kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN M.E.L

Hybrid View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN M.E.L

    CHƯƠNG I: BÀI HỌC MỚI - TÌNH THƯƠNG GIÁC NGỘ NHÂN LOẠI

    MK: Kính thưa Thầy! trước thềm năm mới xin kính chúc Thầy Cô một năm mới tràn đầy niềm vui về sự trưởng thành của nhân điện năm châu và nhân dịp năm mới xin thỉnh cầu Thầy, cho chúng con biết đôi điều mới lạ của năm nay, mà Thầy đã nhận được thông điệp từ Thượng Thiên.

    Thầy: Nhân ngày đầu xuân mới, Thầy Cô xin gửi tới tất cả anh chị em, nhân loại bốn phương, tình yêu thương vô lượng của Đấng tự nhiên toàn năng, toàn thiện.
    Cũng là phong tục tập quán đó! Thôi được, chiều lòng anh chị em, Thầy tiết lộ đôi điều để anh chị em vui. Năm 2007 này bắt đầu một thời kỳ mới, mà loài người không muốn cũng phải làm, đó là thời kỳ Giác Ngộ của nòi giống loài người vào giai đoạn cuối cùng của sự tiến hóa, và bước sang giai đoạn văn minh hậu con người với những tư tưởng minh triết giác ngộ hoàn toàn mới lạ, với nguồn năng lượng mới lạ, con người trở nên tài giỏi xuất chúng, nhờ tiềm năng ẩn chứa trong sâu thẳm cõi lòng được khai mở.
    Thực ra nhân loại đâu có nhiều người như anh chị em được biết là hơn 6 tỷ người như hiện nay, mà chỉ có ít thôi, còn phần đa nhân loại hiện nay, mang linh hồn của những vị đã tiến hóa cao, tình nguyện xuống thế gian này làm người, hành việc dở để tạo ra bài học cho anh chị em học hỏi tiến hóa đó.
    Vậy anh chị em còn chê trách, còn coi thường các vị này không? Anh chị em còn trách trời gần trời xa, sao lại sinh ra những người bên cạnh anh chị em, thậm chí là ruột thịt, là vợ là chồng yêu dấu nhất của anh chị em, mà trong một số trường hợp, họ lại đang làm cho anh chị em đau khổ không? Anh chị em còn thất vọng với người ác tâm này, người tham lam kia nữa không?
    Tất cả họ được coi là những vị tiến hóa cao đi, để mình dễ sống và rộng đường mà học hỏi tiến hóa. Đây là bài học cao nhất về đúng sai, phải trái, ác tà thiện lương. Nó là pháp môn để giúp anh chị em dễ tiếp cận với quan điểm triết học “đứng trên cái bình diện đúng sai”. Chứ nó vẫn là nó, anh chị em vẫn là anh chị em. Rồi một ngày giờ nào đó, nếu năng lực hành đạo của anh chị em đủ mạnh, chỉ trong tíc tắc tất cả nhân loại sẽ minh triết giác ngộ. Hôm nay anh chị em có cơ duyên cùng Thầy tập trước, học trước nhân loại chút xiu thôi để chuẩn bị cho cái ngày đại hỷ này của nhân loại đó. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ Thượng Thiên giao, Thầy và anh chị em âm thầm đi nhận nhiệm vụ khác và nếu có danh tiếng gì, xin tặng nhân loại tất cả.
    Thầy khuyên hãy thương những người dở, người xấu, giúp họ, vì họ đã hy sinh cái phần người cao quý để tạo ra việc dở, việc ác, làm bài học cho nhân loại học tập tiến hóa, mà thể xác họ có khi không biết, họ đang làm việc cho Thượng Đế.
    Học bài học dở, là bài học quý, để tránh lặp lại cái dở, cái ác và có như vậy mới tiến hóa nhanh theo luật tự nhiên được. Thương họ bằng cách truyền điện, truyền hào quang Thượng Đế cho họ là cách thương của người nhân điện, con người mang điện năng Thượng Đế, con người mới ở châu thứ 6 đó.
    Vấn đề quan yếu nhất là anh chị em có chịu học các bài học dở trong trường đời ở cái thời mạt pháp này không, để mà rút tỉa ra điều minh triết trong từng ngữ cảnh của đời sống, để mình tiến hóa, để người có duyên với mình tiến hóa, để mình có được cơ may là con người mới với tâm linh mới.
    Rốt ráo Thầy bổ túc thêm cho anh chị em về triết lý “đứng trên bình diện đúng sai” để anh chị em vượt lên rào cản tâm lý khó khăn này, có đủ điều kiện mà tiếp thu những bài học mới nhất, mà Thầy được phép Thượng Thiên chỉ dẫn cho anh chị em.
    Học bài học mới, tâm linh mới để trở thành con người mới, mà vẫn còn đầu óc phân biệt giàu nghèo, hèn sang, nước này nước kia, tôn giáo này, tôn giáo kia, trình độ cao thấp v.v thì khó mà tiếp thu bài học mới nhất do chính Thượng Đế chỉ dạy cho.
    Nhân cái ý này Thầy tiết lộ thêm để anh chị em yên tâm: rồi đây có những biến động rất lớn, chưa từng có của đại càn khôn vũ trụ mà trái Đất là một phần thân thể của vũ trụ thay đổi, có ai bị “ra đi” do những thảm họa này hay thảm họa khác, thì anh chị em hãy coi họ là những vị đã tiến hóa cao, hoàn thành nhiệm vụ, tạo ra bài học cho nhân loại và trở về với Đấng Thượng Thiên. Nhân loại thực có ít người thôi là cái ý này và nhân loại muốn tiến hóa, văn minh tiến bộ theo chiều thuận mà Thượng Đế sắp đặt thì nhân loại không có chọn lựa nào khác hơn là tìm nguồn năng lượng thay thế đó là năng lượng vũ trụ (nhiều vô tận và sạch) để phát triển nền văn minh của mình. Tất cả các nguồn năng lượng truyền thống đang sử dụng (trừ năng lượng mặt trời và năng lượng gió) đều tiềm ẩn những nguy hiểm cho môi sinh và sự sống của muôn loài.
    Cái ẩn ý mà Thầy dạy cho anh chị em trước đây về học bài học dở đó là: người ta dở, hay mình dở không chụi học bài học dở đây! Từ bao đời nay con người chỉ thích hay, không hay cũng tự nhận là hay, thì bây giờ Ngài cho học cái dở và bao giờ biết chấp nhận học cái dở thì hết dở, và tạm gọi là minh triết. Minh triết giác ngộ thì tiềm năng sáng tạo ẩn chứa trong nhân loại mới được giải phóng và mới sử dụng được năng lượng vũ trụ vào mọi khía cạnh của đời sống được.
    Khỏi phải thương cho người khác, hãy thương cho chính mình đi. Thầy nhắc lại để anh chị em rõ: Sau giờ giao thừa 2007 (năm âm lịch) bất cứ điều gì chưa từng biết đến cũng sẽ sảy ra và anh chị em ráng mà giúp cho bà con tai qua nạn khỏi và anh chị em có lười, có nhác cũng không được đâu. Bất cứ cấp lớp nào khi giờ khắc không mong đợi kia đến, quyền năng khả năng của các công thức nhân điện sẽ xuất hiện một cách lạ thường trong anh chị em, để anh chị em cứu nhân độ thế. Thầy nhắc cho các anh chị em hiện đang ở cấp nhân điện thấp biết: thấp mà biết chuyên cần luyện tập và biết kết nối dòng điện với Thầy thường xuyên thì thấp mà hóa cao lúc nào không biết, yên tâm đi, Thầy luôn bên anh chị em 24/24 giờ trong ngày, nếu anh chị em cần đến Thầy.
    Đừng bao giờ nghĩ mình học lớp thấp, lớp cao, vì giờ khắc ấy tới, thì lớp nào cũng có khả năng cứu mình, cứu người qua cơn thử thách bĩ cực. Trong lúc “chờ đợi” hãy ráng mà tập luyện, thời gian chờ đợi càng dài là biểu hiện Thượng Thiên thương xót nhân loại vô vàn, Ngài đã kiên nhẫn chờ đợi con cái của Ngài minh triết giác ngộ xuốt mấy ngàn năm qua và kể cả vào thời điểm ngày được coi là Tận Số năm 2000, Ngài một lần nữa khoan dung, tạo cơ hội cho nhân loại ăn năn, nhưng càng thương xót con cái, thì dường như con cái Ngài lại càng thể hiện nhiều thói hư tật xấu và dường như đã đúng thời cơ thời điểm để mọi sự an bài được thực hiện. Nói ít, hiểu nhiều tùy anh chị em quyết định con đường tiến hóa của mình.

    MK: Thưa Thầy, năm 2006 Thầy đặt là “năm tình thương”, năm đón nhận tình thương của Thượng Thiên, năm mà chưa bao giờ Thầy mở 3 lớp nhân điện cao cấp trong cùng một năm. Vậy phải chăng tình hình đã quá gấp và ngành nhân điện phải khẩn trương tiếp nhận những quyền năng mới để bảo vệ trái đất?

    Thầy: Nó lại tham lam rồi! không chịu suy ngẫm hết điều Thầy đã trả lời ở câu hỏi trước, cứ hỏi lại hoài, nhưng biết nhiều mà để đấy coi chừng nghe con! Ừ năm ngoái Thầy đặt là năm tình thương và Thầy có nói: đã đến lúc Thượng Thiên không chỉ trao tình thương đầy đủ cho con người, mà Ngài còn dạy cho con người biết thương Ngài nữa.
    Phải nói cho đúng là cả hai năm 2004 đến 2005 là những năm ngành nhân điện phải chụi nhiều thử thách nhất, tưởng khó có thể vượt qua nổi. Nhưng cũng chính hai năm rồi chúng ta học được rất nhiều những bài học mới tuyệt vời trong hoạn nạn, hai năm đón nhận tình thương đầy đủ của Ngài với những chìa khóa sử dụng năng lượng vũ trụ vi diệu chưa từng biết từ trước tới nay.
    Thực ra còn là thể xác con người bình phàm, đôi lúc Thầy cũng nóng lòng, may sao nhiều anh chị em nhận ra tính cấp thiết nghiêm trọng này nên đã hợp tác với Thầy để tiếp nhận nhanh nhất những quyền năng tình thương mới, những công thức nhân điện mới, giúp cho thế giới thay đổi từng ngày xét theo góc độ hóa giải và tiến hóa.
    Hoạn nạn là sự thử thách với cái mới và nhiều anh chị em đã biết tranh thủ học hỏi tập luyện để phát triển tâm linh trong những thời gian nhậy cảm tổn thương này, nhiều người đã tiến hóa trưởng thành vượt bậc trong ba năm qua và Thầy vui lắm. Đặc biệt một số anh chị em đã biết “chia đắng sẻ cay” với Thầy và Thầy nhớ từng người với từng nghĩa cử chân tình khác nhau. Biết thương Thầy và biết tự chia sẻ gánh nặng để cùng Thầy tiếp tục lộ trình nhân điện Tình Thương – Giác Ngộ - Nhân Loại là biết thương Ngài đó.

    MK: Thưa Thầy có phải thầy nói lầm không a! phải kêu ngành nhân điện là Nhân Loại – Giác Ngộ - Tình Thương chứ a!

