Đức
    Phật đã tuyên thuyết, nhưng tóm gọn, Đức Phật đã chỉ nói, hãy thực hành
    các thiện hạnh, lìa bỏ các ác hạnh, và hoàn toàn điều phục tâm. Đấy chính là
    Pháp đấy! Các giáo lý mà Đức Phật đã giảng dạy để giúp chúng ta tịnh hoá
    và điều phục tâm không là gì khác hơn ngoài tình yêu thương và tâm từ bi
    [vô ngã]. Còn ngoài ra, tất cả mọi thứ khác sẽ chỉ là nguồn gốc, là nguyên
    nhân dẫn đến luân hồi. Ví dụ như, nếu chúng ta có tình yêu thương dành cho
    con cái của chúng ta chẳng hạn, ngay khi có chút cái ‘tôi’ xuất hiện ở trong
    đó, thì chính đó đã là một nguyên nhân dẫn đến luân hồi rồi. Khi chúng ta
    nghĩ rằng, đây là con trai tôi, đây là con gái tôi… N gay khi có một cái ‘tôi’
    hiện ra thật mạnh mẽ, thì tự khắc, đấy là nguyên nhân dẫn đến luân hồi. Còn
    giả sử như chúng ta cảm nhận được tình yêu thương lan toả đến cho hết thảy
    13
    chúng hữu tình, thì đây chính là nguồn gốc của Bồ Đề tâm, đây chính là
    Giáo Pháp.
    Trong Phật Giáo, có ba thừa hay ba con đường tu tập dựa trên ba căn cơ
    khác nhau. Và bất kỳ ai đã bước vào trên con đường tu, [cho dù là thừa nào
    đi nữa], nghĩa là bất kỳ ai đã thọ giới nguyện quy y thì ta cũng có thể gọi
    người ấy là Tăng bảo. Tại sao chúng ta lại xem đấy là một điều quý báu
    (bảo)? Tại sao lại là Tăng bảo? Bởi vì đã là Tăng bảo thì ta phải nghĩ rằng,
    tôi không chỉ nghĩ đến bản thân mình như những chúng sinh tầm thường
    khác, mà bởi vì tôi là Tăng bảo nên tôi quan tâm và nghĩ đến người khác,
    đến các chúng sinh khác. Điều này cũng có nghĩa là khi các chúng sinh khác
    hãm hại tôi thì cho dù là thế nào đi chăng nữa, tôi sẽ hành trì hạnh nhẫn
    nhục, tôi có thể trả lại [tâm ác của họ] bằng tình yêu thương trong tôi. Đấy
    chính là ý nghĩa đích thực của Tăng bảo. Và đấy chính là Tam bảo “ngoại
    tại,” là ba viên ngọc quý ở bên ngoài.
    Rồi sau khi đã quy y Tam bảo thì chúng ta cần phải hiểu rõ rằng chính bản
    thân ta là Tam bảo. Tam bảo đích thật là Tam bảo ngự trong bản tâm ta.
    Chánh niệm và tỉnh giác của ta chính là Phật. Chánh niệm và tỉnh giác là
    Đức Phật “nội tại,” Đức Phật ở bên trong. N ếu ta phát triển được tình yêu
    thương và tâm từ bi [vô ngã] thì đấy chính là Pháp nội tại, Pháp ở bên trong
    bản tâm ta. Và nếu ta có được đầy đủ chánh niệm, tỉnh giác và từ bi, thì tất
    nhiên, ta trở thành Tăng bảo! Ta có đầy đủ Phật, Pháp, Tăng ở trong ta!
    __________________________________________________ ___________
    Pháp thoại của Garchen Rinpoche tại tư gia của đạo hữu Phúc Nghiêm tại VN vào ngày 24/05/2010. Ina
    Bieler thông dịch từ tiếng Tạng qua tiếng Anh. Tâm Bảo Đàn thông dịch từ tiếng Anh qua tiếng Việt.
    Nhóm thiện nguyện chuyển âm qua Anh ngữ, Việt ngữ và nhuận văn; thầy Chúc Khả hiệu đính (6/2010).

  2. #2

    Mặc định

    Mô Phật!
    Lành thay! Tôi đã có duyên hội ngộ cùng thầy Kyabjé Garchen Triptul Rinpoche vào đúng ngày Phật Đản năm 2010.
    Thầy lập đạo tràng và trì chú để ban phúc cho mọi người trong đạo tràng.
    Cuối cùng, tôi được thầy tặng cho một mảnh giấy đỏ viết Thần Chú được chép trong Kinh Mãnh Thác (Forceful Fall Sutra), có công năng như phương tiện cho việc nhìn thấy. Ai đi qua phía dưới Thần Chú này, hay nhìn thấy thì tội nghiệp sẽ được thanh tịnh trong vòng một ngàn kiếp. Ngoài ra, thầy còn tặng cho tôi một quyển sách rất hay, mà nhân tiện đây tôi xin được giới thiệu cùng các bạn, để các bạn có dịp tham khảo. Hai thứ này trước khi thầy tặng cho tôi, thì đều đã được thầy trì chú gia hộ. Sách rất hay, tựa đề là "Nhập Bồ Tát Hạnh" của Ngài Tịch Thiên (Ấn Độ), và do Ni Cô Thích Nữ Trí Hải dịch. Sách có nội dung là khuyên ta rời bỏ ác đạo, khuyên làm lành, khuyên nên thiền định tĩnh tâm... bằng những lời văn cực kỳ điêu luyện và hợp lý của Ngài Tịch Thiên. Mong rằng có bạn nào xem được quyển sách trên rồi thì liền sinh tâm Bồ Tát và để làm lợi lạc cho chúng sinh, xa rời ác đạo.

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    Phật tại Tâm
    Tâm tức Phật.
    Ma tại Tâm
    Tâm sinh Ma.

    http://vn.360plus.yahoo.com/quanchilam02/

  3. #3
    Moderator Avatar của phúc minh
    Gia nhập
    Dec 2010
    Nơi cư ngụ
    thế giới Ta Bà
    Bài gởi
    1,646

    Mặc định

    ngài quả thực là có lòng từ bi vô biên! hy vọng phúc minh sớm được gặp ngài!

  4. #4

    Mặc định

    quyển Nhập Bồ tát hạnh được sư cô Trí Hải diễn dịch thành văn xuôi rất dễ hiểu... Salad đang dùng quyển này để trì tụng, sám hối và hồi hướng công đức mỗi ngày.
    kính xin quý Thầy, quý Sư cô tổ chức cầu siêu cho cụ bà Trần Thị Xuân hưởng dương 87t để thể hiện sự bác ái, từ bi vô lượng của Phật giáo

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Đạo Phật Có 8 Lớp Học
    By phimanh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 15
    Bài mới gởi: 20-09-2012, 09:33 PM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  3. Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 29-03-2011, 07:05 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •