Chương III Mã bộ trạm trang công
Mã bộ trạm trang công là cơ sở của công pháp này, tức là trúc cơ công( công pháp xây dựng nền tảng căn bản)
Học thuyết kinh lac của Trung Quốc cho rằng: kinh lạc là con đường vận hành khí huyết trong cơ thể. Kinh nghĩa là con đường, là tuyến giao thông qua lại, lạc nghĩa là mạng lưới, là chi nhành của kinh. Kinh lạc như mạng lưới gắn bó chặt chẽ với nhau, mạng lưới đó dàn trải khắp cơ thể, bên trong gắn chặt với lục phủ ngũ tạng, bên ngaoif dẫn tới tứ chi xương khớp, khơi thông từ trong ra ngoài, liên hệ từ ngoài vào trong, tạo nên 1 hệ thống chức năng hoàn chỉnh dọc đáo, khiến cho trong và ngoài trên và dưới của cơ thể thống nhất hài hòa để duy trì hoạt động sinh lí bình thường của cơ thể."Linh khu- Kinh mạch thiên" nói rằng " Kinh mạch quyết định sự sống chết, giải quyết bách bệnh, điều chỉnh thực hư, cho nên không thể không khơi thông kinh mạch", do đó mới có câu " Thông thì không đau đớn, không thông thì đau dớn". Luyện mã bộ trạm trang công là qua sự điều chỉnh và duy trì tư thế đặc biệt sẽ gia tốc cho sự vận hành của kinh khis, khiến kinh lạc toàn thân được thông suốt, khí huyết điều hòa, âm dương cân bằng.
Tư thế chuẩn bị:
Đứng thảng thả lỏng, hai chân mở rộng ngang vai, hai mũi chân châu vào nhau ( khoảng 13 độ) thành hình chữ bát hướng vào trong. hai cánh tay thõng xuống tự nhiên, lòng bàn tay hương vào trong. Thân ngay ngán mắt nhìn thẳng.
Khởi thế:
Lòng bàn tay hướng vào nhau, hai cánh tay đưa ra phía sau, rồi từ từ đưa về phía trước và đưa lên ngang vai, lật lòng bàn tay lên trên, cong khuỷu tay, đua bàn tay lên eo lưng cạnh sườn lại vẽ hình cong ra phía trước. trỏ lòng bàn tay xuống dưới, hai cánh tay hơi co vào trước mặt. đồng thòi cong đầu gối xuống tần thành " Mã bộ trạm trang thức"
Yếu lĩnh trạm trang:
1. Hai bàn chân đứng rộng ngang với hai vai
2.hai mũi bàn chân châu vào nhau với góc 13 độ, tạo nên hình chữ bát hướng vào trong.
3.10 ngón chân bám chặt đất, nhưng không được quá dùng sức
4. đầu gối cong xuống tấn nhưng đầu gối không được nhô ra quá mũi chân.
5. Bụng thót, hậu môn co lên
6. hai đùi và háng thành hình tròn, lưng háng thả lỏng
7. Thu ngực nâng lưng(hàm hung bạt bối)
8.Cổ vươn thẳng nhưng khôn lên gân
9.Đầu lưỡi sát vào vòm trên
10. Mắt nhìn ngang tầm
11. Đầu mũi và rốn tạo thành 1 tuyến thẳng
12. Huyệt bách hội và hội âm tạo thành 1 tuyến thẳng
123. nách hư
14. hai vai trĩu xuống, khuỷu tay trĩu xuống(trầm kiên trụy trửu)
15. hai cẳng tay song song với mặt đất
16. Hai cẳng tay giơ ngang nhau
17. ngón tay giữa và cảng tay tạo thành một tuyến thẳng
18. Bàn tay khum khum như viên ngói ( ngói cổ trung Quốc giồng hình ống bương chẻ đôi)
19. Ngón tay xếp như hình bậc thang, ngón tay cái với ngón tay trỏ thành hình mỏ vịt)
20 Thượng hư hạ thưc, mặt tươi thở tự nhiên
Khi trạm trang không được nhập tịnh. không được thủ ý, không được đem khái niệm công pháp khác nhập vào công pháp này, nhưng chú trọng về sự chuẩn xác của tư thế động tác này. Tập trạm trang công không nên dưới 30 phút( với người mới tập, thời gian từ ít tăng lên dần, nghĩa là tuần tự tiệm tiến)
Công lý: Từ động tác khởi thế, tức từ khi đưa 2 cánh tay lên ngang vai, hai lòng bàn tay hướng vào nhau, bắt đầu cong gối, thì kinh khí của Tam âm kinh và Tam dương kinh của chân tay bắt đầu vận hành nhanh dần. Mạch đới bắt đầu ở 2 mạng sườn, vòng quang thân người như dây quấn, mạch đới ở bụng xuôi xuống bung dưới, Mạch đới ở lưng thắt tạng thận và thông trực tiếp với Túc tam dương cùng mạch xung, nham, đốc.Cho nên khi trơ bàn tay lên khéo tay co vào, ngón tay tiếp xúc trực tiếp với mạch đới, thông qua sự khởi động mạch Đới sẽ dẫn đến gia tốc vận hành 2 mạch Nhâm Đốc và cả kinh khí của của kinh lạc phía trên, dưới toàn thân. Hơn nữa chân đứng chữ bát hướng vào trong sẽ khiến kinh khí từ dưới đẩy lên trên Mạch Đốc một cách mạnh mẽ và sẽ nới thông một cách tự nhiên với Mạch nhâm ở phía trước theo bộ phận đầu, lại theo mạch nhâm vận hành xuống dưới chứ không trì trệ lưu giữ lại trên đầu. Như vậy không những tăng cường sự vận hành của kinh khí Túc tam âm, Túc tam dương, đồng thời còn thúc đẩy sự vận hành của kinh khí thủ tam âm, thủ tam dương. Khi 2 cánh tay vẽ 1 đường vòng , khí huyết trên vai trào lên mạnh mẽ. Một khi thả lỏng 2 vai, hai tay đưa ra phía trước, khí huyêt sẽ theo 2 cánh tay trào lên mạnh mẽ. bàn tay và ngón tay tiếp đó sẽ có " khí cảm" một cách ro rệt như tức, tê, có cảm giác như kiến bò.