    Thầy: Đúng đấy không sai đâu, nói Nhân Loại – Giác Ngộ - Tình Thương là nói về tiên đề triết học, nói về ý nghĩa của thực hành nhân điện phục vụ nhân sinh, xã hội và tiến hóa của muôn loài. Nói dễ hiểu là nhân loại giác ngộ thì sẽ nhận được đầy đủ tình thương của Ngài mà tiếp tục đưa nền văn minh phát triển tiến hóa tới những chân trời mới lạ, vi diệu chưa từng có từ trước tới nay. Còn nói ngược lại Tình Thương – Giác Ngộ - Nhân Loại là nói về lộ trình phát triển, hay bước đi của nhân điện phục vụ nhân sinh. Năm ngoái là năm Tình Thương, đón nhận tình thương của Ngài rồi, thì phải sử dụng tình thương trong đời sống. Âm thầm, vô danh tánh chữa bệnh cứu người, tăng sản hoa màu vật nuôi, làm sạch môi sinh, giảm thiểu tác hại của thiên tai, chiến tranh, bằng truyền điện, truyền thần lực tình thương, năng lượng vũ trụ. Đó chính là những hoạt động thiết thực đón nhận tình thương của Ngài.
    Chỉ có hành động tình thương thì mới minh triết được và từ đó mới Giác Ngộ, đó là bước thứ hai của lộ trình. Chỉ có giác ngộ thì tiềm năng ẩn chứa trong các tế bào siêu điện ảnh ở não bộ anh chị em mới khơi dậy một trăm phần trăm và khi đó con người minh tuệ, tài giỏi mới giúp Nhân Loại được. Chứ còn kém về năng lực thì giúp được ai đây.
    Minh tuệ là chân từ nói đến sự thông minh sáng tạo của những con người giàu tình thương, phục vụ những sáng tạo của mình vô điều kiện cho nhân loại trong sự âm thầm vô danh tánh và đây là mẫu con người mới, tâm linh mới ở châu thứ 6. Thầy nhắc lại họ làm và phục vụ nhân loại vô điều kiện và hoàn toàn âm thầm, ẩn danh và Thầy đang đào tạo gấp rút những anh chị em này để một ngày không xa thế giới sẽ được an bình.
    Thầy không có chọn lựa bất cứ ai vào chương trình đặc biệt này, tự mỗi anh chị em, nếu tự nguyện hành động minh tuệ như mẫu người kể trên thì không cần phải xin Thượng Thiên cũng sẽ chọn. Đây có thể nói là một bước đột phá để trong vài ba năm tới một học viện Nhân Điện có thể ra đời, không chỉ có đào tạo ngắn hạn như hiện nay mà còn đào tạo dài hạn ở các cấp bậc đại học chính quy, thạc sỹ, tiến sỹ nhân điện. Mọi dự định tùy thuộc vào sự cố gắng của mỗi anh chị em chứ không phải tùy thuộc vào sự chấp nhận của nhân loại đâu, đây là tuy duy mới nhớ cho kỹ!
    Chữ Nhân Loại đặt sau cùng trong lộ trình nhân điện có nhiều ý nghĩa lắm, anh chị em có biết vì sao không? Là vì Thượng Thiên còn đang dành cơ hội cho loài người thay đổi tầm nhìn, thay đổi tâm linh, mà biến đổi kịp với sự xoay vần của thể xác Ngài, đại càn khôn vũ trụ. Nếu biết học nhân điện, nếu biết sử dụng tình thương của Ngài là năng lượng vũ trụ vào tất cả các khía cạnh của đời sống thì sẽ không còn lo sợ cái ngày giờ không muốn sẽ đến kia, ngày Tận Số.
    Đầu năm mới, nói thêm cho vui, tháng 1/2007 vừa qua các nhà khoa học thế giới đã chỉnh lại cây đồng hồ báo ngày Tận Số xuống còn 5 phút thôi. Cây đồng hồ này được lập ra từ năm 1947 sau thế chiến Đệ Nhị và hàng năm tùy vào những thay đổi của khí hậu toàn cầu, các nhà khoa học làm lễ nghi tượng trưng chỉnh cây đồng hồ này để cảnh báo cho nhân loại biết ngày cùng tháng tận của trái đất.
    Khi con người vẫn còn chưa chụi thay đổi tư duy, khai khẩn và sử dụng tài nguyên bừa bãi, vô nguyên tắc vì mục đích làm giàu thì thảm họa tự nhiên, động đất sóng thần, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh còn nhiều và nhân loại ráng mà lãnh chụi hậu quả do mình gây ra. Như vậy đâu chỉ có các tôn giáo cảnh báo ngày tận số mà các nhà khoa học với những phương tiện theo dõi khí hậu và vật lý địa cầu hiện đại, họ còn biết rõ hơn ai hết những thảm họa sắp ập xuống hành tinh này, cái nôi của nòi giống con người, con Thượng Đế.
    “Tư duy” của Thượng Thiên là tư duy toàn thiện, đối với Ngài chỉ có vận động, vận hành không ngơi nghỉ, mà con người dịch ra là Sáng Tạo – Bảo Tồn – Hủy Diệt. Nói cho dễ hiểu là Ngài là Đấng sáng tạo ra muôn loài, Ngài bảo tồn minh triết giác ngộ để thúc đẩy tiến hóa muôn loài ở thế gian và vũ trụ này và Ngài hủy diệt cái cũ, để sáng tạo ra cái mới của đời sống vũ trụ, mà ở trái đất là văn minh nhân loại, một bộ phận cấu thành, trung tâm văn minh vũ trụ. Đây cũng là bài học lý thuyết mới rất đáng để anh chị em suy ngẫm. Thầy nhắc lại là: đối với Thượng Thiên không có khái niệm Sáng Tạo – Bảo Tồn – Hủy Diệt vì Ngài là khối sáng anh linh toàn thiện, toàn năng, chỉ có con người mới cần đến khái niệm này để định hướng hành động hợp với quy luật tự nhiên, quy luật vũ trụ. Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống, nói ít hiểu nhiều tùy anh chị em cảm nhận.
    Năm nay, năm 2007, Thầy đặt là năm Giác Ngộ, đây là cơ hội để anh chị em học hỏi tiến hóa nhanh nhất và Thầy trù sẽ mở lớp 20 vào khoảng tháng 7 dương lịch gì đó, để anh chị em nào có cơ duyên thì đi học cùng với Thầy. Từ lớp 18 trở lên Thầy vừa dạy học, Thầy cũng vừa học luôn trong lớp học với anh chị em đó.
    Anh chi em đi học và cũng mang theo nhiều những linh hồn tổ phụ ông bà và các Đấng có duyên khác đi theo và các linh hồn này cũng học hỏi cùng anh chị em mà anh chị em không biết đó, công đức công quả của anh chị em lớn lắm. Chứ đừng thấy người ta già 80 hay 90 tuổi còn đi học các lớp cao cấp là chỉ vì sức khỏe đâu, các cụ này là sứ giả dẫn đường cho biết bao các linh hồn ngang tầm các Đấng sang Úc châu này học với Thầy đó nghe.
    Đi học là đi nhận nhiệm vụ mới, đi nhận bài học mới, đi nhận quyền năng tình thương mới mà bảo vệ chính mình, gia đình, xã hội của anh chị em trước những giờ phút cam go của hành tinh nhỏ bé rất đỗi yêu thương này, mà Thượng Đế đã gầy dựng trong hàng tỷ năm qua. Nơi đó có con người, mô hình thí nghiệm về sự sống vi diệu trong không gian ba chiều của Ngài.

    MK: Kính thưa Thầy vậy năm Nhân Loại sẽ là năm nào a!

    Thầy: Muốn có năm Nhân Loại để hành động phải không? Muốn chết hay sao? Thầy chỉ muốn dừng lại ở năm Giác Ngộ thôi, nếu nhiều anh chị em minh triết giác ngộ, nhiều Lương Minh Đáng mới ra đời thì sự an bài cho trái đất của Thượng Thiên hoàn tất. Còn nếu các con còn cứng đầu thì ráng chụi, muốn có năm Nhân Loại sẽ có năm Nhân Loại, đó là ngày giờ không mong đợi kia đến.
    Thầy nhắc lại để anh chị em nhớ là “đời giúp ta sáng tỏ đường đạo, ta giúp đời những lúc gian nan”. Hãy cám ơn tất cả các vị đã tạo ra thử thách cho từng anh chị em và cho ngành nhân điện vì họ là những vị đã tiến hóa xin được xuống trái đất này tình nguyện làm việc dở để cho chúng ta học bài học dở, xong rồi mới tiếp thu những bài học mới nhất, bài học thực hành tình thương, bài học 101.
    Anh chị em hãy nghĩ lại mà xem, trong những hoàn cảnh riêng của mình, anh chị em học được bài học dở, thì những tác giả tạo ra bài học đó hết dở và có khi lại trở nên tuyệt vời là đàng khác. Người đã tạo ra được bài học cho anh chị em thì họ cao hơn anh chị em đó. Anh chị em nghe cho kỹ, hiểu cho thấu bài học mới nhất 2007 đó.
    Gọi năm 2007 này là năm Giác Ngộ và chí ít cũng phải 3 năm nữa mới hoàn thành, Thầy trù như vậy và đêm nào Thầy cũng xin Ngài nương tay cho nhân loại. Rồi một đêm cuối năm, Thầy chìm trong nhập định chẳng thấy Ngài đâu và chỉ còn lại mình với mình thôi.
    Muốn nhân loại mới ra đời, giai đoạn hậu con người ra đời để thích nghi với cuộc Đại Tạo của Ngài, thì ráng mà học hỏi tiến hóa, chứ không phải đi tu theo các mô hình cũ sẽ chẳng có ích lợi gì. Còn muốn có năm Nhân Loại thì cứ việc cứng đầu. Tương lai phụ thuộc vào hành động của hiện tại, vì tất cả những bài học trong quá khứ đã hết ý nghĩa, nên dùng không có tác dụng, lợi ích gì. Thầy từ xa lắm, cùng anh chị em xuống trái đất lần này là để giúp nhân loại qua cơn thử thách cuối cùng này. Biết thì sống, còn ngoài ra thì tự lãnh nhận bài học như loài Khổng long hồi nào đã chụi.

    MK: Thưa Thầy kính yêu, ngày nay để có năng lượng phát triển kinh tế xã hội, con người gia tăng hút dầu ngoài thềm lục địa và đồng thời xây các đập nước lớn phía thượng nguồn các dòng sông để làm thủy điện. Hút dầu, hút khí đốt sẽ làm rỗng tầng đất bề mặt trái đất, trong khi đó lại ngăn nước, tạo đập sẽ gây ra trọng lực lớn dồn xuống địa tầng phía dưới và nguy cơ động đất sảy ra là rất lớn, do sự dịch chuyển địa tầng phía dưới. Xin Thầy cho giải pháp để giảm nhẹ nguy cơ thảm họa các đập nước nước lớn vỡ do động đất.

    Thầy: Đây là một câu hỏi mang tính khoa học, thực tế rất đáng để anh chị em quan tâm, nhất là các quốc gia đang có các công trình thủy điện lớn như Trung Quốc, Việt Nam. Khi thiết kế đập nước thì các nhà khoa học cũng tính toán đến nguy cơ động đất sảy ra ở dưới chân đập nên cũng không can gì mà lo.
    Cái đáng lo nhất là hiện nay cường độ động đất ngày một lớn, nằm ngoài sự tính toán của khoa học. Các cơn động đất và bão ở Thái Bình Dương đổ bộ vào Phillipine và Việt Nam năm 2006 là một ví dụ điển hình. Thầy được các nhà khoa học địa chất ở Việt Nam cho biết vùng Sơn La và Hòa Bình nơi có những đập nước lớn là một trong những trung tâm động đất của Việt Nam. Tuy cường độ động đất ở vùng này trước đây không cao, nhưng cũng dè chừng sự đột biến về cường độ từ năm 2007 trở đi. Biết rồi ráng mà làm nghe!
    Chuyện làm ăn kinh tế thì phải chấp nhận mạo hiểm, “được ăn cả, ngã về không” chuyện lớn mang tầm quốc gia hãy để các vị lãnh đạo lo. Nếu anh chị em biết sợ thì hãy bảo nhau truyền điện thường xuyên cho các đập nước của quốc gia mình và càng có nhiều anh chị em nhân điện ở quốc gia quan tâm về vấn đề này thì đừng có lo.

    MK: Gần đây trong các lớp học cao cấp nhất của ngành nhân điện, Thầy cho phép chúng con sử dụng kỹ thuật mới nhất để chữa bệnh bằng cách nhập linh hồn mình vào người bệnh để chữa bệnh, chữa cái tâm bệnh, khởi nguồn cho thân bệnh của họ. Kết quả thật tuyệt diệu và xin cám ơn Thầy rất nhiều. Tuy nhiên chúng con còn điều muốn hỏi rằng: làm như vậy, mình có vi phạm quyền tự do của người khác không thưa Thầy?

    Thầy: Nhân câu hỏi này Thầy bổ túc cho anh chị em nhiều bài học mới để anh chị em cùng nghiên cứu học tập. Ngoài khơi xa, dân sứ chài quê Thầy hay đánh bắt cá vào ban đêm, nhất là vào những đêm trăng sáng, cá tôm nhiều vô kể. Rồi một hôm có một học viên nhân điện chỉ vào ngọn hải đăng và bảo mọi người rằng sắp có bão tố lớn sảy ra, mọi người hãy đổ thuyền cá đi mà chạy vào bờ gấp theo hướng ngọn hải đăng.
    Khi mà trời yên biển lặng, cá tôm đầy khoang, mà lại bảo người ta dõi theo cây hải đăng vào bờ tránh bão thì ai tin được đây. Bấy lâu nay anh chị em đã hết sức cố gắng thuyết phục bà con đi học nhân điện vì thương người ta, muốn giúp người ta, cũng nằm trong cái ngữ cảnh này và hãy thông cảm cho bà con còn do dự đi.
    Thầy nói rộng ra như vậy để anh chị em dễ hiểu mà tiếp thu câu hỏi chính, bài học mới nhất đây. Một người cứ khăng khăng đi vào một vùng đất có mìn để lại trong chiến tranh (ở Việt nam quê Thầy có những bãi mìn mà lính Mỹ để lại), học viên nhân điện bảo họ đừng đi vào vùng đó sẽ nguy hiểm cho tính mạng, nhưng người này không tin, cứ đi. Vậy anh chị em sử lý tình huống này ra sao? Tôn trọng quyền “tự do” của họ hay cầm tay họ kéo lại, dù có bị họ la mắng? Chọn đi, hiểu đi! Nhập vào giúp người ta, cứu người ta khỏi cơn hoạn nạn bệnh tật, khỏi sự cám dỗ cuồng si, mà còn bầy đặt chuyện tự do ở đây, thì thật là vô minh. Thầy bổ túc thêm cho anh chị em chữ tự do là tự do đi giúp người, đó mới là chữ tự do cần học.
    Nhân câu hỏi này Thầy cũng thương cho một số anh chị em, đã có các công thức nhân điện từ lớp 5 trở lên, có thể truyền điện từ xa, truyền âm thầm cho người ta để giúp người ta, nhưng mà vẫn chưa làm được mấy, ngay cả cho chính mình, vì anh chị em bị mất tự do với chính bản thân mình. Quen cái lối sống được người khác, chờ người khác giúp là mất tự do đấy.
    Nay Thầy dạy, Thầy truyền cho anh chị em phương tiện nhân điện để anh chị em tự cứu mình, để có tự do thực sự, chủ động giúp mình, giúp người thực sự, thì anh chị em lại e dè, không tin vào chính tiềm năng ẩn chứa trong con người anh chị em, sau khi đã nhập môn nhân điện.
    Mình làm thì mình biết, đàng này lại cố gắng chứng tỏ quyền năng của mình bằng cách tuyên truyền thái quá các kết quả thực hành nhân điện, mà mình đạt được, để được người đời và anh chị em đồng môn tôn vinh. Trường hợp này cũng khá nhiều và thương cho anh chị em này vì họ cũng đang tự làm mất đi chữ tự do thiêng liêng đi giúp người của chính mình.
    Quê Việt Nam Thầy có câu “làm phúc phải tội” muốn nói lên rằng đi giúp người cũng khó, giúp thật thì họ không tin, còn giúp giả thì người đời lại tin. Đó chính là những chuyện “bếp núc” cuộc đời và ẩn chứa nhiều bài học hay. Mong anh chị em sớm vượt qua cái thói quen chờ đợi được người khác giúp, thực sự trở thành con người mới tự do đi giúp người bằng sự chuyên cần, âm thầm, vô danh để đón nhận hai chữ tự do thực sự.

    MK: Kính thưa Thầy chân lý là thay đổi và thay đổi sẽ tìm được nhiều điều mới lạ trong đời sống và học hỏi tiến hóa để minh triết giác ngộ cũng chính là quá trình thay đổi toàn diện để tiếp thu bài học mới, mà Thầy thường gọi dung dị là bài học thứ 101.
    Các vị minh sư trong những thời đại trước, nhiều người tài giỏi, nhưng cũng chỉ học được bài học thứ 100, đã tưởng mình giác ngộ, vội vàng xuống núi hành đạo và cho đến nay cũng chưa giúp được nhân loại tiến hóa được là bao, ngoài những pho sách khổng lồ để lại, đọc thì hay, mỹ cảm, mỹ từ, nhưng áp dụng vào trong đời sống thì khó khăn vô cùng.
    Nay Thượng Thiên cho phép ra đời ngành nhân điện dưới sự chỉ dạy của Thầy để có được chìa khóa tình thương của Đấng Thượng Thiên, mở ra nền văn minh hậu con người. Xin Thầy cho chúng con biết thay đổi nào là khó nhất đối với nhân loại, có vậy mới có thể giúp con người tiến bộ tiến hóa để khai thác khả năng tiềm ẩn của con người mà sống hạnh phúc, an nhiên và may mắn trong thời đại ngày nay với nhiều rủi ro trong đời sống.

    Thầy: Cái khó nhất với bất cứ ai còn làm người là thay đổi thói quen. Nhưng con người thường sống với thói quen vì nó dễ sống, lại ít phải thay đổi trong cuộc đời, ít hao mòn thể xác cũng như năng lượng cho tư duy. Tóm lại sống bằng thói quen là sống với yếu tố tĩnh nhiều hơn là động. Các thiền sư trong mọi thời đại tu hành trong cái tĩnh nơi rừng xanh núi hẻm (tu trong cái tĩnh của không gian ba chiều thôi), nay Thầy dạy cho anh chị em học hỏi tiến hóa trong cái động, cái xã hội hiện đại loạn động mà vẫn thành công mới là chuyện lịch sử đông tây kim cổ chưa từng ai biết đến. Chúng ta tìm ra không gian tĩnh lặng, không gian tâm linh thực ngay trong cái động của cuộc sống hiện đại thường nhật để kết nối với trường tâm linh Thượng Đế mà học hỏi tiến hóa, chứ không phải đi tu ở nơi hoang vắng, lẩn tránh đời sống con người. Tu như vậy là tu cho mình, kiểu tu này cũng có cái lý của nó, nhưng thực hiện được, thành công được thì khó khăn vô cùng.
    Còn tu kiểu nhân điện là tu cho mọi người, để thực sự biến thể xác con người thành cỗ máy tiến hóa vạn năng của Thượng Đế cho muôn loài, hướng dẫn muôn loài tiến hóa. Đây cũng là bài học mới, để anh chị em cảm nhận cái thâm sâu của các chiều không gian mà ngành nhân điện đang tiếp cận. Ai cũng tu tâm dưỡng tính được vì mô hình nhân điện là “đời đạo song hành”.
    Tĩnh ở không gian ba chiều thì cơ hội bảo toàn năng lượng dường như cao hơn là động, an toàn hơn, đó là cách tư duy của đa số nhân loại. Xét theo lô gic tự nhiên thì cũng đúng, quả địa cầu này tuy to lớn với cặp mắt con người, nhưng so với đại càn khôn vũ trụ nó nhỏ xiu như những hạt cát ngoài biển khơi. Cái động của quả đất nhìn với tư tưởng vũ trụ thì coi là một điểm chấm không động đậy.
    Cái đặc tính vũ trụ bảo toàn năng lượng đã ẩn trong cấu hình tư tưởng ưa cái tĩnh của con người, nên con người thích tĩnh tại, thích an toàn hơn là vận động, là tìm kiếm, là khám phá cái mới mẻ trong đời sống hàng ngày.
    Tuy nhiên sống lâu bằng cái tĩnh sẽ dễ nhàm chán và con người bất cứ là ai cũng muốn tìm kiếm cái động để sống, để được kích chấn, để linh hoạt. Muốn như vậy, phải đứng dậy vận động, tư duy thường xuyên năng động thì mới có cái động, có cái mới để cảm nhận.
    Đàng này cái nào cũng muốn, muốn ít cọ sát với trường đời để mưu cầu an toàn, lại muốn có nhiều cái mới trong đời sống, nhưng không chụi vận động tìm lấy. Từ đó sinh ra một tư duy chờ cái mới do người khác đưa lại hơn là tự vận động đi tìm cái mới. Đây chính là thói quen khó bỏ nhất trong bộ những thói quen của con người hiện nay.
    Bài học 101 chính là bài học thực hành, bài học động, bài học sử dụng năng lượng vũ trụ vào đời sống nhân sinh, bài học sử dụng tình thương thật của Thượng Thiên giúp hóa giải khổ đau, bế tắc của con người, bài học làm sạch môi sinh tâm linh và môi sinh vật chất, giảm nhẹ động đất sóng thần ngoài tự nhiên và quan yếu nhất là động đất sóng thần trong lòng con người hiện đại.
    Thay đổi thói quen từ nói nhiều làm ít sang nói ít làm nhiều, cái này khó khăn lắm nhưng chúng ta đã thành công, thiên hạ phải “khẩu phục tâm phục” nói như ngôn ngữ chân quê Việt Nam về những kết quả nhân điện mang lại cho hạnh phúc con người.
    Thay đổi thói quen quan yếu nhất là chờ người khác trợ giúp, sang thói quen tự chủ giúp mình và giúp người và thực chất, đây là phong cách của con người mới biết sử dụng năng lượng vũ trụ trong mọi khía cạch của đời sống thường nhật.
    Thay đổi thói quen chỉ biết nhận mà ít biết cho sang thói quen chỉ biết cho (cho năng lượng vũ trụ) mà không nhận thành tích thành quả do hoạt động nhân điện mang lại.
    Thay đổi thói quen sở hữu, đó là buông bỏ sự sở hữu của vật chất đối với mình, mà gọi nôm na làm nô lệ cho vật chất (vật chất đang sở hữu nhân loại). Từ đó sẽ có cơ hội để chuyển tư duy mới là con người vẫn dùng vật chất, nhưng chỉ với mục đích là phương tiện sống, chứ tuyệt đối không bị lệ thuộc vào vật chất, con người tự do.
    Thay đổi thói quen tâm linh giáo điều, thường xuyên van vái, quỳ lạy, dâng cúng vật chất cho thần linh, Thượng Đế, Trời Phật tối ngày, sang hành động tình thương, là sứ giả của Thượng Thiên đi trao món quà tình thương, món quà năng lượng mới, năng lượng vũ trụ cho con người và muôn loài.
    Thầy nhắc lại rằng: anh chị em còn quý, còn cho bất cứ cái gì là nhất, là chính, là tối quan trọng, là không thể thay đổi, thì thực chất anh chị em đang bị chính cái mình quý trọng nhất, nó sở hữu mình và anh chị em sẽ mất đi quyền tự do thiêng liêng mà Tạo hóa ban tặng cho.
    Tự do đích thực là tự do đi giúp người vô điều kiện. Nền văn minh nào, tư tưởng nào, đạo đức nào, đạo giáo nào mà dạy anh chị em đi giúp người vô điều kiện, không phân biệt đẳng cấp, đích thực là những tư tưởng mới anh chị em nên học tập. Nên nhìn vào hành động giúp người của người ta mà học, sẽ tránh được bức màn vô minh của mỹ từ che đậy bản chất thật của tự do.
    Bài học mà Thầy đã dạy cho anh chị em đó là: động nhưng tĩnh và tĩnh nhưng lại động, anh chị em nhớ cho kỹ. Điều này đương nghĩa với làm như không làm và không làm mà lại là làm. Cái luân xa số 6 để truyền điện từ xa chính là công cụ để anh chị em sử dụng quyền tự do thầm kín của mình đó.
    Kết quả chữa bệnh bằng nhân điện vi diệu lan truyền khắp nơi, ai cũng biết là yếu tố động và Thầy khuyên anh chị em khiêm nhường, lại mang đặc tính tĩnh để cân bằng, hay để tĩnh tĩnh - động động giao hòa. “Sắc sắc không không” thể hiện trong đời sống nhân điện là cái ý này đây. Chưa mấy ai từ trước tới nay đã biết sử dụng chân lý này của nhà Phật thành công, nay từ một hành động nhân điện đơn giản chúng ta thực hành ngay được, đó là phút giây anh chị em truyền điện cứu người, cứu những linh hồn bất tử bất diệt siêu thoát làm sạch môi sinh tâm linh trên quả địa cầu này.
    Thầy cho biết thêm, một số quốc gia, trong đó có quốc gia lân bang với Việt Nam, các thầy phù thủy làm sạch môi trường tâm linh ở nước họ, bằng cách nhốt các linh hồn bất diệt bất tử (chỉ nhốt chứ không có khả năng giúp các linh hồn siêu thoát) và cả những linh hồn tiến hóa cao vì những mục đích riêng tế nhị của họ. Giống như chất thải hạt nhân, người ta thường mang tới các nước khác để đổ với con bài ngụy trang là để tái chế.
    Vì vậy đi bất cứ nơi đâu nếu thấy có báo hiệu về sự có mặt của các dạng năng lượng này (negative energy) anh chị em ráng giúp họ siêu thoát, mình được công đức công quả, môi trường tâm linh sạch thì tai nạn xe cộ hay dịch bệnh cũng sẽ bớt đi nhiều. Nói ít hiểu nhiều ráng mà làm và với cách tư duy mới thì đây là cơ hội để anh chị em làm việc, chứ cũng đừng trách ai, nhân loại cả đó. Họ không có khả năng giúp các linh hồn loại này siêu thoát thì mình làm vậy thôi.
    Coi cho kỹ, khi truyền điện chữa bệnh cho người ta mà mình ở trạng thái: thấy đó mà không thấy, người bệnh đó mà không phải, thì chữa bệnh chắc ăn. Làm bất kỳ một việc gì nếu cảm giác này xuất hiện thì anh chị em yên tâm và khỏi cần hỏi kết quả ra sao, chắc chắn kết quả sẽ ngoài ý muốn.
    Anh chị em nào muốn viết cũng vậy, viết trong trạng thái “sắc sắc không không”, viết trong trạng thái thiền sẽ được sự chỉ dẫn của các băng tầng năng lượng cao cấp, viết không phải nghĩ, viết không phải cấu trúc nội dung trước và người đọc, đọc bất cứ đoạn văn nào cũng có thể lãnh nhận được cái hồn, cái thần của mạch văn hay tư liệu khoa học, mà không phải đọc thứ tự từ đầu đến cuối bài viết.
    Thay đổi thói quen vô cùng khó, nhưng thay đổi tâm linh rồi thì thói quen nào cũng có thể thay đổi được. Thay đổi tâm linh là quá trình thanh lọc các băng tần sóng não bộ ẩn chứa âm tần, để đón nhận các băng tần sóng mới từ vũ trụ (thuần dương) giúp cho các tế bào siêu điện ảnh (super nervous cell) vốn bị các âm tần che phủ, nay được giải phóng và tiềm năng của con người được khơi dậy. Các Gene thay đổi thói quen thức dậy thì mới thay đổi thói quen được.
    Thay đổi tâm linh là cái gốc để có con người mới minh tuệ mang Gene Thượng Đế, là cái gốc để tiềm năng sáng tạo của não bộ khai mở, là cái gốc của sự tiến hóa, là cái gốc của minh triết giác ngộ và là cái gốc cuộc sống vĩnh hằng.

    MK: Kính trình Thầy, hiện nay có một quan điểm được nhiều người sử dụng để giải thích các hiện tượng tâm linh đó là “Dương thế sao thì Âm thế vậy”. Xin Thầy chia sẻ đôi điều để chúng con học hỏi a!

    Thầy: Nhân câu hỏi này, Thầy chia sẻ để anh chị em cùng suy ngẫm. Một hiện tượng tâm linh có thể có nhiều cách cảm nhận khác nhau và tùy vào cảm nhận hay băng tần cảm nhận của từng cá nhân. Đó chính là tính chất đa chiều của tâm linh, mà Thầy gọi là băng tần tổng hợp đó. Khi cảm nhận hiện tượng tâm linh 10 phần thì anh chị chỉ diễn tả được bằng lời giỏi lắm là 1 phần. Vì vậy trước những hiện tượng tâm linh thì chỉ có ai trực tiếp chứng kiến mới có cơ duyên mô tả hay giải thích gần với sự thật và cũng chỉ một phần thôi. Người Việt Nam quê Thầy có câu “ăn ốc, nói mò” ý muốn nói rằng không chứng kiến sự việc, võ đoán, phán lung tung sẽ không khỏi mắc phải sai lầm.
    Cái cách dễ nhất trong sự cảm nhận tâm linh là sử dụng công cụ đời sống trần gian để diễn đạt cảm nhận tâm linh của mình và bằng tư duy “dương sao âm thế” dễ thuyết phục được người nghe chú ý đến hiện tượng lạ đã là nguyên nhân sinh ra các hoạt động mê tín dị đoan. Nhiều dạng thầy bói, thầy cúng láu cá, một chữ thánh hiền chưa biết, nhưng xưng danh xưng tánh là thầy nọ cô kia. Ai lại khuyên người ta đốt cả xe hơi nhà lầu bằng giấy cho người đã khuấn núi băng hà thì thật là vô minh.
    Lịch sử nhân loại chưa có ai từ cõi âm trở lại mô tả thế giới này như thế nào cả, nên cũng dè chừng cái kiểu tư duy quy nạp này. Ngành nhân điện không dạy anh chị em đi tìm kiếm các hiện tượng tâm linh lạ để nghiên cứu, giải thích này nọ, mà chỉ dạy anh chị em công việc của một người sứ giả mang năng lượng vũ trụ, năng lượng tình thương, hào quang Thượng Đế đi cứu giúp những người bệnh, tăng sản cây trồng vật nuôi và hạn chế tác hại của các thảm họa tự nhiên. Đừng bao giờ anh chị em xa vào những cái chuyện lang thang đi tìm kiếm giải thích các hiện tượng tâm linh như vậy. Ai làm là việc, là chức năng của người ta.

    MK: Kính thưa Thầy, xin Thầy dạy cho chúng con ý nghĩa mới nhất của thiền định và ra ngoài không gian?

    Thầy: Thế giới tâm linh là thế giới vô hình, vô thanh, vô sắc và khi con người có cơ duyên giao hòa với thế giới tâm linh (thiền đinh, nhập định hay ra ngoài không gian) thì trong thời khắc giao tiếp đó những quy luật ở thế giới hữu hình tạm hết ý nghĩa và các sóng điện trong não bộ thay đổi, vì nó được trường tâm linh Thượng Thiên điều khiển để thay đổi. Thay đổi để tiến hóa, để tiếp nhận băng tần sóng điện mới, để đón các Đấng ngự vào cõi lòng mình, để các Đấng chỉ dạy cho anh chị em học hỏi, nói nôm na hình tượng như vậy cho dễ hiểu dễ nghe. Chứ các ổng ấy nhờ Thầy giúp cả rồi, vì mấy ổng đã dạy anh chị em mãi mấy ngàn năm nay, càng dạy, anh chị em càng tiến hóa tụt lùi. Bài học cũ dạy vào thời đại mới khó khăn lắm.
    Thiền hay ra ngoài không gian có cùng một ý nghĩa, nhưng khác nhau về cấp độ đừng nhầm lẫn sẽ lãnh hậu quả và vi phạm thì ráng mà chụi. Ý Thầy muốn nói là: muốn tiếp cận với kỹ thuật ra ngoài không gian, anh chị em phải học từ lớp 16 trở lên, vì được Thầy truyền điện, trao cho năng lực mới, giới thiệu các Đấng mới đến giúp, thì mới có thể thực hành được.
    Khi thiền hay ra ngoài không gian, những thông điệp dạng sóng đặc biệt sẽ cập nhật tới các tế bào siêu điện ảnh trong não bộ anh chị em, để giúp cơ thể vật chất bằng xương bằng thịt của anh chị em được tắm trong trường tâm linh vô hình, trường tâm linh Thượng Đế.
    Lúc đó nhịp sinh học của cơ thể anh chị em, đồng pha với các băng tần sóng điện ngoài không gian. Các giác quan mới lạ ẩn chứa trong não bộ của anh chị em thức, ứng với chiều không gian tâm linh vô hình mà anh chị em tiếp xúc. Từ đó, những cảm giác siêu thoát, nhẹ nhàng, thanh tao, an toàn được dấy lên trong anh chị em, đó chính là lúc các thông điệp “rác” trong đời sống hàng ngày của anh chị em như thông điệp sân hận, đố kỵ, ích kỷ v.v chuyển thể thành các sóng điện mới gần với băng tần của vũ trụ, băng tần toàn thiện, băng tần từ bi, băng tần tình thương. Tình yêu con người và muôn loài vạn vật được khơi dậy trong cõi lòng anh chị em từ những giây phút thay đổi tâm linh này. Đây là quá trình thay đổi và là bản chất của sự tiến hóa.
    Học trong vô thức cũng diễn ra song hành trong lúc anh chị em thiền định, ra ngoài không gian, vì rằng não bộ con người giống như một cái túi đựng toàn các sóng điện dạng “rác” như đã nói ở trên, làm cho không gian não bộ chặt cứng những thông điệp loại này, nên không còn chỗ để chứa những thông điệp mới. Nhờ công phu luyện tập, quá trình thanh lọc các thông tin “rác” này, nên cái túi kia có chỗ để anh chị em tiếp nhận cái mới trong đời sống.
    Cái mới trong đời sống đâu có phức tạp mà lại là cái rất đơn giản đó là tình yêu thật của con người với con người và cái mới ẩn chứa trong mỗi hành động việc của con người hướng tới việc giúp mọi người tiến hóa thì thanh cao lắm.
    Học trong vô thức là học bài học tâm linh mới, thật vậy cấu hình tư tưởng của anh chị em mang tính chất mới, đồng dạng với cấu hình tư tưởng tự nhiên, nên nó ẩn chứa sức mạnh tự nhiên siêu việt, mà người đời thường nói đó là sức mạnh tình thương. Ở quê Thầy, thuở chiến tranh có những bà má quê mùa thôi, nhưng dám đứng chặn một đoàn quân để bảo vệ sự bình an cho xóm ấp quê má.
    Khi cấu hình tư tưởng tình thương đã mạc định trong anh chị em, thì đó là trạng thái con số (0) được hình thành, các công thức nhân điện Thầy dạy cho anh chị em sẽ phát huy sức mạnh tình thương của nó để giúp đồng bào mình qua cơn hoạn nạn thử thách của bệnh tật hay thảm họa tự nhiên.
    Thiền nhân điện dừng lại ở cấp lớp nhập môn nhân điện, để anh chị em làm quen với thế giới vô hình thôi và lên các lớp cao thầy có khuyên anh chị em thiền đâu nào? Tuy nhiên anh chị em có nhu cầu thiền cũng không sao. Anh chị em có biết vì sao không? Ngành nhân điện là ngành thực hành, khác hoàn toàn với các trường phái thiền còn lại, người ta thiền vì mục đích cho cá nhân họ là chính, còn nhân điện thiền không chỉ cho mình, mà thiền là truyền điện, hay truyền điện trong trạng thái thiền giúp người và muôn loài tiến hóa. Chính vì vậy mà Thượng Thiên tiếp tục trao chìa khóa cho Thầy và Thầy trực tiếp trao lại cho anh chị em những công thức nhận điện mới nhất, hiệu quả nhất giúp mình, giúp đời và giúp muôn loài.
    Lẽ ra lớp học nhân điện dạng ngắn ngày phổ cập hiện nay chỉ dừng lại lớp 13 gì đó là vừa, nhưng Thầy nhận thấy anh chị em thích nghiên cứu nhân điện, nhưng lại nhác tập, nhác hành động, nên buộc phải bổ túc mãi, đến hôm nay là lớp 19 rồi, mà xem ra vẫn chưa xong. Thầy nhắc để anh chị em nhớ ngay ở lớp 13 Thầy nhủ anh chị em hàng ngày truyền điện cho các vùng miền để hạt giống tình thương, hạt giống bồ đề đến với muôn loài vạn vật, để những băng tần bất diệt bất tử, các cô hồn nương vào điện năng anh chị em phát ra, mà siêu thoát, mà tiến hóa theo đường hướng của Ngài, đỡ rối loạn trật tự xã hội.
    Nhưng đã mấy ai làm việc này đều đặn thương xuyên, được một vài buổi rồi anh chị em chán. Thầy đành phải mở lớp bổ túc sau này và muốn ra ngoài không gian thì anh chị em phải truyền điện thật nhiều cho các vùng miền. Do thích ra ngoài không gian nên anh chị em đã tích cực luyện tập, nên anh chị em thấy đó thế giới thay đổi như thế nào. Người ta lo chiến tranh lớn sảy ra làm phương hại đến sự sống muôn loài, nhưng đâu có lớn đến mức đó. Động đất sóng thần, bão tố cũng vậy cường độ và tần xuất khi bão vào đến đất liền giảm rất nhiều nghe! Nếu không thì chết hết.

    MK: Kính thưa Thầy, xin Thầy nói rõ thêm về phương pháp truyền điện có hiệu quả nhất để chúng con noi theo mà làm?

    Thầy: Lại thích hiệu quả, lại thích thành tích là tham đó con a! Làm các công thức nhân điện đi sẽ rút tỉa được kinh nghiệm, làm sẽ có bài học riêng của mình, làm sẽ sáng tạo, chứ học kinh nghiệm của Thầy và làm theo là giáo điều đó nghe. Thôi cũng được, chia sẻ đôi điều với anh chị em đây. Truyền điện là thuật ngữ khoa học để anh chị em dễ hiểu, dễ làm chứ thực ra là truyền cấu hình tư tưởng tự nhiên, truyền năng lượng tình thương, truyền năng lượng vũ trụ, truyền hào quang Thượng Đế, gieo hạt giống bồ đề, cấy Gene Thượng Đế cho người trong cơn đau bệnh, khổ đau, bế tắc hoạn nạn.
    Truyền điện còn được hiểu là thần giao cách cảm với con người và muôn loài, nói là giao hòa mình với muôn loài cũng được, nói là điều khiển, hiệu chỉnh những sai sót lầm lạc trong đường hướng tiến hóa của muôn loài để nó tiến hóa theo theo đường hướng tự nhiên cũng được. Trạng thái truyền điện chính là trạng thái “đồng nhất thể” của Đông Phương triết học Thầy Lương Minh Đáng đó. Mình và người, mình và muôn loài giao hòa, đồng pha với nhịp thay đổi của vũ trụ, mà mình là yếu tố chủ động trong quá trình này.
    Muốn truyền điện có hiệu quả, anh chị em phải biết tìm ra ý nghĩa của mỗi lần truyền điện. Hôm nay nhớ ba má, con truyền điện, thần giao cách cảm với người để giúp người khỏe mạnh sống lâu trăm tuổi, để bồi hoàn công đức sinh thành ra con được trưởng thành như hôm nay và ý nghĩa sẽ khác và hiệu quả cũng ngoài mong đợi. Thể xác ba má có thể không biết anh chị em truyền điện, nhưng linh hồn ba má anh chị em biết, và họ nương nhờ vào dòng điện đó mà khỏe mạnh và cũng học hỏi tiến hóa nhiều phần.
    Hôm sau truyền điện cho người ghét ta và xin gửi món quà tình thương, năng lượng vũ trụ tới anh chị, cô bác những vị tiến hóa cao đã nguyện xuống trái đất này dạy dỗ tôi bằng cách tạo ra bài học dở cho tôi học hỏi và được trưởng thành tiến hóa như hôm nay. Ý nghĩa của truyền điện khác lắm, không chỉ anh chị em thấy nhẹ nhõm thanh thản, mà chỉ vài bữa sau người dở kia có khi thương anh chị em và họ cũng hết dở vì đã hoàn thành nhiệm vụ với Thượng Thiên.
    Thấy có động đất, bão tố, sóng thần, chiến tranh, dịch bệnh, tự nhủ mình: xin gửi dòng điện này tới bà con tội nghiệp, tới muôn loài đang chìm trong cơn hoạn nạn, cầu nguyện cho anh linh của Thượng Thiên cứu độ những bà con sấu số này. Ý nghĩa của truyền điện nâng lên tầm của Đấng “cứu nhân độ thế” đó.
    Thôi vậy là đủ cho những tâm nguyện muốn biết thêm bài học mới nhân dịp đầu xuân 2007 này, lần sau Thầy sẽ tâm sự nhiều nghe, nhớ cho kỹ ngành nhân điện là hành động, hành động sẽ nảy sinh sáng tạo. Thầy vui khi anh chị em ngày càng trưởng thành, xin chào tất cả và nhớ anh chị em nhiều!.

    MK: Chúng con thành kính cám ơn những lời dạy bảo quý báu của Thầy nhân đầu năm mới 2007 này và nguyện xứng đáng là học trò của Thầy.

    Nhớ mẹ nhân loại

    Mùa xuân bên bến sông quê*
    Nhớ con cuốc cuốc** nặng nề thăng hoa
    Nhớ từng ngọn cỏ nhành hoa
    Đẫm trong sương sớm còn nhòa ánh trăng

    Nhớ Người rạm nắng hồng nhan
    Lo xong bữa sáng xốn sang bữa chiều
    Quê mùa một chén cơm niêu
    Tảo tần khua sớm sống liều đợi con***

    Vẳng nghe chim gọi đầu non
    Bâng khuâng nhớ mẹ héo mòn vì con
    Lời quê mộc mạc nỉ non****
    Nhớ mẹ con thấy nước non rạng ngời

    * Sông quê, sông Mê Kông, sông Cái, Great River thở nào của đại lục Atlantic đã chìm xuống biển Đại Tây Dương trong cơn đại hồng thủy kinh hoàng khoảng 200 ngàn năm trước đây và nay có thể là dòng Mê Kông thơ mộng ân tình.
    ** Chim cuốc cuốc là loài chim đặc biệt, quê Thầy, vào dịp cuối đông và đầu xuân nó kêu xuốt mấy tháng ròng, tiếng kêu đều đều như tiếng mõ chùa, mủi lòng con tới cõi xa xăm, kêu đến khi thân thể héo mòn, rã cánh mới thôi và hóa thân mà không ai còn biết đến.
    *** Đợi con: chờ đợi trong kiên nhẫn ngày trưởng thành khôn lớn của đàn con yêu thương của mẹ, ngày minh triết giác ngộ của nhân loại,
    **** Nỉ non là tiếng khóc của trẻ thơ, khóc hờ nũng mẹ.

    Bài thơ này xin kính dâng mẹ kính yêu, người mẹ nhân loại ngự ở Đền Thờ Tổ Tiên Nhân Loại, đã hy sinh tất cả cho con cái Ngài trong mọi thời đại!

  2. #2

    Mặc định

    Mình đã dăng phần 2 của Giáo trình tâm linh nhân điện MEL ở bài "Dừng đăng GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN" của bạn Richardhieu05 Nên ở đây mình chỉ gửi lên phần cuối.

    KHOA HỌC TÂM LINH
    CHƯƠNG XXI: CON NGƯỜI MỚI - VÔ DANH

    HVNĐ: Kính thưa Thầy! Muốn có tự do để đi giúp người bớt đau khỏi bệnh, làm dịu những bế tắc trong đời sống chúng con phải biết vô danh. Xin kính trình Thầy bổ túc thêm cho chúng con về chủ đề này.

    Thầy: Đã có lần Thầy nói với anh chị em rằng "Thầy và anh chị em là những chiến sỹ vô danh, giúp cho nhân loại và muôn loài tiến hoá". Nhiều lần trong các lớp học Triết Học Đông Phương, Thầy nhắc lại ý này và hôm nay nhân câu hỏi anh chị em đưa ra, Thầy chia sẻ đôi điều mới nhất để tất cả anh chị em cùng học hỏi.
    Ngay ở tiền sảng Đền thờ Tổ tiên Nhân loại đặt tại Úc châu, Thầy cho đặt tượng đài Chiến sỹ Vô danh, để tưởng niệm những người đã có công tạo dựng nên thế giới này trong mọi thời đại. Ở bất cứ quốc gia nào cũng có những người anh hùng của từng thời đại được dân chúng ngưỡng mộ lập bia tưởng niệm, có nhiều nơi còn lập đền thờ tôn vinh họ như những Thánh nhân. Điển hình là đền thờ ông Quan Công có ở nhiều nơi trên đất nước Trung Hoa, đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo ở Việt Nam.
    Lịch sử thế giới là lịch sử của chiến tranh và dường như trong cái thời buổi được coi là văn minh tiến bộ này, chưa lúc nào thế giới thật sự có hoà bình dù chỉ là một ngày. Đâu đó vẫn còn bom rơi đạn lạc và những cái chết thương tâm của người vô tội. Thượng Đế tạo dựng thế giới này bằng cách sinh ra con người và muôn loài theo ý muốn của Ngài, vậy sao Thượng Đế lại không cho con người được hưởng hoà bình? Đây là một câu hỏi trách cứ vô minh.
    Thật vậy, hình mẫu khởi thuỷ của con người là vô danh, giống như muôn loài sinh vật trên thế gian này và thời tiền sử đâu có chiến tranh. Từ khi con người xuất hiện đầu óc phân biệt, phân biệt sự khác nhau giữa họ để nhận diện, thì việc đặt tên cho từng cá nhân ra đời và nếu dừng lại chừng đó thì vô sự. Nhưng vì lạm dụng sự phân biệt “tính có” của các vật thể hữu hình, thảm cảnh của cái được anh chị em triết học gọi là ‘sùng bái cá nhân’ bắt đầu nảy nở từ đây. Các mẫu hình người anh hùng được đặt ra với ý đồ tốt đẹp là để con người ngưỡng mộ và học theo, nhưng làm sao con người lại học được hết bài học của người khác, nếu có chỉ một phần nhỏ của những khía cạnh đương đồng mà thôi. Hoàn cảnh thay đổi lại càng khó khăn hơn trong việc học hỏi các mẫu hình con người cụ thể.
    Tuy hiên hình mẫu người anh hùng trong thời đại ngày nay vẫn cần vì anh chị em có một sáng kiến, một quyết định mang lại lợi ích to lớn cho dân chúng, cộng đồng, nhưng nếu anh chị em không có địa vị thủ lĩnh như những vị anh hùng, thì liệu cái ý tưởng cống hiến của anh chị em có được mấy ai làm theo. Ở lớp học 19, trong những tâm sự ngoài lớp học với anh chị em đã có lần Thầy nói: nếu thương nhân loại thực sự thì anh chị em phải biết yêu thương, biết dùng công thức nhân điện phục vụ những giới lãnh đạo, các thương gia, các giáo chủ và các nhà khoa học. Vì họ đang làm việc cho Thượng Đế, thay Thượng Đế cai quản nhân loại, tạo ra những bài học theo sự chỉ dẫn của Ngài, mà có thể họ không biết. Truyền điện cho các vị này để các vị khỏe mạnh, tâm lương rộng mở sẽ có những quyết định lợi cho hòa bình, cho no ấm hạnh phúc của nhân loại, ngoài ra không có mục đích nào khác.
    Sử sách để lại cho thấy các vị anh hùng đều thương con dân sứ mình và có vị rất khiêm nhường đáng để dân chúng tôn vinh. Điều quan trọng nhất là không mấy ai trong các vị khi còn sống trên đời lại định ra mục đích mình sẽ thành danh này, danh danh kia và thành Thánh cả. Thời gian trôi đi, các sử gia, các nhà văn hóa, ngày càng bình phẩm, nếu không nói là tô vẽ, xây dựng nên hình mẫu những người anh hùng, rồi gắn tên bất diệt cho những anh hùng, đó là công ăn việc làm của họ. Hơn nữa còn phân biệt, phân chia các trường phái tư tưởng đạo đức v.v. Thực sự họ đã phân chia loài người theo những hình mẫu mà họ đặt ra, có tên thật, người thật. Từ đó các xu thế tư tưởng, đoàn chủng được nhóm người ‘vô danh’ gắn tư tưởng mình vào tư tưởng của các vị anh hùng, hay các nhà tư tưởng và điều này dường như diễn ra ngay cả trong tôn giáo và khoa học.
    Tư tưởng này, trường phái này, tôn giáo này bài xích các tư tưởng, trường phái, tôn giáo khác là chuyện thường tình. Thảm họa động đất sóng thần trong lòng con người hiện đại sảy ra chính là cái ý này.
    Người tốt việc tốt thì được tôn vinh, người xấu việc xấu thì để trách cứ là ‘pháp môn’ gắn người chủ thể hành động với hành động và được nhân loại sử dụng với mục đích tạo ra xu thế hướng tới cái thiện lương, hoàn hảo, bài bỏ thói hư tật xấu. Đây là một xu thế tiến bộ xét về mặt lý thuyết. Nhưng thực hiện được thì khó khăn thử thách vô cùng và có khi phải trả giá quá đắt. Vì rằng cách làm này thực ra tiềm ẩn yếu tố ‘loại bỏ’ cả sự việc và chủ thể hành động của nó là rất đáng tiếc.
    Vì sao vậy? Người ta hôm nay làm việc dở ta chê, nhưng mai họ làm việc hay, việc tốt liệu ta có khen không? Khen việc, chê việc thì nên, còn khen người chê người thì nên cân nhắc để tránh những sai lầm không đáng có và minh triết giác ngộ chính là cái ý này. Tâm khoan dung độ lượng, từ bi, yêu thương đồng loại chính là điểm mấu chốt này. Thầy nhắc lại để anh chị em ứng dụng, chúng ta nhắc nhở việc dở, việc ác để chủ thể hành động điều chỉnh và hy vọng ngày mai, lần sau việc đó không tái diễn, chứ ta không nên phê phán, chỉ trích chủ thể gây ra hành động dở. Vì càng chỉ trích nó, nó lại càng dữ tợn hơn đó. Đây là cách chúng ta biến dở thành tốt, biến bóng tối, sử dụng bóng tối làm nguyên liệu chế tạo ra ánh sáng văn minh cho thời đại mới. Nếu không có cơ duyên tiếp xúc trực tiếp với họ thì anh chị em đã có phương tiện các công thức nhân điện Thầy trao, anh chị em truyền điện cho họ thay lời nhắc nhở họ và tác dụng giúp họ tiến bộ còn hơn điều anh chị em mong muốn.
    Nó làm việc dở bằng cặp mắt của anh chị em, nhưng chủ thể hành động này đang làm việc cho Thượng Đế mà họ không biết đấy. Sao Thượng Đế lại xếp đặt người ta làm việc dở đây? Việc dở tạo ra bài học dở cho nhân loại học hỏi. Vì bài học dở nhân loại chưa học được bao, thì nay Ngài tạo ra nhiều bài học dở để nhân loại học. Học xong bài học dở thì hết dở.
    Thầy đã nói với anh chị em linh hồn không ăn, không mặc, không danh, không lợi, không tình và do vậy linh hồn không có bất cứ lỗi lầm nào, đó là tầm nhìn minh triết giác ngộ, từ bi, thương cảm, độ lượng khoan dung.
    Trong bất cứ ngành nghề nào trong xã hội loài người, mà người ta biết chấp nhận cái dở, phân tích học hỏi để rút tỉa ra bài học, thì ngành nghề đó nhất định sẽ phát triển. Đàng này cái hay thì nhận, không hay cũng cho là hay mới chết chứ. Cái dở của mình thì không nhận, dấu kín và còn dùng lý luận đổ thừa cho người khác. Đây là cái bệnh trầm kha của nhân loại hiện nay, gây biết bao đau khổ cho con người.
    Còn học bài học hay thì dễ hơn bài học dở nhiều. Sứ dân trồng lúa nước, chân lấm tay bùn, quê Việt Nam Thầy có câu “hữu xạ tự nhiên hương” ý muốn nói cái hay tự nó tỏa hương, tỏa sáng, đâu cần phải tuyên truyền quảng cáo nhiều. Ngành nhân điện cũng vậy, khỏi cần anh chị em phải tuyên truyền thái quá, nếu tốt, nếu hay, nếu hiệu quả công dụng, thì nó sẽ tự lan tỏa. Tuy nhiên Thầy biết rằng anh chị em học nhân điện, thấy nó làm thay đổi cuộc đời mình, rồi anh chị em thương những người khác gần gũi anh chị em, tuyên truyền vận động họ đi học, như vậy cũng không có lầm lỗi gì.
    Hình mẫu người anh hùng thì nhiều mà sự chọn lựa để theo chỉ là một đối với cá nhân mỗi con người và đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự rắc rối trong đời sống. Xuất phát từ lý do đi tìm mẫu số chung cho những mẫu hình người có công gầy dựng nền văn minh con người mà Đền thờ Tổ tiên Nhân loại được thành lập.

    HVNĐ: Kính thưa Thầy sống vô danh, nói thì dễ nhưng làm thì khó khăn vô cùng và xin Thầy chia sẻ kinh nghiệm để chúng con học hỏi?

    Thầy: Nói vô danh thì dễ, nhưng bây giờ làm cũng dễ, chứ không như xưa nữa vì anh chị em có phương tiện Thầy trao là các công thức sử dụng năng lượng vũ trụ. Khi bắt đầu nhập môn nhân điện đã có nhiều anh chị em cho Thầy biết rằng: anh chị em khó chê trách người khác và khi nhận lời khen của người khác cũng không cảm thấy phấn khích, quan trọng như xưa nữa. Đó là biểu hiện cái hữu danh của anh chị em đang chuyển mình hội nhập với cái vô danh, với Thượng Đế vô danh. Đó chính là thước đo đơn giản nhất sự tiến bộ tâm linh của anh chị em. Còn thích hữu danh, thích Thầy khen, thích gần Thầy, thích được cái gì cũng báo cáo Thầy với thiện tâm làm việc để cống hiến cho nhân điện thì còn phải học nhiều. Đừng bao giờ anh chị em xây dựng cái danh cho nhân điện.
    Anh chị em hãy thực hành thực hiện các công thức nhân điện đi, sẽ thấy công năng ‘vô danh’ ‘vô hình’ ‘vô ảnh’ của năng lượng vũ trụ, năng lượng tình thương vô lượng của Đấng Thượng Thiên, hiệu năng như thế nào, lợi ích như thế nào, cho đời sống nhân sinh, cho sự hòa hợp của những cái hữu danh thành cái vô danh. Đây là bài học mới nhất Thầy nhận được từ Thượng Thiên để trao lại cho anh chị em ở thời điểm này và anh chi em nghe cho rõ mà hành động.
    Đền thờ Tổ tiên Nhân loại, Tượng đài Chiến sỹ Vô danh đặt tại Úc châu là biểu tượng hữu hình cho sự hợp nhất những cái hữu danh của nhân loại xưa và nay thành cái vô danh. Khi anh chị em truyền điện cho các nơi chốn linh thiêng ở bất cứ nơi nào trên thế giới là anh chị em đã mời các Đấng “hữu danh” về ngự ở Đền thờ Tổ tiên Nhân loại để các Đấng dự tập huấn học bài học mới tâm linh và tình hình đau khổ bế tắc của nhân loại sẽ thay đổi rất nhanh. Chứ anh chị em truyền điện với cái tâm thức là: cái nơi chốn này dở, mê tín dị đoan v.v thì anh chị em đã vi phạm quyền tự do của các vị ngự ở đó. Hãy truyền điện với quán tưởng kính mời các vị hợp tác với nhân điện và về ngự chung ở Đền thờ Tổ tiên Nhân loại thì không muốn về các băng tần sóng điện ngự ở đó cũng tự động về hết.
    Thế giới đa dạng thể ở khía cạnh hữu danh, và thế giới đồng nhất thể ở khía cạnh vô danh. Cái hữu danh của một cá nhân hiện có được là vàng, thì nay Thầy đang giúp anh chị em đổi vàng lấy kim cương, anh chị em có làm không? hay anh chị em tiếc vàng quá không chịu chuyển đổi nó thành những giá trị còn quý hơn trăm ngàn lần cái mà anh chị em đang có. Đổi đây là đổi lấy sức khỏe, lấy sự may mắn và hạnh phúc cho cá nhân, cho gia đình, cho cộng đồng xã hội nơi anh chị em ở, cho quốc gia và nhân loại. Thầy không bắt anh chị em bỏ vàng, mà thầy khuyên anh chị em thay đổi thang giá trị mới, tâm linh mới, con người mới, từ bài học mới. Những giá trị mới này là vô giá và không thể so sánh, thậm chí có vàng hay kim cương thật, cũng không thể mua được. Đó là sự an nhiên tự tại, đó là sức khỏe, đó là tâm lương rộng mở và minh tuệ (thông minh và giàu tình thương).
    Hôm nay dở mai tốt là thuộc tính của sự biến đổi, mà Thầy đã nói với anh chị em nhiều lần rằng: biến đổi là bản chất, là động lực của tiến hóa tâm linh và anh chị em sẽ có tất cả. Nên khi chia xẻ bằng lời với những câu hỏi của anh chị em trong lớp học Thầy thường nói: học nhân điện không chỉ để chữa bệnh mà còn nhiều ý nghĩa khác phục vụ cho tiến hóa, đó là thay đổi tầm nhìn, tầm nhìn hội nhập, sáng xuốt, minh triết giác ngộ.
    Anh chị em đừng chờ đợi bất cứ một quyền năng phi thường nào khi tập và thực hành nhân điện, mà chỉ cần anh chị em khiêm nhường, âm thầm hành động nhân điện giúp người, vô danh với những thành quả đạt được trong hành động nhân điện sẽ đạt kết quả ngoài mong đợi thầm kín của anh chị em.
    Ngành nhân điện là ngành hành động và học hỏi minh triết giác ngộ bằng hành động nhân điện, chứ Thầy không có dạy anh chị em những triết lý cao xa, khó hiểu. Còn sách vở ngoài đời như thế nào là chuyện của người ta, không có năng lực tâm linh để hành động thì nói hay đến mấy cũng chỉ là lý thuyết.

    HVNĐ: Ông Lão Tử cùng thời với Đức Phật Thích Ca có đưa ra triết lý “âm dương” và ý nói vạn sự trên đời hàm chứa hai phần tương phản đó là dương – âm, trắng - đen, phải -trái, thiện lương - ác tà, ngày – đêm, nam – nữ, chiến tranh – hòa bình, hạnh phúc – bất hạnh v.v. Như vậy cứ có một khái niệm đặt ra là kèm theo một khái niệm phản nghĩa đã làm cho vạn sự hàm chứa mâu thuẫn và mâu thuẫn sẽ dẫn tới sung đột. Điều này làm chúng con khó hiểu. Xin Thầy chỉ dạy cho chúng con về điều này.

    Thầy: Vừa dạy cho anh chị em bài học thực hành nhân điện ở câu hỏi trên, thì lại hỏi Thầy luôn câu hỏi lý thuyết, bài học triết học, thuyết “âm dương” của Đức Lão Tử đã có hơn 2500 năm về trước. Thôi được muốn hiểu lý thuyết thì Thầy sẽ chỉ ra cái mới nhân câu hỏi này để anh chị em cùng học hỏi tiến hóa. Vạn sự ẩn chứa hai mặt tương phản trắng đen, nhân loại đã ứng dụng mãi rồi, đâu có thấy mấy ai tiến hóa và thậm chí còn tiến hóa tụt lùi là đàng khác.
    Thầy kính trọng những cống hiến của Đức Lão Tử cho nhân loại, nhưng nhân loại đã không hiểu hết ý nghĩa thâm sâu của triết lý này, nên đã mang họa cho mình suốt cả mấy ngàn năm nay. Thật vậy, các đệ tử sau này của Lão Tử đã phát triển và áp dụng học thuyết này vào đời sống một cách vội vàng và ngay cả giới khoa học ngày nay cũng vậy. Những cơ sở căn bản của thuyết âm dương đã là nền tảng của nhiều ngành khoa học như toán học, hóa học, tin học v.v.
    Cái hồn của học thuyết “âm dương” là: sự phân chia vật chất, vật thể, sự việc ra hai phần tương phản, nhưng nội hàm bên trong là thống nhất. Nội hàm bên trong là gì? Là năng lượng tâm linh vô hình giữ cho các phần tương phản kia thống nhất, không sung đột, chống nhau, để sự tồn tại song hành giữa hai mảng đó được cân bằng hài hòa. Thầy luôn luôn nhắc anh chị em rằng: bất cứ một sự vật, sự việc nào trên thế gian này cũng như các hoạt động của vũ trụ lại không có bàn tay sắp đặt của Thượng Thiên vô danh, yếu tố giữ cho vạn vận hài hòa. Mấy ổng không quán tưởng đến yếu tố “số không” vô danh này và cho rằng mình chính là Ngài nên không khỏi mắc phải sai lầm và đã dẫn dắt nhân loại đi nhầm đường tiến hóa.
    Thật vậy, mấy ổng không hiểu được ẩn ý thâm sâu của Tạo Hóa, cứ phân tách hai phần tương phản đó ra, phần dương tạm gọi là có giá trị, bán được thì dùng, còn phần âm thì loại bỏ. Loại bỏ đi đâu đây? Khi mà bất cứ vật thể nào cũng không lọt ra ngoài cái vũ trụ này. Rồi phần âm kia tách ra, vẫn cứ còn đấy, ngày mỗi ngày tích dồn lại, gây ra những thảm họa sinh thái, mất cân bằng các-bon trên hành tinh này.
    Về những vấn đề xã hội cũng vậy chiến tranh có bên thắng bên thua. Tiền nhân Việt Nam dạy con cháu rằng “thắng làm vua, thua làm giặc”. Ý nhắc nhở con cháu đừng có sung đột lẫn nhau, mà nên chung sống hòa bình, nương tựa vào nhau mà sống. Thật vậy, cái phần âm, cái phần tà kia nó cứ còn đó và không thương nó thì nó làm giặc đó. Chiến tranh nhỏ lại đẻ ra chiến tranh to và các cuộc chiến tranh, sung đột đoàn chủng cứ diễn ra triền miên trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm qua.

    HVNĐ: Kính thưa Thầy ở thế giới vô hình có chiến tranh tâm linh không? Và vì sao ở thế giới hữu hình này chiến tranh sung đột lại cứ sảy ra liên miên như vậy?

    Thầy: Ở nơi chốn vô hình đâu có chiến tranh. Nếu có thì đó chính là động đất sóng thần trong lòng con người. Hàng đêm bên tai Thầy vẫn vẳng tiếng kêu oan của những người vô tội, nạn nhân của sung đột đoàn chủng và chiến tranh. Anh chị em thấy đấy kết thúc các lớp học Thầy thường hát cho anh chị em nghe và có bản Thầy ca mang đậm nét buồn về sự u minh của nhân loại, về các cuộc chiến tranh tâm linh trong lòng con người.
    Như cái ý Thầy thường nói với anh chị em rằng nhân loại mới học được bài học chân lý thứ 100, kiểu bài học thuyết “âm dương”, mấy ổng đã vội vàng xuống núi hành đạo thì không khỏi mắc phải sai lầm. Thầy nói mở rộng như vậy để anh chị em dễ tiếp thu bài học mới vô danh thôi, chứ Thầy không có ý khen chê bất cứ ai. Nhưng ai đó thấy bất cứ một triết lý nào hay, tư tưởng nào hay, cứ việc tôn vinh, cứ việc áp dụng và nếu thành công, mang lại ấm no hạnh phúc bền vững cho nhân loại, thì ngành nhân điện cũng sẽ “tầm sư học đạo” liền.
    Khi phát động những cuộc chiến tranh, những vị lãnh đạo tinh thần luôn nhân danh nhân loại, nhân danh đất nước hoặc nhân danh cộng đồng, chứ có ai nhân danh chính mình đâu. Rồi chiến tranh sảy ra, hậu quả thì ai cũng biết và cái vốn liếng còn lại sau các cuộc chiến tranh là những diện mạo của những anh hùng ra đời, cái tính hữu danh của thế giới hữu hình. Rồi con người lại thờ phụng các anh hùng và phấn đấu trở thành người anh hùng này người anh hùng kia, danh này, chức kia v.v. Ông Quan Công trong Tam Quốc Chí cũng đã từng cầm thanh long đao, cưỡi ngựa xích thố đi tới đâu, đầu phía đối phương rơi tới đó. Người Trung Hoa có tôn thờ ông thì phải hiểu là tôn thờ cái nghĩa khí dũng mãnh, lòng cương trực, trung thành của vị tướng này với ông Lưu Bị, mà người dân Trung Hoa thời đó cho là Thiên Tử, giáng trần để thực hiện mệnh Trời.
    Những người bị rơi đầu như Nhan Lương và Văn Sú thì sao? Họ cũng được phía bênh kia tôn thờ chứ? và anh chị em nghĩ sao? Bên nào cũng có cái lý của họ chứ? Liệu học thuyết “âm dương” phân vạn vật ra hai phần tương phản trắng đen, bên đúng - bên sai, liệu có chỗ đứng trong ngữ cảnh này không? Phải học bài học thực hành nhân điện 101 mà Thầy đang rao giảng mới cảm nhận được lý thuyết “âm đương” thâm sâu của Đức Lão Tử và còn lại thì không. Ở đời vẫn có cái đúng cái sai chứ, cái đúng thuộc về kẻ mạnh, còn cái sai thuộc về kẻ yếu. Đúng sai là khái niệm mà do con người đặt ra, chứ đối với thế giới tâm linh Thượng Đế, thế giới từ bi, khoan dung độ lượng, thế giới tình thương thật, không có khái niệm này.
    Phải chăng loài người đang thờ phụng những cấu hình tư tưởng của các vị anh hùng. Chúng ta học bài học minh triết giác ngộ nào đây từ các cuộc chiến tranh? Thầy chỉ cho anh chị em biết nè: những mâu thuẫn lợi ích đoàn chủng, cộng đồng, quốc gia là mầm mống của chiến tranh. Phía nào cũng có đủ lý lẽ thuyết phục dân chúng về ý nghĩa của phát động chiến tranh. Nhưng mà bài học chiến tranh quý giá lắm vì trong đau thương đã khơi dậy tình thương của con người, luyện tình thương con người. Đối với Thượng Thiên chiến tranh không nằm trong khái niệm của Ngài, chỉ có con người với có khái niệm này để học đủ bài học tình thương đó.
    Thật vậy, cái danh phải trả giá bằng xương máu nhân loại là bài học dở, nhưng nó quý giá vô cùng để gây dựng tình thương đích thực của con người. Quê Việt Nam Thầy, chiến tranh triền miên và người Việt Nam hơn ai hết hiểu được hết ý nghĩa của bài học tình thương và đó là nền tảng tiến hóa của quốc gia này. Quốc gia Việt Nam của Thầy sẽ phát triển vượt bậc và nơi đây có thể coi là nơi xuất phát nền văn minh hậu con người. Đúng là Thượng Thiên không có khái niệm lựa chọn, nhưng quốc gia Việt Nam đã hội đủ những điều kiện để đón nhận đầy đủ tình thương vô lượng của Ngài, mà phát triển tiến hóa đến bến bờ minh triết giác ngộ, như điều kì vọng của cá nhân Thầy, một công dân Việt Nam xuất thân bình phàm.
    Trước khi sảy ra chiến tranh nếu các vị lãnh đạo tinh thần thương con dân của mình, biết ngồi lại với nhau phân trần những thiệt thòi đất đai hoặc quyền lợi vật chất khác của xứ dân mình. Rồi lấy mẫu số chung là sự bình an cho trăm họ và thương nhau để cùng tiến bộ văn minh, thì đâu còn những thảm họa chiến tranh triền miên nữa. Nhưng vì các vị lãnh đạo tinh thần kia cứ tưởng mình là Thiên Tử thật (cái danh cao cấp nhất) nên họ không chịu dung hòa, khoan nhượng với mộng tưởng thắng được thì làm vua thiên hạ và tên tuổi được lưu truyền muôn đời v.v. Sự mâu thuẫn trong ngữ cảnh này được hiểu đó là sự thay đổi của các hình thức sống, các hình thức xã hội của nhân loại, mà con người gọi là cuộc cách mạng này hay cuộc cách mạng kia.
    Mọi sự đều không nằm ngoài bàn tay xếp đặt của Thượng Thiên. Giải quyết mâu thuẫn bằng sự hiểu biết lẫn nhau, giúp nhau tiến bộ, tiến hóa, đấy chính là đường hướng cách mạng mới, bài học rút tỉa từ các cuộc chiến tranh triền miên, là ý Thượng Thiên trong thời kỳ giác ngộ cuối cùng này của nhân loại. Làm theo Thiên ý sẽ được tiếp tục sống và phát triển, còn chống lại Thiên ý thì tự chuốc họa diệt vong và nhân loại tự quyết định số phận của mình.
    Cách giải quyết bằng sung đột chiến tranh phải chăng từ sự lầm tưởng của những cá nhân, những người anh hùng hữu danh. Thầy nhắc lại để anh chị em nhớ, các Đấng Thiêng Liêng Cao Cả, Đấng Thượng Thiên Tối Cao là vô danh và ngoài ra thì anh chị em nên xem lại. Khi Ngài mượn thể xác của những cá nhân trong lịch sử để thực hiện Thiên ý thì ta có tên các vị anh hùng hữu danh.
    Nói như vậy Thầy không bảo anh chị em không thờ phụng ai, mà Thầy nhắc anh chị em nhận thức cho đúng về ý nghĩa thờ phụng, tôn thờ những tinh thần, tôn thờ những nghĩa khí, ẩn chứa vô hình, trợ giúp vô hình cho những vị anh hùng, những nhà tư tưởng, những giáo chủ, những nhà khoa học, những người đã có công tạo dựng thế giới này trong mọi thời đại. Đó chính là ý nghĩa triết học, ý nghĩa tâm linh cao siêu nhất, mà Đền Thờ Tổ Tiên Nhân Loại ở Úc châu Thầy được Thượng Thiên chỉ dẫn cho phép xây dựng.
    Nhân đây Thầy nhắc nhở để anh chị em rõ, bất cứ những vi phạm nào của anh chị em như vi phạm quyền tự do tâm linh của người khác, ghanh đua nhau dẫn đến mất đoàn kết trong phạm vi ngành nhân điện, đừng có trình Thầy phân xử vì việc phân xử này đã có các Chiến sỹ Vô danh ở Đền thờ Tổ tiên Nhân loại lo. Đừng trách Thầy vì Thượng thiên sắp đặt như vậy nghe. Vi phạm ráng mà chụi.
    Đền thờ Tổ Tiên Nhân Loại ở Úc Châu Thầy dựng lên từ học phí anh chị em đóng góp trong các lớp học, là để tưởng nhớ các Đấng Vô Hình, đã ban cho nhân loại các vị có công tạo lập nền văn minh con người ở tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới, trong mọi thời đại. Với ước mong, hòa hợp tất cả các biểu tượng tinh thần, những nghĩa khí xưa và nay thành những biểu tượng tâm linh vô danh. Cái tên dung dị của sự hòa hợp đó là các “Chiến Sỹ Vô Danh” và nếu có danh rồi thì hợp nhất thành vô danh, thành biểu tượng tinh thần chung của nhân loại. Đó chính là ý nghĩa triết học hợp nguyên, toàn nguyên, không nguyên của nhân điện đó.
    Trả lại tên thật cho các vị Thiên Tử này là những Chiến Sỹ Vô Danh, đó là cách làm, là phương tiện để chúng ta hội nhập các tư tưởng, các giá trị tinh thần, các hoài bão xưa và nay của loài người. Để các bên đối kháng có các vị anh hùng hữu danh, đều được toại nguyện, để âm dương hòa hợp, làm nền tảng cho sự hòa bình, hòa hợp sớm được kiến tạo. Đó chính là mẫu số chung cho sự hợp nhất Thiên - Địa – Nhân.
    Thầy tuyên dương sự hợp tác của những anh chị em đã tự nguyện đến Đền Thờ Tổ Tiên Nhân Loại ở Úc châu, thay nhau sống và làm việc ở đó. Anh chị em đã thay Thầy trông coi thờ phượng nguyên khí nhân loại hàng ngày. Đây là những nghĩa cử thánh thiện, nặng lòng yêu thương mẹ nhân loại, rất đáng để các anh chị em khác học tập.
    Những anh chị em nào có tâm nguyện dâng cúng những biểu tượng tâm linh, nhỏ thôi, không cần đắt tiền cao sang, để Đền Thờ thêm được trang trọng, đều được thỏa tâm nguyện và từ hôm nay Thầy cho phép như vậy. Bảo tàng viện Chiến Sỹ Vô Danh, Thầy trù sẽ thành lập nay mai dựa vào những kỷ vật tâm linh dung dị từ các nước, từ các tôn giáo, từ các kỷ vật tâm linh của anh chị em Năm Châu tặng Thầy và sau này là những kỷ vật tâm linh khác do chính anh chị em dâng cúng Đền Thờ.

    HVNĐ: Kính thưa Thầy! Những hoạt động nhân đạo của ngành nhân điện nên được tổ chức như thế nào cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế hiện nay là có rất nhiều những thảm họa sảy ra cho nhân loại? Xin đệ trình Thầy chỉ bảo cho chúng con.

    Thầy: Thầy yêu quý tất cả các giá trị vật chất và tinh thần mang lại từ các nhà khoa học, từ các nhà kinh doanh, từ các nhà tư tưởng, từ các giáo chủ, các nhà chính trị của mọi thời đại với ước mong đóng góp xây dựng một sự nghiệp hợp nhất với Đấng Thượng Thiên, để các thảm họa không đáng có như thảm họa môi sinh, động đất sóng thần, dịch bệnh, chiến tranh, bạo động được giảm thiểu tác hại (tính có hữu hình). Điều Thầy trăn trở nhất là bão tố sóng thần đang trỗi dậy trong lòng con người (tính không vô hình) đó là sự tham lam ích kỷ, lòng thù hận, ghen ghét đố kỵ, ghi ngờ, phân biệt đoàn chủng, giai cấp.
    Thật vậy, với sức mạnh kinh tế hiện nay của các quốc gia trên thế giới và với lòng nhân ái yêu thương nhân loại, sự trợ giúp nhân đạo của thế giới cho các nạn nhân sóng thần vừa qua ở các nước Á Châu vào cuối năm 2004, đã nói lên rằng: loài người có đủ khả năng để giúp nhau về vật chất khi gặp hoạn nạn.
    Nhưng còn những đợt bão tố và sóng thần đang diễn ra trong lòng con người thì trị sao đây? Phương thuốc trị các thảm họa này chỉ có thể là phương thuốc tâm linh. Muốn sử dụng thành công năng lượng vũ trụ thì phải thay đổi tâm linh. Thay đổi tâm linh không có nghĩa là thay đạo của anh chị em bằng đạo mới “nhân điên”. Ngành nhân điện là ngành nghiên cứu và phát triển tâm linh, năng lượng vũ trụ và nó không trực hệ bất cứ một thứ đạo giáo nào, nó dung dị là khoa học tâm linh nhân điện (nhân điện là con người mang năng lực, điện năng Thượng Đế).
    Kinh nghiệm rút ra từ thực tế là các anh chị em ở bất cứ đạo giáo nào cũng đều bình đẳng với nhau khi học nhân điện và đều thân thiện với nhau. Nhân điện là mẫu số chung cho anh chị em. Những đóng góp của anh chị em cho cộng đoàn mình làm Thầy vui lắm. Vì các vị giáo chủ của anh chị em đã nhờ Thầy giúp anh chị em tiến hóa tâm linh và anh chị em sử dụng được năng lượng tâm linh để chữa bệnh, chữa đau khổ là anh chị em đã thay các giáo chủ của mình, cứu giúp cộng đoàn mình ra khỏi những vòng cám dỗ vô minh. Đó mới đích thực là hoàng hóa Phật pháp hay rao giảng tin mừng. Các giáo chủ của anh chị em ắt cũng mừng và sẽ ban phước lành và độ trì cho anh chị em nhiều lắm, khỏi lo đi nghe.
    Nếu nhân điện được anh chị em ứng dụng có hiệu quả, thì anh chị em hãy cám ơn Thượng Thiên, Trời Phật, Đức Chúa, Đức Tiên Tri và các chư vị Thánh Thần đã giúp anh chị em, chứ anh chị em đừng bao giờ phải trả ơn Thầy. Thầy chỉ là Thầy Đáng trong nơi sâu kín vô danh của anh chị em là Thầy vui lắm rồi.
    Thầy đề ra học phí học nhân điện là Thầy muốn anh chị em đừng bao giờ phải phụ thuộc vào Thầy, để anh chị em hoàn toàn tự do tiếp tục nghiên cứu phát triển tâm linh nhân điện hay chối bỏ nó. Đây là cái ẩn ý Thượng Thiên tạo ra để giúp anh chị em tự do hoàn toàn. Thầy là Thầy Đáng của anh chị em và Thầy đang sử dụng hình thức mang ‘tính có’ hữu hình giả tạm để thực sự tạo ra quyền tự do tuyệt đối cho anh chị em đó. Thấy lợi ích thì học hỏi, nghiên cứu và tiếp tục tiến hóa, còn anh chị em thấy nhân điện không có công dụng, ích lợi thì anh chị em tự do, tự động trở về trạng thái trước khi mở luân xa và đơn giản vậy thôi. Anh chị em hoàn toàn tự do quyết định con đường đi của mình.
    Thầy ăn một ngày có mấy chén cơm thôi, tiêu sài đơn giản như những người bình thường. Tiền dạy học Thầy dùng cho việc trợ giúp phát triển Khoa học Tâm linh Nhân điện toàn cầu, vì Thầy biết rằng công cụ hữu hình tiền bạc vẫn có những giá trị nhất thời của nó. Ở đâu đó vẫn cần tiền bạc, mà Thầy đại diện cho anh chị em làm việc trợ giúp nhân đạo này. Vì Thầy và anh chị em là con người bình phàm và những ứng xử nhân đạo bằng tiền bạc vẫn còn cần thiết, chứ Thầy không nhủ anh chị em đi làm từ thiện bằng tiền bạc, một mình Thầy đại diện cho anh chị em là đủ rồi. Đóng học phí học nhân điện là góp vào quỹ từ thiện nhân điện để giúp đời minh triết giác ngộ.
    Anh chị em hãy làm từ thiện bằng năng lượng vũ trụ, cái vô hạn cho bao nhiêu cũng được, còn làm từ thiện bằng tiền biết bao nhiêu cho vừa. Anh chị em nghèo cũng làm từ thiện được, truyền điện cho những nơi gặp thiên tai, cho những người đau bệnh quanh anh chị em đi, đó là làm từ thiện và còn hơn thế nữa.

    HVNĐ: Thầy kính yêu! Chúng con cũng đã thực hiện vô danh mình, nhưng khó quá chưa làm được mấy. Xin Thầy chia sẻ với chúng con về kinh nghiệm này.

    Thầy: Vượt qua những thử thách danh lợi cũng là việc mà người tu nhân điện phải làm, anh chi em theo Thầy tu bằng năng lượng vũ trụ cũng vậy thôi. Vì khi chưa vượt được khung giá trị truyền thống danh lợi, thì kết quả thực hành nhân điện bị hạn chế. Thầy không thể làm khác được và Thầy biết rằng mình phải thực hiện những việc mà thực lòng Thầy không muốn làm. Còn anh chị em nào trách cứ Thầy cũng không sao, vì sự nghiệp nhân điện mà Thầy và anh chị em đang làm là tuân theo những chỉ dẫn của Thượng Thiên, có sao nói vậy đó là nhân cách Nam Bộ, đời thường của Thầy.
    Thầy mừng là những công thức nhân điện được Thượng Thiên cho phép sử dụng thông qua anh chị em, đang có nhiều kết quả, thành quả ngoạn mục, phục vụ nhân sinh, đáng ghi nhận là bài học 101 và được xã hội loài người biết đến. Người ta sợ cái danh của Thầy là một lầm lẫn đáng tiếc vì thực ra Thầy là người vô danh ở miền sông nước Cửu Long Việt Nam.
    Thầy đang nói về chủ đề vô danh với anh chị em và những điều Thầy vừa nói ở trên không phải không có ý nghĩa. Thầy mà phát triển nhân điện để có danh có phận như những người khác thì cơ hội có thể nói là nhiều lắm. Thầy đã kể cho anh chị em nghe trong các lớp học là có rất nhiều những sự mời gọi hậu hĩnh của những người giàu có, của các quốc gia, muốn sử dụng Thầy, sử dụng nhân điện cho những mục đích riêng với những món được trả về danh lợi biết mấy và nếu nhận lời, cái danh của Thầy to lắm rồi. Thầy không nhận lời không phải là Thầy không thích danh lợi, mà chỉ dung dị là Thầy nhìn thấy trước được cái danh lợi chỉ giả tạm, cái hữu danh chỉ giả tạm, cái vô danh mới là cái tên thật mà Thượng Thiên ban cho loài người. Vô danh thì có quyền năng khả năng để giúp đời. Nguyện làm người vô danh là tâm nguyện của Thầy và anh chị em đó.
    Có bao nhiêu tiền của, lâu đài, biệt thự sang trọng, chết có ai mang theo được đâu và người đời chỉ mong còn để lại cái danh lại cho đời. Đây là một lầm lẫn đáng tiếc của nhân loại đã làm cho những người còn sống ở thế gian này đau khổ. Vì sao? Vì rằng cả một thời đại, triều đại được mấy cái danh để lại cho đời? Vậy phần đa nhân loại không có được cái danh này, họ sẽ than thân trách phận, trách cả trời gần trời xa sao mà không công bằng với họ. Vô danh, hòa hợp những cái hữu danh thành cái vô danh Thượng Đế là bài học hôm nay Thầy dạy cho anh chị em đó.
    Những anh chị em được Thầy bổ nhiệm thay Thầy hướng dẫn các lớp cao nhân điện hãy nghe Thầy chỉ dẫn nè: khi anh chị em đứng lớp, Thầy gửi các Đấng đến giúp anh chị em hoàn thành nhiệm vụ, khi hết nhiệm vụ ai về mức tiến hóa của người đó để anh chị em tự mình tu tâm dưỡng trí để tiến hóa, chứ các Đấng không làm thay anh chị em được. Nói như vậy để anh chị em biết khiêm nhường với anh chị em học cấp dưới, còn dĩ nhiên khi đứng lớp anh chị em sẽ được sự chỉ bảo đặc biệt của Thầy và anh chị em tiến bộ tâm linh nhanh lắm. Thầy nhắc cho anh chị em biết là không có gì tiến bộ nhanh bằng tiến bộ tâm linh, không có gì lợi ích bằng lợi ích phát triển tâm linh.
    Thầy giúp đỡ anh chị em và cùng anh chi em đi vào thế giới vô danh, cái tên đích thực của con người khi mới được sinh ra lần đầu tiên ở thế giới này. Đứa trẻ mới lọt lòng mẹ đâu có tên, nó hồn nhiên, tự nhiên và đáng yêu như thế nào. Còn sau đó cha mẹ và người thân của nó nuôi dạy nó theo các khuôn mẫu định sẵn để thành danh, để thỏa mãn cái danh cái lợi của chính họ, mà họ cứ tưởng cho con họ. Đó là nguy cơ suy thoái giáo dục của một bộ phận công chúng ở nhiều nước như Việt Nam, Nam Hàn v.v. Thầy biết các cháu là con em nhân điện ở Việt Nam ngay từ lớp mẫu giáo mầm non đã đi học thêm, cho ai? Cho bố mẹ các cháu hay cho các cháu? Nên trả lại tuổi thơ đáng yêu cho con cháu mình.
    Thầy cũng đã nghĩ đến việc anh chị em sử dụng hình Thầy, danh Thầy và trong những lớp học nhân điện Thầy đã nhắc nhở rồi. Không những thế từ lớp 6, Thầy cho phép anh chị em khỏi phải cầu Thầy mà trực tiếp cầu cho các linh hồn bất diệt bất tử, tái kiếp đi tu hoặc siêu thoát về với Thượng Thiên, anh chị em có nhớ không? Vậy mà đâu đó, Thầy biết anh chị em tôn sùng Thầy, ghép cái danh Thầy với Đấng này Đấng kia và còn mượn danh Thầy nữa. Rồi còn to nhỏ rằng còn nhiều Đấng mới sắp ra đời v.v. Đó là mê tín dị đoan đó! Hãy thương Thầy và trả lại cái linh hồn vô danh cho Thầy. Cũng không có gì lỗi lầm cả khi anh chị em còn cần cầu Thầy, cứ làm, nhưng Thầy chỉ lưu ý anh chị em rằng: bao giờ không phải cầu Thầy khi thực hành nhân điện thì Thầy mừng lắm vì anh chị em đã đến độ trưởng thành.
    Có lần Thầy nói: rồi đây sẽ có nhiều Lương Minh Đáng mới ra đời cũng nằm trong cái ước vọng này của Thầy có phải vậy không? Không phải tự nhiên ra đời những đứa trẻ thần đồng đâu, mà từ kết quả các Gen Thượng Đế ẩn chứa trong con người được kích chấn bằng năng lượng vũ trụ thì mới có các thần đồng. Anh chị em không là thần đồng thì là gì đây, khi mà anh chị em nhập môn nhân điện với 3 buổi học đơn sơ đơn giản trong 6 tiếng đồng hồ tổng cộng, Thầy biết. Rồi ngày hôm sau đi truyền điện chữa bệnh, giúp người ta khỏi bệnh và còn chữa được bệnh trầm cảm, thần kinh giả cho thiên hạ nữa thì không phải là thần đồng thì là gì đây? Anh chị em cứ ngẫm cho thiệt kỹ mà coi.
    Cái quyền năng khả năng tiềm ẩn trong anh chị em thì anh chị em không ngưỡng mộ và quý giá nó, anh chị em cứ đi tìm kiếm cái mơ hồ đâu đâu, chụp hình, chụm ảnh những cái bóng hình lơ mơ ngoài tự nhiên, thì kháo nhau là con ma này con ma kia. Nếu có người gọi cái bóng tròn anh chị em chụp được là Đấng này, Đấng kia thì anh chị em giải thích sao đây? đó là mê tín dị đoan. Chuyện thiên hạ kháo nhau về những hiện tượng tâm linh là chuyện của người ta, anh chị em đừng có giải thích gì hết vì Thầy có dạy anh chị em đâu nào. Thầy chỉ dạy anh chị em biết cách sử dụng năng lượng tâm linh để giúp mình, giúp người có duyên mới mình và giúp muôn loài thôi. Đàng này một số anh chị em lại thích cái danh, thích giải thích này nọ về các hiện tượng tâm linh để chứng tỏ mình có hiểu biết tâm linh sẽ không mắc phải những sai lầm đáng tiếc.
    Khi những công thức nhân điện sử dụng năng lượng vũ trụ được anh chị em sử dụng thành công, là lúc báo hiệu những trưởng thành về năng lực tâm linh của anh chị em, là lúc mà những tác động ngoại giới không còn ảnh hưởng đến anh chị em, là lúc tiềm năng đặc biệt ẩn chứa trong anh chị em được trỗi dậy, là lúc các gen Thượng Thiên được cấy trong anh chị em và kết quả là anh chị em minh tuệ, giác ngộ, tìm ra ý nghĩa chân ngã, ‘tính không’ tiềm ẩn trong thể xác hữu hình của anh chị em.
    Ai cũng có tiềm năng này, vấn đề là ai biết cách sử dụng năng lượng vũ trụ kích chấn nó sẽ thành công. Học nhân điện, Thầy không có chọn lọc học viên này mà không nhận học viên kia cho dù anh chị em là bất cứ ai, vì Thầy biết năng lực tâm linh, năng lực phản vật chất đang tiềm ẩn ở tất cả nhân loại. Thầy mở luân xa cho anh chị em là bước đầu quan trọng Thầy kích chất tiềm năng kháng bệnh, tiềm năng tâm linh, tiềm năng tình thương, tiềm năng từ bi hỷ xả, tiềm năng thông minh cho anh chị em.
    Nói một cách dễ hiểu để anh chị em áp dụng là: muốn cho những khả năng tiềm ẩn của con người thức dậy thì các học viên nhân điện cần lưu ý cái tính ‘vô danh’ của các Đấng đang giúp mình thực hành nhân điện. Khiêm nhường học hỏi, không xưng danh tánh, âm thầm phục vụ vô điều kiện cho nhân loại, tôn trọng hiện hữu, tôn trọng pháp luật là anh chị em đã vô danh rồi đó.
    Những điều Thầy tâm sự với anh chị em này là những thông điệp gửi tới anh chị em và nếu nó có hay, có đúng, có lợi ích cho anh chị em, thì nó cũng chỉ có giá trị nhất thời thôi. Anh chi em đừng coi nó là chân lý. Vì chân lý là sự biến đổi, là sự thật thay đổi, là cái mà chúng ta chưa được Đấng Thượng Thiên cho phép biết lúc này, thời điểm này. Học nhân điện là học sự thay đổi, thay đổi trong từng giây từng phút để nâng cao tốc độ tiến hóa của nhân loại kịp với nhịp sự xoay vần của vũ trụ, giúp cho nhân loại được sự may mắn và hạnh phúc, để nền văn minh con người được bảo tồn và sự sống muôn loài được sinh sôi nảy nở, để các thảm họa tự nhiên giảm thiểu, để hành tinh này mãi xanh trong tình yêu thương vô lượng, bất diệt của Ngài.

  3. #3

    Mặc định

    Cảm ơn huynh Tuanvu_quynh1949 đã cho mọi người hiệu đươc thực chất của những người theo học ngành nhân điện.
    Giúp đời mà không màng danh lợi thật đáng trân trọng biết bao. Luôn nhớ về những người vo danh.
    Last edited by kingnorth; 22-05-2011 at 12:01 PM.

  4. #4

    Mặc định

    Vô danh - Con người mới: vô danh từ ý - khẩu - thân của mình vậy.
    (Richardhieu05@gmail.com; MB: 0978871313)

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Chia sẻ: GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN - 0
    By Richardhieu05 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 22-11-2012, 01:03 AM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 11:51 AM
  3. Chia sẻ - GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN
    By Richardhieu05 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 22-05-2011, 09:36 PM
  4. Chia sẻ - GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN - 3
    By Richardhieu05 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 27-03-2011, 10:09 PM
  5. Chia sẻ - GIÁO TRÌNH TÂM LINH NHÂN ĐIỆN - 2
    By Richardhieu05 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 27-03-2011, 03:01 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •